Hai thượng nghị sĩ Mỹ gặp TT Obama về vấn đề Syria
VOA, 02.09.2013
http://www.voatiengviet.com/content/hai-thuong-nghi-si-my-gap-tt-obama-ve-van-de-syraia/1742038.html
Hai Thượng nghị sĩ John McCain (trái) và Lindsey Graham, sau cuộc họp với Tổng thống Barack Obama 2/9/13
Tin liên hệ
Hai ông John McCain và Lindsey Graham, những người ủng hộ biện pháp mạnh tại Syria, đã đến Tòa Bạch Ốc gặp ông Obama hôm thứ Hai.
Sau đó Thượng nghị sĩ McCain nói rằng ông có đủ lý do để tin rằng bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ tại Syria đều có thực chất, thay vì chỉ để làm cảnh, bởi vì cuộc nội chiến tại Syria đang nhận chìm khu vực vào bất ổn và biến Iraq trở thành một sào huyệt cho mạng lưới khủng bố al-Qaida.
Thượng nghị sĩ Graham nói không thể có được một giải pháp chính trị cho Syria bao lâu mà các lực lượng của Tổng thống Assad vẫn còn ở thế mạnh.
Cả hai Thượng nghị sĩ đều chỉ trích Tổng thống Obama đã không trang bị sớm sủa cho quân nổi dậy Syria, trong lúc phe chính phủ được viện trợ vũ khí đều đặn từ Nga và Iran, khiến cho cuộc chiến không tương xứng.
Ủy ban Đối ngoại Thượng Viện Mỹ sẽ nghe điều trần về tình hình Syria vào thứ Ba.
Trả lời phỏng vấn của tờ Le Figaro của Pháp, Tổng thống Assad nói rằng Hoa Kỳ và Pháp không có bằng chứng chính phủ Syria đã sử dụng vũ khí hóa học. Ông cảnh báo một cuộc tấn công quân sự của Mỹ hoặc Pháp có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh toàn khu vực.
Đảng Cộng sản: võ sỹ không đối thủ?
Nguyễn Sĩ Bình. Gửi tới BBC Tiếng Việt từ California. 2 tháng 9, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/09/130902_nguyensibinh_communist_party_rivals.shtml

Hiện nay có phải Đảng Cộng sản Việt Nam không có đối thủ chính trị?
Chủ đề liên quan
Nếu Việt Nam có một nhà nước với thiện chí đáp ứng mục tiêu xã hội công bằng, có các lãnh đạo do nhân dân bầu ra một cách trung thực thì câu hỏi này có lẽ đã không cần thiết phải đặt ra.
Nhưng thực tế tình trạng hiện tại của Việt Nam không phải là như vậy và đây là một số điểm về thực tế của vấn đề.
Có tù nhân chính trị là có đối thủ chính trị.
Hiện nay, công luận cũng đã thấy nhiều đối thủ chính trị ngay cả trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Sóng ngầm
Chế độ nào tham nhũng, lãnh đạo yếu kém và tình trạng xã hội bất công chồng chất thì luôn có nhiều đối thủ chính trị. ĐCSVN càng ngày càng có nhiều đối thủ chính trị là lẽ tự nhiên.
Hậu quả của chế độ cầm quyền không thực hiện bầu cử tự do và công bằng thường là như vậy.
Nếu chế độ cầm quyền hợp thức qua bầu cử trung thực thì tình trạng “tức nước vỡ bờ” đang cận kề đó sẽ không xảy ra.
“Đối thủ chính trị của ĐCSVN hiện nay không hẳn là một cá nhân hay một đoàn thể, mà là các lực lượng yêu nước ở trong và ngoài ĐCSVN. Có thể nói lực lượng đó là thành phần đa số trong xã hội ngày nay.”
Đối thủ chính trị của ĐCSVN hiện nay không hẳn là một cá nhân hay một đoàn thể, mà là các lực lượng yêu nước ở trong và ngoài ĐCSVN. Có thể nói lực lượng đó là thành phần đa số trong xã hội ngày nay.
Đảng Cộng sản chiếm giữ độc quyền chính trị, toàn trị, tưởng như vậy sẽ đè bẹp tiếng nói đối lập, triệt hạ các đối thủ chính trị nhưng hậu quả lại trái ngược – ngày càng tạo ra nhiều đối thủ hơn.
Giống như những cơn sóng ngầm, toàn bộ các lực lượng chính trị đối lập trong chế độ toàn trị ít khi lộ diện và ít khi được nhìn thấy.
Nhưng khi các đối lập chính trị công khai thì lúc đó không còn là sóng ngầm nữa mà là sóng thần.
Tình trạng lãnh đạo như thời thực dân nếu không dừng lại thì khi nào sóng thần ập tới chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp đặt cả hiến pháp, khống chế không cho nhân dân thành lập đảng, triệt hạ và giam cầm thành viên của các chính đảng thì đặt vấn đề “hiện nay có phải ĐCSVN không có đối thủ chính trị” có ý gì?
Luận điệu “Đảng Cộng sản không có đối thủ” không có gì mới.
Luận điệu này không khác lên võ đài mà bịt miệng, trói tay đối phương rồi tự tuyên bố mình là vô địch. Thi đấu như vậy thì có ai là đối thủ?
Nhưng thực tế xã hội thì không đơn giản như vậy.
Xu thế xã hội
Hiển nhiên, khi chiếm giữ độc quyền nhà nước, các lãnh đạo cộng sản không có đối thủ “tạo ra quốc nạn tham nhũng” và cũng không có đối thủ về những hành động sai phạm hại dân.
Nếu nhà nước có pháp luật chuẩn mực, các lãnh đạo cộng sản tuân thủ và nhận lãnh trách nhiệm chỉ về quốc nạn tham nhũng thì Đảng Cộng sản đã tan biến từ lâu chứ đừng nói đến uy tín chính trị hay đối thủ chính trị.
Còn xét về mặt lập luận chính trị, tinh thần dân tộc, tư tưởng tiến bộ, hiểu biết về nhân bản… thì các lãnh đạo cộng sản chưa hẳn có thể so sánh với nhiều đảng viên của mình, chưa nói đến các thành phần trí thức trong và ngoài nước hiện nay.
Thời Pháp thuộc, người Pháp có xem ai là đối thủ chính trị ở Việt Nam. Trong một thời gian khá dài, những người hoạt động chống thực dân Pháp đều bị xem là phạm pháp, bộ máy cầm quyền của thực dân luôn sẵn sàng trấn áp giam cầm các hoạt động yêu nước của người Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam khi đó cũng phải thành lập ở nước ngoài. Nhưng thực dân cuối cùng đã bị đánh bại, lúc đó đối thủ của thực dân không chỉ là các chính giới mà chính là toàn thể người Việt Nam yêu nước.
Ở Đông Âu và Liên Xô trước đây cũng có nước nào xem ai là đối thủ chính trị. Nhưng tất cả các chế độ cộng sản đều đã bị sụp đổ hàng loạt chỉ trong một thời gian ngắn.
Đến nay, các đảng cộng sản vẫn không bị cấm hoạt động nhưng cũng đã phân liệt và suy tàn không thể gượng lại được.
“Việt Nam cần giải quyết hậu quả của vấn đề độc đảng chứ không phải tiếp tục khiêu khích hay thách thức ĐCSVN là vô địch.”
Nguyễn Sĩ Bình
Điều đó chứng tỏ các đảng cộng sản có nhiều món nợ không nhỏ đối với nhân dân và có không ít đối thủ. Trên thực tế, khi các thành phần yêu nước tập hợp thì cũng là lúc cáo chung của chế độ cộng sản.
Các lực lượng vũ trang nhân dân hiện nay có thể chưa phải là đối thủ chính trị của ĐCSVN và có thể đang bảo vệ các lãnh đạo cộng sản, nhưng khi có sự cố thì họ sẽ đứng về phía nhân dân.
Đối với quốc tế cũng không khác, dù có hợp tác toàn diện hoặc dù có là thành viên Liên Hiệp Quốc.
Tóm lại, trong các chế độ cộng sản, nhân dân là đối thủ chính trị của đảng Cộng sản. Các đảng viên cộng sản chán đảng, bỏ đảng và các lực lượng dân chủ trong xã hội cộng sản có thể là đối thủ lợi hại của Đảng Cộng sản.
Tính chính danh
Dù Đảng Cộng sản Việt Nam chiếm chính quyền nhưng muốn cầm quyền chính danh thì phải hợp thức hoá qua bầu cử trung thực và hiến pháp dân chủ.
Quyền lực quốc gia bị một đảng chính trị thâu tóm và khuynh loát là nguyên do dẫn đến tình trạng cầm quyền không chính danh.
Vấn đề này sớm muộn cũng sẽ bị nhân dân đào thải và đó cũng là quy luật tự nhiên.
Việt Nam cần có đối lập chính trị. Đối lập chính trị trong ôn hòa luôn là cần thiết trong mọi xã hội và đó chính là lợi ích của mọi quốc gia.
Cho nên, thay vì đặt câu hỏi về vấn đề đối thủ chính trị, chúng ta nên hỏi “Việt Nam có nên chuyển đổi ôn hòa, thực hiện mục tiêu xã hội công bằng, bắt đầu bằng bản hiến pháp của toàn dân?”.
Suy cho cùng, Việt Nam cần giải quyết hậu quả của vấn đề độc đảng chứ không phải tiếp tục khiêu khích hay thách thức Đảng Cộng sản Việt Nam là vô địch.
Ngày 21/8/2013
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả. Ông Nguyễn Sĩ Bình, hiện đang sống tại hải ngoại, là một lãnh đạo của Đảng Dân chủ Việt Nam.
Quá trình chuyển đổi dân chủ tại Việt Nam
Vũ Đức Khanh, Võ Tấn Huân. 01.09.2013

Nhu cầu cần thay đổi
Sau khi Việt Nam đã thông qua chính sách cải cách kinh tế vào thập niên 1980 nhằm tránh cuộc sụp đổ toàn diện, mức sống của người dân trong cả nước đã được cải thiện đáng kể. Nhưng trong thực tế, việc tự do hóa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không giúp tạo ra cơ hội bình đẳng (mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội luôn hướng tới) cho người dân làm kinh tế mà chỉ dành cho một vài tầng lớp trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là tầng lớp “tư bản đỏ” và họ thu lợi từ sức lao động của chính đồng bào mình.
Tuy nhiên sau năm 2008, đúng vào lúc suy thoái kinh tế toàn cầu lan rộng sang nhiều nước thì thời kỳ hoàng kim của nền kinh tế Việt Nam đã đột ngột kết thúc sau nhiều năm chính phủ quản lý yếu kém các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Mặc dù trong tình trạng suy thoái và khủng hoảng nhưng vấn nạn tham nhũng lại không hề có dấu hiệu thuyên giảm. Thay đổi là điều bức thiết và nhiều nhà hoạt động cũng như bloggers đã lên tiếng bày tỏ chính kiến của họ, bất chấp những trù dập và tù đày được hệ thống chính trị Việt Nam dàn dựng trước.
Trước những yêu cầu cải cách hệ thống chính trị và hiến pháp ngày càng mạnh mẽ tại Việt Nam, câu hỏi đặt ra là “Thay đổi bằng cái gì?”. Ai sẽ thay thế chính phủ hiện hành? Các nhà hoạt động đòi hỏi sự thay đổi, nhưng điều quan trọng là họ cần có các kế hoạch để tiếp tục quản lý đất nước nếu những thay đổi này diễn ra.
Khi quá trình chuyển đổi diễn ra, dù cơ chế và hệ thống cũ sẽ được thay đổi bằng nhà nước dân chủ của dân thì phần lớn nhân sự trong nhà nước cộng sản hiện nay có lẽ vẫn sẽ tiếp tục được duy trì ít nhất là một thời gian. Bởi vì không thể qua một đêm, một đảng chính trị có thể đủ mạnh và đủ nhân lực để thay thế toàn bộ nhân lực từ trung ương đến địa phương của hệ thống hiện nay. Thêm vào đó, việc xây dựng đất nước nhất thiết phải dựa trên tinh thần hòa hợp dân tộc và hợp tác giữa nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.
Dân chủ là một quá trình tiến hóa, phản ánh phong tục, văn hóa, và nguyện vọng của người dân. Hiện chưa có mô hình dân chủ nào có thể dễ dàng đáp ứng nhu cầu cũng như mong muốn của Việt Nam. Tuy nhiên, điều quan trọng không nằm ở việc lựa chọn để đất nước đi theo chế độ nào mà phải cụ thể hóa qua bản hiến pháp toàn dân.
Chắc chắn mối quan tâm lớn nhất đối với bất kỳ cải cách nào ở Việt Nam là việc Đảng Cộng sản sẽ bị thay thế bởi một giai cấp thống trị khác, làm cho tình trạng hiện nay tiếp tục được duy trì dưới một lớp vỏ bọc khác. Tương tự như những gì mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng làm đối với tầng lớp công nông khi thay thế chế độ phong kiến vua chúa bằng một thể chế “đảng là vua”. Do đó, việc thay đổi tại Việt Nam nên diễn ra từ từ nhưng nhất quán, chậm nhưng chắc, tránh để đất nước bị khai thác và lạm dụng bởi bất cứ một nhóm người nào.
Năm 2006 khi Đảng Dân chủ Việt Nam được phục hoạt tại Hà Nội bởi cố Tổng Thư ký Hoàng Minh Chính, một làn sóng ủng hộ đa đảng dâng lên trong nước. Thời gian gần đây, ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận – hai nhân vật quan trọng trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – đã đề nghị thành lập Đảng Dân chủ Xã hội trong sự hoan nghênh của những thành phần yêu nước. Đây có thể trở thành những động lực đưa tới tiến trình chuyển đổi trong ôn hòa tại Việt Nam.
Bắt đầu từ hiến pháp
Một Việt Nam mới phải tìm cách nâng cao mức sống của người dân và cùng lúc cũng phải cho phép người dân những cơ hội bình đẳng để phát huy tối đa tiềm năng của họ.
Ngoài các vấn đề cốt lõi như quốc phòng và phát triển cơ sở hạ tầng, chính phủ cần cung cấp các chương trình phúc lợi, an sinh xã hội, chăm sóc sức khoẻ và hỗ trợ tối đa cùng lúc nâng cao chất lượng giáo dục. Sau khi kinh tế đất nước bắt đầu cất cánh, chính phủ cần rút dần vai trò của mình khỏi việc làm kinh tế. Thay vì trực tiếp làm kinh tế, chính phủ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển cũng như tạo vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế bằng nền kinh tế quốc dân nội địa vững mạnh.
Chính phủ phải đóng vai trò một trọng tài để điều phối nhiều vấn đề trong đó có kinh tế và xã hội. Trách nhiệm của chính phủ là tạo dựng và duy trì sự công bằng trong xã hội, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân cũng như tinh thần thượng tôn pháp luật (không phải bảo vệ chủ nghĩa hay đảng chính trị nào).
Chính phủ cần tôn trọng ý muốn, nguyện vọng của đa số cũng như quyền lợi của thiểu số. Cho nên, trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và trách nhiệm tài chính là tối quan trọng.
Mối quan tâm tiếp theo là,”Chính phủ sẽ định hình thể chế chính trị theo mô thức nào?”.Việt Nam mới sẽ áp dụng Tổng thống chế hay Đại nghị chế? Một câu hỏi như vậy không phải là chủ đề của bài viết này; tuy nhiên, trả lời câu hỏi này là điều cần thiết để quá trình chuyển đổi ôn hòa từ hệ thống độc đảng sang một nền dân chủ đa đảng có thể diễn ra.
Vì vậy, mục đích không phải là để thay thế một chính phủ thất bại này bằng một chính phủ thất bại khác, thay thế một giai cấp thống trị bằng một giai cấp thống trị khác. Sứ mệnh của đất nước cần có tiếng nói cũng như sự tham gia của toàn dân chứ không riêng một thành phần nào.
Nhà nước pháp quyền (thượng tôn pháp luật) là nền tảng vững chắc của xã hội công bằng. Dù với tên gọi là dân chủ xã hội, xã hội chủ nghĩa, dân chủ tự do hay là gì đi chăng nữa thì đất nước cũng cần cụ thể hóa bằng pháp luật. Vì thực tế, pháp luật chi phối tất cả mọi hành động trong xã hội.
Hiến pháp chính là nền tảng của quốc gia và là điều kiện tiên quyết để đảm bảo đất nước phát triển toàn diện. Chính hiến pháp dân chủ sẽ hình thành ra cơ chế nhà nước chuẩn mực nên bắt đầu từ một bản hiến pháp dân chủ toàn dân là điều quan trọng đầu tiên.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Vũ Đức Khanh
Võ Tấn Huân Bác sỹ Dược khoa tại Hoa Kỳ
Đảng sẽ đưa đất nước về đâu?
Thanh Quang, phóng viên RFA. 2013-09-02
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/copy2_of_who-has-changed-heart-tq-09022013103853.html
Việc luật gia Lê Hiếu Đằng “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh” để “tính sổ cuộc đời” và rồi đề xướng lập “Đảng của những người bỏ đảng” nhằm mang lại sinh hoạt chính trị cho đúng nghĩa, hình thành xã hội dân sự cũng như xúc tiến dân chủ hóa xã hội VN khiến, cho tới giờ, khoảng 20 bài viết trên báo lề đảng như Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Đại Đòan kết, Saigòn Giải phóng…đồng loạt công kích.Bất công khắp nơi
Lên tiếng với phóng viên Gia Minh, luật gia Lê Hiếu Đằng cho biết:
Có thể nói đầu tiên khi tôi đặt ra những vấn đề đó thì thật ra đó là những vấn đề đi vào yếu huyệt của đảng cộng sản, của chế độ; thành ra quí vị đó phản ứng hơi mạnh. Tôi nghĩ đó là điều tất nhiên thôi. Mà vấn đề đó là vấn đề cốt tử hiện nay bởi vì một xã hội phát triển bình thường phải có những đảng chính trị đối lập để giám sát, chế ước lẫn nhau. Điều đó là xu thế trên thế giới…Bất cứ chính quyền nào, cộng sản hay không cộng sản mà ‘một mình, một chợ’, không có giám sát của xã hội dân sự cũng sẽ trở thành hư đốn, lộng quyền và lạm quyền thôi…
Khi nhận thấy “hàng lô những nhà lý luận cung đình”, chuyên hay thời vụ, quy chụp ông Lê Hiếu Đằng là “thay lòng đổi dạ”, phản bội lại lý tưởng mà ông đã theo đuổi, thì blogger Hùynh Ngọc Chênh nêu lên câu hỏi rằng “Ai thay lòng đổi dạ?”.
Qua bài blog với tựa đề như vừa nói, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh lưu ý rằng số bài viết chỉ trích luật gia Lê Hiếu Đằng thì nhiều nhưng “luận điệu phản biện thì giống hệt nhau, nghèo nàn và xơ cứng, đi lại cũng hô các khẩu hiệu: Con đường đi lên CNXH là chọn lựa duy nhất của dân tộc VN, đảng độc quyền lãnh đạo là tất yếu lịch sử, đảng đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xương máu của hàng triệu đảng viên (?) góp phần làm nên thắng lợi nên đảng đời đời độc quyền lãnh đạo là đương nhiên, dân chủ VN theo kiểu của VN…”. Vẫn theo blogger Hùynh Ngọc Chênh, các “tác giả lý luận cung đình” lề đảng ấy lại lặp lại cung cách của “dân nơi chợ búa” vẫn làm khi muốn “phản biện ” đối thủ của mình, đó là “thóa mạ, quy chụp, chửi bới về nhân thân cũng như động cơ của ông Lê Hiếu Đằng”.

Sau khi “thử hỏi lý tưởng mà ông Đằng đã theo đuổi suốt cuộc đời của mình, từ hồi trai trẻ còn cắp sách đến trường cho đến lúc gần đất xa trời, là gì ? Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh cho biết đó là “đấu tranh chống bất công, chống áp bức, chống xâm lược nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ, công bằng và hạnh phúc”, và blogger Hùynh Ngọc Chênh nêu lên vấn đề là “ai rời bỏ lý tưởng đó ? Đảng CS hay những người đã và sắp bỏ đảng như ông Lê Hiếu Đằng ?”. Tác giả hỏi tiếp rằng dưới sự lãnh đạo của đảng CS, nước VN thống nhất trong 38 năm qua đã có được những gì: Độc lập? Tự do? Dân chủ ? Hạnh phúc thực sự hay chưa ? Xã hội có công bằng không ? Và tòan dân có ấm no không ? Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh lưu ý:
Nhìn vào thực trạng đất nước hiện nay, ông Lê Hiếu Đằng đã đưa ngay câu trả lời. Đảng lãnh đạo hầu như lệ thuộc vào đảng Trung Quốc từ lý luận đến thực tiễn hành động. Đất nước thì bị đe dọa mất chủ quyền bởi vòng kim cô “4 tốt, 16 chữ vàng” để bị kẻ thù phương Bắc bao vây trên nhiều phương diện: Quân sự, ngoại giao, kinh tế và cả văn hóa nữa. Kinh tế thì suy sụp, xã hội thì đảo điên, áp bức bất công khắp mọi nơi, nạn tham nhũng thì càng ngày càng phát triển đến mức không còn cách để ngăn chặn…
Từ trước đến nay đảng chưa hề có một lời xin lỗi với nhân dân về những sai lầm của mình. Từ đó, những người ấy nghi ngờ rằng đảng đã không còn đi trên con đường lý tưởng như ban đầu đã chọn lựa.
– Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh
Điều gì đã đưa đất nước đi đến thực trạng như vậy? Ông Lê Hiếu Đằng cũng như nhiều trí thức nhân sĩ trong và ngoài đảng đều có chung một nhận định: Do đảng lãnh đạo đã liên tục mắc vào các sai lầm mà không hề đúc kết rút kinh nghiệm để sửa sai. Từ trước đến nay đảng chưa hề có một lời xin lỗi với nhân dân về những sai lầm của mình. Từ đó, những người ấy nghi ngờ rằng đảng đã không còn đi trên con đường lý tưởng như ban đầu đã chọn lựa.
Trong những ngày qua, một loạt những bài viết lề đảng “đấu tố” luật gia Lê Hiếu Đằng khiến blogger Phạm Đình Trọng liên tưởng đến “những bài viết rầm rộ, đồng loạt, tới tấp đánh Nhân Văn Giai Phẩm trên các báo ở miền Bắc hồi những năm 1956, 1957”, nó “sao giống khẩu khí, giọng điệu, giống cả thái độ quyền uy lấn lướt, giống cả sự hằn học nhỏ nhen, muốn làm sống lại cả không khí ngột ngạt, căng thẳng thời đánh NVGP đến thế”.
Hiện trạng đất nước
Nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy trước kia, NVGP bị đánh theo “lệnh công khai phát ra từ chót vót trên cao” khi những “bài viết và nói nảy lửa” của “thi bá” Tố Hữu phát ra từ phát súng lệnh của “cung đình nhà Đỏ”, thì ngay lập tức, “các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ ào ào nhảy vào đánh túi bụi những mục tiêu đã được chỉ định. Đánh để cố tách xa mình ra khỏi NVGP, để bày tỏ lòng trung thành với đảng, để lập công với đảng nên không thiếu một tên tuổi nào, không sót một tờ báo nào trong cuộc đánh hội đồng này”.
Còn ngày nay, theo Đại tá Phạm Đình Trọng, chỉ có “dăm tờ báo với vài người viết tên tuổi lạ hoắc có thể coi là vô danh” mượn cớ đánh bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh” của ông Lê Hiếu Đằng để, qua đó, đánh phá luôn cả phong trào đấu tranh đòi dân chủ hóa đất nước. Nhưng nhà văn Phạm Đình Trọng nhấn mạnh rằng dù mức độ đánh phá có khác, qui mô và khí thế có khác, còn nội dung thì “hoàn toàn là sự tái hiện vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét Lại Chống Đảng trong quá khứ, là quyền uy độc tài đánh phá ngăn chặn đòi hỏi tự do dân chủ, là lực lượng chuyên chính về tư tưởng bảo vệ quyền uy, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của Nhà nước đảng trị chống trả lại tiếng nói vì dân vì nước”.
Giữa lúc thời nay đang “sống lại cả không khí ngột ngạt, căng thẳng của thời đánh NVGP ”, nhà văn Phạm Đình Trọng cũng không quên cuộc đấu tố “địa chủ” trong chiến dịch cải cách ruộng đất diễn ra kiểu “cánh đồng giết người” như bên xứ Chùa Tháp, khi những kẻ đấu tố “càng tỏ ra sôi sục căm thù”, tìm cách vạch ra cho được nhiều “tội ác” của nạn nhân bị gán cho là “địa chủ” thì càng được đánh giá là có “giác ngộ giai cấp”, càng được đảng tin cậy, cất nhắc. Do đó, theo nhà văn Phạm Đình Trọng, người đấu tố phải cố “lên gân” lập trường giai cấp, phải “tưởng tượng ra đủ các tội vu oan giá họa làm cho một nông dân hiền lành chỉ nhờ biết tổ chức làm ăn, chịu khó cần cù khuya sớm và tằn tiện ki cóp mà có đủ ruộng cày cấy và có cuộc sống tạm đủ ăn cũng trở thành địa chủ cường hào gian ác phải nhận bản án tử hình”.
Nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy bài viết “Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh” của ông Lê Hiếu Đằng chỉ là một sự tiếp nối tiếng nói NVGP nửa thế kỉ trước đòi tự do dân chủ thật sự cho quê hương mà thôi.

Đại tá Phạm Đình Trọng nhân tiện lưu ý rằng những nhà viết lịch sử đảng, những nhà lí luận, những cán bộ tuyên huấn của đảng suốt mấy chục năm qua đều “một giọng cường điệu hóa, anh hùng ca hóa công tích của đảng Cộng sản Việt Nam mà không chịu nhìn vào thực tế là những sai lầm liên tiếp trong quá khứ, tham nhũng không có điểm dừng trong hiện tại của đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thảm họa này đến thảm họa khác”. Những thảm họa đó là:
“Thảm họa cải cách ruộng đất đánh sập từ gốc rễ đạo lí Việt Nam, đánh tan tác văn hóa làng xã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.”
“Thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, thảm họa ngụy tạo ra vụ Xét lại chống đảng đã giam cầm, đầy ải, giết dần giết mòn những tài năng, tinh hoa nhất của dân tộc Việt Nam.”
“Thảm họa cải tạo tư sản ở miền Bắc sau năm 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975 tước đoạt quyền làm chủ của những chủ tư sản biết tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra việc làm cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội… Cải tạo tư sản đã hủy hoại, xóa sổ cả một nền sản xuất công nghiệp tự chủ đang lớn mạnh của người dân, của đất nước.”
“Thảm họa tập trung cải tạo thực chất là tù đày lực lượng ưu tú nhất của xã hội miền Nam cũng là tài sản con người của dân tộc Việt Nam, đẩy một nửa dân tộc Việt Nam ra khỏi vòng tay Mẹ hiền Tổ Quốc Việt Nam. Từ đó dẫn đến thảm họa thuyền nhân vùi xác hơn nửa triệu người dân Việt Nam dưới đáy biển.”
Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi
– Đại tá Phạm Đình Trọng
“Thảm họa mất đất mất biển. Những mảnh đất mang hồn thiêng tổ tiên người Việt Nam, thấm đẫm máu nhiều thế hệ người Việt Nam, những tên đất chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã bị Nhà nước Cộng sản Việt Nam cắt sang đất Tàu”!
“Thảm họa khai thác bô xít Tây Nguyên tàn phá môi trường, tàn phá văn hóa Tây Nguyên, làm chảy máu lâu dài nền kinh tế đất nước. Dự án khai thác bô xít Tây Nguyên liên tục ngốn nguồn vốn lớn hàng chục ngàn tỉ, hàng trăm ngàn tỉ đồng của nền kinh tế đất nước nhưng không làm ra một đồng tiền lãi, không bao giờ có lãi ở thời hiện tại!”
“Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi”.
“Thảm họa tụt lại sau thế giới, lạc lõng với thế giới. Năm 1975 Thái Lan phải ngước nhìn lên sự phát triển của kinh tế, xã hội miền Nam Việt Nam thì nay Thái Lan phải ngoái lại phía sau nhìn sự ì ạch của kinh tế xã hội Việt Nam vì Thái Lan đã vượt xa Việt Nam vài chục năm rồi và càng ngày, Thái Lan càng bỏ xa Việt Nam”.
Nhà văn Phạm Đình Trọng nhân tiện cảnh báo rằng một đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi “từ thảm họa này đến thảm họa khác”, một đảng đã “cắt cả đất đai thiêng liêng của tổ tiên” cho phương Bắc, một đảng đang “lún sâu trong tham nhũng”, dùng bạo lực chuyên chính vô sản “bóp chết những tiếng nói chính đáng đòi tự do dân chủ”, “kìm hãm sự phát triển của xã hội, của đất nước”, thì, theo blogger Phạm Đình Trọng, “ đó là một tội ác! Những tội đó còn ghi khắc mãi trong lịch sử đau thương của đất nước này”.
LS Hà Huy Sơn qua bài “Hãy tuân theo quy luật để tồn tại và phát triển” khẳng định rằng “một nhà nước dưới sự lãnh đạo của một đảng thì nhà nước đó không bao giờ là nhà nước của mọi công dân”, hay nói cách khác, nó không phải là một nhà nước “ của dân, do dân, vì dân”, cả về nguyên lý lẫn thực tiễn.
Có lẽ trước tình cảnh như vậy, nhà thơ Lang Thang “cảm tác” thành vầng thơ:
Lúc nào đảng cũng thắng, dân thua
Thì hỏi đảng vì dân hay vì đảng?
Tin, bài liên quan
- TQ: Một thành viên trung ương đảng bị điều tra tội tham nhũng
- Đảng sẽ đưa đất nước về đâu?
- Thêm một quan chức cao cấp Trung Quốc bị điều tra
- Cựu UV Thường vụ BCT/ ĐCSTQ bị điều tra tham nhũng
- Philippines: Người dân biểu tình chống tham nhũng
- Những biến chuyển trong xã hội
- Những biến chuyển trong xã hội
- Bộ tiểu thuyết Đại Gia bị thu hồi
- Trung Quốc bắt 2 người ngoại quốc mua bán thông tin cá nhân
Không trung thực trong điều 4 Hiến pháp
Phạm Đình Trọng. 2013-09-01
Lời thưa,
Khi bắt đầu viết, bài này có tựa Đảng Cộng Sản Việt Nam Với Lợi Ích Dân Tộc Việt Nam. Mới gõ phím được hơn trang, người viết được đọc bài Uẩn Khúc Trong Điều 4 Hiến Pháp, thấy giáo sư Hoàng Xuân Phú đã soi rọi rất tinh tế, chính xác xảo thuật ngôn từ mà những người soạn thảo HP (Hiến pháp) đã sử dụng giúp ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt Nam) không bị ràng buộc vào bất kì điều nào của HP để ĐCSVN điềm nhiên đứng ngoài và đứng trên HP.
Bài viết của tôi, tập trung chỉ ra điều 4 HP ghi: ĐCSVN . . . đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam là hoàn toàn không đúng sự thật. Trong lịch sử hoạt động, ĐCSVN luôn luôn thí bỏ lợi ích dân tộc thiết thực để theo đuổi lợi ích giai cấp hư vô của đảng.
Bài viết của giáo sư Hoàng Xuân Phú chỉ ra sự khuất tất trong xảo thuật ngôn từ của điều 4 và trong toàn HP. Bài viết của tôi chỉ ra sự thiếu trung thực của điều 4 HP. Hai bài là hai vế đối về sự bất minh của điều 4 HP. Vì thế tôi thấy cần thay đổi tựa bài để là một vế song hành về ý tứ với bài của giáo sư Hoàng Xuân Phú.
Điều 4 Dự thảo Hiến pháp 2013 viết: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Viết gọn lại là: Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Một đảng chính trị của chính trường Việt Nam mà coi thường và khinh bỉ Nhân Dân Việt Nam đến mức nghiễm nhiên giành quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không cần có lá phiếu của người Dân, không cần biết người Dân Việt Nam có chấp thuận sự lãnh đạo đó hay không, không đếm xỉa đến quyền lợi hiển nhiên, sơ đẳng, bình thường và thiết thực của người Dân là quyền Công Dân, quyền bầu cử chọn ra người lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đối xử với Dân kẻ cả, quyền uy và tệ bạc như vậy mà lại bảo rằng đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam thì đúng là viết lấy được, nói lấy được, một lối nói, một cách làm của quyền uy độc tài, quen thói áp đặt!
Thực tế đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng đảng không những không vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà đảng còn hi sinh lợi ích dân tộc Việt Nam cho lợi ích của đảng, cho những mục tiêu viển vông, siêu thực của đảng, cho cuộc cách mạng vô sản thế giới hão huyền, chỉ đẩy Dân vào chiến tranh hận thù, chỉ lấy Dân làm vật thí nghiệm, vật hi sinh cho chủ nghĩa xã hội hư vô!
1. Đưa dân tộc Việt nam vào con đường máu lửa. Dân tộc Việt Nam đã phải trả giá máu quá đắt cho sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam
Khi đất nước Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược là khi thế giới đã bước vào thời công nghiệp hóa. Những nước đi đầu trong công nghiệp hóa trở nên giàu mạnh, văn minh liền mang sức mạnh công nghiệp đi xâm lược các nước còn đang tăm tối trong nền sản xuất nông nghiệp cổ lỗ. Công nghiệp hóa là thời của toàn cầu. Mọi vấn đề của thế giới, của con người, từ cuộc sống của mỗi con người đến số phận các dân tộc đều mang tính toàn cầu. Các sĩ phu Việt Nam yêu nước chỉ quanh quẩn trong nước, sử dụng lực lượng tại chỗ, lòng yêu nước chỉ được trang bị bằng gậy gộc, giáo mác đứng lên khởi nghĩa chống Pháp đều đơn độc, lẻ loi và cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dìm trong máu. Những người Việt Nam yêu nước từ thế hệ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu đều đã biết hướng ra thế giới tìm kiếm, học hỏi thế giới, nắm bắt xu thế thời đại, khai thác sức mạnh thời đại vào sự nghiệp cứu nước.
Đi ra thế giới tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, với trái tim yêu nước nồng nàn và tầm nhìn thấu đáo, sâu xa, Phan Châu Trinh thấy trước hết phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”: Thức tỉnh ý thức tự lập, tự cường, chấn hưng đất nước. Lập phường hội phát triển công thương, phát huy nghề tinh. Tiếp nhận công nghệ mới, bước theo các nước công nghiệp, công nghiệp hóa, tư bản hóa xã hội Việt Nam. Dân giàu nước mới mạnh, số đông người Dân giàu có về đời sống văn hóa và đời sống kinh tế, từ đó mới có ý thức về quyền con người, quyền tự quyết của các dân tộc, có tư thế bình đẳng và có lực lượng cần thiết đấu tranh chính trị và chỉ đấu tranh chính trị giành độc lập dân tộc.
Con đường Phan Châu Trinh đã chọn cho dân tộc Việt Nam cũng là con đường Mahatma Gandhi đã chọn cho dân tộc Ấn Độ và Ấn Độ đã giành được độc lập dân tộc không phải trải qua cuộc chiến tranh đẫm máu với đế quốc Anh. Phan Châu Trinh mất sớm, con đường cứu nước đúng đắn Phan Châu Trinh vừa khởi xướng, đành bỏ dở! Sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam thôi đành phó thác cho những người Cộng sản. Và dân tộc Việt Nam phải trải qua con đường đấu tranh bạo lực dằng dặc máu lửa và chứa chất hận thù đến tận hôm nay vẫn chưa thôi bạo lực, chưa trút bỏ hận thù!

Đi ra thế giới, những người Việt Nam yêu nước lớp kế cận Phan Châu Trinh nhưng không có được tầm văn hóa cao và sự chín chắn chính trị của Phan Châu Trinh nên họ đã vội vồ vập vơ lấy học thuyết hận thù giai cấp, đấu tranh giai cấp đẫm máu của chủ nghĩa Cộng sản và coi đó là phương tiện tốt nhất cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam
Đi ra thế giới, những người Việt Nam yêu nước lớp kế cận Phan Châu Trinh nhưng không có được tầm văn hóa cao và sự chín chắn chính trị của Phan Châu Trinh nên họ đã vội vồ vập vơ lấy học thuyết hận thù giai cấp, đấu tranh giai cấp đẫm máu của chủ nghĩa Cộng sản và coi đó là phương tiện tốt nhất cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Đọc luận cương của V. Lê nin về cách mạng bạo lực và hận thù của vô sản thế giới, Hồ Chí Minh, người Cộng sản Việt Nam đầu tiên, sung sướng đến ứa nước mắt reo lên: Đây rồi! Đây chính là cái mà chúng ta cần!
Từ đây, dân tộc Việt Nam chỉ có thể tồn tại bằng yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” bị cuốn vào thời bạo lực và hận thù giai cấp, “lá rách” đấu tố, thù hận “lá lành”, loại bỏ “lá lành”, dân tộc bị chia rẽ sâu sắc, bị suy yếu rệu rã và bị lệ thuộc chặt chẽ vào nước lớn cùng ý thức hệ!
Phan Châu Trinh làm cách mạng giải phóng dân tộc bằng những cải cách nâng tầm đất nước, nâng tầm dân tộc, đưa đất nước đi vào con đường công nghiệp hóa làm cho Dân giầu nước mạnh và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc phải dựa vào những người Dân giàu có trí tuệ, giàu có của cải đó. Nhưng cách mạng vô sản thì ngược lại. Coi làm giàu là bóc lột, là bất công xã hội, đứng về phía những người nghèo khổ bị bóc lột, cách mạng vô sản đưa giai cấp công nông, giai cấp nghèo khổ, không có của cải, không có tri thức, chỉ có xiềng xích và hai bàn tay trắng lên lãnh đạo cách mạng, coi người giàu tri thức và giàu của cải đều là kẻ thù của cách mạng, là đối tượng cần chuyên chính, loại bỏ! Đó là một thảm họa lớn kéo dài mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam và biến động bi thảm tháng chín năm 1930, những người Cộng sản phát động Dân nghèo Nghệ Tĩnh nổi dậy chém giết trí, phú, địa, hào, “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” là một cảnh báo nghiêm khắc.
Sau gần một thế kỉ bị thực dân Pháp đô hộ, gần một thế kỉ nước mất, thân nô lệ, những tâm hồn Việt Nam chân chính đang khao khát cháy bỏng giải phóng dân tộc. Những người Cộng sản Việt Nam giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, đã khai thác, tập hợp được sức mạnh dân tộc Việt Nam làm nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến đánh đuổi những đội quân xâm lược hùng mạnh của thời đại.
Chiến thắng những đội quân xâm lược giành độc lập là chiến thắng của văn hóa và truyền thống Việt Nam, chiến thắng của khí phách, trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, hoàn toàn không phải là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, của lí tưởng Cộng sản, không phải là chiến thắng của học thuyết hận thù, đấu tranh giai cấp.
Giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã thu hút được một số quan lại, trí thức, tư sản, chủ đất . . . , những người thuộc giai cấp tư sản với lòng yêu nước hồn nhiên đã tập hợp trong đội ngũ những người kháng chiến giành độc lập. Nhưng lí tưởng Cộng sản, học thuyết đấu tranh bạo lực, hận thù giai cấp đã đẩy số đông người Việt Nam yêu nước tỉnh táo, sáng suốt, không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản sang phía kẻ thù không đội trời chung. Ngay cả với những trí thức, tư sản, những trí tuệ và tài năng ở tầng lớp trên đi với những người Cộng sản, có đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng bị những người Cộng sản ngộ độc học thuyết đấu tranh giai cấp, đố kị, khinh rẻ, bạc đãi, đày ải điêu đứng. Những thân phận ngậm ngùi, ê chề, đau khổ như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, . . . vì sự đố kị, bạc đãi, đày ải đó không phải là cá biệt. Chủ nghĩa Cộng sản với học thuyết bạo lực, hận thù, đấu tranh giai cấp đã gây quá nhiều đau khổ cho nhiều thế hệ, cho hàng triệu người Việt Nam yêu nước thương nòi, gây chia rẽ, li tán sâu sắc cả dân tộc Việt Nam.

Chiến thắng bằng bạo lực và hận thù của những người Cộng sản đã buộc dân tộc Việt Nam phải trả bằng giá máu và giá đạo lí quá đắt:
Giá phải trả bằng máu của cả chục triệu người, gần một phần ba dân số Việt Nam phơi thây ngoài mặt trận, chết gục trong đấu tố, chết thảm trên pháp trường, chết mòn trong tù ngục, chết mất xác trong thủ tiêu âm thầm! Xã nào, huyện nào tỉnh nào cũng có những nghĩa trang liệt sĩ mênh mông, trắng xóa những nấm mồ người chết trẻ, tuổi mười tám, đôi mươi. Rồi còn những người chết trong thù hận không nấm mồ, không dấu tích cũng nhiều không kém, tính không xuể!
Hãy đến nghĩa trang liệt sĩ một xã như xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, hãy đến nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn để thấy bằng hình ảnh, bằng chứng cứ món nợ máu đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân tộc Việt Nam lớn như thế nào, để thấy giá máu dân tộc Việt Nam đã phải trả lớn như thế nào khi đi trên con đường đấu tranh giành độc lập bằng bạo lực do những người Cộng sản lãnh đạo! Càng đau xót hơn khi người Dân phải trả giá máu đắt như vậy nhưng đất nước vẫn chưa có nền độc lập thật sự, đất đai biển trời không còn được nguyên vẹn và người Dân vẫn chưa thật sự có tự do, chưa được thực sự làm Người, vẫn mang ách nô lệ của một Nhà nước độc tài đảng trị!
Chiến thắng những đội quân xâm lược giành độc lập là chiến thắng của văn hóa và truyền thống Việt Nam, chiến thắng của khí phách, trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, hoàn toàn không phải là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, của lí tưởng Cộng sản
Giá của cuộc nội chiến tương tàn chia rẽ sâu sắc một dân tộc vốn chỉ có thể tồn tại bằng đoàn kết dân tộc, bằng yêu thương đùm bọc, lá lành đùm lá rách! Giá của đất nước gấm vóc bị 30 năm chiến tranh hiện đại, chiến tranh điện tử, chiến tranh siêu âm, chiến tranh bấm nút, chiến tranh hủy diệt tàn phá!
Giá của văn hóa dân tộc và đạo lí Việt Nam bị hủy hoại, bị vất bỏ! Một dân tộc tồn tại bằng yêu thương trở thành dân tộc ứng xử với nhau bằng bạo lực và hận thù! Nhà nước tùy tiện sử dụng bạo lực với người Dân đã trở thành tấm gương cho xã hội để xã hội Việt Nam trở thành xã hội bạo lực, bất an, man rợ. Nhà nước cướp đất của Dân bằng bạo lực cưỡng chế. Nhà nước trả lời những chính kiến khác biệt của người Dân bằng bạo lực công an, tòa án, nhà tù. Bỏ tù người Dân có chính kiến khác biệt bằng những tội danh hình sự áp đặt, giả tạo. Công an ngang nhiên đánh Dân, bắn Dân trên đường phố. Công an ngang nhiên chà đạp lên pháp luật, tùy tiện bắt bớ Dân. Công an đánh chết Dân trong nhà tạm giam, trong trụ sở công an diễn ra hàng ngày ở khắp nơi trên cả nước. Nhà nước Cộng sản dùng bạo lực gây hận thù rộng khắp đất nước và gieo rắc hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam.
Tất cả sử sách của đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đều thú nhận rằng cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 là cuộc cướp chính quyền của những người Cộng sản. Cướp là bất chính, là bạo lực. Một Nhà nước ra đời trong bạo lực, tồn tại bằng bạo lực không thể là Nhà nước lương thiện, tử tế! Nhà nước không lương thiện, tử tế tất yếu tạo ra xã hội không lương thiện, tử tế. Xã hội Việt Nam hôm nay là xã hội như vậy, xã hội lừa đảo, bạo lực và hận thù! Bạo lực và hận thù biến con người thành con thú! Bạo lực và hận thù man rợ như xã hội thời hồng hoang chưa có luật pháp!

2. Vì lợi ích giai cấp hư vô từ bỏ lợi ích dân tộc thiết thực. Đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến tương tàn
Năm 1954, phần lớn lực lượng của đội quân xâm lược Pháp ở Đông Dương đã bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ. Cả hệ thống phòng thủ của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ đã bị vô hiệu, bị nhấn chìm trong biển lửa chiến tranh du kích. Binh đoàn chủ lực mạnh của Pháp ở miền Trung bị đánh tan tác ở đèo An Khê. Cả hệ thống đồn bốt của Pháp ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ đã tự tan rã từng mảng lớn. Hai phần ba lãnh thổ Việt Nam đã được giải phóng khỏi đội quân xâm lược Pháp. Quân xâm lược chỉ còn giữ được những thành phố, thị xã ở đồng bằng nhưng phần lớn người Dân trong những thành phố, thị xã đó cũng là những người Việt Nam yêu nước, chống Pháp. Trong khi đội quân xâm lược Pháp lực đã kiệt, thế đã tàn thì lực lượng kháng chiến giành độc lập đã lớn mạnh, đang bừng bừng xốc tới, chỉ dấn thêm một bước là cả nước sạch bóng giặc ngoại xâm.
Nhưng những người Cộng sản đặt giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc thì giải phóng dân tộc không phải là mục đích duy nhất và cao nhất của họ. Với ý thức hệ giai cấp, những người Cộng sản Việt Nam coi giải phóng dân tộc không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để họ làm cách mạng vô sản thế giới, coi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam chỉ là một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới, coi đất nước, dân tộc chỉ là “tiểu cục” trong cái “đại cục” cách mạng vô sản thế giới.
Giá của văn hóa dân tộc và đạo lí Việt Nam bị hủy hoại, bị vất bỏ! Một dân tộc tồn tại bằng yêu thương trở thành dân tộc ứng xử với nhau bằng bạo lực và hận thù! Nhà nước tùy tiện sử dụng bạo lực với người Dân đã trở thành tấm gương cho xã hội để xã hội Việt Nam trở thành xã hội bạo lực, bất an, man rợ
Ngạo ngược và hợm hĩnh đưa lá cờ búa liềm của chỉ một giai cấp, giai cấp công nông bần cùng, lá cờ vay mượn từ xứ người và chung chạ với xứ người lên ngang với lá cờ Tổ quốc Việt Nam, những người Cộng sản Việt Nam thẳng thừng tuyên bố rằng với họ, Tổ quốc Việt Nam không phải là trên hết! Vì lá cờ vay mượn và chung chạ đó, những người Cộng sản đã chuyển hướng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giai cấp. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đang băng băng đi đến thắng lợi hoàn toàn bị buộc phải dừng lại để làm nhiệm vụ giai cấp. Đặt trên đôi vai dân tộc Việt Nam nghèo khổ, gày guộc cuộc chiến tranh ý thức hệ khốc liệt của cách mạng vô sản thế giới, những người Cộng sản lạnh lùng chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương thành hai trận địa, hai tiền đồn chĩa súng vào nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi thành hai đội quân xung kích của hai phe ý thức hệ quyết liệt lăn xả vào nhau chém giết, tiêu diệt nhau, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến Bắc – Nam đẫm máu suốt hai mươi năm trời!
Trong khi những người Cộng sản Việt Nam nông cạn và không đủ tầm văn hóa để ý thức về giá trị dân tộc nên đã vì lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ của giai cấp vô sản thế giới mà từ bỏ lợi ích dân tộc để làm tên lính xung kích của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thì những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng lại núp dưới lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ đó để vụ lợi, để mưu lợi ích cho Tàu Cộng. Họ mượn máu của dân tộc Việt Nam làm vốn liếng chính trị cho Tàu Cộng, để Nhà nước công nông Tàu Cộng từ bóng tối nội chiến, nghèo đói, lạc hậu bước ra ánh sáng thế giới. Ép Việt Nam chấp nhận tham gia hội nghị Geneve năm 1954 chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương để Tàu Cộng có cơ hội lần đầu tiên được bước lên vũ đài chính trị thế giới, giành được vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Lấy máu của dân tộc Việt Nam mặc cả với tư bản thế giới kiếm chác lợi ích cho Tàu Cộng, những người Cộng sản Tàu còn lấy đấu tranh giai cấp để chia rẽ dân tộc Việt Nam, đánh tan rã khối đoàn kết dân tộc, lấy chiến tranh ý thức hệ khoét vết thương nhức nhối trong lòng dân tộc Việt Nam, làm suy yếu dân tộc Việt Nam, buộc Việt Nam mãi mãi phụ thuộc vào Tàu Cộng, mãi mãi là chư hầu của Tàu Cộng để Tàu Cộng thực hiện giấc mộng thôn tính, bành trướng mà tổ tiên họ ôm ấp từ ngàn đời vẫn chưa thực hiện được.
Nông cạn, không xứng tầm lịch sử, không mang hồn dân tộc, không đau đáu với lợi ích dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã không thấy được mưu đồ Đại Hán Tàu Cộng, răm rắp chấp nhận sự áp đặt của Tàu Cộng, cúi đầu kí hiệp định Geneve năm 1954 chấp nhận ngừng cuộc chiến giải phóng hoàn toàn đất nước, chấp nhận chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương, chia đôi dân tộc Việt Nam ruột thịt thành hai nửa đối kháng một mất một còn với nhau!

Ngăn chặn cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn, chia cắt đất nước, chia cắt dân tộc Việt Nam thành hai nửa thù địch nhau, Hiệp định Geneve năm 1954 là thất bại ê chề, đau đớn mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam. Từ đây dân tộc Việt Nam có lịch sử hào hùng bốn ngàn năm kiêu hãnh là dân tộc độc lập tự chủ trở thành dân tộc tội nghiệp bị cột chặt vào cuộc chiến tranh ý thức hệ vô nghĩa của thế giới Cộng sản, phải đổ máu cho cuộc chiến tranh ý thức hệ vay mượn của cách mạng vô sản thế giới. Từ đây, độc lập dân tộc đã thực sự bị mất!
Ngày 20 tháng bảy năm 1954 ở Geneve, Thụy Sĩ, những người Cộng sản Việt Nam kí kết Hiệp đinh đình chiến, chia cắt đất nước thì ngay hôm sau, ngày 21 tháng bảy, ở những vùng đất Việt Nam ngoài vòng kiểm soát của những người Cộng sản, người dân đồng loạt treo cờ rủ để tang cho nền độc lập dân tộc bị giết chết, để tang đất nước chia cắt thành hai quốc gia đối kháng, để tang dân tộc Việt Nam bị chia cắt thành hai thế lực thù địch nhau, để tang cho nhiều gia đình bị chia đôi thành hai trận tuyến bắn giết nhau, để tang cuộc nội chiến không tránh khỏi, để tang cho những thế hệ tuổi trẻ Việt Nam bị thiêu hủy trong ngọn lửa chiến tranh, để tang sớm cho hàng triệu người Việt thiệt mạng trong cuộc nội chiến ý thức hệ vô nghĩa đó!
Đưa giá trị giai cấp hư vô lên trên giá trị dân tộc thiết thực, những người Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ cuộc chiến tranh khốc liệt này đến cuộc chiến tranh khốc liệt khác. Cuộc nội chiến Bắc – Nam 20 năm. Cuộc chiến tranh Campuchia hơn 10 năm. Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 10 năm. Đi từ cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo này đến cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo khác. Những cuộc đấu tố thanh trừng trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong vụ Nhân văn Giai phẩm, trong vụ xét lại chống đảng đã bắn giết, đày ải, loại bỏ hàng triệu người Việt Nam tinh hoa, ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam, những người đã làm nên niềm tự hào Việt Nam thời xã hội Việt Nam giã từ nền sản xuất nông nghiệp cơ bắp tăm tối đi tới xã hội công nghiệp ánh sáng cùng loài người văn minh.
Trong khi những người Cộng sản Việt Nam nông cạn và không đủ tầm văn hóa để ý thức về giá trị dân tộc nên đã vì lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ của giai cấp vô sản thế giới mà từ bỏ lợi ích dân tộc để làm tên lính xung kích của cuộc cách mạng vô sản thế giới
Những người Việt Nam yêu nước thương nòi, những người Việt Nam chân chính hôm nay nói tiếng nói của lịch sử, của đạo lí, của văn hóa Việt Nam đòi vất bỏ gông cùm chủ nghĩa Mác Lê nin sai lầm tội lỗi, vất bỏ gông cùm ý thức hệ giai cấp phản dân tộc để thoát khỏi thân phận nô lệ Bắc thuộc đều bị Nhà nước Cộng sản coi là thế lực thù địch, bị bộ máy chuyên chính của Nhà nước Cộng sản giám sát, theo dõi như những người tù ngay tại nhà mình. Nhiều người Việt Nam chân chính bất hạnh hơn, người trước người sau đang lần lượt vào những nhà tù khắc nghiệt, những địa ngục trần gian được Nhà nước Cộng sản xây dựng, mở rộng trên khắp đất nước Việt Nam. Dùng ngục tù phân loại người Dân. Những người Dân khảng khái, trung thực đều bị tống vào ngục tù để xã hội Việt Nam chỉ còn bầy cừu cam chịu dưới sự chăn dắt của bạo lực Cộng sản, để dân tộc Việt Nam chỉ còn là sắc tộc Việt thiểu số của Đại Hán, chỉ còn là những thân phận nô lệ của Nhà nước độc tài đảng trị.
3. Kiên trì chủ nghĩa Mác Lê Nin, kiên trì đấu tranh hận thù giai cấp, dù đất nước thống nhất đã bao lâu thì dân tộc Việt Nam vẫn mãi li tán
Khi những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng, Nga Cộng ép những người Cộng sản Việt Nam phải kí hiệp định Geneve chia đôi đất nước Việt Nam là họ đã chọn dải đất Việt Nam làm bãi chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ và chọn dân tộc Việt Nam làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó để đất nước họ yên ổn xây dựng, phát triển.
Chính chủ nghĩa Mác Lê nin đã tạo ra không gian lịch sử, yếu tố xã hội và phát động cuộc chiến tranh ý thức hệ đẫm máu và vô nghĩa. Xã hội tư bản đưa giới chủ, đưa những người giàu có của cải, giầu có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Với xã hội tư bản, Cái Tôi của người Dân được nhìn nhận, cá nhân được khẳng định, quyền con người được luật pháp bảo đảm. Mỗi người tồn tại trong cuộc đời là một cá nhân, phải đến xã hội tư bản công nghiệp mới có được điều bình thường mà vĩ đại đó. Từ bầy đàn đi đến cá nhân, đó là một bước tiến vĩ đại của tiến trình lịch sử loài người. Cá nhân được giải phóng, những con người khổng lồ xuất hiện đưa xã hội loài người thực sự bước vào thời ánh sáng văn minh và phát triển huy hoàng.
Xã hội Cộng sản đưa giai cấp công nông, những người lao động làm thuê, lao động cơ bắp, không có của cải, không có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Trong xã hội Cộng sản chỉ những người nắm quyền lực trong đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng sản mới có Cái Tôi, mới có cá nhân, còn người dân chỉ là đám đông, là bầy đàn, không có cá nhân. Đó là xã hội mông muội, tối tăm, là một bước thụt lùi thảm hại của lịch sử, một nỗi đau nhân loại.
Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho giai cấp công nhân, những người lao động cơ bắp làm thuê không của cải, không tri thức phải quyết đào mồ chôn những ông chủ tư bản giầu có của cải và trí tuệ. Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho chế độ Cộng sản kéo lùi lịch sử phát triển loài người về thời tối tăm phải quyết tiêu diệt chế dộ Tư bản đã đưa xã hội loài người tới ánh sáng văn minh. Nhiệm vụ lịch sử đó của những người Cộng sản, của giai cấp vô sản thế giới đã tạo ra chiến tranh ý thức hệ, đẩy nhân dân vào những cuộc đấu tố, thanh trừng, thảm sát, đẩy loài người vào những cuộc chiến tranh liên miên. Vì thế, về thực chất cuộc chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến tranh bóng tối mông muội quyết tiêu diệt ánh sáng văn minh và ánh sáng văn minh quyết đẩy lùi bóng tối mông muội!
Vì là cuộc chiến tranh ý thức hệ nên nước Mĩ hùng mạnh của thế giới tư bản phải tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn bóng tối Cộng sản lan ra thế giới. Có sức mạnh kinh tế và quân sự không nước nào sánh được nhưng nước Mĩ vẫn phải chuốc lấy thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì chiến thắng của cuộc chiến tranh nào xét cho cùng cũng là chiến thắng của văn hóa, của đạo lí. Những người Cộng sản Việt Nam đã giấu kín cuộc chiến tranh ý thức hệ dưới danh nghĩa cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Người Dân Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh ý thức hệ là những nạn nhân, những vật hi sinh nhưng với tư thế những anh hùng xả thân chống Mĩ cứu nước và chiến thắng đã thuộc về những người anh hùng đó. Đó là chiến thắng của văn hóa, của lẽ sống Việt Nam. Đó là chiến thắng của những người mẹ lần lượt tiễn đến đứa con cuối cùng ra trận và những đứa con ấy đã lần lượt bỏ mình trên những ngả đường chiến trận để làm nên chiến thắng dâng lên người mẹ nghèo khổ mà giầu lòng yêu nước thương nòi, dâng lên Mẹ Tổ quốc Việt Nam.
Không vì lợi ích dân tộc, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trói mình trong ý thức hệ giai cấp, làm cho Việt Nam không thể hòa nhập với thế giới, đánh mất tình yêu của thế giới, đánh mất nguồn lực lớn lao của thế giới dành cho Việt Nam
Sau chiến thắng đó, sau ngày 30 tháng tư năm 1975, cuộc chiến tranh Nam – Bắc núi xương, sông máu chấm dứt, một thời cơ phát triển, chấn hưng đất nước vô cùng thuận lợi đã mở ra. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển thuận lợi như lúc đó. Nhưng với tầm văn hóa thấp kém, không vượt được lên trên các chủ nghĩa, làm chủ các chủ nghĩa nên chỉ giáo điều, dập khuôn, làm nô lệ của chủ nghĩa Mác Lê nin lầm lạc, phản dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không vì lợi ích dân tộc, vẫn nhìn thế giới và nhìn dân tộc mình bằng con mắt hận thù giai cấp, vẫn mê muội lấy đấu tranh giai cấp ứng xử với thế giới và lấy đấu tranh giai cấp chống phá, nô dịch chính dân tộc mình, tù đày chính Nhân Dân mình, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ lịch sử để Việt Nam bước lên đường phát triển, hòa nhập cùng loài người văn minh.
Không vì lợi ích dân tộc, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trói mình trong ý thức hệ giai cấp, làm cho Việt Nam không thể hòa nhập với thế giới, đánh mất tình yêu của thế giới, đánh mất nguồn lực lớn lao của thế giới dành cho Việt Nam
Dân tộc Việt Nam bé nhỏ, nghèo khổ phải chịu những đau thương mất mát quá lớn để chiến thắng một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Cả thế giới ngả mũ kính chào Việt Nam, vui mừng mở vòng tay đón Việt Nam hòa nhập với cuộc sống thanh bình của thế giới. Cả thế giới động lòng trắc ẩn trước hi sinh mất mát đau thương của Việt Nam, muốn bù đắp, chia sẻ với Việt Nam, muốn giúp Việt Nam xây dựng lại đất nước. Cả nước Mĩ thua trận cũng muốn làm lành với Việt Nam bằng việc chủ động đề nghị bình thường hóa quan hệ hai nước để nước Mĩ có trách nhiệm với Việt Nam sau chiến tranh.
Nếu đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam như họ vẫn xưng xưng tự nhận, thực sự vì lợi ích dân tộc thì họ phải ý thức được trách nhiệm về nỗi đau mất mát quá lớn mà dân tộc Việt Nam phải nhận khi là công cụ, là vật hi sinh của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Nhận trách nhiệm để thấy việc phải làm là nhanh chóng thoát ra khỏi thân phận công cụ của ý thức hệ, trở về với dân tộc, vì lợi ích dân tộc mà bình thường hóa quan hệ với Mĩ, mở ra thời kì mới hòa nhập với thế giới, đón nhận thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới và quan trọng nhất là khoa học kĩ thuật hiện đại và nguồn vốn đầu tư lớn từ nước Mĩ để xây dựng cuộc sống mới cho Nhân Dân.
Không bận tâm đến lợi ích dân tộc, vẫn trói mình trong chủ nghĩa Mác Lê nin chỉ biết có giai cấp, lạc lõng trong tình cảm vay mượn hận thù giai cấp, đánh tráo chiến thắng bằng giá máu quá đắt của dân tộc Việt Nam là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, lại sẵn thói kiêu ngạo Cộng sản, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vênh váo đưa ra cớ đòi Mĩ bồi thường chiến tranh để từ chối bình thường hóa quan hệ với nước Mĩ thua trận. Cùng với những sai lầm tệ hại khác, vênh váo không bình thường hóa quan hệ với Mĩ dẫn đến cuộc cấm vận của Mĩ kéo dài suốt hai mươi năm. Lệnh cấm vận của Mĩ đã dựng bức tường sừng sững ngăn cách Việt Nam với thế giới, chặn đứng dòng vốn đầu tư, dòng khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại của thế giới chảy vào Việt Nam làm cho đất nước Việt Nam chìm sâu trong nghèo đói, khủng hoảng, kinh tế kiệt quệ, người Dân khổ cực, thiếu thốn đủ bề.
Vài tỉ tiền Mĩ bồi thường chiến tranh ném vào cái túi thủng của Nhà nước tham nhũng nào có thấm tháp gì so với hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ đô la mà các nước phát triển đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam khi bình thường hóa quan hệ với Mĩ.
Không vì lợi ích dân tộc, vẫn lấy đấu tranh giai cấp chống phá dân tộc, đánh mất cả nội lực to lớn, đánh mất cả sức sống mạnh mẽ và sức sáng tạo vô tận của dân tộc Việt Nam
Năm 1954, những người Cộng sản nhẫn tâm chia đôi đất nước Việt Nam đã tạo ra hai dòng chảy Nam – Bắc ngược chiều nhau. Dòng chảy nhỏ bé, ngắn ngủi của gần hai trăm ngàn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc và dòng chảy ồ ạt, mạnh mẽ, kéo dài của hai triệu người Dân miền Bắc di cư vào Nam.
Năm 1975 kết thúc cuộc chiến tranh Nam Bắc, lại có hai dòng chảy Nam Bắc ngược chiều nhau. Một dòng chảy của những người thân trong những gia đình bị trận tuyến ý thức hệ chia cắt hai mươi năm tìm về với nhau. Nhưng chỉ có người từ miền Bắc ào ào đổ vào miền Nam. Người thắng cuộc hồ hởi tìm đến người mặc cảm thua cuộc. Dòng chảy Bắc – Nam. Đó là dòng chảy tự nhiên. Nhưng còn có dòng chảy do những người say máu đấu tranh giai cấp tạo ra, những người chỉ biết có giai cấp, không biết đến dân tộc, những người cuồng tín, nô lệ của học thuyết đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực giai cấp vô sản quyết tiêu diệt dân tộc Việt Nam đến cùng. Dòng chảy của hàng trăm ngàn người đã tham gia bộ máy quân sự và bộ máy Nhà nước của chính quyền Sài Gòn thua cuộc bị dẫn giải ra miền Bắc tống vào các nhà tù được mang tên là các trại cải tạo. Dòng chảy Nam – Bắc.
Không biết nhận ra đường về với dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản vẫn lấy giai cấp vay mượn đánh phá dân tộc ruột thịt của mình. Bài bản đấu tranh giai cấp đã làm kiệt quệ miền Bắc là cải tạo tư sản lại được áp dụng ở miền Nam làm kiệt quệ cả miền Nam. Tư sản dân tộc miền Nam đông đảo và giàu có đã tạo ra cả một nền công nghiệp hiện đại và thương nghiệp phát triển hòa nhập với thị trường thế giới. Tước đoạt quyền làm chủ của những người biết làm chủ. Giao cơ sở sản xuất kinh doanh của họ cho những người không biết sản xuất kinh doanh, không có mối quan hệ giao thương với thế giới đã phá hủy cả một nền công thương nghiệp dân tộc phát triển, cắt đứt mối quan hệ giao thương với thị trường thế giới. Việt Nam tự cô lập trong nghèo đói.
Bài bản đấu tranh giai cấp là duy trì và khoét sâu mãi trận tuyến giai cấp, trận tuyến địch – ta trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa súng đạn, thuốc nổ và những tay súng AK vào miền Nam thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh người Việt giết người Việt. Chiến tranh kết thúc, những họng súng AK lại gom hàng trăm ngàn người trong bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam vào những nhà tù rải rác ở vùng rừng núi khắc nghiệt miền Bắc. Những người làm nên bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam là lực lượng tinh hoa, ưu tú nhất của xã hội miền Nam và cũng là nguồn lực con người lớn lao và quí giá của dân tộc Việt Nam. Tù đày họ không những hủy bỏ một nguồn lực lao động cao cấp mà còn tiếp tục nuôi dưỡng hận thù trong lòng dân tộc, li tán dân tộc.
Những đòn đấu tranh giai cấp khốc liệt đó liên tiếp đánh những đòn chí tử vào dân tộc Việt Nam. Đánh vào nội lực, đánh vào lực lượng sản xuất tạo ra của cải xã hội làm cho đất nước đã nghèo càng nghèo thêm. Đánh vào lòng tin làm cho người dân thấy bế tắc, không còn lòng tin vào ngày mai. Đánh vào tình cảm dân tộc, đánh vào lòng yêu nước làm cho người dân dù nặng lòng với nước cũng không tìm thấy chỗ đứng trên đất nước thân yêu phải bỏ nước ra đi tạo ra dòng người đổ ra biển vượt biên kéo dài trong nhiều năm, ồ ạt vào những năm từ 1975 đến 1990 và rải rác đến tận hôm nay.
Dòng thác người trên biển đi tìm cái sống trong cái chết đã tạo ra hình ảnh một Việt Nam đau thương, tủi nhục trước con mắt thế giới và thế giới đã phải tạo ra một từ mới Boat People – Thuyền Người để gọi những người Việt Nam khốn khổ này. Chạy trốn đòn đấu tranh giai cấp tàn độc của những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, hơn ba triệu người Việt Nam tìm đến vòng tay nhân hậu cưu mang của các dân tộc trên thế giới, khoét sâu sự li tán trong lòng dân tộc Việt Nam đến nay vẫn chưa thể hàn gắn. Nửa triệu người vùi xác dưới biển trong cuộc chạy trốn những người lãnh đạo Cộng sản lấy giai cấp tiêu diệt dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể trốn trách trách nhiệm về cái chết mất xác của nửa triệu người Việt Nam này.
Lấy giai cấp thống trị dân tộc. Lấy đấu tranh giai cấp đánh tan tác, li tán dân tộc. Mang gia sản thiêng liêng vô giá của dân tộc ra đánh đổi lấy liên minh giai cấp, liên minh ý thức hệ như chia đôi đất nước, chia dân tộc Việt Nam ra làm hai nửa đối kháng chém giết nhau. Vạch trận tuyến chiến tranh ý thức hệ trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa nhân dân Việt Nam ra làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó. Cắt đất đai thiêng liêng của tổ tiên cho Tàu Cộng để duy trì liên minh ý thức hệ với Tàu Cộng, để duy trì sự thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam . . . Còn vô vàn dẫn chứng không thể kể xiết về lịch sử tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử thí bỏ lợi ích to lớn của dân tộc Việt Nam vì lợi ích nhỏ bé của đảng. Những dẫn chứng này, lịch sử sẽ không bỏ sót và lịch sử sẽ phán xét công bằng, sòng phẳng.
Không thể nhắm mắt trước lịch sử và không thể lừa dối nhân dân khi cố tình ghi trong điều 4 Hiến Pháp rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích cả dân tộc Việt Nam!
Tin, bài liên quan
Cần sửa Nghị định 72 trước khi quá muộn
bbc, 1 tháng 9, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/09/130901_phamchilan_on_decree_72.shtml
Media Player
Bà Phạm Chi Lan kêu gọi Chính phủ sớm nhìn nhận và sửa sai với Nghị định 72, tránh tác động không tốt cho xã hội
Bấm Nghị định 72 có hiệu lực từ ngày 01/9/2013 của Chính phủ Việt Nam hàm chứa nhiều điểm bất hợp lý và có thể tạo kẽ hở và điều kiện cho lạm dụng quyền lực, hạn chế các quyền tự do thông tin của người dân, theo bà Phạm Chi Lan, cựu thành viên Ban tư vấn của Thủ tướng Chính phủ.
Trao đổi với BBC hôm Chủ Nhật, cựu Tổng Thư ký, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) kêu gọi nhà nước, các cơ quan lập pháp, tư pháp và lập pháp sớm xem xét lại bản nghị định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành từ ngày 15/7.
Bà Phạm Chi Lan nói:
“Nghị định 72 gây ra nhiều bức xúc trong xã hội nhất là trong cộng đồng mạng ở chỗ đưa ra những quy định ví dụ như cấm các mạng đưa ra những thông tin có tính chất tổng hợp chung và chỉ được đưa đúng mục tiêu của mạng đó…”
Cựu cố vấn Thủ tướng Chính phủ cho rằng nghị định đã tạo ra một sự cấm đoán không cần thiết.
Bà nói: “Nếu với cách thức ngăn cấm như vậy, tôi cho là không phù hợp với yêu cầu thông tin của bạn đọc ngày nay, của người đọc ở khắp các nơi, nhất là với hoạt động của các trang mạng. Nó là một sự cấm đoán không cần thiết và không đúng.
“Nó không đúng với quyền thông tin của các trang mạng, cũng như quyền được thông tin của người dân, những người hay đọc trên mạng.”
Cựu quan chức lãnh đạo VCCI đưa ra lời kêu gọi:
“Đối với Nghị định 72, tôi chỉ mong và hy vọng Chính phủ có thể nhìn nhận vấn đề sớm hơn và sửa nó để cho đừng gây ra những tác động không tốt với xã hội.”
Phạm Chí Dũng: Việt Nam sẽ “xoay trục” sang phương Tây ?
rfi, Thụy My, 1/9/2013
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130830-viet-nam-se-%C2%AB-xoay-truc-sang-phuong-tay
Ngày 16/08/2013 vừa qua người ta đã chứng kiến việc Phương Uyên được trả tự do một cách hết sức bất ngờ ngay tại tòa án. Sự kiện này có thể dẫn đến vận hội mới mẻ nào cho xã hội Việt Nam?
RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi này với nhà báo tự do Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
|
RFI : Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất hân hạnh lại có dịp trao đổi với anh trên làn sóng của đài RFI. Thưa anh, anh nhận xét như thế nào về bất ngờ đến khó tin của phiên phúc thẩm xử Phương Uyên và Nguyên Kha vừa qua ?
Nhà báo Phạm Chí Dũng : Nếu tôi nhớ không lầm thì từ năm 1975 đến nay mới diễn ra một sự kiện đặc biệt, quá sức đặc biệt như vụ Phương Uyên, khi một phạm nhân chính trị được trả tự do ngay tại tòa. Từ năm 1975 đến nay, có lẽ sự kiện Phương Uyên là một chứng nghiệm rõ nhất cho quy luật khoa học biện chứng lịch sử: khi chính thể mạnh, “nhập kho” tăng và “xuất kho” giảm; còn khi chính thể yếu, “nhập kho” giảm còn “xuất kho” tăng.
Việc được trả tự do ngay tại tòa của Phương Uyên là một sự kiện mang tính tín hiệu rõ nét nhất, phản ánh xu hướng “xuất kho” và chính thể Việt Nam đang khởi động cho định hướng “xoay trục”. Nếu chính sách gần gũi nhất của Hoa Kỳ là “xoay trục” về khu vực Đông Nam Á thì Nhà nước Việt Nam chuyển động theo chiều ngược lại”: hướng sang phương Tây.
Hiện tượng này lại phản ánh một quy luật khác: độ mở dân chủ tỉ lệ thuận với độ mở đối ngoại.
Còn trong nhãn quan của cộng đồng quốc tế, đúng là có một chuyện gì đó hình như đang xoay chuyển. Và nếu lạc quan hơn như giáo sư người Anh Jonathan London – người chuyên nghiên cứu về Việt Nam và có thiện chí đến mức bất ngờ với nhân dân đất nước này – thì “tình hình chính trị ở Việt Nam hiện nay đang biến động rất nhanh”. Thậm chí ông còn phóng ra một câu hỏi rất sốt ruột: “Bây giờ thì sao?”.
Tất nhiên nhiều người và nhiều giới trong nước và quốc tế đều muốn được thỏa mãn những câu hỏi thiết thân như: Sự kiện tự do của Phương Uyên hàm ý điều gì? Liệu có phản ánh một sự thay đổi lớn về chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tù nhân lương tâm, chính sách dân chủ nương theo quan điểm đối ngoại? Sau sự kiện này liệu có thể dẫn tới những những sự kiện thả tù và cởi mở dân chủ nào khác? Hoặc, sự kiện Phương Uyên có phản ánh một tấm lòng thành thực nào đó của một hoặc một số lãnh đạo đảng và nhà nước đối với cộng đồng quốc tế và giới dân chủ trong nước? Kinh tế việt Nam có hy vọng nào được phục hồi nếu giới đấu tranh dân chủ trong nước không còn bị đưa vào các trại “phục hồi nhân phẩm”?…
RFI : Ngay sau khi Phương Uyên được trả tự do, đã có nhiều dư luận về sự kiện chưa từng có này. Anh có bình luận gì về những dư luận ấy?
Người Việt Nam không bao giờ bỏ phí tinh thần “lạc quan cách mạng”. Tôi chỉ muốn nêu lại một vài câu chuyện hài hước trên các diễn đàn mạng, trong các quán cà phê “dân chủ” và ở cả những bàn nhậu.
Một trong những câu chuyện trào phúng nhất thuộc về nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh. Chỉ mới cách đây chưa đầy hai tháng, người nhận giải thưởng “Công dân mạng toàn cầu 2013” của Tổ chức Phóng viên Không biên giới còn không giấu nổi tâm trạng lo ngại về triển vọng “nhập kho”, nhưng nay tại mang tâm thế khác hẳn.
Tiếu lâm nhất là việc Huỳnh Ngọc Chênh đã nêu ra hai giả định sau chuyến trở về không thể tưởng tượng được của nữ sinh áo trắng Phương Uyên, trong đó có giả định 1 – lạc quan nhất – mà tôi xin lược lại như sau: “Các người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam thấy rằng đến lúc phải thực lòng thay đổi để nhanh chóng hội nhập (…) nên đã quyết định tìm cách trả lại tự do ngay cho Phương Uyên, và từ từ trả lại tự do cho Nguyên Kha. Việc giảm án cho Uyên – Kha là bước đi “Amstrong” rụt rè đầu tiên hướng về ánh sáng dân chủ nhưng sẽ là bước tiến vĩ đại của dân tộc trong nay mai.
Những bước đi tiếp theo là sẽ thả hết các tù nhân lương tâm còn lại vào dịp đặc xá ngày 2/9 sắp đến, rồi tiến đến thay đổi Hiến pháp bỏ đi điều 4, chấp nhận đa nguyên, đa đảng… Nếu đúng với giả định nầy, tôi tin rằng toàn dân sẽ tôn 16 ông bà trong Bộ Chính trị thành những thánh nhân, dựng tượng khắp mọi nơi để thờ cúng. Riêng tôi nguyện sẽ mỗi ngày viết một bài báo hàng ngàn chữ để ca ngợi công đức của các vị cho đến khi tôi không còn viết được nữa.
Tôi cũng tin rằng nhân dân sẽ khép lại quá khứ, tha thứ tất cả, đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục được ủng hộ, nhân dân sẽ dồn phiếu cho các vị trong bầu cử tự do để tranh đua sòng phẳng và thắng lợi tuyệt đối các đảng phái mới lập khác… Tôi hay tin người và tin vào điều tốt đẹp nên rất tin vào giả định 1”.
Tất nhiên một số độc giả “ngây thơ” đã “ném đá” Huỳnh Ngọc Chênh vì cái được gọi là “lòng tin chiến lược” như thế. Chỉ có điều, số độc giả ít tường tận về tính cách ông Chênh hình như đã chẳng mấy quan tâm đến giả định thứ hai mà ông nêu ra: “Do áp lực phải vào TPP, phải vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, phải mua được vũ khí sát thương của Mỹ, phải tìm các nguồn tài trợ cho nền kinh tế đứng bên bờ vực thẳm… các vị lấy việc giảm mức án vài năm cho Uyên – Kha làm món hàng trao đổi để lừa bịp dư luận và thế giới.
Sau khi đạt được các yêu cầu chiến thuật đó các vị lại “đâu trở về đó”, lại tiếp tục vùi dập nhân quyền, đàn áp người yêu nước… như đã từng làm sau khi vào WTO. Nếu giả định nầy là sự thật thì nhân dân sẽ không để yên, lịch sử sẽ đời đời nguyền rủa, thế giới sẽ không ngu ngơ để các vị tiếp tục dối trá”.
RFI : Anh có tin vào giả định nào của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh?
Hơi khác với Huỳnh Ngọc Chênh, tôi không tin người lắm, đặc biệt đối với các chính khách thời nay. Do vậy tôi hoài nghi đối với mọi giả định, cho dù đã xác định được tính xu thế về độ mở chính trị tỉ lệ thuận với độ mở đối ngoại.
Tôi cũng muốn nêu ra một giả định khác, có thể mang tính trung dung giữa hai giả định của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, nhưng được nhìn từ góc độ biện chứng lịch sử.
Hãy trở lại với quy luật nhập kho – xuất kho, chúng ta có thể tự hỏi là với sự kiện Phương Uyên diễn ra chưa có tiền lệ, thế mạnh của chính thể đã diễn biến đến mức nào và đang ở điểm ngoặt nào? Phải chăng đã xảy ra một sự thay đổi đủ lớn từ đối nội và đối ngoại, hoặc hơn nữa là tính cộng hưởng giữa hai yếu tố này mà khiến chính quyền buộc phải thả người?
Cần nhắc lại là vào đầu năm 2013, sau chuyến đi của người đứng đầu Đảng Nguyễn Phú Trọng đến Roma, đã xảy ra một sự kiện chưa có tiền lệ ở Việt Nam. Một nhóm nhân sĩ, trí thức gồm 72 người đã ký tên vào một bản văn bản được gọi tượng trưng là “Kiến nghị 72” với nhiều đề nghị liên quan đến Hiến pháp, Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý và cả đề nghị thay đổi điều 4 Hiến pháp về cơ chế độc đảng. Nhưng sau đó, rất nhiều người dân và công chức đã ngạc nhiên về chuyện đã không một ai trong nhóm “Kiến nghị 72” bị “kiểm soát đặc biệt”, trong khi nếu sự kiện này xảy ra vào những năm trước đó thì không biết hậu quả nào đã xảy đến, thậm chí còn có thể có chuyện bắt bớ.
“Kiến nghị 72 “ ra đời cùng với chuyến đi của Tổ chức Ân xá Quốc tế đến Việt Nam – cũng là lần đầu tiên tổ chức này được Nhà nước Việt Nam cấp “quota” cho gặp trực tiếp những nhân vật bất đồng chính kiến theo yêu cầu. Cũng vào thời gian này, giới quan sát còn ghi nhận một vài chuyến đi và những cuộc gặp gỡ của các quan chức Cộng đồng châu Âu, những nghị sĩ đấu tranh cho vấn đề dân chủ và nhân quyền và đã có những tiếp xúc với các quan chức Bộ Ngoại giao, Bộ Công an ở Hà Nội. Mà đó là những cuộc gặp được công khai cho báo chí, trong khi dư luận còn cho rằng có những cuộc tiếp xúc kín đáo hơn nhiều, đã dẫn đến cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ ở Hà Nội vào trung tuần tháng 4/2013.
Vậy thì câu chuyện của Phương Uyên cũng rất có thể là một logic tiếp theo của chuỗi vận động đối ngoại – đối nội diễn ra từ đầu năm 2013 đến nay, chứ không phải là đột biến hay ngoại lệ, cho dù sự kiện này đã làm kinh ngạc rất nhiều người.
RFI : Nhưng đợt bắt bớ các blogger ở Việt Nam xảy ra vào tháng 5 và tháng 6 năm 2013 có đi ngược lại tính logic của lộ trình mở cửa chính trị như anh phân tích?
Chúng ta hãy nhìn vào cái gọi là “Danh sách 20”, tức một tin tức được tung ra cùng với đợt bắt ba blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy. Có thể nhận ra điều đó giống như một động tác giả hơn, xuất phát từ một cơ quan đặc biệt nào đấy nhằm tác động đến tâm lý và hành vi của giới blogger và hoạt động dân chủ nhân quyền, chứ thực ra từ đó đến nay đã không diễn ra một sự bắt bớ nào nữa.
Mà vụ việc của hai trong ba blogger lại được đánh giá thiên về màu sắc nội bộ và với mục đích tìm ra nguồn tin hơn là một “cú đánh” trực tiếp vào hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Còn với Đinh Nhật Uy, tin tức gần nhất cho thấy blogger này có khả năng sắp được trả tự do. Thực ra, vấn đề của Uy là quá nhỏ bé trong tổng thể bàn cờ chính trị ở Việt Nam.
Nhân đây, cũng cần làm rõ một đánh giá cho rằng vào nửa đầu năm 2013, số người bất đồng chính kiến bị bắt giữ ở Việt Nam bằng cả hai năm trước cộng lại. Nếu nhìn lại và rạch ròi về thời điểm bắt giữ thì có thể thấy những vụ bắt người tập thể như 14 thanh niên Công giáo, Tin lành và vụ Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn đều xảy ra vào năm 2012 chứ không phải 2013. Người ta cũng còn nhớ vụ bắt giữ luật sư công giáo Lê Quốc Quân vào cuối năm 2012 là vụ cuối cùng của năm đó. Còn đến năm 2013, những vụ “tồn kho” của năm trước được đưa ra xét xử và có án. Như vậy, thực ra số người bất đồng chính kiến bị bắt vào nửa đầu năm 2013 là giảm hẳn so với nửa cuối năm trước, phản ánh biểu đồ kiểm soát chính trị đang võng dần xuống theo một đường thoai thoải, hoặc làm thành “một đường mỏng manh” (a delicate line) – như cụm từ mà đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear đã dùng để chỉ về mối quan hệ “đi dây” của Hà Nội giữa Bắc Kinh và Washington.
Mà như thế, đáng lý ra dư luận trong nước và cả các tổ chức nhân quyền quốc tế đã không phải quá ngạc nhiên khi chứng kiến Phương Uyên được thả đột ngột. Nhất là sự kiện trả tự do chưa có tiền lệ này lại diễn ra chỉ gần ba tuần sau cuộc gặp giữa hai nguyên thủ quốc gia của Mỹ và Việt Nam.
Vấn đề chỉ còn là thời gian, thả sớm hay muộn hơn mà thôi.
RFI : Cho tới nay vẫn có nhiều luồng ý kiến khác biệt về nguyên nhân và động lực dẫn tới sự tự do của Phương Uyên. Anh đánh giá ra sao về vấn đề này?
Tôi nhìn thấy một ảnh hưởng không nhỏ, hoàn toàn không mờ nhạt từ phía Nhà Trắng. Có thể coi thái độ của Washington mới là ảnh hưởng có tính quyết định.
Ngay sau khi Phương Uyên được thả, khẩu khí của đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là David Shear có vẻ càng cứng rắn hơn: “Chúng tôi đã khẳng định rất mạnh mẽ rằng chúng tôi muốn các tù nhân chính trị phải được thả”.
Cũng sau khi Phương Uyên được thả, một viên chức chính trị của Đại sứ quán Hoa Kỳ là Michael Orona đã trả lời báo chí rằng đây là sự đấu tranh không ngừng nghỉ từ nhiều phía. Ông Orona cho biết ngay từ đầu tiên, Tòa đại sứ đã ra thông cáo báo chí về việc này và tiếp tục lên tiếng bằng nhiều kênh đối thoại.
Cách bày tỏ thái độ của các quan chức ngoại giao Hoa Kỳ cũng không kém logic với cách tiếp đón Chủ tịch Sang của Tổng thống Obama. Kín đáo trong hội đàm, nhưng bên ngoài vẫn liên tục diễn ra nhiều cuộc vận động của các nghị sĩ Mỹ và châu Âu cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Làn sóng vận động này lại bắt nguồn từ giới hoạt động dân chủ và nhân quyền trong nước.
Nhưng cũng không thể nói rằng cuộc biểu tình ngày 16/8/2013 ở Long An của hàng trăm người ủng hộ Phương Uyên là vô nghĩa. Cũng không thể nói là công an Long An không thuần thục phương án phòng chống biểu tình, bạo loạn mà đã để cuộc biểu tình diễn ra một cách đầy đặn đến khó tả, đến mức mà nhà văn Nguyễn Tường Thụy còn mô tả “vừa đi vừa binh vận lẫn dân vận”. Còn trước đó một ngày, hàng chục người bị xem là “đối tượng chính trị” đã có thể cùng với gia đình Phương Uyên và Nguyên Kha gặp gỡ các phạm nhân mà không bị cán bộ trại giam Long An làm khó dễ gì…
Những tín hiệu cứ tiếp nối sinh ra, sinh sôi một cách thầm lặng, nhưng trên hết vẫn là tính tín hiệu. Mà đó chỉ là đà tiếp nối cho một sự cộng hưởng trong – ngoài để dẫn đến một tác động can thiệp nào đó từ phương Tây đối với trường hợp Nữ sinh áo trắng.
RFI : Như vậy là chính phủ Hoa Kỳ vẫn quan tâm đến chủ đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, khác với dư luận cho rằng Tổng thống Obama đã quay lưng?
David Shear là một trong những dấu chỉ lộ thiên cho câu hỏi này. Trong cùng thời gian Phương Uyên được thả, David Shear đã có một cuộc tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở Little Sài Gòn, và một ít thông tin xuất hiện từ đấy đã cho thấy ông Shear xác nhận: chính Tổng thống Obama đã nói thẳng với ông Trương Tấn Sang trong chuyến viếng thăm vào ngày 25/7/2013, là hiện nay Việt Nam đang cần Hoa Kỳ nhiều hơn trong các vụ mua bán về vũ khí sát thương, và hồ sơ nhân quyền sẽ trở thành điều kiện ràng buộc trong việc mua bán vũ khí, phát triển quan hệ đối tác.
Dấu chỉ đã khá rõ: sau gần ba tuần diễn ra cuộc gặp Obama – Sang, công luận được biết đến những điều “thầm kín” trong phòng Bầu dục. Nếu người Việt ẩn dụ bằng bản sao bức thư của ông Hồ Chí Minh viết cho Tổng thống Mỹ Harry Truman gần bảy chục năm về trước, thì người Mỹ hiện tại lại không cần giấu diếm quan điểm của mình. Và đúng như David Shaer đã ẩn dụ trước cuộc gặp Obama- Sang, “Mỹ có ưu thế để đặt ra vấn đề này(dân chủ và nhân quyền)”.
Vậy ưu thế đó là cái gì?
Ít lâu sau cuộc gặp Obama- Sang, vị đại sứ từng trải, ít nói và được xem là có nhiều kinh nghiệm đối thoại với Hà Nội đã có một cuộc họp báo với cái nhìn tương đối lạc quan về triển vọng quan hệ “đối tác toàn diện” giữa hai quốc gia, khác khá nhiều với thái độ lắng tiếng của chính ông vào năm trước, nhất là lúc cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ bị đình hoãn đột ngột vào cuối năm 2012.
Tuy thế, thái độ của vị quan chức cao cấp nhất đón phái đoàn lên đến 200 người của Chủ tịch Sang ở sân bay Washington vẫn không quá lạc quan. Trong cuộc gặp với người Việt ở Little Sài Gòn mới đây, ông David Shear tái khẳng định tình hình nhân quyền Việt Nam vẫn không có sự cải thiện nào đáng kể như sự mong đợi của Hoa Kỳ. “Thời gian” là một trong những khái niệm mà David Shear đề cập nhiều nhất, liên quan đến TPP và vũ khí sát thương là hai thứ mà Hà Nội đang muốn có.
Tất cả đều phải có thời gian. Cách nói của David Shear cũng có thể khiến người ta nhớ lại lời nhắc của Bộ trưởng Thương mại Mỹ với ông Sang vào cuối tháng 7/2013, cho rằng Việt Nam đã đạt được một số yêu cầu về thủ tục TPP, nhưng sẽ còn phải mất nhiều thời gian nữa để hoàn thiện việc gia nhập hiệp định này.
Cũng cần nhắc lại, vào tháng 2/2013, một đại sứ châu Âu đã tiếp xúc với Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn và nhận được câu trả lời “Chúng tôi hiểu, nhưng hãy cho chúng tôi thời gian”.
RFI : Liệu có thể hy vọng thời gian sẽ làm cho Hà Nội nghĩ đến việc phóng thích các tù nhân lương tâm, trong đó đặc biệt là trường hợp Điếu Cày vừa gây nên cuộc tuyệt thực chấn động?
Đó cũng là ẩn số mà nhiều người đang chờ đợi được giải mã.
Mới đây, một thông tin được công bố chính thức trên báo đài nhà nước cho biết sẽ có trên 15.000 phạm nhân đủ điều kiện được đặc xá trong dịp lễ 2/9 ở Việt Nam. Trong khi vào năm ngoái, giới tù nhân đã phát hoảng vì tin tức không chính thức cho rằng trong hai năm 2013-2014 và thậm chí có thể đến cả năm 2015 sẽ không có chuyện đặc xá.
Tin tức lại dẫn đến đồn đoán. Hiện thời, người ta đang hỏi nhau liệu có diễn ra một đợt thả tù nhân lương tâm cùng trong đợt đặc xá hay không, và những ai là đối tượng được “ưu ái”. Thậm chí một dự đoán lạc quan lan truyền trong giới blogger cho là nhà cầm quyền có thể phóng thích hàng chục tù nhân chính trị vào dịp lễ quốc khánh 2/9.
Với tình cảm gần gũi, giới blogger đang nhắc lại những nhân vật đang bị “cầm cố” có triển vọng “xuất kho” như Anh Ba Sài Gòn, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy…
Nhưng trên hết vẫn là một người có biệt danh là Điếu Cày. Sau sự kiện Phương Uyên được trả tự do, Đại sứ David Shear đã cho biết đây là nhân vật nằm đầu bảng trong sự đòi hỏi của Hoa Kỳ, và hiện nay Tòa đại sứ đang theo dõi sát tình hình sức khỏe cũng như điều kiện giam cầm của nhân vật này.
Cần nhắc lại, tù lương tâm Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đáng lý đã có thể được phóng thích từ vài năm trước, nếu không bị kết án lại với một mức án quá trầm trọng. Cuộc tuyệt thực đến hơn một tháng và ngoài sức tưởng tượng của Điếu Cày đã còn hiện thực và lay động hơn cả chuỗi nhịn ăn của Cù Huy Hà Vũ, khiến cho Nguyễn Văn Hải trở nên hoàn toàn tương xứng với lời tri ân của Tổng thống Obama vào tháng 5/2012 nhân ngày Tự do Báo chí Quốc tế.
Có thể hy vọng cho việc phóng thích. Cũng đã có một vài tín hiệu nào đó đối với Điếu Cày. Những người thạo tin trong giới blogger còn hy vọng sẽ được đón chào người tù nhân có án hàng chục năm này trong không bao lâu nữa.
Khách quan nhìn nhận, việc thả người là một quy luật đặc thù trong bối cảnh hiện nay, tương xứng với những vận động đối ngoại và cả sức ép từ trong nước. Sức ép trong nước lại còn đến từ chính những người đã có bề dày tham gia chế độ.
Không phải vô cớ mà trước cuộc biểu tình đòi trả tự do cho Phương Uyên ở Long An, một trong những thủ lãnh máu lửa nhất của Lực lượng thứ ba – Phong trào học sinh, sinh viên ở Sài Gòn trước năm 1975, người đã từng lãnh án tử hình và hiện thời đang phải đối mặt với bạo bệnh – luật gia Lê Hiếu Đằng, đã phát động một phong trào có tên “Đảng Dân chủ Xã hội”.
Chỉ để đối phó với một Lê Hiếu Đằng, Nhà nước đã phải dùng đến ít nhất 6 tờ báo và vài chục bài công kích, chỉ trích. Điều đó cho thấy những lãnh đạo cao nhất ở Việt Nam có thể không còn đánh giá thấp truyền thông xã hội và những nhân tố có tính đột biến trong lòng “lề trái”, nhất là khi giới “lề trái” đang nhận được sự hậu thuẫn ngày càng trực tiếp và song ánh của giới truyền thôing và dân chủ nhân quyền quốc tế.
Và nếu quy luật khoa học “nhập kho, xuất kho” ứng nghiệm vào hoàn cảnh này, sắp tới sẽ diễn ra cảnh đoàn tụ giữa những tù nhân lương tâm với gia đình của họ ở ngay trong sân các trại giam. Nếu không khí trùng phùng đó diễn ra, người dân có quyền hy vọng là Nhà nước sẽ nương tay không nỡ “nhập kho” thêm trong ít ra vài năm tới.
Cũng cần đối chiếu đôi chút với trường hợp Miến Điện. Tại quốc gia này vào thời gian trước năm 2011, chẳng có mấy ai dám hy vọng vào một tương lai sáng sủa đối với số tù nhân chính trị còn nhiều hơn ở Việt Nam hiện thời. Tuy nhiên, sự quyết đoán của Tổng thống Thein Sein trong việc nắm triều chính và những bước đi quả quyết hướng về phương Tây đã không chỉ khiến bà Aung San Suu Kyi được giải chế, mà trong năm 2012 và đặc biệt trong nửa đầu năm 2013 đã có hàng trăm tù nhân chính trị được trả tự do, trong đó bao gồm cả những tù nhân chính trị có mức án lên đến hàng trăm năm. Cho tới giờ, con số thống kê chính thức cho thấy trong các nhà tù Miến Điện chỉ còn khoảng 70 tù nhân chưa được trả tự do.
Bởi thế ứng với Việt Nam, ngay cả những trường hợp đã chịu án nặng như Điếu Cày vẫn có cơ may thoát vòng lao lý, nếu độ mở dân chủ song trùng với điều kiện thả tù chính trị.
Trong dịp lễ 2/9 này, mặc dù công bố của các trại giam là chưa có đặc xá cho những trường hợp như Điếu Cày, nhưng tôi vẫn nghĩ là có thể có những hy vọng, nếu không phải là vào dịp lễ 2/9 này thì sau đó, và có lẽ không lâu nữa. Vì Điếu Cày có thể nhận một mức đặc xá giảm án nhiều, hoặc thậm chí có thể được trả tự do.
RFI : Anh có lạc quan quá không, khi trong số 15.000 người được đặc xá lần này không có những tù nhân chính trị nổi tiếng ?
Tôi không quá lạc quan, nhưng không hẳn là bi quan. Tại vì rõ ràng là sự kiện Phương Uyên đã mở ra một điểm sáng cho khung trời dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Mà điều đó cho phép người ta có thể hy vọng là có những chuyện sẽ mở ra hơn. Ở Việt Nam không phải luôn luôn và lúc nào cũng có chuyện thả tù nhân chính trị một cách ồ ạt như Miến Điện, tại vì Việt Nam không phải là Miến Điện. Mà ở đây người ta thả lặng lẽ.
Mà tôi cũng nhớ là trường hợp của tôi cũng thả rất là lặng lẽ, trong một bầu không khí hoàn toàn yên lặng, không ai biết gì hết. Và khi tôi ra khỏi trại giam thì tôi leo lên xe ôm đi thẳng về nhà, không có một ai đón tôi cả. Điều đó khác xa với trường hợp của Phương Uyên.
Cái cung cách như vậy làm cho tôi cũng hy vọng là mặc dù trong danh sách 15.000 người chưa công bố một số nhân vật được coi là tù nhân lương tâm đặc biệt – những người khá nổi tiếng, những blogger, nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền trong đó có Điếu Cày, nhưng vẫn có thể có hy vọng là trong một sắc thái lặng lẽ kín đáo nào đó, thì dần dần, từng người một sẽ ra khỏi trại giam trong những ngày sắp tới. Không nhất thiết là phải đúng ngay dịp lễ 2/9 này mà có thể sau 2/9
RFI : Tuy thế, vẫn không ngớt dư luận lo ngại về thái độ đối xử thiếu hòa nhã của công an Việt Nam đối với giới hoạt động dân chủ hay nghị định 72 về cấm đoán Internet…
Trong những ngày gần đây, dư luận cho rằng một số thành viên dân chủ theo phương châm hành động từ nhà ra đường phố đã bị sách nhiễu, và còn có cả dấu hiệu công an sử dụng côn đồ để gây hấn và xúc phạm những người này. Nhưng xét trong xu thế khách quan và độ mở chính trị đang dần hình thành ở Việt Nam, tôi cho rằng những hành động bị coi là sách nhiễu, gây khó của ngành công an chỉ nằm trong chiến thuật phân hóa, kiểm soát, khống chế nhưng rất hạn chế mục tiêu bắt bớ. Nhìn chung, những hành động như thế chỉ mang tính gián tiếp về tác động tâm lý hơn là mục tiêu cô lập trực tiếp về hành vi.
Mặt khác từ thực tế khách quan, sự lo lắng của giới blogger ở Việt Nam đối với nghị định 72 về “quản chế” Internet của nhà nước sẽ phát huy tác dụng sau tháng 9/2013 có thể không có nhiều cơ sở. Một tiêu chí đo lường tương đối chính xác cho hiệu ứng này là mật độ và hàm lượng thông tin của truyền thông nhà nước, mà cụ thể là trên mặt báo đảng. Nếu so sánh tần suất đưa tin và bình luận về vụ phúc thẩm Uyên – Kha với nghị định 72, người ta có thể nhận ra mức độ thông tin gần như tương đương, nghĩa là không ồ ạt, thậm chí khá lắng tiếng so với thời điểm cuối năm 2012 và ngay trước phiên sơ thẩm Uyên – Kha cách đây mấy tháng.
Sự lắng tiếng rõ nét của báo đảng nói lên điều gì? Người ta đang đặt dấu hỏi về một thái độ không đồng nhất, thậm chí có thể là trái chiều giữa các cơ quan tố tụng hoặc thậm chí ở cấp cao hơn, dẫn đến tình trạng lúng túng và bất động của một số cơ quan tuyên truyền đặc biệt và có thể cả với cơ quan an ninh ở một số địa phương. Tình trạng có vẻ như bất động như thế lại đang chịu sự chỉ trích không nhỏ về nghị định 72 của giới hoạt động dân chủ nhân quyền quốc tế như Tổ chức phóng viên không biên giới hay Liên minh trực tuyến…
Sự bất động ấy cũng dường như đang chìm trong chờ đợi về một tương lai không đoán định được.
RFI : Tương lai khó đoán định ấy sẽ diễn ra nhanh hay chậm?
Không phải tất cả mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ và nhanh chóng. Điều mà giáo sư người Anh Jonathan London kỳ vọng là tình hình chính trị ở Việt Nam đang chuyển biến khá nhanh, thực ra lại có thể làm vị trí thức nhiệt thành này bị thất vọng đôi chút.
Non sông dễ chuyển, bản tính khó dời… Đơn giản là nếu nền chính trị Việt Nam không nằm trong một bối cảnh đầy chông gai về suy thoái kinh tế và phân hóa tư tưởng như hiện thời, sẽ khó có một độ mở dân chủ nào được thực hiện đúng nghĩa, theo lộ trình như đã được Hà Nội cam kết với Mỹ và phương Tây từ khi gia nhập Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 12 năm về trước.
Bầu không khí xã hội – chính trị ở Việt Nam như đang trở lại thời điểm năm 2004, khi chủ đề CPC về các quốc gia cần đặc biệt được quan tâm về nhân quyền và tôn giáo được áp dụng với Việt Nam. Truớc đây trong hai năm liên tiếp từ năm 2004 đến năm 2006, sau khi bị xếp vào CPC, tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam lại có những cải thiện mà trước đó quá đỗi hiếm hoi, như trả tự do cho một số tù nhân, mở rộng phạm vi bảo vệ của pháp luật đối với một số các cộng đồng tôn giáo được nhà nước thừa nhận… Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế cũng ghi nhận phần lớn các lãnh đạo tôn giáo ở Việt Nam cho rằng những thay đổi tích cực này đến từ sức ép của CPC với Việt Nam.
Tuy thế, có lẽ bài học mà người Mỹ không thể quên là từ năm 2006 khi nước Mỹ nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, cho đến nay tình trạng nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại không có dấu hiệu khả quan hơn, nếu không muốn nói là bị cộng đồng quốc tế đánh giá “thụt lùi sâu sắc”.
RFI : Tuy không bị xếp vào danh sách CPC trong năm 2013, nhưng Nhà nước Việt Nam lại phải chịu sức ép không hề nhỏ của hai dự luật nhân quyền và chế tài nhân quyền dành cho quốc gia này. Theo anh dự đoán, tình hình hoạt động dân chủ nhân quyền và xã hội dân sự sẽ như thế nào ở Việt Nam trong thời gian tới?
Quy luật “giảm nhập kho, tăng xuất kho” sẽ ứng nghiệm cho đến khi nào mà quan hệ giữa hai nhà nước Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn tạm nồng ấm, với nhu cầu thuộc về Việt Nam nhiều hơn, liên quan chủ yếu đến một lợi thế so sánh mà có lẽ các quan chức lãnh đạo cao cấp của Việt Nam cho là “cân bằng chiến lược Đông – Tây”, TPP và kể cả gia cố uy tín cho hình ảnh của giới lãnh đạo trong con mắt dân chúng và cộng đồng quốc tế. Trước mắt, lộ trình làm thủ tục gia nhập TPP có thể kéo dài từ một đến hai năm, nghĩa là có thể kéo đến cuối năm 2014 hoặc sang cả năm 2015.
Và nếu không có gì thay đổi, trục Mỹ -Trung -Việt sẽ là một thế cân bằng chiến lược, nằm trong chính sách “xoay trục” của Washington về Đông Nam Á trong nhiều năm tới và quan hệ thương mại không thể thiếu giữa Bắc Kinh và Washington. Đó cũng là lý do để Hà Nội có thể tự thân “xoay trục”, nhưng không quá thiên về Bắc Kinh như trước đây, mà về hướng kẻ cựu thù.
Hầu như rõ ràng, chuyến đi của một quan chức cao cấp Việt Nam là Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Xuân Phúc đến Washington để “làm việc với đại học Havard”, hoặc cuộc gặp giữa hai bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Mỹ, rất có thể đóng vai trò “tiền trạm” cho một chuyến đi khác đến New York của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dự kiến vào cuối tháng 9/2013. Tất nhiên, những chuyến đi như vậy đang nằm trong chuỗi logic với sự kiện Phương Uyên và có thể cả những nhân vật hậu Phương Uyên.
Từ năm 1975 đến nay, có lẽ từ thời điểm giữa 2013 mới bắt đầu chứng nghiệm một “lòng thành chính trị” nào đó của Hà Nội. Và cứ chiếu theo quy luật khách quan, giới hoạt động dân chủ nhân quyền ở Việt Nam có nhiều khả năng sẽ không bị “nhập kho”, trừ trường hợp một ít vụ việc bị chính quyền xem là “rất quá khích”.
Cũng theo quy luật khách quan, có thể đến cuối năm 2013, một số nhóm dân chủ bạo dạn nhất sẽ có thể tiến đến công khai hóa hoạt động của họ, hình thành những hội đoàn và có thể nâng lên tầm phong trào, làm đà cho sự hình thành và phát triển một mảng nào đó của xã hội dân sự ở Việt Nam trong năm 2014.
Còn về chân đứng của xã hội dân sự ở Việt Nam, một số người hoạt động dân chủ đã đề nghị lấy ngày 16/8 là ngày khai sinh và kỷ niệm về sự hình thành đầu tiên của xã hội dân sự ở Việt Nam. Đó cũng là ngày mà Phương Uyên được trả tự do, ngày được xem là sự kết tinh của nhiều cố gắng đối nội và đối ngoại trong suốt một thời gian dài.
Bước ngoặt của vận động chính trị – xã hội ở Việt Nam gần như chắc chắn đang khởi động. Nếu người Mỹ xoay trục về Đông Nam Á và Việt Nam được xem là quốc gia “gần sát trung tâm” của chính sách đó, còn Nhà nước Việt Nam cũng đang hướng đến “xoay trục” sang phương Tây, thì rất có thể giới hoạt động dân chủ còn mỏng manh và phân tán ở đất nước này đang chú tâm đến một hình ảnh “xoay trục” về xã hội dân sự tương lai, đấu tranh ôn hòa và bất bạo động, thay cho những manh động đốt cháy giai đoạn mà dễ bị dập vùi.
Nếu mọi chuyện diễn ra một cách ôn hòa và có tính kết nối cao, thì như người đời thường luận, phía trước là bầu trời.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.
Blogger Anh Ba Sài Gòn được trả tự do
RFI, Thụy My, 1/9/13
Blogger Phan Thanh Hải tức Anh Ba Sài Gòn đã được trả tự do sáng nay 01/09/2013. Sự kiện này diễn ra sau khi chính quyền Việt Nam thông báo đặc xá cho trên 15.000 tù nhân trong dịp Quốc khánh 2/9 năm nay.
Blogger Phan Thanh Hải là luật gia, nhưng năm 2008 bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam từ chối cấp chứng chỉ hành nghề vì đã tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn tại Biển Đông. Ông là thành viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do, viết blog với bút danh Anh Ba Sài Gòn hay Anhbasg, đề cập đến nhiều vấn đề chính trị xã hội trong đó có những vấn đề nhạy cảm như Biển Đông, bauxite Tây Nguyên và các vụ tham nhũng.
Ông bị bắt ngày 18/10/2010, và bị kết án bốn năm tù giam về tội tuyên truyền chống Nhà nước theo điều 88 Luật hình sự. Đến phiên xử phúc thẩm ngày 28/12/2012, ông được giảm án còn ba năm. Trong phiên tòa này, hai blogger khác là Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) và Tạ Phong Tần bị y án 12 năm và 10 năm tù giam.
Trao đổi với RFI Việt ngữ qua điện thoại, bà Nguyễn Thị Liên, vợ ông Phan Thanh Hải xác nhận ông đã được trả tự do vào sáng nay.
RFI: Thân chào chị Liên, chị biết tin anh Hải được tự do như thế nào?
Chị Nguyễn Thị Liên: Lúc 9 giờ sáng nay, bên bà nội gọi cho biết vì ảnh gọi về bên nhà mẹ ảnh. Ảnh không có nhớ điện thoại của em nữa, ra thì gọi điện về cho mẹ ảnh thì mẹ gọi cho em. Họ trả anh về bên Thủ Đức vì hộ khẩu ảnh ở bên đó, em bây giờ ở Bình Thạnh vì hai đứa nhỏ học ở đây.
Còn một tháng 18 ngày nữa là đúng ba năm, nhưng hôm nay như vậy là được về trước hơn một tháng. Nói bất ngờ thì cũng đúng, nhưng em cũng cầu mong cho anh về sớm ngày nào thì tốt, bởi vì có một mình em lo cho ba đứa nhỏ, em cực quá.
Nói chung là cũng chưa gặp, chưa kịp nói gì đâu. Vì về bên nhà bà nội, bên đó hôm nay có giỗ, đón đi ăn luôn, xong về ảnh đi làm lại răng thành ra chưa hỏi chuyện gì hết cả. Thấy bình thường trở về là mừng lắm rồi! Đương nhiên là ba năm qua, anh già đi nhiều rồi, cũng có khác trước.
Lửa Phật và Lê Hiếu Đằng
RFI, Nguyễn Ngọc Già. 2013-08-31
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/nguyen-ngoc-gia-blog-0831-08312013103328.html
Bộ phim “Lửa Phật” do Việt kiều Dustin Nguyễn thực hiện ở cả ba vai trò: Viết kịch bản – Đạo diễn – Diễn viên chính (trong vai chiến binh Đạo) hợp cùng diễn viên Ngô Thanh Vân (trong vai chiến binh Ánh), diễn viên Roger Yuan (trong vai Tướng quân Long), vừa công chiếu ngày 22/8/2013 với dấu hiệu “16+”.
Sự tương đồng ngẫu nhiên
Bộ phim với không gian và thời gian bất định cùng nét văn hóa mờ ảo (trang phục pha trộn nhiều sắc thái, võ khí dáng lạ, xe mô tô hình thù hầm hố, khung cảnh thị trấn mơ hồ v.v…) không đại diện cho bất kỳ xứ sở, dân tộc nào, đã được dùng để chuyển tải tư tưởng đầy ẩn ý thâm sâu phía sau của nó.
Ngoài các cảnh hành động khá mãn nhãn, những màn gây cười có thể chấp nhận được; chuyện phim xoay quanh nội dung: một đạo binh do Tướng quân Long lãnh đạo với lời thề nguyền: yêu nước và chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ bình an cho dân lành. Trong quân ngũ không được phép yêu đương vì dễ xao lãng việc quân.
Điều này chỉ là hình thức, vì tình yêu thầm kín nảy nở nhưng vẫn được giữ bí mật giữa Đạo và Ánh. Song song đó, Long tướng quân cũng khao khát nhan sắc Ánh. Cho đến khi người em trai Ánh đào ngũ và đối diện với lưỡi đao hành quyết thì Ánh quyết định đến gặp Tướng quân Long để lấy “cái ngàn vàng” trao đổi mạng sống cho em ruột mình.
Trong khi cô đến lều – nơi vị tướng quân ở – để “ngã giá” với Long thì Đạo không thể xuống tay với em trai người yêu và kêu mở trói rồi vội vàng chạy theo Ánh. Đạo vừa chạy vài bước chân, quãng thời gian đó đủ làm em trai Ánh quyết tự sát, vì anh biết dù đã được giải thoát, nhưng chắc chắn, với sự tàn bạo của Long tướng quân, một khi anh bỏ trốn, vị tướng quân kia không bao giờ buông tha chị mình.

Thủ pháp đan xen giữa quá khứ và hiện tại được đạo diễn dựng lên nhằm chuyển tải những suy tư, dằn vặt của Đạo – một con người sống tình cảm, quá mệt mỏi với chiến tranh và chém giết, truy lùng và tiêu diệt. Đạo muốn trở về sống đời thường bên cạnh Ánh để tìm những giây phút bình yên trong một gia đình đầy ắp thương yêu và trách nhiệm, nhưng ông cũng bị lời thề ám ảnh suốt trên con đường rong ruổi tìm diệt những kẻ “phản bội”. Ánh được xem là “kẻ đào ngũ” cuối cùng mà Đạo cần tìm diệt theo lệnh Long tướng quân.
Ánh vì quá chán ngán với võ khí, với chém giết, cô gói ghém và dấu nhẹm tất cả những kỷ vật để mong tìm một cuộc sống bình dị. May mắn, cô cùng với đứa con trai bé nhỏ – kết quả của việc “trả giá” cho Long nhưng bất thành trong việc cứu mạng sống em trai – đã tìm được người đàn ông cần cù với hiệu bánh trong một thị trấn nhỏ. Từ đó, cô có được 9 năm bình an bên người chồng hiền lành, thủy chung và tốt bụng (Thái Hòa thủ vai).
Theo mạch chuyện, cuộc sống hạnh phúc 9 năm đó chấm dứt khi Đạo tìm đến. Kể từ đây, những khổ đau, kỷ niệm, nhung nhớ cứ thoắt ẩn thoắt hiện giữa đôi tình nhân cũ và họ hiểu trước sau gì Long tướng quân cũng xuất hiện.
Họ cũng rõ với võ công của cả hai, không thể nào là đối thủ của Long tướng quân, người vừa vô địch thiên hạ, vừa tàn độc và lạnh lùng, nhưng họ quyết thí mạng để diệt trừ cái ác, ít nhất để bảo vệ cho đứa bé vô tội và người đàn ông làm bánh hiền lành.
Cuối cuộc chiến, Long chết dưới tay Ánh. Khi Long định giết đứa bé, bỗng bối rối rồi chùng tay, kịp nhận ra nó là con ruột mình thông qua chi tiết: đứa con trai được di truyền khả năng phát lửa từ cha. Lửa bốc lên khi sự phẫn nộ của đứa bé lên đến cực điểm để bảo vệ mẹ trước nguy hiểm. Lợi dụng sơ hở đó, Ánh đã đâm nhát gươm chí mạng vào bụng Long và “lửa” từ trong nội thân Long đã thiêu cháy ra tro một tà tâm cần hủy diệt.
Dù là di truyền từ cha, nhưng ngọn lửa trong đứa bé và trong người Long tướng quân hoàn toàn khác nhau về bản chất. Đó cũng là một điểm nhấn, nhà làm phim muốn chuyển đến người xem về sự phẫn nộ chính đáng từ đứa bé khác hẳn tính hung tợn từ người cha ruột? Nó như là chi tiết đắt giá để chúng ta thay đổi cách nhìn. Dù hiện tượng như nhau nhưng bản chất khác nhau một trời một vực, một khi gắn kết môi trường sống lương thiện và hiền lành của đứa bé, bởi nó được nuôi dạy và lớn lên trong tình yêu thương trong sáng của người đàn ông làm bánh. “Lửa thiện” khác với “Lửa ác”. Có phải vì lý do đó, bộ phim được đặt tên là “Lửa Phật”?
Điều gây chú ý đối với khán giả chính là tình tiết nhỏ nhưng rất…kỳ lạ của bộ phim: Dù cho đất nước đã thanh bình, ngoại xâm đã cuốn cờ bỏ chạy, nhưng người chiến binh dứt khoát không được phép rời khỏi quân ngũ. Bất kỳ ai làm trái lời thề này, nghĩa là phản bội lại Long tướng quân, họ đều phải trả giá bằng cái chết. Đó chính là mấu chốt, làm cho những người như Ánh quyết đào tẩu.
Cùng với chi tiết nói trên, “lòng yêu nước” rất cực đoan khi nấp dưới mỹ từ “trung thành tuyệt đối” với Long Tướng quân, làm người xem thấp thoáng thấy “lý tưởng cộng sản” khắc nghiệt đối với những người “trót thề” hiện diện rõ ở bộ phim này! “Lời thề chém đá” được nhấn nhá rất nhiều lần trong các trường đoạn suy tư của Đạo.

Dù đất nước đã vắng bóng ngoại xâm, nhưng Long Tướng quân (biểu tượng của sự sắt máu) vẫn giao phó cho các cựu chiến binh việc đi truy lùng và tìm diệt những người đào tẩu mà họ bỏ trốn chỉ nhằm tìm kiếm cuộc sống bình yên, vui vẻ.
Đạo là một trong số cựu chiến binh thực thi sứ mạng “tìm và diệt” như là nhiệm vụ chính trong suốt bộ phim.
Tình tiết này bỗng làm người xem liên tưởng đến tính tương đồng về mặt ý nghĩa với hoàn cảnh diệt tận gốc như trong “nhân văn giai phẩm”, “xét lại chống đảng” ở miền Bắc Việt Nam!
Nhân vật Đạo đã nhấn mạnh nhiều lần khi giết các đồng đội cũ và cả khi gặp lại Ánh: Đã thề rồi thì không thể thay đổi. Đã theo Long tướng quân là theo tới cùng, khi nào chết thì thôi, không có con đường nào khác.
Cuối bộ phim, trong khi Ánh quay về với hạnh phúc giản dị bên chồng con, Đạo đã tìm đến cửa Phật với sự dằn vặt tâm cang.
Nhà sư hỏi: Tại sao con tới đây, con trai?
Đạo đáp: Con đi tìm sự sám hối.
Nhà sư trả lời: Cho tới khi con tự tha thứ cho mình trước, không thì con đường phía trước vẫn còn dài vô tận.
Bộ phim kết thúc trong nhạc phẩm nổi tiếng “Sắc Màu” của nhạc sĩ Trần Tiến, được phối âm, phối khí theo phong cách rock với rocker Phạm Anh Khoa thật dữ dội và lạ lẫm [1].
Thật kỳ lạ, như có sự tương đồng ngẫu nhiên giữa tâm trạng nhân vật chiến binh Đạo và luật gia Lê Hiếu Đằng với “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”, gây lan tỏa và tranh luận mạnh mẽ trong những ngày gần đây.
Đi tìm sự sám hối
Trong bài viết mà ông Đằng gọi là “tính sổ” với bản thân và với ĐCSVN, ông như bày tỏ “đi tìm sự sám hối” tựa chiến binh Đạo trong “Lửa Phật”. Tuy nhiên, ông Lê Hiếu Đằng vượt lên tư tưởng của chiến binh Đạo – chỉ dừng lại ở “sám hối” nhằm tìm sự bình an sống những ngày cuối đời bình lặng và thanh thản. Lê Hiếu Đằng thao thức với nghĩ suy cho quê hương.
Bài viết của vị Luật gia thật rõ ràng và phân định thật sòng phẳng với quá khứ. Ông một lòng đau đáu cho tương lai dân tộc. Ông chỉ muốn hiện nay mọi người hãy cùng nhau “hành động, hành động và hành động”, mọi sai lầm của quá khứ hãy để mai này lịch sử phán xét. Một ý nghĩa thực tế và rạch ròi không hơn được nữa, trong tình hình hiện nay.
“Sám hối”, tại sao không thể? Hơn thế, đó là hành động quay trở về với Chân – Thiện – Mỹ như Phật dạy “quay đầu là bờ”.
Luật gia Lê Hiếu Đằng hiểu lời Phật dạy: Trước khi tha thứ cho những người đồng chí hướng, ông đã biết tha thứ cho bản thân. Chính từ sự ngộ đạo này, ông trở nên bình thản mà giản dị trước tất cả công kích.
Tiếc thay, những người mà ông gọi là “đồng chí” lại thi nhau thực hiện “sách lược” “kẻ đấm người xoa lại thằng đấm” đối với ông.
Một lời cám ơn, dù khách khí, dành cho ông Đằng – khi ông đã “rút ruột rút gan” ra mà viết – sẽ là lời hồi đáp văn minh của một chính đảng luôn tự đặt mình đứng trên “thiên hạ”. Tiếc thay! Không có! Thay vào đó là những bài viết nặng mùi sỉ vả, bới móc và chì chiết, đan xen những lời tỉ tê, nỉ non và than trách nhuốm màu đạo đức giả như bài của ông Nguyễn Chơn Trung.
Góp vào đó, không thiếu những lý luận thật ngây ngô và phản khoa học, ví như “Đa nguyên đa đảng là… phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc” [2], những suy nghĩ lố lăng và kệch cỡm này phát xuất từ những “người cộng sản”: Lù Văn Que – Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn Dân tộc – UBTƯ MTTQ Việt Nam, Nguyễn Trọng Cầu – nguyên giảng viên bộ môn Lịch sử Đảng, trường Đại học Vinh, Nghệ An (!). Theo ông Que và ông Cầu, “độc đảng mới giữ vững đại đoàn kết dân tộc” (!). Khôi hài đến mức như những lời thoại kém văn hóa nhất mà khán giả đang xem những diễn viên đoạt giải “Trái Cóc Xanh” trong giới nghệ thuật “trao tặng” suốt 13 năm qua cho những phát ngôn lố bịch nhất, những hành vi lố lăng nhất.
Nên chăng, dư luận cứ chấp nhận để các trang báo: Đại Đoàn kết, Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Công An Nhân Dân, Tuổi Trẻ, Quân Đội Nhân Dân v.v… tiếp tục lên tiếng? Bởi khi họ càng lên tiếng, nghĩa là họ càng chứng minh “chân lý” những cái gọi là “lý tưởng”, “chính nghĩa”, “văn minh” và “đạo đức” của những kẻ vì “lời nguyền” cay độc không bao giờ dám rời bỏ “đội ngũ” như Long tướng quân đã ép buộc những chiến binh dưới trướng mình, luôn phải “tận tụy” và “trung thành” tới chết?!
Thay vì về “vui thú điền viên”; thay vì tỏ ra “day dứt” từ những chuyến “đi nghỉ mát” [3] mà vẫn nghĩ đến “nước non” như những ông cấp cao hồi hưu khác, ông Lê Hiếu Đằng đã “bước qua lời nguyền” để tìm lại “ngọn lửa” năm xưa mà ông đã bị lừa đảo và phản bội suốt từ thời trai trẻ. Ông đã không chấp nhận dừng lại ở “sám hối” mà quyết rũ bỏ quá khứ, làm lại từ đầu dù ông đã qua khỏi tuổi 70 từ lâu, đồng thời kêu gọi nhiều người cùng bắt tay nhau hành động trong hoàn cảnh bi đát của Việt Nam hiện nay. Suy nghĩ của ông già tuổi 70 vẫn chứng tỏ sức trẻ – luôn chấp nhận thay đổi để đạt điều tốt hơn.
Trong những ngày nằm bịnh của mình, có lẽ, “Lửa Phật” đã bùng cháy trong ông để quyết làm gì đó trả nợ cuộc đời?
Lời thề của Đạo, của Ánh đã bị cưỡng ép, tình yêu nước của họ đã bị lừa dối thông qua “tài trí trá” mang tên “trung thành tuyệt đối” mà Tướng quân Long biểu hiện trước họ sự “son sắt” với dân tộc (!). Đạo – Ánh sẵn sàng dùng mạng sống để phá hủy “lời nguyền” bạo ngược kia, ông Lê Hiếu Đằng dường như cũng thế?
Vị Luật gia đã bước qua tuổi “thất thập cổ lai hy”, với sức khỏe suy giảm, nhưng trong ông, lòng yêu nước một lần nữa bừng lên mạnh mẽ và tươi sáng như ngọn “Lửa Phật” thiêu đốt những tà tâm, ma giáo đang manh tâm xúm vào hãm hại dân tộc Việt Nam..
Chính những kẻ đã từng cất giọng “bài ca không quên” phản bội lại ông, ăn cắp tình yêu của ông dành cho quê hương này, nhưng họ đê hèn đổ vấy ông là “tên bội phản”. Chân lý thật ra không có gì khó hiểu, chỉ trừ phi người ta cố tình chạy trốn nó mà thôi.
Ông Lê Hiếu Đằng hiện vẫn là đảng viên ĐCSVN, do đó ông được xem là người dũng cảm nhất khi nhìn thẳng vào sự thật, xoáy thẳng vào sai lầm, tố cáo mạnh mẽ tội ác của ĐCSVN và quyết hành động cho dân tộc này. Ông không rên rỉ, không than khóc.
Chế độ độc tài toàn trị không có chỗ cho lối sống chân thật, không dung chứa những ai sám hối chân thành. Nó chỉ dung dưỡng những tâm hồn “chấp mê bất ngộ” mãi cho đến khi bị dồn vào đường cùng không lối thoát bằng ngọn “Lửa Phật” soi sáng cho nó quay về nẻo chánh hoặc thiêu đốt nó ra tro mà thôi. Không có con đường thứ ba. Thein Sein là trường hợp thứ nhất, Gaddafi, Mubarak v.v… là trường hợp thứ hai. Không biết Bashar al Assad sẽ chọn đường nào với lời tố cáo từ Ngoại trưởng Hoa Kỳ [4]: giới cầm quyền Damascus dùng vũ khí hóa học giết chết 1.429 đồng bào của ông tổng thống Syria?
ĐCSVN sẽ “xử sự” với ông Lê Hiếu Đằng ra sao? Những cuộc đấu tố mang dáng dấp “xét lại chống đảng” năm xưa sẽ diễn ra? Nếu ĐCSVN hiện nay sẵn sàng “hậu đãi” ông Đằng bằng “kiểu” này, đó như “lời nguyền huyết ngãi” báo hiệu thảm họa sắp đổ xuống đầu chính thể này. Thời cuộc đã khác xưa mà không ai được phép trở lui về con đường cũ.
Người già thường hay nhớ về dĩ vãng vào những đêm khó ngủ.
Không ai dám chắc giới cấp cao hiện nay, dù “trướng phủ màn che”, dù được “canh phòng cẩn mật” với lớp lớp cận vệ thân tín, họ có thể nào có được giấc ngủ bằng an không mộng mị? Có bao giờ trong những đêm trừ tịch, họ bỗng nhớ về hàng ngàn chiến sĩ ngã xuống trên biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam và cả những vùng biển tại Hoàng Sa – Trường Sa năm xưa? Có bao giờ, trong những căn phòng lạnh toát, nhưng các ông, các bà bỗng vã mồ hôi như tắm, bật dậy bàng hoàng và hốt hoảng trước hàng triệu oan hồn thường dân đã chết tức tưởi trong hàng chục năm qua bởi tội ác chống lại loài người của đảng Cộng sản thế giới và ĐCSVN?
Một đêm nhớ nhớ, nhớ ra mình một mình
Một đêm nhớ, nhớ ra mình đã ở đâu đây
Một đêm trong đêm thâu, một vầng sáng chói lóa
Một đêm nhớ, nhớ ra ta vô hình.
(Sắc Màu – Trần Tiến)
“Một vầng sáng chói lóa” giữa lằn ranh sống chết trong những ngày ông Lê Hiếu Đằng nằm bịnh đã đánh thức ông mạnh mẽ vùng dậy và nó đang lan tỏa tràn trề trên mọi “nẻo đường” tăm tối của Việt Nam bao năm qua.
Dù trăn trở trong những ngày nằm bịnh, nhưng tâm trạng và đường hướng ông Lê Hiếu Đằng đưa ra lại rất khỏe khoắn và tràn đầy Chính Nghĩa. Chỉ có những kẻ đang công kích ông mới là những “tên bệnh hoạn”.
Nếu ĐCSVN không hiểu ra chân lý này, Việt Nam không chắc lệ thuộc hoàn toàn vào tập đoàn bành trướng Bắc Kinh mà mảnh đất hình chữ S, có nguy cơ trở thành “tô giới” kiểu mới với các tập đoàn kinh tế lớn từ Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ v.v… đang âm thầm thâu tóm các lợi ích quốc gia với giá rất rẻ (cả nghĩa bóng và nghĩa đen). Việt Nam lúc đó, có chăng, chỉ thu được “thuế trước bạ quê hương” (!).
Nguyễn Ngọc Già
_________
http://mp3.zing.vn/video-clip/Sac-Mau-Lua-Phat-OST-Pham-Anh-Khoa/ZW679F8D.html [1]
http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=68708 [2]
http://boxitvn.blogspot.com/2013/07/ve-chuyen-tham-trung-quoc-cua-chu-tich.html [3]
Tin, bài liên quan
- Lửa Phật và Lê Hiếu Đằng
- Đánh trúng yếu huyệt của Đảng
- VN đã sẵn sàng cho hệ thống đa đảng?
- Đa đảng và độc đảng
- Kêu gọi thành lập đảng Dân chủ Xã hội
- “Quần chúng tự phát”, cái gai trong thực thi dân chủ
- Thư ngỏ của ông Lê Hiếu Đằng gửi các nhà lãnh đạo VN
- Trung Quốc khống chế Việt Nam trên lãnh vực Chính trị
- Việt-Trung giảm căng thẳng nhiều hậu ý
Vũ khí nào có thể được sử dụng ở Syria?
Hoa Kỳ có thể sẽ tiến hành một cuộc tấn công hạn chế vào Syria
Trong lúc Hoa Kỳ cân nhắc hành động quân sự chống lại Syria để phản ứng một cuộc tấn công vũ khí hóa học gây tranh cãi được nhắm vào thường dân, có thể điểm qua một số loại vũ khí có thể được triển khai của cả hai bên trong những ngày sắp tới.
Quân Mỹ
Hỏa tiễn hành trình Tomahawk
Những hỏa tiễn này có thể được phóng từ tàu hoặc tàu ngầm. Chúng được trang bị động cơ phản lực cánh quạt nhỏ, tương tự như phi cơ thương mại, sử dụng để hành trình đến mục tiêu.
Các bài liên quan
Chúng có tiết diện nhỏ, bay ở độ cao thấp và rất khó phát hiện. Tomahawks phát ra ít nhiệt vì vậy chúng không thể bị phát hiện bằng tia hồng ngoại.
Chúng có tầm hoạt động khoảng 1.600 km và bay với vận tốc chừng 880 km/h.
Hỏa tiễn đạt mục tiêu bằng cách sử dụng phần mềm Terrain Cantour Matching, hoạt động trên cơ sở kết hợp điểm quan sát trên mặt đất với bản đồ lộ trình. Nó mang một đầu đạn hạt nhân từ 450 kg – 1.360kg.
Khu trục hạm lớp Arleigh Burke
Hoa Kỳ có bốn khu trục hạm lớp Arleigh Burke ở đông Địa Trung Hải.
Tomahawk được Mỹ sử dụng từ năm 1983
Chiến hạm dài 154 m và có thể mang hỏa tiễn hành trình. Đây là một trong những trang bị vũ khí lớn nhất và nặng nề nhất của tàu khu trục Hoa Kỳ.
Đây là chiến hạm đầu tiên của quân Mỹ được thiết kế một hệ thống lọc không khí để bảo vệ chống lại chiến tranh hạt nhân, sinh học và hóa học.
Tàu sân bay
Hoa Kỳ có hai tàu sân bay trong khu vực, tàu sân bay USS Harry S. Truman và tàu USS Nimitz.
Cả hai chiến hạm khổng lồ sử dụng năng lượng hạt nhân thừa sức phát động các cuộc không kích, nhưng nếu hành động can thiệp được Hoa Kỳ lập kế hoạch là hạn chế, thì khi đó chúng có thể không được đưa vào sử dụng.
Hỏa tiễn của quân Mỹ có thể được phóng từ các khu trục hạm
Các tàu sân bay nằm trong số các tàu lớn nhất thế giới, với chiều dài gần 330m và có một phi đội lên đến 85 phi cơ.
Phi cơ tiêm kích/ném bom F-16
F-16 nổi danh là một trong những phản lực cơ chiến đấu đáng tin cậy, dễ điều khiển và hiệu quả nhất trên thế giới.
Nó là một tiêm kích cơ đa năng, với khả năng tấn công các phi cơ khác trên không và tìm diệt các mục tiêu trên mặt đất.
Những tiêm kích cơ này là xương sống của lực lượng không quân Hoa Kỳ và khi lần đầu tiên xuất hiện, chúng đã mang tới các cách tân về điều khiển bằng hệ thống mạng điện tử thay vì hệ thông cáp cơ giới, trong điều khiển phi cơ chiến đấu.
F16 có tầm hoạt động khoảng 3.220 km, cho phép duy trì trong vùng chiến đấu lâu hơn các chiến đấu cơ khác. Nó được trang bị một khẩu pháo M61 Vulcan và các phi công ngồi trong một buồng lái toàn kính (không có khung) giúp cho quan sát tốt hơn.
Đóng căn cứ tại Incirlik hoặc Izmir ở Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc có thể cũng hoạt động từ Jordan, F16 có thể được sử dụng trong bất kỳ cuộc tấn công nào có thể diễn ra chống Syria.
Đại bàng tấn công F-15
F-15 Strike Eagle là tiêm kích cơ đa chức năng có tốc độ vao và hoạt động xa
Là tiêm kích cơ đa chức năng, phi cơ chiến đấu F- 15 Strike Eagle được thiết kế cho các cuộc tấn công mặt đất với tầm hoạt động xa, ở tốc độ cao.
Lực đẩy kết hợp từ hai động cơ của F-15 có nghĩa là tiêm kích cơ có thể tăng tốc ngay cả khi đi lên thẳng.
F15E Strike Eagle được trang bị hệ thống định vị và xác định mục tiêu “Lantirn” nhằm cải thiện độ chính xác của các cuộc oanh kích bằng cách sử dụng bom hồng ngoại hoặc bom dẫn đường bằng laser.
Phi cơ này có radar địa hình được kết nối với hệ thống lái tự động của phi cơ, để nó có thể bám theo đặc điểm địa hình, địa vật ở độ cao chỉ 30.
Quân Pháp
Tàu sân bay Charles de Gaulle có độ dài 262 m mang theo 40 phi cơ chiến đấu
Nếu Pháp tham gia vào bất kỳ cuộc tấn công nào, quân Pháp có các hỏa tiễn hành trình Scalp với tầm hoạt động khoảng 500km.
Các hỏa tiễn này có thể được bắn từ các phi cơ chiến đấu Mirage 2000 và Rafale.
Pháp cũng có một tàu sân bay ở Địa Trung Hải và các căn cứ không quân ở Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất .
Charles de Gaulle, hiện đóng căn cứ ở Toulon, là một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân có khả năng mang tới 40 phi cơ chiến đấu. Nó có một thủy thủ đoàn và nhân viên dưới 2.000 người trên tàu. Mặc dù nhỏ hơn so với Tàu sân bay lớp Nimitz của Hoa Kỳ (chiếc US Nimitz Class), Charles de Gaulle vẫn là một tàu sân bay ấn tượng vớ độ dài 262 m.
Quân Nga
Nga nói họ đang gửi hai tàu chiến đến Địa Trung Hải, một tàu tuần dương mang hỏa tiễn, chiếc Moskva, và một tàu chống tàu ngầm. Nga là đồng minh của Syria và phản đối sự can thiệp quân sự.
Hiện vẫn chưa biết chính xác khi nào hai chiến hạm trên sẽ đến khu vực, nhưng việc triển khai của các tàu này đã được Nga mô tả như một phần của kế hoạch luân chuyển của các chiến hạm ở Địa Trung Hải .
Vũ khí chính của Syria
Hỏa tiễn chống phi cơ S-200 Angara
Hỏa tiễn S-200 Angara được Nga đưa vào sử dụng từ năm 1967
Hỏa tiễn S- 200, được NATO đặt mã hiệu là SA- 5 “Gammon”, là một hỏa tiễn chống phi cơ đáng nể do Nga thiết kế trong những năm 1960.
Phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế cho rằng Syria có thể có tám khẩu đội S -200 triển khai giữa hai trung đoàn phòng không.
Hỏa tiễn mang nhiên liệu lỏng và được thiết kế để bay với tốc độ lên tới Mach 8. Nó được radar hướng dẫn đến mục tiêu, trước khi kích nổ một đầu đạn có sức công pháo cao nặng 217kg.
Nga đã bắt đầu quá trình rút bỏ S- 200 ra hơn 20 năm trước và hệ thống này được các phân tích giai quân sự coi là đã lỗi thời. Ngoài ra còn có các nghi ngờ về tính thống nhất của hệ thống do sự mất mát của một số căn cứ không quân và căn cứ đặt radar vào tay các nhóm nổi dậy.
Hệ thống hỏa tiễn chống phi cơ S-300 (Chưa khẳng định)
Hiện đại và có khả năng tốt hơn nhiều, S -300 đã được Syria đặt hàng từ Nga, nhưng có những nghi ngờ về việc liệu hệ thống này đã thực sự được giao, hoặc giả ngay khi đã có nó, liệu hệ thống này có hoạt động được không.
Hiện chưa rõ liệu Syria đã có hoặc đã triển khai lại tên lửa S-30 của Nay hay chưa
S- 300 là một hỏa tiễn đất-đối-không tầm xa, được thiết kế để bảo vệ các cơ sở quân sự và công nghiệp chống lại phi cơ và hỏa tiễn hành trình của quân địch.
Với một hệ thống radar tích hợp có thể theo dõi 100 mục tiêu cùng một lúc, nó được coi là một trong những vũ khí phòng không mạnh nhất trên thế giới.
P- 800 Yakhont hỏa tiễn chống tàu
P- 800 Yakhont, được NATO biết đến trong mã hiệu SS- N- 26, là hỏa tiễn chống tàu biển tinh vi có nguồn gốc từ Nga .
Các hỏa tiễn siêu âm có tầm hoạt động 300 km, mang theo một đầu đạn hạt nhân nặng 200kg, và có thể bay ở độ cao chỉ 5 – 15m, làm cho việc phát hiện và ngăn chặn chúng trở nên khó khăn.
Phi cơ chiến đấu
Chính quyền al-Assade chủ yếu sử dụng L-39 tấn công quân nổi dậy
Không quân Syria có một loạt các phi cơ chiến đấu chủ yếu sản xuất từ Nga, nhưng nhiều trong số đó đã cũ và lỗi thời.
Một báo cáo của Viện Nghiên cứu Chiến tranh (ISW) tháng 5/2013 cũng cho thấy các phi cơ MiG và SU hiệu quả nhất đang “đòi hỏi cung cấp, bảo trì và huấn luyện với các phụ tùng quan trọng nhất, để chúng có thể duy trì khả năng tác chiến.”
Cân nhắc các khó khăn trong vận hành, Viện ISW thấy rằng từ khi bắt đầu cuộc xung đột, không quân Syria đã chủ yếu sử dụng các phi cơ L-39 nhanh hơn, nhưng yếu hơn, thay thế cho MiG hay SU trong vai trò tấn công mặt đất chống lại lực lượng nổi dậy.
Tổng thống Obama xem xét tới đáp ứng ‘có giới hạn’ đối với Syria
voa, 31.08.2013
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đang xem xét tới điều mà ông gọi là ‘một hành động có giới hạn, thu hẹp’ đối với Syria
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cho biết ông chưa có quyết định cuối cùng về đáp ứng đối với việc Syria sử dụng vũ khí hóa học, nhưng ông nói rằng ông đang xem xét tới điều mà ông gọi là “một hành động có giới hạn, thu hẹp.”
Vài giờ sau khi ông Obama cho biết như thế, một toán thanh sát viên Liên Hiệp Quốc đã rời khỏi Syria sau khi đến nước này để điều tra những vụ tấn công hồi tuần trước. Một phát ngôn viên Liên Hiệp Quốc cho biết toán chuyên viên này sẽ cố gắng hoàn tất sớm việc phân tích các mẫu xét nghiệm mà họ thu thập tại địa điểm xảy ra những vụ tấn công.
Hôm qua, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cho biết cộng đồng tình báo Mỹ tin rằng chính phủ Syria đã thực hiện một vụ tấn công bằng hơi độc hồi tuần trước. Ông cho biết những bằng chứng, được trình bày trong một bản phúc trình được giải mật, cho thấy hơn 1.400 người Syria đã bị giết hại trong vụ tấn công gần Damascus, trong đó có ít nhất 426 trẻ em.
Ông nói rằng các bằng chứng cho thấy một toán chuyên viên vũ khí hóa học Syria đã có mặt ở khu vực đó 3 ngày trước khi xảy ra vụ tấn công. Ông cũng nói rằng những quả đạn rocket được bắn đi từ những khu vực do chính phủ kiểm soát và rơi vào những khu xóm hoặc nằm dưới sự kiểm soát của phe chống đối hoặc đôi bên đang tranh giành.
Ông Kerry nói rằng phúc trình tình báo bao gồm những thông tin liên lạc bị chận bắt, trong đó một giới chức cao cấp của Syria xác nhận vụ tấn công bằng hơi độc.
Trong một dấu hiệu cho thấy Washington có lẽ sắp sửa hành động, một giới chức Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết ông Kerry hôm thứ sáu đã gọi điện thoại cho các vị ngoại trưởng của nhiều nước, trong đó có Anh, Ai Cập, Đức, Hà Lan, New Zealand, Ả rập Xê-út và Liên hiệp các Tiểu Vương quốc Ả rập, cùng với vị Tổng thư ký của Liên đoàn Ả Rập.
Ông Kerry nói rằng lịch sử sẽ phê phán nước Mỹ một cách vô cùng khắc nghiệt nếu nước Mỹ “nhắm mắt làm ngơ trước việc một nhà độc tài sử dụng bừa bãi các loại vũ khí giết người hàng loạt.”
Các giới chức quốc phòng Hoa Kỳ cho biết một chiến hạm thứ 6 của Mỹ đã tới vùng biển phía đông của Địa Trung Hải để hoạt động cùng với 5 chiếc khác đã có mặt ở đó.
Tổng thống Obama: Hoa Kỳ sẽ có hành động đối với Syria
voa, 31.08.2013
http://www.voatiengviet.com/content/tong-thong-obama-noi-phai-co-dap-ung-doi-voi-toi-ac-syria-/1740982.html
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phát biểu về cuộc khủng hoảng Syria tại Vườn Hồng Tòa Bạch Ốc, ngày 31/8/2013.
Trong phát biểu hôm thứ Bảy tại Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Obama nói ông đã quyết định rằng Hoa Kỳ sẽ có hành động quân sự nhắm vào các mục tiêu của chính phủ Syria. Nhưng Tổng thống Obama nói rằng mặc dù ông tin là ông có thẩm quyền ra lệnh tấn công, ông nghĩ cần phải để cho cả nước tranh luận về vấn đề này là điều quan trọng.
Ông nói thêm rằng bất cứ sự can thiệp nào của Hoa Kỳ sẽ không phải là vô hạn định, và sẽ không có việc binh sĩ Hoa Kỳ đổ bộ lên Syria.
Ông Obama nói rằng hành động của Hoa Kỳ sẽ bị giới hạn về tầm mức và thời gian.
Tổng thống Obama nói những gì xảy ra ở Damascus cách đây gần hai tuần là một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học nghiêm trọng nhất trong thế kỷ 21, và ông nói rằng Hoa Kỳ không được “nhắm mắt” làm ngơ.
Các nhà lãnh đạo Quốc hội Hoa Kỳ đáp lại rằng họ trông đợi Hạ viện và Thượng viện sẽ xem xét vấn đề này khi các nghị viên trở lại làm việc sau kỳ nghỉ hè vào ngày 9 tháng 9 này.
Trong lúc Tổng thống Obama phát biểu ở Vườn Hồng, những người biểu tình gần Tòa Bạch Ốc đã hô khẩu hiệu và giương biểu ngữ bày tỏ phản đối hành động can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Syria.
Cũng trong ngày thứ Bảy, người biểu tình tại nhiều nơi trên thế giới đã xuống đường bày tỏ ủng hộ và chống đối khả năng xảy ra một cuộc tấn công Syria do Hoa Kỳ lãnh đạo.
Các hoạt động ngoại giao đang ráo riết diễn ra về cuộc khủng hoảng Syria.
Tòa Bạch Ốc nói rằng các giới chức an ninh quốc gia cấp cao đang hội thảo bằng điện thoại với các nhà lãnh đạo Thượng viện trong ngày thứ Bảy. Chủ nhật, Tòa Bạch Ốc dự định có một cuộc họp mật để trình bày về vấn đề Syria với Hạ viện.
Tổng thống Obama cũng hối thúc các đại biểu Quốc hội xem xét một số việc quan trọng hơn là “những bất đồng đảng phái” trong khi họ cân nhắc cách đáp ứng đối với Syria.
Trong khí đó, toán thanh sát viên Liên hiệp quốc đã kết thúc công tác và rời Syria hôm thứ Bảy.
Một người phát ngôn của Tổng thứ ký Liên hiệp quốc cho hay trưởng toán thanh sát viên sẽ báo cáo chi tiết hơn cho Tổng thứ ký Ban Ki-Moon vào Chủ nhật. Nhưng trong thông báo hôm thứ Bảy, người phát ngôn Martin Nesirky không cho biết khi nào toán thanh sát viên sẽ trình báo cáo đầy đủ.
Ông Nesirky cho hay toán thanh sát viên đã thu nhặt các mẫu để chuyển cho phòng thí nghiệm phân tích, lấy lời khai của các nhân chứng và phỏng ấn các bác sĩ và các nạn nhân còn sống.
Chính phủ Syria phủ nhận bất cứ vai trò nào trong các cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học.
Trong khí đó, Tổng thống Nga Vladimir Putin nói rằng viêc chính phủ Syria sử dụng vũ khí hóa học là “cực kỳ vô lý” trong khi họ đang chiến thắng trong cuộc chiến chống “phe nổi dậy.”
Trong một tuyên bố hôm thứ Bảy, Tổng thống Putin yêu cầu Hoa Kỳ để cho toán thanh sát viên Liên hiệp quốc trình bày các kết quả họ tìm thấy.
Hôm thứ Sáu, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cho biết cộng đồng tình báo Mỹ tin rằng chính phủ Syria đã thực hiện một vụ tấn công bằng hơi độc hồi tuần trước. Ông cho biết những bằng chứng, được trình bày trong một bản phúc trình được giải mật, cho thấy hơn 1.400 người Syria đã bị giết hại trong vụ tấn công gần Damascus, trong đó có ít nhất 426 trẻ em.
Tổng thống Obama nói rằng ông tin tưởng báo cáo của cộng đồng tình báo Hoa Kỳ cho thấy chính phủ Syria phải chịu trách nhiệm vụ tấn công, và ông không cảm thấy cần phải chờ kết quả của cuộc điều tra Liên hiệp quốc.
Nhà lãnh đạo Hoa Kỳ nói: “Tôi cảm thấy có thể xúc tiến các kế hoạch mà không cần sự thông qua của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc vốn đã bị tê liệt hoàn toàn và không sẵn lòng đưa Tổng thống Syria ra chịu trách nhiệm.”
Tổng thống Obama cân nhắc thời điểm tốt nhất để tấn công Syria
voa. 30.08.2013
Tổng thống Obama tỏ ra miễn cưỡng thực hiện hành động quân sự đối với Syria trong bối cảnh ông phải chú tâm vào mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế Mỹ và giảm khoản nợ quốc gia.
Tin liên hệ
Tổng Thư Ký LHQ kêu gọi phương Tây chờ phúc trình về Syria- Các nhà ngoại giao tranh luận về hành động quân sự chống Syria
- Tổng Thư Ký LHQ: Nên cho ngoại giao một cơ hội
- Thế giới bất đồng về việc Mỹ có thể can thiệp vào Syria
- Trung Quốc cảnh cáo chống lại sự can thiệp ở Syria
- Các nhà phân tích: ‘Mỹ sẽ tấn công Syria’
Hình ảnh/Video
Hiện có nhiều đồn đoán về thời điểm Mỹ có thể tiến hành các cuộc không kích vào Syria sau khi Tổng thống Barack Obama hôm thứ Tư tuyên bố rằng ông đang cân nhắc một sự đáp trả quân sự sau khi quân đội Syria bị cáo buộc sử dụng vũ khí hóa học. Thông tín viên của đài VOA Zlatica Hoke tường trình rằng chính quyền Mỹ hiện sẽ phải quyết định thời điểm tốt nhất để thực hiện một cuộc tấn công.
Tổng thống Obama tỏ ra miễn cưỡng thực hiện hành động quân sự đối với Syria trong bối cảnh ông phải chú tâm vào mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế Mỹ và giảm khoản nợ quốc gia. Nhưng ông đồng thời cũng cam kết sẽ hành động nếu Tổng thống Syria Bashar al-Assad vượt qua ‘lằn ranh đỏ’ với việc sử dụng các loại vũ khí bị cấm trong cuộc chiến chống lại phe nổi dậy.
Nhà phân tích chính trị Ilan Berman của Hội đồng Chính sách Ngoại giao Mỹ nói có các lý do phải hành động ngay lập tức, nhưng cũng có các lý do để trì hoãn. Ông nói rằng chính quyền của ông Obama đã tránh để Hoa Kỳ phải đơn phương hành động chống lại các lực lượng của nhà lãnh đạo Libya Moammar Gadhafi năm 2011.
“Tôi nghĩ hiện nay cũng vậy. Chính quyền của ông Obama muốn đoan chắc rằng Mỹ không bị bỏ mặc phải hành động đơn lẻ nếu phải chống lại Syria, và hiện giờ họ đang vận động sự hậu thuẫn từ các quốc gia châu Âu, đặc biệt là từ Anh, Pháp và Đức để đảm bảo rằng nếu có một hành động quân sự đối với Syria, thì đó là hành động của các đồng minh, chứ không chỉ một mình Mỹ.”

Sĩ quan không quân Mỹ hồi hưu Sam Gardiner nói với đài truyền hình Alhurra rằng nỗ lực củng cố đồng minh đã bị đình trệ, nhưng việc chuẩn bị cho một cuộc tấn công vẫn tiếp diễn.
“Các lực lượng Mỹ hiện đã sẵn sàng tiến hành một cuộc tấn công bất kỳ phút nào. Anh đã đưa 6 chiến đấu cơ tới đảo Síp và hiện chúng đã được bố trí sẵn sàng. Thứ chưa sẵn sàng lúc này là một liên minh”.
Một nhóm nhân viên điều tra Liên Hiệp Quốc chưa công bố phúc trình về kết quả điều tra hiện trường tại Syria, nhưng chính quyền của Tổng thống Obama nói rằng Hoa Kỳ có các bằng chứng cụ thể rằng chính phủ Syria sử dụng các loại vũ khí bị cấm. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cũng nói rằng quân đội đã sẵn sàng hành động bất kỳ lúc nào.
Theo nhận định của một số nhà quan sát, như ông Jeffrey White tại Viện Nghiên cứu Chính sách Cận đông ở Washington, điều này đồng nghĩa với việc một cuộc tấn công quân sự của Mỹ sắp xảy ra.
“Nó có thể xảy ra nhanh chóng. Có thể xảy ra tối nay. Hiện có người đang phán đoán rằng nó có thể xảy ra sớm nhất là tối nay, nhưng như vậy thì các thanh sát viên LHQ chưa ra khỏi một khu vực ở Damascus mà đó lại là mối quan tâm hàng đầu khi hoạch định các cuộc tấn công. Vì thế tôi nghĩ rằng cuộc tấn công có thể xảy ra vào cuối tuần.”
Hoa Kỳ nói họ đang hoạch định một cuộc tấn công chuẩn xác và không có mục đích thay đổi chế độ ở Syria. Tổng thống Obama nói rằng thậm chí một cuộc tấn công có giới hạn sẽ gửi một thông điệp tới chính phủ Assad rằng chính quyền nước này sẽ phải gánh chịu trách nhiệm nếu vi phạm luật pháp quốc tế.
Tổng thống Syria Assad hôm qua cho biết Damascus sẽ đáp trả bất kỳ cuộc tấn công nào từ bên ngoài, gây quan ngại về một vụ tấn công sử dụng vũ khí hóa học vào Israel, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan và các nước khác.
Hình ảnh mới nhất từ Syria
Thanh sát viên LHQ nói chuyện với một người đàn ông syria ở ngoại ô Damascus, ngày 26/8/2013.
Việt Nam và Hiệp định TPP – Thách thức và Cơ hội
Hoài Hương-VOA. 30.08.2013
Tin liên hệ
- Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ sang thăm Việt Nam năm tới
- Chính phủ Việt Nam bênh vực nghị định mới về internet
Thỉnh nguyện thư kêu gọi Mỹ không đàm phán TPP với Việt Nam - Thỏa thuận thương mại TPP gặp vướng mắc vì bất đồng
- Hậu Obama-Sang: Bao lâu cho lộ trình TPP?
- Việt Nam – Thách thức và cơ hội
- Hoa Kỳ, Việt Nam thảo luận về thương mại, nhân quyền
VOA: Xin ông cho biết, trước hết, vào TPP sẽ mang lại những lợi ích gì cho Việt Nam? Hỏi khác đi, nếu không vào TPP, Việt Nam sẽ thiệt thòi như thế nào, sẽ mất đi những cơ hội gì hay quyền lợi nào?
Ông NQK: “Như chúng ta đã biết mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những hàng rào cản hàng hóa và dịch vụ. Do đó, khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng gia số lượng hàng xuất cảng đến các quốc gia TPP với dân số gần 800 triệu (11 % dân số thế giới) và tổng sản phẩm nội địa là khoảng 28 ngàn tỉ Mỹ kim (40% GDP của thế giới). Nhiều đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam đều đang tham gia vào cuộc đàm phán đa phương TPP. Đó là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Singapore, và Mã Lai.
Việt Nam là nước nghèo nhất trong 12 quốc gia TPP hiện nay. Các nước giàu sẽ là thị trường tiêu thụ hàng hóa Việt Nam. Kinh nghiệm cho thấy là Việt Nam không buôn bán nhiều với các nước ASEAN bằng những nước ngoài ASEAN.
Ngoài ra, những nước TPP sẽ là nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam. Với tình trạng kinh tế trì trệ như hiện nay, Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài hơn bao giờ hết. Nếu có một chính sách đầu tư nước ngoài khéo léo, Việt Nam có thể học hỏi và phát triển những ngành công nghiệp cao từ những nước TPP.
Việt Nam sẽ là một nước được hưởng nhiều nhất khi gia nhập TPP. Sự gia tăng thương mại với Hoa Kỳ, một thị trường lớn nhất trong số các nước TPP, sẽ là một yếu tố quan trọng nhất giúp kinh tế Việt Nam phát triển. Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng và luôn luôn là yếu tố quan trọng cho việc phát triển kinh tế Việt Nam. Thứ ba là thuế nhập cảng của các nước TPP sẽ giảm đáng kể. Do đó Việt Nam sẽ gia tăng xuất khẩu quần áo, giầy dép, và hải sản. Việt Nam sẽ không phài cạnh tranh với Trung Quốc trong TPP.
Việc gia nhập TPP sẽ giúp tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam tăng 46 tỉ Mỹ kim tức khoảng 13.6% theo kết quả một cuộc nghiên cứu của Peter A. Petri, Michael G. Plummer, và Fan Zhai vào cuối năm 2012.”
VOA: Thưa đó là những lợi ích của việc gia nhập TPP, nhưng có một số điều kiện Việt Nam cần phải thỏa mãn trước khi được chính thức thâu nhận vào TPP, xin ông cho biết một số điều kiện cụ thể, quan trọng mà Việt Nam phải thỏa đáng?
Ông NQK: “TPP nêu ra một số vấn đề nồng cốt mà Việt Nam sẽ phải thỏa mãn như là tài sản trí tuệ, lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, và công ty nhỏ và trung bình. Quyền lao động, bao gồm quyền thành lập nghiệp đoàn dộc lập, quyền tụ họp, quyền đình công, chỉ là một phần của vấn đề rộng lớn hơn là nhân quyền. Hoa Kỳ đã mạnh mẽ đặt vấn đề này với Việt Nam qua một số thành viên Quốc Hội và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội. Trong cuộc họp với Chủ Tịch Trương Tấn Sang vừa qua tại Nhà Trắng, Tổng Thống Obama đã hai lần nhắc nhở đến vấn đề Nhân Quyền tại Việt Nam.
Vấn đề khó khăn lớn thứ hai mà Việt Nam phải vượt qua là việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước để loại bỏ sự cạnh tranh thiếu công bằng giữa nhà nước và tư nhân. Khu vực quốc doanh chiếm khoảng gần 40% tổng sản lượng nội địa mà lại luôn luôn làm ăn lỗ lã, ngăn cản sự phát triển kinh tế, nhưng lại ưu tiên về vốn đầu tư của nhà nước, quỹ phát triển quốc tế ODA, và vay nợ ngân hàng. Trên 50% nợ xấu của các ngân hàng là do các doanh nghiệp nhà nước. Hơn 10 năm nay, nhà nước bàn thảo việc cải tổ khu vực quốc doanh, nhưng không đạt được tiến bộ cụ thể đáng kể nào.
VOA: Thưa so với lúc Việt Nam vận động xin gia nhập WTO, thì tiến trình thương thuyết để vào TPP nó khác ở chỗ nào, và có những điểm gì mà Hà nội cần chú ý đến nếu muốn mọi sự được suôn sẻ?
Ông NQK: “Vâng, giữa TPP và WTO có một vài khác biệt. WTO có những điều kiện gia nhập rõ ràng. Trong khi đó, TPP dựa vào đàm phán và không có vấn đề nào phải loại trừ. TPP có tính cách toàn diện hơn WTO. Nó bao trùm nhiều vấn đề WTO không đề cập đến hoặc chưa đào sâu như doanh nghiệp nhà nước, quyền sở hữu trí tuệ, và quyền lao động.
Một khó khăn nghiêm trọng Việt Nam đang gặp phải trong cuộc đàm phán hiện nay liên quan đến luật lệ xuất xứ hàng hóa và ngành dệt may, một trong những công nghiệp quan trọng bậc nhất của Việt Nam. Hoa Kỳ đòi hỏi rằng quần áo chỉ được coi là chế tạo ở Việt Nam nếu vải làm bằng tơ sợi cũng được chế tạo tại Việt Nam hay mua của Hoa Kỳ.
VOA: Có cơ chế nào để kiểm soát là Việt Nam không mua vải sợi của Trung Quốc?
Ông NQK: “Mua hàng hóa là phải có xuất xứ. Phải có chứng minh rất là khó khăn. Vì khó khăn cho nên những nước ở Châu Mỹ La Tinh đành phải trả thuế cao, để nước Mỹ có thể bảo vệ ngành dệt vải của họ.”
VOA: Trong những thách thức vừa kể, theo ông thách thức nào là quan trọng nhất, khó khăn nhất, và vì sao lại khó khăn như vậy trong tình hình Việt Nam bây giờ?

Quan trọng hơn, nội bộ chia rẽ của Đảng CSVN hiện nay sẽ làm cho những việc cải tiến cần thiết càng khó khăn thêm. Theo nhận định của GS Carl Thayer và một số quan sát viên quốc tế, một số các nhà lãnh đạo Việt Nam muốn cải thiện mối bang giao với Hoa Kỳ. Một số khác chống lại. Nhóm thứ hai xem ra mạnh hơn. Trong năm 2013, chỉ trong vòng mấy tháng đầu tiên thôi mà Việt Nam đã bắt bớ 40 người, nhiều hơn so với cả năm 2012. Trong khi Việt Nam muốn gia nhập TPP và muốn mua võ khí của Hoa Kỳ, mà lại đi làm những chuyện bắt bớ vi phạm nhân quyền như vậy thì vấn đề trở nên rất là khó khăn.”
VOA: Trở lại với vấn đề kinh tế, nói tới kinh tế, nói tới Châu Á, mà không nói tới Trung Quốc là cả một sự thiếu sót lớn, xét Trung Quốc là một cường quốc đang lên, và là nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, có khả năng trở thành nền kinh tế lớn nhất không chừng! Thế mà Trung Quốc lại không được mời để thương thuyết gia nhập TPP. Rõ ràng “thiếu sót” ấy là có chủ ý. Ông nhận định như thế nào về yếu tố Trung Quốc liên quan tới thương thuyết TPP? Có phải Hoa Kỳ và các đồng minh Châu Á muốn cô lập hóa, bao vây hay kiềm hãm Trung Quốc, như Bắc Kinh vẫn tố cáo?
Ông NQK: “Theo sự hiểu biết của tôi. Có hai dữ kiện khá rõ ràng. Một là Trung Quốc từng tuyên bố chống lại TPP, sau đó lại than phiền rằng Trung Quốc không được mời, và mới đây lại tuyên bố qua phát ngôn viên của Bộ Thương Mại rằng Trung Quốc sẽ nghiên cứu lợi và hại của TPP. Hai là Hành Pháp Hoa Kỳ chưa bao giờ tuyên bố chống lại Trung Quốc gia nhập TPP. Trái lại, Phụ Tá Bộ Trưởng Thương Mại Hoa Kỳ đặc trách Thương Mại quốc Tế nói rằng TPP không phải là một câu lạc bộ khép kín mà là một diễn đàn mở rộng. Hoa Kỳ hy vọng nhiều nước sẽ tham gia.
Việc gia nhập TPP của Trung Quốc nếu có sẽ gặp trở ngại là bởi những điều kiện như nhân quyền, lao động, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch thị trường tương tự như trường hợp Việt Nam tuy nhiên ở mức độ to lớn hơn nhiều. Những trở ngại này tự tạo bởi chính Trung Quốc và Việt Nam, không phải do Hoa Kỳ hay TPP.
VOA: Ông muốn nói gì thêm về các quan hệ giữa Việt Nam, Hoa Kỳ, hiệp định TPP, trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc?
Ông NQK: “Việt Nam cần phải cải thiện vấn đề nhân quyền một cách cụ thể để được vào TPP và được Hoa Kỳ hủy bỏ cấm vận đối với những vũ khí sát thương mà Việt Nam nhiều lần lên tiếng muốn mua của Hoa Kỳ.
Với tình trạng hiện nay, Trung Quốc không thể gia nhập TPP và trong tương lai gần có thể nhìn thấy. Điều này giúp Việt Nam một phần nào thoát ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế lẫn chánh trị, hai lãnh vực khó có thể tách rời. Nếu những nhà lãnh đạo Việt Nam đặt quyền lợi của 90 triệu người dân lên trên hết, việc cải tổ đòi hỏi bởi TPP là việc phải làm.”
VOA: Tóm lại, TPP là một thách thức hay là một cơ hội đối với Việt Nam?
Ông NQK: “Tôi nghĩ TPP là một cơ hội rất là tốt đẹp đối với Việt Nam. Việt Nam là một nước nghèo nhất trong nhóm TPP, nhưng sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong nhóm. Thành ra Việt Nam không nên bỏ qua cái cơ hội tốt đẹp như thế này.”
HOÀI HƯƠNG
Mỹ cân nhắc ‘hành động cục bộ’ ở Syria
BBC, 31 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/08/130831_us_limited_act_syria.shtml
Tổng thống Obama nói sẽ không điều quân tới hiện trường
Tổng thống Barack Obama nói Hoa Kỳ đang cân nhắc “hành động cục bộ” để đáp trả việc sử dụng vũ khí hóa học của quân đội chính phủ Syria.
Các bài liên quan
Ông Obama nhấn mạnh rằng chưa có “quyết định cuối cùng” nào được đưa ra, tuy nhiên bác bỏ khả năng Hoa Kỳ sẽ điều quân tới hiện trường.
Ngoại trưởng John Kerry dẫn kết quả điều tra của tình báo Hoa Kỳ nói Syria đã sử dụng vũ khí hóa học làm 1.429 người chết, trong đó có 426 trẻ em.
Chính phủ Syria gọi cáo buộc của Hoa Kỳ là “hoàn toàn dối trá” và đổ lỗi cho quân nổi dậy.
Tổng thống Bashar al-Assad trước đó đã tuyên bố Syria sẽ tự vệ trước bất cứ “hành động xâm lược” nào của phương Tây.
Tổng thống Pháp Francois Hollande thì tái khẳng định sự ủng hộ đối với lập trường của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên Nga, đồng minh lớn nhất của Syria, đã cảnh báo “bất cứ hành động quân sự đơn phương nào mà không có sự cho phép của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc” là sự “vi phạm trực tiếp luật pháp quốc tế”.
Đoàn xe chở các thanh tra viên LHQ về vũ khí đã rời Damascus sáng thứ Bảy 31/8 sang Lebanon.
Tổng thư ký Ban Ki-moon nói với giới ngoại giao rằng phải hai tuần nữa mới có phúc trình cuối cùng của nhóm thanh tra.
‘Trách nhiệm’ của thế giới
Ngoại trưởng John Kerry gọi Tổng thống Syria là “tên côn đồ và kẻ sát nhân”
Phát biểu vào thứ Sáu, 30/8, Tổng thống Obama nói vụ tấn công ở khu ngoại ô Damascus ngày 21/8 là ‘một thách thức đối với thế giới’ và là sự xâm phạm “lợi ích an ninh quốc phòng” của Hoa Kỳ.
“Chúng ta không thể chấp nhận một thế giới nơi mà phụ nữ, trẻ em và những thường dân vô tội có thể bị đầu độc ở một quy mô kinh khủng như vậy.”
“Thế giới có trách nhiệm bảo đảm các tiêu chuẩn chống lại việc sử dụng vũ khí hóa học.”
Tuy nhiên ông Obama cũng nhấn mạnh rằng Washington đang “cân nhắc khả năng hành động cục bộ”, và loại bỏ việc điều quân hay mở chiến dịch lâu dài ở Syria.
Bình luận của ông Obama được đưa ra ngay sau khi Ngoại trưởng John Kerry phát biểu về điều mà Washington gọi là kết quả điều tra tình báo “với độ khả tín cao” về cuộc tấn công ngày 21/8.
Những điểm chính trong báo cáo này bao gồm:
- Cuộc tấn công đã khiến 1.429 người thiệt mạng, trong đó có 426 trẻ em.
- Các chuyên gia hóa học của quân đội Syria đã được điều động đến khu vực này ba ngày trước cuộc tấn công.
- Vệ tinh của Hoa Kỳ phát hiện ra nhiều hỏa tiễn từ khu vực do quân chính phủ kiểm soát bắn vào khu vực của quân nổi dậy, 90 phút trước khi có tin về một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học.
- Hơn 100 video về hiện trường vụ tấn công cho thấy nhiều người có dấu hiệu nhiễm chất độc gây rối loạn thần kinh.
- Những đoạn đối thoại bị nghe lén bao gồm một cuộc đàm thoại từ một quan chức cấp cao của Damascus “xác nhận vũ khí hóa học đã được sử dụng” và bày tỏ lo ngại về việc bị các thanh sát viên Liên Hiệp Quốc phát hiện.
“Chúng ta không thể chấp nhận một thế giới nơi mà phụ nữ, trẻ em và những thường dân vô tội có thể bị đầu độc ở một quy mô kinh khủng như vậy.”
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama
Hoa Kỳ nói kết quả điều tra dựa trên thông tin thu thập từ những nhân viên y tế, nhân chứng, nhà báo, video và hàng nghìn nguồn tin từ mạng xã hội.
Ông John Kerry cũng gọi ông Assad là “tên côn đồ và kẻ sát nhân”.
Đáp lại điều này, hãng thông tấn chính phủ Syria Sana nói ông Kerry đã “đưa chi tiết từ các tin cũ, do quân khủng bố đưa ra hơn một tuần trước”.
Thông điệp mạnh mẽ
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc có rất ít khả năng sẽ chấp thuận cho một cuộc can thiệp quân sự vì sự chống đối từ Nga, một trong các thành viên thường trực.
Cùng với Trung Quốc, Moscow đã phản đối hai dự thảo trước đó về Syria.
Hoa Kỳ cũng rơi vào thế bất lợi khi Quốc hội Anh bỏ phiếu chống lại đề xuất của chính phủ David Cameron trong đó ủng hộ việc can thiệp quân sự.
Thủ tướng Anh quốc và ông Obama đã có cuộc đối thoại qua điện thoại vào ngày 30/8. Hai bên đã nhất trí sẽ tiếp tục hợp tác về các vấn đề quốc tế.
Tổng thống Mỹ cũng nói với ông Cameron ông “hoàn toàn tôn trọng” hành động của chính phủ Anh.
Giới chức Mỹ nói nước này sẽ tiếp tục tăng cường xây dựng một liên minh, trong khi Pháp nói đã sẵn sàng để sát cánh với Mỹ tại Syria.
Các thanh tra viên LHQ đã trình kết quả điều tra lên Tổng Thư ký Ban Ki-moon
Ông Obama và Tổng thống Pháp Francois Hollande đã có cuộc trao đổi qua điện thoại vào ngày 30/8, Paris cho biết.
Thông cáo từ văn phòng chính phủ Pháp nói lãnh đạo hai nước đều muốn gửi một “thông điệp mạnh mẽ” tới Damascus để lên án việc chính phủ nước này sử dụng vũ khí hóa học.
Không giống như Anh quốc, cả Pháp và Hoa Kỳ đều không cần sự chấp thuận của Quốc hội để hành động quân sự.
Một đồng minh khác của Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, đã kêu gọi mở chiến dịch tương tự như cuộc oanh tạc Yugoslavia năm 1999.
Lúc đó Nato đã tiến hành oanh tạc tổng cộng 70 ngày để bảo vệ thường dân khỏi các cuộc tấn công tại Kosovo, cho dù không có nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan nói can thiệp quân sự nên nhằm mục tiêu lật đổ ông Assad.
Trữ chất hóa học
Việc sử dụng vũ khí hóa học đã bị cấm theo nhiều hiệp ước, và bị coi là trái phép dưới các điều khoản của Luật nhân đạo quốc tế.
Quân đội Syria bị cho là tàng trữ nhiều chất hóa học, trong đó có cả khí độc gây rối loạn thần kinh sarin.
Thống kê ban đầu về cuộc tấn công ở Damascus dẫn số liệu từ tổ chức Bác sỹ không Biên giới cho biết 355 người đã thiệt mạng.
Các thanh tra viên Liên Hiệp Quốc đã thu thập nhiều mẫu và gửi đến các phòng thí nghiệm khắp thế giới để phân tích.
Nhóm thanh tra này không có nhiệm vụ tìm ra trách nhiệm vụ tấn công thuộc về ai.
Hơn 100 nghìn người bị cho là đã thiệt mạng và 1,7 triệu người đã phải di tản kể từ khi xung đột nổ ra ở Syria hồi tháng Ba năm 2011.
Lực lượng có thể được sử dụng cho một cuộc tấn công vào Syria:
- Bốn khu trục hạm trang bị tên lửa hành trình của Hoa Kỳ: USS Gravely, USS Ramage, USS Barry và USS Mahan.
- Các tên lửa hành trình cũng có thể được bắn từ tàu ngầm, nhưng hải quân Hoa Kỳ không tiết lộ vị trí của chúng.
- Căn cứ không quân tại Incirlik và Izmir ở Thổ Nhĩ Kỳ và Jordan có thể được dùng cho không kích.
- Hai hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ: USS Nimitz và USS Harry S Truman ở gần đó.
- Hàng không mẫu hạm của Pháp mang tên Charles de Gaulle đậu ở phía đông Địa Trung Hải.
- Các chiến đấu cơ Raffale và Mirage của Pháp cũng có thể tấn công từ căn cứ không quân Al-Dhahra ở UAE.
Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/08/uan-khuc-trong-ieu-4-hien-phap.html#.UiH0ez98J6w
Hoàng Xuân Phú – Giả sử ĐCSVN luôn thực sự là “đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…”, thì điều đó đã đủ để Nhân dân trao quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” hay chưa? Vẫn còn có nhiều “đại biểu trung thành” khác, thì tại sao lại chỉ trao quyền lãnh đạo cho một đại biểu duy nhất? Hơn nữa, giữa quyền lãnh đạo và tính tiên phong cộng với lòng trung thành là một khoảng cách xa vời, hai cái đó không nhất thiết là hệ quả của nhau. Chẳng hạn như Cún con, khi ra đường thì hay lon ton lên trước (nghĩa là rất “tiên phong”), và ít ai trung thành với chủ hơn Cún, nhưng chẳng vì thế mà Cún lại được chủ trao cho quyền lãnh đạo… gia đình. Rõ ràng, hai mệnh đề nhầm chỗ đó không đủ để biện minh cho quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN. Ngược lại, cái “hư hư thực thực”, “hư” đến mức bất chấp cả “thực”, đã làm suy giảm tính nghiêm túc và tính hợp lý của Hiến pháp. Vậy thì cưỡng nạp những mệnh đề vu vơ ấy vào Hiến pháp để làm gì?…
*
Cũng chỉ là con dân
mà xưng là thiên tử
Có lẽ không điều khoản nào của Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lại được bàn cãi nhiều bằng Điều 4. Một bên thì cương quyết bảo lưu, bên kia lại muốn loại bỏ nó ra khỏi Hiến pháp. Nội dung mà hai bên thường đề cập là duy trì hay không việc hiến định quyền lãnh đạo đương nhiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Nhưng đấy mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Để tìm hiểu thêm phần tiềm ẩn, ta hãy đọc lại Điều 4 Hiến pháp 1992 và cùng nhau suy ngẫm:
“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
“Đội tiên phong” là gì vậy? Nghe mãi đâm quen, thấy oai oai, nhưng thực ra nó là cái gì?
Trong ngôn ngữ thông dụng, cái từ này thường chỉ “đạo quân ở vị trí đi đầu để ra mặt trận”. Thời xa xưa, khi còn đánh nhau bằng cơ bắp và vũ khí thô sơ, cả đạo quân ngàn vạn người cũng chỉ trông cậy vào võ nghệ của mấy vị tướng đầu quân, thì cả tướng lẫn quân của “đội tiên phong” cũng chỉ là thuộc hạ để nhà vua sai bảo. Ngày nay, lãnh đạo cao nhất lại càng cố thủ ở hậu phương, chứ không “tiên phong” ra mặt trận. Nếu vậy thì oai cái nỗi gì, mà lại gán cho đảng cái cương vị hạng hai, hạng ba, mà đôi lúc còn bị dùng để “thí tốt”?
Nếu cố gán cho từ “đội tiên phong” nội dung “thành phần ưu tú, đóng vai trò đầu đàn, đưa đường chỉ lối”, thì lại nảy sinh câu hỏi: Một đảng mà đa số đảng viên và hầu hết lãnh đạo cấp cao đều không phải là công nhân, thì có thể coi là “đội tiên phong của giai cấp công nhân” hay không? Người của giai cấp công nhân – vốn được lý luận chính thống của ĐCSVN ngợi ca là ưu tú và cách mạng nhất – đi đâu cả, mà lại để cho cái hội thuộc giai cấp hay tầng lớp kém tiến bộ hơn xông vào choán hết “đội tiên phong” của mình?
Không chỉ được mệnh danh là “đội tiên phong”, ĐCSVN còn được coi là “đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Tại sao lại ghi những thứ đó vào Hiến pháp? Hiến pháp là văn bản pháp lý gốc của cả Nước, của toàn bộ Nhân dân, để hiến định các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất, chứ đâu phải là cuốn sử ca của riêng ĐCSVN để ghi vào đó những lời tự phụ?
Vấn đề đáng bàn hơn là: Liệu những khẳng định kiểu đó có đúng hay không? Dù hào phóng giả định rằng hiện tại chúng đang đúng, thì lấy gì để đảm bảo rằng trong tương lai chúng vẫn còn đúng? Đã là Hiến pháp thì phải có hiệu lực lâu dài. Cho dù không tin vào sức sống của sản phẩm do mình tạo ra, thì chắc hẳn các tác giả Hiến pháp cũng hy vọng rằng nó sẽ tồn tại được vài chục năm. Vậy thì tại sao lại tùy tiện khẳng định hay liều lĩnh bảo lãnh phẩm giá của cả đội ngũ cầm quyền mấy mươi năm sau, những người mà các tác giả Hiến pháp không thể đoán trước sẽ là ai, sẽ cầm quyền thế nào và trong hoàn cảnh ra sao?
Cho đến nay, biết bao sự kiện bí ẩn và hành xử khó hiểu đã và đang xảy ra, đặc biệt là trong quan hệ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc, kết hợp với tệ nạn tham nhũng và cướp đất tràn lan, khiến nhiều người phải đặt ra câu hỏi: ĐCSVN (nói chính xác hơn là lãnh đạo của ĐCSVN) có còn trung thành với quyền lợi của Nhân dân và Dân tộc nữa hay không? Đối với không ít người thì câu hỏi cũng chính là câu trả lời. Nếu muốn, giới cầm quyền có thể thông qua hành động thực tế để xóa bỏ nghi ngờ và chứng minh điều ngược lại. Thế nhưng, tại sao lại lạm dụng Hiến pháp để “công chứng” cho cái phẩm hạnh đang bị nghi vấn, và bắt Nhân dân phải mặc nhiên thừa nhận lòng trung thành của giới cầm quyền hôm nay và cả mai sau?
Giả sử ĐCSVN luôn thực sự là “đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…”, thì điều đó đã đủ để Nhân dân trao quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” hay chưa? Vẫn còn có nhiều “đại biểu trung thành” khác, thì tại sao lại chỉ trao quyền lãnh đạo cho một đại biểu duy nhất? Hơn nữa, giữa quyền lãnh đạo và tính tiên phong cộng với lòng trung thành là một khoảng cách xa vời, hai cái đó không nhất thiết là hệ quả của nhau. Chẳng hạn như Cún con, khi ra đường thì hay lon ton lên trước (nghĩa là rất “tiên phong”), và ít ai trung thành với chủ hơn Cún, nhưng chẳng vì thế mà Cún lại được chủ trao cho quyền lãnh đạo… gia đình. Rõ ràng, hai mệnh đề nhầm chỗ đó không đủ để biện minh cho quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN. Ngược lại, cái “hư hư thực thực”, “hư” đến mức bất chấp cả “thực”, đã làm suy giảm tính nghiêm túc và tính hợp lý của Hiến pháp. Vậy thì cưỡng nạp những mệnh đề vu vơ ấy vào Hiến pháp để làm gì?
*
Nếu quan niệm rằng hai đặc tính “đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…” là đòi hỏi, là điều kiện cần cho quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, thì Điều 4 cần được hiệu chỉnh cho chuẩn xác về mặt lô-gíc, chẳng hạn như sau:
“Đảng cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,… thì mới là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Hoặc hoán vị đoạn cuối lên đầu và dùng chữ “để” thay cho hai chữ “thì mới”:
“Để là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…”
Đó là hai phương án hiệu chỉnh lô-gíc kinh tế nhất, chỉ thêm ba hoặc bốn chữ và giữ nguyên các thành phần khác. Kể cả trong trường hợp thừa nhận quyền lãnh đạo của ĐCSVN như một thứ đương nhiên, bất chấp hiện trạng của đảng, thì cũng nên viết lại như sau:
“Đảng cộng sản Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.”
Dù chọn phương án nào thì cũng cần thêm chữ “phải”, để nhấn mạnh rằng: Đó là đòi hỏi mang tính pháp lý mà đảng cầm quyền phải thực hiện. Liệu giới cầm quyền có muốn viết như vậy hay không? Chắc là không! Vậy thì nội dung về “đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…” trong Điều 4 không phải là đòi hỏi, mà mang ý nghĩa “thừa nhận một thực trạng đã, đang và sẽ mãi tồn tại”, tức là một hình thức “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”.
Vấn đề tương tự được đặt ra với khoản tiếp theo của Điều 4, viết rằng:
“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Đây có phải là một yêu cầu, một đòi hỏi hay không? Nếu là đòi hỏi thì cần bổ sung một chữ “phải” như sau:
“Mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Câu hỏi nảy sinh là: Tại sao lại thiếu chữ “phải” tại vị trí quan trọng như vậy? Có phải do vô tình hay không?
Muốn hiểu được ý tứ của các tác giả, hãy điểm mặt 39 chữ “phải” trong Hiến pháp 1992 để nhận ra rằng: Từ “phải” là một trong những thuật ngữ đặc trưng trong Hiến pháp, thường được dùng để chỉ những điều bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ:
“Điều 51 …Công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội…”
“Điều 76 Công dân phải trung thành với Tổ quốc…”
“Điều 77 … Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.”
“Điều 100 Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…”
“Điều 122 Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn… Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định…”
Tại sao không viết tương tự, mà lại tránh dùng chữ “phải” trong Điều 4? Nếu quan niệm rằng chỉ cần viết
“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
là đã hàm chứa chữ “phải”, do đó có thể lược bỏ nó, thì sao không bỏ nốt chữ “phải” trong những trường hợp cũng “đã hàm chứa” tương tự? Chẳng hạn, sao không bỏ chữ “phải” trong hai điều khoản sau đây:
“Điều 115 …Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.”
“Điều 124 …Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Ủy ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số…”
Để hiểu hết thâm ý chứa trong Điều 4, nên so sánh nó với điều khoản sau:
“Điều 12 …Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
Vâng, không chỉ “các… tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân”, mà cả “các cơ quan Nhà nước” đều “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”. Nhưng ĐCSVN và các tổ chức của đảng thì không bị liệt kê trong Điều 12, tức là chúng không nằm trong diện “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”.
Điều 4 chỉ viết là: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Khi đã ngăn chặn việc ban hành luật về các đảng chính trị hay luật dành riêng cho ĐCSVN, thì chẳng hề tồn tại “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nào có thể khống chế và ràng buộc đảng. Vậy là ĐCSVN được mặc sức tung hoành. Hơn nữa, giả sử có ràng buộc pháp luật nào đó liên quan, thì ĐCSVN cũng không nhất thiết phải tuân theo, bởi vì câu hiến định “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” không nhất thiết là một đòi hỏi, mà ngược lại, rất có thế là một hình thức “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”, cũng tương tự như việc “công chứng” cho đặc tính “đội tiên phong…” và “đại biểu trung thành…” mà thôi.
Hẳn là đạo diễn của Hiến pháp 1992 đã cân nhắc rất kỹ lưỡng, và cố tình không cho “diễn viên” tên “phải” lạc vào “màn kịch” Điều 4, để tạo ra một “hoạt cảnh thực thực hư hư”, “nói dzậy mà không phải dzậy”. Cái tinh vi ấy được kế thừa trọn vẹn trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 02/01/2013) và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 (được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, ngày 17/05/2013). Chưa thỏa mãn với đặc quyền vô biên đã có, người ta đã sửa câu
“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
trong Hiến pháp 1992 thành
“Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Hạ cấp từ chữ “Mọi” xuống chữ “Các”, phải chăng là cố chừa ra thế lực bất khả xâm phạm? Tuy trong phương án sửa đổi có bổ sung thêm đối tượng “đảng viên”, nhưng đó là “đảng viên thường”. Còn các vị lãnh đạo đảng là “siêu đảng viên”, và cá nhân họ cũng không phải là “tổ chức”, vì vậy có thể hoàn toàn tự do “ngoài vòng Hiến pháp và pháp luật”.
Trong tham luận trình bày tại phiên họp Quốc hội vào buổi sáng ngày 16/11/2012, Luật sư Trương Trọng Nghĩa (Đại biểu Quốc hội khóa XIII của Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam) đã phân tích và kiến nghị như sau:
“Về Điều 4, hiện nay về Đảng thì chúng ta có 3 chủ thể: Thứ nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam; Thứ hai là các tổ chức của Đảng; Thứ ba là đảng viên. Nhưng khi thiết kế Điều 4 thì chúng ta bỏ quên chủ thể quan trọng nhất là Đảng cho nên chúng ta chỉ quy định các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều 4 tôi chỉ xin thêm một từ ở đằng trước, tức là ‘Đảng, các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật’.”
Đề nghị của Luật sư Trương Trọng Nghĩa là rất hợp lý, để loại trừ khả năng biện hộ rằng: “Đảng không phải là một tổ chức của Đảng, nên Đảng không phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nếu thực tâm muốn tôn trọng “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, thì chẳng tiếc gì mà không thêm chữ “Đảng” vào đầu câu như ông Nghĩa đề xuất. Thế nhưng, đề nghị ấy đã không được chấp nhận. Phải chăng việc khước từ đó càng thể hiện rõ hơn động cơ của đạo diễn và bản chất của Điều 4?
Một nét mới của Điều 4 trong phiên bản 2 và phiên bản 3 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là khoản sau đây được chèn thêm vào giữa:
“Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”
Câu này đã khiến một số người hâm mộ đảng hân hoan ca ngợi. Nhưng thực ra có gì là mới ở đây hay không? Thế nào là “gắn bó mật thiết”? “Gắn bó” như hiện nay đã đủ hay đã quá “mật thiết” hay chưa? “Phục vụ nhân dân” thế nào thì bấy lâu đã rõ, xin kiếu, xin kiếu! “Chịu sự giám sát” hay “đành chịu sự giám sát”? Nhân dân “giám sát” thế nào, khi mọi chuyện tày đình đều diễn ra ở những nơi kín cổng cao tường, được súng ống bảo vệ nghiêm ngặt? Giả sử bằng cách nào đó mà biết được chút chuyện “thâm cung”, thì đành ngậm miệng, hay nông nổi phát ngôn, để rồi có thể bị khép vào “tội cố ý” hay “tội vô tình làm lộ bí mật nhà nước” (Điều 263 và Điều 264 Bộ luật hình sự)? Và “giám sát” để làm gì? Nếu được phép “giám sát”, nhưng khi phát hiện ra điều sai trái thì cũng chỉ có thể bó tay bất lực và thêm ấm ức, thì “quyền giám sát đảng” có hơn gì so với “quyền được tò mò, nhòm ngó chuyện riêng của nhà hàng xóm”? Thế nào là “chịu trách nhiệm trước nhân dân”? Ăn chán, phá chán cũng chỉ cần buông một câu “xin chịu trách nhiệm” là xong, vậy thì tội gì mà không ăn, không phá? Toàn là mỹ từ chung chung, vô định, phù hợp với mục đích tuyên huấn, nhằm mê hoặc và ru ngủ người đọc, chứ không thể dùng để diễn đạt các ràng buộc pháp lý.
Những băn khoăn vừa kể chỉ có ý nghĩa khi khoản mới bổ sung vào Điều 4 là đòi hỏi mà đảng cầm quyền phải thực hiện. Nhưng lấy gì để đảm bảo rằng đó thực sự là đòi hỏi, chứ không phải là tái diễn hình thức “công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản”? Nếu quả là đòi hỏi, thì cần thêm bốn chữ “phải” như sau:
“Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân, phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”
Hoặc ít nhất cũng bổ sung một chữ “phải” để áp chung cho cả bốn nghĩa vụ:
“Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.”
Như vậy không phải là quá máy móc, mà cũng chỉ hiến định giống như hai điều khoản sau đây của Hiến pháp 1992, cũng về quan hệ với Nhân dân:
“Điều 8 Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…”
“Điều 97 … Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri…”
Quan sát kỹ sẽ nhận ra sự khác nhau “tinh tế” giữa yêu cầu đối với Nhà nước trong Hiến pháp 1992 và yêu cầu đối với ĐCSVN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Các cơ quan Nhà nước “phải tôn trọng nhân dân” và “lắng nghe ý kiến… của nhân dân”, còn đảng thì không “phải tôn trọng nhân dân” và cũng không phải “lắng nghe… nhân dân”; các cơ quan Nhà nước phải “tận tụy phục vụ nhân dân”, còn đảng thì cũng “phục vụ nhân dân” nhưng không cần phải “tận tụy”. Thế cũng đã là tiến bộ vượt bậc rồi, bởi Hiến pháp 1992 còn không hề nhắc đến quan hệ của đảng đối với Nhân dân.
Có lẽ để “cởi trói” cho Nhà nước, nên “Các cơ quan Nhà nước” được giải phóng khỏi Điều 8 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2:
“Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân…”
Sau đó, không hiểu do sức ép nào mà người ta lại đành chịu để cho “Các cơ quan Nhà nước” tái hiện trong Điều 8 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3:
“Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…”
*
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 và phiên bản 3, số lần xuất hiện của chữ “phải” ít hơn so với trong Hiến pháp 1992. Vì sao như vậy? Một số chữ “phải” biến tướng thành thuật ngữ khác, như “có trách nhiệm”, “có nghĩa vụ”… Chẳng hạn, đoạn
“công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội”
tại Điều 51 Hiến pháp 1992 biến thành đoạn
“Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội”
tại Điều 20 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Một số chữ “phải” thì biến mất hẳn, vì một số điều khoản được bãi bỏ. Ví dụ, quy định
“Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…”
tại Điều 100 Hiến pháp 1992 biến khỏi cả hai phiên bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. (Chả trách mà một số đại biểu Quốc hội say sưa ca ngợi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.)
Có một ưu ái đặc biệt mà “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” dành cho Dân trong Hiến pháp 1992, đó là “vinh danh” Dân hai lần trong mối quan hệ với pháp luật:
“Điều 12 …mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
“Điều 79 Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật…”
Các tác giả Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 đã kết hợp nhuần nhuyễn tính kế thừa với tính sáng tạo, và thu được kết quả tương ứng như sau:
“Điều 8 …cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
“Điều 49 Công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
Trong Điều 8, từ “cá nhân” được dùng để thay thế cho từ “mọi công dân” ở Điều 12 Hiến pháp 1992. Nghĩa là Dân vẫn được “vinh danh” hai lần: Một lần dưới danh nghĩa “công dân” và một lần dưới danh nghĩa “cá nhân”. “Chu đáo” với Dân đến thế là cùng.
Trong khi đó, họ lại “sơ xuất” đánh mất hai chữ “Nhà nước” trong đòi hỏi “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Quy định
“Điều 12 …Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…”
trong Hiến pháp 1992 được sửa thành
1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật…
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…”
trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Khoản 1 Điều 8 học theo phong cách của Điều 4 Hiến pháp 1992, không hề sử dụng từ “phải” hay thuật ngữ tương đương, nên cũng không rõ đó là đòi hỏi hay ghi nhận (tức là “công chứng”). Nếu đó là đòi hỏi thì Nhà nước cũng chỉ cần “hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”. “Theo” được bao nhiêu thì “theo”, chứ không bắt buộc “phải nghiêm chỉnh chấp hành…”. Nghĩa vụ “phải nghiêm chỉnh chấp hành…” trong Khoản 3 Điều 8 chỉ áp vào “Cơ quan, tổ chức” chung chung, mà thường chỉ được hiểu là “cấp dưới”. Rồi đến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3, Điều 8 chỉ giữ lại cái Khoản 1 mập mờ, còn Khoản 3 thì hoàn toàn biến mất, do đó cả “Cơ quan, tổ chức” chung chung cũng không còn bị đòi hỏi “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật” nữa.
Chưa hết, cái quy định
“Ủy ban nhân dân… chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân”
tại Điều 123 Hiến pháp 1992 cũng bị xóa khỏi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Có lẽ họ đã kịp nhận ra như vậy cũng không ổn lắm: Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì không thành vấn đề, nhưng nếu bỏ cả quy định “chấp hành… các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên”, ngộ nhỡ địa phương không chịu nghe theo trung ương nữa thì sao? Cho nên, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3, họ đã đưa ra hai phương án: Với phương án 1 thì Ủy ban nhân dân vẫn không bị nhắc nhở là phải “chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật…”; phương án 2 khôi phục nguyên văn quy định của Điều 123 Hiến pháp 1992. Nếu phương án 1 được thông qua, thì không chỉ các cơ quan của đảng, mà cả các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều được “giải phóng” khỏi “trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật”. Còn nếu phương án 2 được thông qua thì chỉ Ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương phải “chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật” mà thôi. Dù bất cứ phương án nào của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 được chọn, thì công dân cũng vẫn được “chăm sóc chu đáo”, không bị bỏ sót, bởi:
“Điều 49 Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật…”
Hóa ra, nghĩa vụ Nhà nước chỉ nhất thời, nghĩa vụ Dân mới vạn đại.
*
Để hiểu rõ hơn Điều 4 Hiến pháp 1992 và các phiên bản biến dạng của nó, ta đã lan man sang một số điều khoản khác của Hiến pháp. Đấy không phải là lạc đề, mà để có được tầm quan sát bao quát hơn, nhằm thấu hiểu hơn bản chất và ý nghĩa của Điều 4. Phải so sánh với cách cư xử mà họ dành cho Dân, thì mới thấy rõ mức độ ưu ái mà thế lực cầm quyền dành riêng cho mình. Thế mới biết, trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại trên đất Việt, thì nguyên lý “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52 Hiến pháp 1992) cần được hiểu như thế nào. Vâng, “mọi công dân đều bình đẳng…”, nhưng giới cầm quyền còn “bình đẳng hơn”, và lãnh đạo cấp cao nhất thì tất nhiên phải được “bình đẳng nhất”. Có lẽ vì cái không gian dân chủ xã hội chủ nghĩa quá chật hẹp, nên giới cầm quyền phải đứng ngoài khuôn khổ pháp luật, phải đứng trên hiến pháp, để… “nhường chỗ cho Dân”.
Các điều khoản đã trích dẫn ở trên cho thấy: Chỗ nào thấy cần thì các tác giả Hiến pháp đều nhớ dùng từ “phải” hoặc những từ đồng nghĩa để nhấn mạnh sự “đòi hỏi”. Họ chỉ cố tình “quên” dùng từ “phải” ở Điều 4 mà thôi. Nhờ thế, Hiến pháp trao cho ĐCSVN quyền lực lãnh đạo tối cao vô biên, nhưng lại không đòi hỏi ĐCSVN phải thực hiện bất cứ điều gì, kể cả việc “nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”, như quy định ở Điều 12 đối với các thành phần còn lại của xã hội. Hơn nữa, bất luận thực tế tốt xấu ra sao, thì ĐCSVN cũng được “công chứng” trong Hiến pháp là đã “tiên phong…”, đã “trung thành…”, đã “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, và đã “gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Lối viết lấp lửng tạo cho người đọc ảo tưởng rằng lãnh đạo đảng đã tự giác đặt mình vào khuôn phép, nhưng vẫn đảm bảo cho “đấng tối cao” chẳng phải chịu bất kỳ ràng buộc pháp lý nào cả, và bất kể thế nào thì cũng vẫn được vinh danh.
Liệu đó có phải là thâm ý của những người đã ấn định nội dung Điều 4 trong Hiến pháp 1992 và hai phiên bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hay không?
Điều 4 như vậy có hợp lý không?
Viết ra và tung hô một điều như vậy có phải là tử tế không?
Chúng ta có thể nhắm mắt mà chấp nhận một điều hiến định như thế hay không?
29/08/2013 – Mừng Cháu tròn một tuổi
Cùng tác giả:
Rủi cho Phương Uyên – May cho Dimitrov
Quốc hiệu nào hội tụ lòng Dân?
Chẳng nhẽ độc quyền cả nói dối hay sao?
Chỗ đứng của Nhân dân trong Hiến pháp
Teo dần quyền con người trong Hiến pháp
Hãy để lương tâm lên tiếng một lần!
Một số khía cạnh hình sự của vụ án Tiên Lãng – Hải Phòng
Nhân vụ Tiên Lãng bàn về công vụ
Đảng Cộng sản Việt Nam thiếu chính danh
http://www.danchimviet.info/archives/78926/dang-cong-san-viet-nam-thieu-chinh-danh/2013/08
Giáo sư Hoàng Xuân Phú là một nhà toán học lớn. Ông tốt nghiệp Tiến sỹ Toán học ở Viện đại học Humboldt của CH Liên bang Đức, hiện là Tổng Thư ký Viện Toán VN kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Toán của Viện.
Gs Hoàng Xuân Phú cũng là một nhà báo đặc sắc, có Blog riêng mang tên ông. Ông dấn thân cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước, từng có mặt trong một số cuộc «Chủ nhật xuống đường» chống bành trướng. Ông từng có luận văn sắc sảo phản đối việc khai phá bauxite ở vùng Tây Nguyên, chỉ rõ hiểm họa xây dựng điện hạt nhân ở nước ta, và gần đây tích cực tham gia cuộc thảo luận về việc thành lập một đảng mới để cạnh tranh lành mạnh với đảng CS do luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận nêu lên.
Là giáo sư toán học, ông có nếp lập luận chặt chẽ, luôn chứng minh từ thực tế, truy tìm tận nguồn ngọn của vấn đề. Ông nghiên cứu kỹ các văn bản, hồ sơ lưu trữ, các đạo luật, nghị định liên quan đến việc lập hội, như Luật về Mặt trận Tổ quốc, Luật về Đoàn thanh niên, về Tổng liên đoàn Lao động… Từ đó ông phát hiện ra một vấn đề có thể nói là kinh thiên động địa: đó là Nhà nước đã quy định bất cứ tổ chức chính trị – xã hội nào hoạt động trên lãnh thổ VN đều phải làm đơn xin phép, khai lý lịch, tôn chỉ mục đích và chỉ được hoạt động khi có quyết định của chính quyền xét duyệt điều lệ, tôn chỉ mục đích và quy định rõ phạm vi, thể thức hoạt động, các mối quan hệ với chính quyền và các tổ chức khác trong xã hội. Vậy mà ông không tìm ra một lưu trữ nào nói rằng đảng CS Việt Nam đã tuân theo các thủ tục vừa kể.
Đảng CS Đông Dương, rồi đảng Lao động VN, rồi đảng CS Việt Nam chưa hề nộp một giấy xin phép nào cho cơ quan hành chính, nhà nước, cũng chưa nhận được giấy phép hợp lệ nào. Nhà toán học cả đời làm vô vàn chứng minh cho các bài toán gai góc nhất của mình, bỗng đứng trước một kết luận rất đáng buồn cho đảng CS, cũng rất buồn cười cho toàn xã hội, là đảng CS Việt Nam trên thực tế là một đảng bất hợp pháp, là một đảng … chui, nghĩa là hoạt động không có giấy phép.
Vậy mà trong Điều lệ Đảng CS ghi rõ: «Đảng CS VN hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật». Nó nói vậy nhưng không hề làm.
Giáo sư Hoàng Xuân Phú cho rằng xét về thủ tục hành chính, đảng CS đã tự cho mình đặc quyền hành chính, không ghi danh, cũng không làm đơn xin phép hoạt động. Đây là một lỗ hổng hành chính đáng trách.
Theo ông, về mặt thực thi Hiến pháp, mỗi điều khoản Hiến pháp đều có một đạo luật tương ứng hướng dẫn thể thức, phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn áp dụng trong cuộc sống. Thiếu một đạo luật như thế, một điều khoản Hiến pháp như Điều 4 quy định vai trò lãnh đạo của đảng CS trong xã hội không thể, chưa thể đưa ra thực hiện được. Lẽ ra việc thực hiện phải bị treo lại cho đến khi có luật về đảng CS, hay luật về các đảng chính trị nói chung, trong đó có đảng CS. Gs Hoàng Xuân Phú chỉ ra rằng trong một phiên họp quốc hội, từng có ý kiến của lãnh đạo là Hiến pháp tuy có quy định quyền biểu tình, nhưng vì chưa có Luật về biểu tình nên quyền đó phải bị treo lại để chờ luật; vậy chưa có Luật về đảng CS thì mọi hoạt động của đảng CS lẽ ra cũng phải bị treo lại.
Giữa cuộc tranh luận trên, ông Nguyễn Ngọc Già trên mạng Dân Làm Báo chất vấn ông Vũ Minh Giang, từng là phó giám đốc Đại học Quốc gia, rằng Điều 4 Hiến pháp do đảng CS tự mình đề ra có giá trị gì không, người dân công nhận điều đó bằng cách nào? Không có thảo luận, không có trưng cầu dân ý. Tất cả chỉ là tự vỗ ngực mình rồi bảo là toàn dân công nhận, qua một cái gọi là Quốc hội, thật ra là đảng hội, vì đảng viên CS chiếm 90% số ghế. Dân không hề có ý kiến. Rõ ràng lại một kiểu ăn gian, phi pháp, thiếu đạo đức được chứng minh.
Vẫn chưa hết. Gs Hoàng Xuân Phú muốn đưa cuộc tranh luận đến tận cùng chân lý. Ông đặt vấn đề đảng CS khẳng định trong điều lệ là đảng trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, mang bản chất của giai cấp công nhân, trung thành với quyền lợi của công nhân, lao động và dân tộc, hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và luật pháp, tất cả 4 vấn đề then chốt ấy đều không hề được chứng minh trong thực tế, trong cuộc sống.
Chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn đã bị lịch sử lên án với đấu tranh giai cấp tàn khốc và chuyên chính vô sản đẫm máu; đảng CS không cho công nhân được lập công đoàn tự do của mình, chuyên bênh các chủ đầu tư tư bản; đảng CS xóa bỏ quyền người cày có ruộng của nông dân; tự đặt mình trên Hiến pháp và ngoài luật pháp; tất cả đều chứng minh đảng CS đã sai lầm tận gốc trong cả 4 vấn đề then chốt. Nó nói một đằng làm một nẻo, chuyên đi ngược lòng dân, chiều lòng bọn bành trướng; tính thiếu chính đáng, tính bất hợp hiến và bất hợp pháp của nó, tính thiếu đạo lý đạo đức lương thiện của nó cùng với tệ nhũng lạm nặng nề không sao ngăn chặn, đang hiện rõ.
Trong tháng 10 Quốc hội sẽ họp để thông qua bản sửa đổi Hiến pháp cuối cùng. Chẳng lẽ cả 500 vị đại biểu Quốc hội – mà 90% là đảng viên CS cấp cao – đã mất hoàn toàn mối liên hệ với nhân dân, với cử tri, với những trí thức trung thực, thức tỉnh, như giáo sư Hoàng Xuân Phú và hàng vạn trí thức ký tên bác bỏ bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội từng thông qua hồi đầu năm hay sao?
Đảng CS như một lâu đài được xây dựng trên cát lỏng, đang có nguy cơ chìm nghỉm.
Bùi Tín (VOA)
Chính phủ Việt Nam bênh vực nghị định mới về internet
VOA, Marianne Brown, 29.08.2013
Nghị định 72 đòi hỏi các trang blog và các trang mạng xã hội khác chỉ được đăng tải thông tin cá nhân.
Tin liên hệ
- Liên minh về Quyền Tự do trên Mạng ra thông cáo chung về nghị định 72 của VN
Trí thức Việt ra Tuyên bố phản đối Nghị định 72 về quản lý internet
Thỉnh nguyện thư kêu gọi Mỹ không đàm phán TPP với Việt Nam
Blogger VN trao Tuyên bố phản đối điều luật 258 cho đại sứ quán Đức- RSF sắp phát động chiến dịch đòi VN trả tự do cho blogger
- Thỏa thuận thương mại TPP gặp vướng mắc vì bất đồng
- Ý nghĩa bản án của Phương Uyên-Nguyên Kha
- Ông Lê Hiếu Đằng: Báo Quân đội Nhân dân ‘bỏ bóng đá người’
HÀ NỘI — Nghị định về quản lý internet của Việt Nam sẽ bắt đầu có hiệu lực vào chủ nhật này. Những người chỉ trích nói rằng những luật lệ mới này nhắm tới việc bóp nghẹt tự do ngôn luận trên mạng và có thể làm cho các doanh nghiệp không muốn làm ăn ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà cầm quyền Hà Nội nói rằng luật mới có mục đích bảo vệ tài sản trí thức và chống nạn đạo văn. Từ Hà Nội, thông tín viên Marianne Brown gởi về bài tường thuật sau đây.
Các chính phủ nước ngoài, các nhân vật tranh đấu nhân quyền và các công ty internet đã chỉ trích những luật lệ mới của Việt Nam về nội dung internet mà họ nói là đe dọa quyền tự do ngôn luận.
Nghị định 72 đòi hỏi các trang blog và các trang mạng xã hội khác chỉ được đăng tải thông tin cá nhân. Nghị định cũng đòi hỏi các công ty trong nước phải theo dõi các trang mạng để ngăn chặn những nội dung bất hợp pháp. Danh sách dài của những hoạt động bị cấm bao gồm “mê tín dị đoan”, “phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc.”
Vấn đề trừng phạt những vụ vi phạm còn đang trong vòng soạn thảo.
Những người chỉ trích nói rằng Nghị định 72 có từ ngữ mơ hồ và quá bao quát và theo họ, đây là những dấu hiệu cho thấy luật này nhắm tới việc làm im tiếng những người chỉ trích chính phủ trên mạng.
Ông Adam Sitkoff của Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam cho biết ý kiến như sau.
“Quá trình làm luật ở Việt Nam thường không rõ ràng. Tuy việc tham khảo ý kiến của những cá nhân và tổ chức có quyền lợi và quan tâm được thực hiện, nhưng các luật lệ đôi khi tạo ra những hậu quả ngoài ý muốn, gây phương hại cho môi trường kinh doanh và đầu tư của Việt Nam.”
Đứng trước những sự chỉ trích này, Hà Nội đã lên tiếng bênh vực cho luật mới. Một bài viết đăng trên tờ Nhân dân của Đảng Cộng Sản ngày 6 tháng 8 nói rằng tuy phần lớn những người sử dụng internet ở Việt Nam thông tin liên lạc với nhau một cách có văn hóa, nhưng có một số người dùng phương tiện truyền thông xã hội làm nơi thực hiện những hành vi “thiếu văn hóa, bôi nhọ danh dự, uy tín của người khác”, và “xuyên tạc, công kích quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, lôi kéo, hô hào, kích động sữ chống đối …” Bài viết nói thêm rằng “thực trạng đó cho thấy việc lành mạnh hóa và việc quản lý bằng pháp luật đối với internet là hết sức cần thiết.”
Việc bảo vệ bản quyền ở Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết và những người bênh vực Nghị định 72 nói rằng những luật lệ mới này có ích cho các nhà xuất bản và những người sản xuất phần mềm.
Ông Đỗ Anh Minh, chủ biên trang mạng Tech in Asia cho biết luật này một phần là kết quả của hai vụ kiện. Vụ thứ nhất liên quan tới trang mạng tin tức Báo Mới, là nơi đăng lại những bài viết của báo chí trong nước mà không xin phép.
“Các tờ báo đã cùng nhau kiện Báo Mới. Đó là phần vận động của giới báo chí.”
Vụ thứ nhì là vụ Nhạc Của Tui, một trang mạng mà những người sản xuất trò chơi điện tử và những người chơi game chia sẻ trò chơi trên mạng. Nhưng địa điểm này gây ra một vụ tranh cãi hồi đầu năm nay vì có nhiều trò chơi bị sao chép lậu.
Ông Minh cho rằng những sự hạn chế đối với những nội dung có thể được đăng lại sẽ có ích cho sự bảo vệ chống lại nạn sao chép trái phép.
“Vấn đề này trên cơ bản là vấn đề tác quyền. Tôi nói chuyện với một vài người bạn trong công nghiệp trò chơi điện tử. Đối với họ thì đây là việc tốt vì họ có được sự bảo vệ của pháp luật cho các game của họ.”
Việt Nam có hơn 13 triệu người chơi video game và công nghiệp này đang phát triển một cách nhanh chóng. Ông Nguyễn Tuấn Huy là người sáng lập Emobi Games, một trong các công ty trò chơi điện tử hàng đầu ở Việt Nam. Ông nói rằng tuy ông không đồng ý với mọi phần của Nghị định 72, nhưng luật này có thể giúp ích cho công nghiệp trò chơi điện tử.
“Luật này tốt, vì tại thời điểm này bất cứ việc gì mà chính phủ làm là tốt hơn không làm gì cả. Ba năm trước chính phủ không làm gì cho công nghiệp trò chơi điện tử cho nên chúng tôi lâm vào một tình huống rất khó khăn.”
Việt Nam đang tham gia các cuộc thương thuyết về Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái bình dương TPP, một tổ chức thương mại tự do do Hoa Kỳ dẫn đầu. Hiện chưa rõ những sự hạn chế mới có thể có đối với tự do ngôn luận hay những sự bảo vệ tác quyền sẽ ảnh hưởng tới cuộc thương thuyết này như thế nào.
Về vấn đề này, ông Sitkoff của Phòng Thương mại Mỹ cho biết như sau.
“Cuộc thương thuyết không diễn ra công khai nên khó mà biết được Việt Nam sẽ phải làm những gì về vấn đề quyền sở hữu tài sản trí thức và những vấn đề tương tự. Tôi nghĩ rằng có một việc mà nhiều người nhận thấy là trong số 12 nước tham gia cuộc thương thuyết TPP, Việt Nam là nước kém phát triển nhất và Việt Nam là nước còn cần phải làm nhiều việc nhất.”
Theo dự liệu, các nước thành viên TPP có bổn phận bảo vệ tài sản trí thức của các nước thành viên khác. Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Việt Nam cho đài VOA biết trong một văn thư rằng chính phủ Việt Nam đã đặt nền tảng pháp lý cho việc chấp hành qui định về quyền tài sản trí thức, nhưng còn nhiều việc cần phải làm để ngăn chận “sự vi phạm bản quyền trên qui mô thương mại.”
Hãy để ước nguyện Lê Hiếu Đằng thành hiện thực
http://www.danchimviet.info/archives/78938/hay-de-uoc-nguyen-le-hieu-dang-thanh-hien-thuc/2013/08
Tôi đã từng viết bài xiển dương những đảng viên Cộng sản phản tỉnh: Trần Dộ, Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Vũ Cao Quận, Tô Hải, Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Trần Đại Sơn, Trần Lâm, Trần Nhơn, Phạm Đình Trọng ….Họ đều từng là những chiến sỹ Cộng sản kiên trung và cùng chiến tuyến với tôi qua mấy cuộc chiến: chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc.
Sự trân quý tương tự cũng từng được dành cho Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh, và nay là Lê Hiếu Đằng, khi tôi được đọc những dòng huyết lệ của ông viết từ giường bệnh. Sự phản tỉnh của Lê Hiếu Đằng muộn mằn hơn nhưng hơi thở hắt ra từ một người đang lâm bệnh hiểm nghèo, nghe như “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”, có sức lay động lòng người rất đáng kể, đặc biệt là trong tình hình hiện nay.
Tôi vừa quý trọng vừa cảm thương Lê Hiếu Đằng. Ông còn trẻ hơn tôi gần chục tuổi, nhưng lẽ nào …! Dẫu sao, trong cái bụi mận gai bệnh tật hiểm nghèo, ông cũng đã cố rướn mình hót tiếng hót rất hay. Tôi cứ nghĩ mọi người đều có khả năng thẩm âm tối thiểu để lắng nghe, để thưởng thức, để thấu hiểu được, ngõ hầu nếu không đồng thanh tương ứng mà cùng kêu gọi “Phá xiềng” như Hồ Ngọc Nhuận thì chí ít cũng ngỏ lời an ủi, góp liều thuốc tinh thần chung sức cùng y tế vực Lê Hiếu Đằng dậy mà chung lưng gánh trách nhiệm thực hiện hoài bão ông đề xướng.
Trớ trêu thay, tiếng hót thành tha ấy tuồng như đang bị chìm lấp trong ầm ĩ, nhao nhao những điều ong tiếng ve!
Dẫu biết khả năng thuyết giải rất không đáng kể, bài viết này, may chăng, mong được chia sẻ cùng luật gia Lê Hiếu Đằng – một người bệnh đang sống rất mạnh mẽ, rất ngoan cường.
Trong nhao nhao, ầm ĩ những điều ong tiếng ve kia, ngạc nhiên thay, không chỉ có tiếng của bọn bồi bút, của những kẻ đâm thuê chém mướn “chống diễn biến hòa bình” … mà cả những “ngài” nhân danh “dân chủ”, “chống Cộng”!
Những chiến sỹ tuyên giáo của Đảng, kể cả loại như giáo sư Vũ Minh Giang, nhà báo Trọng Đức … thì vì cái bệnh nói lấy được, nói không biết xấu hổ trước thực tiễn nên khó bề lọt tai, tuy nhiên, cái sự nhộn nhạo xô bồ, giả thực giả hư của đám người nhân danh “dân chủ”, “chống cộng” kia thì hiệu quả phá đám đôi khi nguy hại hơn nhiều.
Nói chung, lý lẽ của họ chẳng có gì đáng nghe. Điều rất đáng phàn nàn là vì “cùn” nên họ đành chơi trò “bỏ bóng đá người” .
Sao cứ phải ỷ eo lôi mãi chuyện lý lịch cổ xưa ra để chì chiết con người!
Ông Lê Hiếu Đằng – xưa là Phó Tổng thư ký Uỷ ban Trung Ương Liên Minh các Lực lượng Dân tộc Dân Chủ và Hoà Bình Việt Nam, chống Mỹ, chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngay giữa Sàigòn với ông Lê Hiếu Đằng nay, Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thp HCM mà lại bất tuân chủ trương đường lối của ĐCSVN – đều xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân rất trong sáng, rất vị tha, rất cương cường. Con người ấy khả kính lắm chứ.
Phải dũng cảm và chân thành mà nhận rằng hầu hết tất cả chúng ta, trong đó có tôi và quý vị nói chung đều có tội đối với dân tộc, với đất nước; đều đã lầm lỗi. Lầm lỗi do tự lầm lẫn. Lầm lỗi do bị lường gạt.
Người Cộng sản từng lầm lỗi. Người Chống Cộng cũng từng lầm lỗi.
Trớ trêu sao, ta lầm lỗi chính vì ta yêu nước. Càng trớ trêu hơn khi lầm lỗi nặng hơn, tội lớn hơn lại gây bởi những người có tấm lòng yêu nước thiết tha hơn.
Làm sao có thể nghi ngờ lòng yêu nước thương nòi, ý chí chống cường quyền, mưu cầu độc lập của tuyệt đại đa số những người đã giơ nắm tay gầy guộc tuyên thệ dưới lá cờ búa liềm trước năm 1945. Khi ấy (và chỉ khi ấy), họ theo Mac-Lenin chủ yếu vì mục tiêu giành độc lập dân tộc, chống áp bức, bất công. Họ không mưu tính thấp hèn, cũng không dốt nát. Dốt nát sao được với những cái đầu như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Tạ Quang Bửu, Trần Dần …. Ông Đặng Văn Âu kể rằng: “Khi tôi gọi điện thoại về Việt Nam cho bác sĩ Nguyễn Khắc Viện để hỏi tại sao một người thông minh lỗi lạc như anh mà đi theo Đảng cộng sản, một đảng đã đấu tố thân phụ anh cho đến chết, ông đáp: “Vì mình chống bọn Thực dân, vì mình quá khao khát độc lập tự do nên mình ngây thơ” ”.
Cho nên tôi thật ngạc nhiên khi thấy một số người dám lớn tiếng chê bai, thậm chí rủa xả tất cả những người từng theo Cộng sản. Họ thật hợm hĩnh, thật hàm hồ!. Tôi rất đồng ý với Tổng Bí thư ĐCS Tiệp Khắc Milovan Djilas khi ông nói: “20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản là không có cái đầu”.
Không phải tất cả, nhưng nghĩ rằng nhiều người đã không theo Cộng sản chỉ vi không có trái tim.
Tôi chưa từng là đảng viên ĐCS không phải vì tôi sáng suốt mà chỉ vì tôi không được Đảng kết nạp. Tôi đã từng uống nước căng bụng, mượn chiếc giây lưng to bản để đủ cân tuyển đi bộ đội chống Pháp, đã từng có thơ đăng trong tuyển tập thơ Chống Mỹ, đã từng phấn đấu đến mức được cơ sở đề nghị phong Anh hùng Lao động … nhưng không được kết nạp Đảng chỉ vì lý lịch gia điình (Ba tôi là nhân viên cơ quan USAID của Hoa Kỳ, ba em trai tôi đều là lính Việt Nam Cộng hòa). Dẫu vậy tôi vẫn tin vào lương tri của chủ nghĩa xã hội, mãi cho đến năm 1980, khi tôi được đến một nước tư bản để dự Hội thảo Quốc tế về Cổ Địa Từ học, và nhất là đến năm 1989, khi tôi được đến Washington để trình bầy một báo cáo tại Hội nghị Địa chất Quốc tế lần thứ 28.
Lời kêu gọi thành lập Đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng đã hợp thời chưa?
Hợp thời và rất cần thiết. Từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến nay, nhiều Hội đoàn, Đảng đối lập đã tuyên bố thành lập trong nước nhưng đều bị bóp chết từ trong trứng hoặc chỉ sống vật vờ, nhưng nay tình hình đã có nhiều yếu tố của “đêm trước”. Những sai lầm của chủ trương, đường lối ĐCSVN đã tích tạo nên nguy cơ bùng nổ xã hội. Nạn tham nhũng đục khoét tâm can mọi người. Chính sách ruộng đất phản hiện thực đang đẩy hàng đoàn nông dân ngày tiếp ngày kéo nhau đi biểu tình. Doanh nghiệp thoi thóp. Thanh niên, trí thức bị đẩy vào đường cùng càng sục sôi bức bối trước những bất công ngày càng phơi bầy nhức nhối. Nhờ internet, giác ngộ xã hội được bừng thức. Những bức xúc xã hội đang trở thành bức xúc chính trị. Những phản ứng tự phát đang mang yếu tố tự giác. Giới trẻ tham gia vào các hoạt động chính trị-xã hội với nhiều sáng kiến “thiên biến vạn hóa” đang mặc nhiên thiết lập xã hội công dân. Đặc biệt là tình trạng lãnh đạo Đảng đã phân hóa và đang trở nên rối ren, thối nát. Đảng không chỉ đối lập với nhân dân mà còn vô trách nhiệm với Tổ Quốc. Làm sao có thể chấp nhận được một ông Chủ tịch Quốc hội dám lấp liếm trước Quốc hội rằng “Biển Đông không có gì mới” trong khi Trung Quốc đã thành lập thành phố Tam Sa và xua đuổi, bắt bớ giết chóc ngư phủ Việt Nam ngay trên lãnh hải của ta. Làm sao có thể chấp nhận một ông Tổng Bí thư chủ trương mời công an Trung Quốc vào Việt Nam để “giữ gìn ổn định trong nước của mình” (chữ trong văn bản ký kết giữa TBT Nguyễn Phú Trọng với Hồ Cẩm Đào). Đã phát hiện được gián điệp Trung Quốc nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta còn ngờ rằng nội ứng Trung Quốc nằm ngay trong cơ quan đầu não của Đảng như những biểu hiện đã thấy.
Câu khẩu hiệu “Tổ quốc hay là chết” trong tình hình này phải được hiểu là “Đa đảng hay là chết”. Tổ quốc sẽ chết vì suy thoái toàn diện, vì tham nhũng …, và, cay đắng hơn, vì chui vào ách đô hộ của Trung Quốc nếu luẩn quẩn mãi trong những chủ trương đường lối tăm tối của ĐCSVN.
Sẽ có người hỏi vì sao câu khẩu hiệu không phải là “ĐCSVN phải chết để Tổ quốc được sống”.
Câu khẩu hiệu đó không nên nêu lên trong lúc này vì hai lý do:
Một là, chưa thể thực hiện được. Cho đến hiện nay chưa có tổ chức nào, lực lượng nào lật đổ được và thay thế được ĐCSVN, ngoại trừ, chính những người trong bộ phận lãnh đạo của ĐCSVN.
Hai là, câu khẩu hiệu ấy bộc lộ tính phản dân chủ. Tại sao nhất thiết phải có mày không tao? Tại sao cứ tao sống thì mày phải chết? Tại sao vướng vất mãi tinh thần “Đường vinh quang xây xác thù” thật ghê rợn!.
Ngay ở những nước dân chủ lâu đời ĐCS vẫn cứ được tồn tại đấy chứ.
Có sợ Đảng cuội, đối lập cuội không? (Chữ cuội ở đây được hiểu là cơ sở cứu hộ của ĐCSVN)
Mấy chữ “Đảng cuội”, “Đối lập cuội” chẳng qua do mấy ông bà “Dân chủ cuội”, “Chống Cộng cuội” nặn ra để khích bác nhau, vùi dập nhau. Trong thực tế mấy thập kỷ qua, ai có thể chứng minh một cách đứng đắn ông/bà A,B, tổ chức/hội đoàn X,Y nào là đối lập cuội không?
Nếu Đảng của ông Lê Hiếu Đằng có là do ông S, ông D nào đó xui lập ra thì vẫn nên ủng hộ. Nếu chưa được là Hai thì Một Phẩy đứng bên Một cũng là “đa” rồi. Chỉ Một thì cứ là Một mãi nhưng có Một Phẩy thì rất dễ chuyển hóa thành Hai, thành Ba …
Chính tôi đã từng thành khẩn khuyến nghị ĐCSVN nên chủ động thiết lập đa đảng bằng cách cho hình thành một vài đảng anh em của ĐCSVN kiểu như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội trước đây để tạo trạng thái cạnh tranh thân ái, lành mạnh, tránh sát phạt, đổ máu.
Có người phê phán đó là đường lối cải lương, nhưng hãy nhớ lại, trước đây cụ Phan Châu Trinh cũng đã từng bị những người Cộng sản phê phán là cải lương. Hẳn là, đối với những người Cộng sản, chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, “ỷ Pháp giành độc lập” lúc bấy giờ cũng chướng tai, cũng gây phẫn nộ như chủ trương “khuyến ĐCSVN thực hiện đa đảng” đối với những người chống Cộng mù quáng, chống Cộng bạt mạng ngày nay vậy. Nhưng, thử tưởng tượng xem, nếu dân tộc được dắt dẫn theo con đường Phan Châu Trinh thì ngày nay sẽ thế nào. Chắc chắn đã không có cảnh núi xương sông máu mà ít ra Việt Nam sẽ không phải đối mặt với sự tác oai tác quái của Trung Quốc như đang thấy.
Bởi vậy, tôi nhiệt liệt hoan nghênh ông Lê Hiếu Đằng và thành tâm chúc ông mau phục hồi sức khỏe để thực hiện ước nguyện cao cả của ông. Thúc giục một người bệnh dốc sức cho việc chung đôi khi là vô nhân đạo nhưng tôi hy vọng đấy cũng sẽ là một phương thuốc tinh thần kích thích nội năng để rồi ông có thể vượt qua và sẽ được ban thưởng xứng đáng.
Đề nghị ông hãy mau liên kết với nhiều thành phần, nhiều cá nhân không chỉ trong mà cả ngoài Đảng, đặc biệt là giới trẻ để gấp rút hình thành tổ chức và sớm công bố được bản cương lĩnh của đảng Xã hội Dân chủ Việt Nam trên cơ sở tham khảo các văn bản của “Phong trào Con đường Việt Nam” ở trong nước và của “Tập hợp Dân chủ Đa nguyên” ở ngoài nước.
Hà Nội 28 tháng 8 năm 2013
© Nguyễn Thanh Giang
© Đàn Chim Việt
Hậu trường ngoại giao Mỹ – Việt
Cuộc gặp lãnh đạo Mỹ Việt được xem là có tính hình thức và theo kịch bản có sẵn.
Một nhà báo Mỹ vừa cảnh báo Chính phủ Tổng thống Barack Obama về những rủi ro nếu tiếp tục ép Việt Nam phải chấp nhận các điều khoản ‘bất lợi’ khi gia nhập hiệp định TPP.
Trong bài đăng ngày 28/08, ông Greg Rushford, nhà báo chuyên về phóng sự điều tra chính trị trong mậu dịch quốc tế, nói về điều mà ông gọi là Washington đang “chơi trò hăm dọa, ép Hà Nội chấp nhận một thỏa thuận kinh tế rõ ràng không vì lợi ích của Việt Nam – và có thể sẽ thành công”.
Tiết lộ đưa ra trong bối cảnh các Bộ trưởng Kinh tế thuộc 12 nước vành đai Thái Bình Dương mới đây tham gia đàm phán lần thứ 19 về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) 22-23 tháng Tám 8 ở Brunei.
Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng dẫn đầu đoàn Việt Nam tham gia vòng đàm phán này.
Bấm Bài báo cũng bàn về động thái của Bộ Chính trị Việt Nam trong việc mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế với các cường quốc chính, ông Sang và ông Obama đã nói gì với nhau tại Tòa Bạch Ốc và những ai có mặt trong cùng phòng họp của hai nhà lãnh đạo này.
Chủ tịch Sang bày tỏ mong muốn tăng cường quan hệ với Mỹ
Khác với các cuộc tọa đàm “tay đôi” giữa Richard Nixon và Mao Trạch Đông, Franklin Roosevelt và Joseph Stalin, cuộc gặp của lãnh đạo Mỹ Việt vào hôm 25/07 được xem là có tính hình thức và theo kịch bản có sẵn, điển hình cho các đời tổng thống Mỹ tiếp đón các vị khách nước ngoài trong những năm gần đây.
Ngoài Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Nông nghiệp Cao Đức Phát Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Đào Việt Trung, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường, người ta còn thấy có Trung Tướng Tô Lâm, Thứ trưởng Bộ Công an, Ủy viên Trung ương Đảng.
Với sự hiện diện của quá nhiều người – không phải tất cả trong số họ đều trung thành với phe ủng hộ Chủ tịch Sang trong Bộ Chính trị – chẳng có chủ tịch nước Việt Nam nào sẽ thấy mình ở thế để tiếp cận và đàm phán có thực chất và qui mô, tác giả nhận định.
Tuy nhiên ông Rushford quan tâm nhiều hơn tới ba quan chức Việt Nam khác cũng có mặt trong Phòng Bầu Dục nơi ông Sang họp với ông Obama, đó là người phiên dịch Phạm Xuân Hoàng Ân, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh và Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Cả ba nhân vật này đều có những người cha gắn với lịch sử Mỹ-Việt.
Cha của Phạm Xuân Hoàng Ân là cựu điệp viên cộng sản Phạm Xuân Ẩn, nhân viên tình báo có thể xem là quan trọng nhất của Hà Nội trong giai đoạn Cuộc chiến Việt Nam. Ân hiện đang làm việc cho Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại San Francisco và “cũng như cha mình, con trai cố điệp viên là người biết về cả hai đất nước rất rõ”.
Trong khi đó Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (con của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh), từng là lãnh đạo Tổng Cục 2 (Cơ quan tình báo của Bộ Quốc Phòng), và hiện là Ủy viên Trung ương Đảng, được xem là nhân vật chủ chốt trong chiến lược “đi dây” của Việt Nam khi đối thoại với các cường quốc có lợi ích an ninh tại khu vực Thái Bình Dương.
Tướng Vịnh được xem là nhà chiến lược quan trọng trong một loạt các chủ đề nhạy cảm: đối phó với việc Trung Quốc hăm dọa tại Biển Đông trong khi đồng thời thiết lập quan hệ quân sự với Bắc Kinh; mua sắm tàu ngầm và các vũ khí khác của Nga; và cũng tăng cường quan hệ quân sự Mỹ-Việt.
Ngoại trưởng Phạm Bình Minh cũng có người cha nổi tiếng. Ông Nguyễn Cơ Thạch là Bộ trưởng Ngoại giao trong giai đoạn 1980-1991. Ông đã có những nỗ lực nhưng không thành trong việc bình thường hóa quan hệ với bên thua cuộc Hoa Kỳ. Cũng giống như cha mình, ông Minh được xem là người thấu hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển các quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ nhằm đối phó với ảnh hưởng lấn át của Trung Quốc.
Trong lần nói chuyện tại Hội đồng Quan hệ Nước ngoài vào năm 2011, ông Minh thẳng thắn nói về giai đoạn hết sức “hận” Hoa Kỳ khi còn nhỏ, là lúc ông phải chứng kiến cảnh Hà Nội bị Mỹ ném bom. Tuy nhiên kể từ khi theo nghiệp ngoại giao sau chiến thắng của Hà Nội vào năm 1975, ông Minh – cũng giống cha mình – tập trung sự nghiệp vào cách nhằm thiết lập quan hệ gần gũi hơn với cựu thù chiến tranh của Việt Nam.
Bình luận về những khó khăn trong việc đàm phán gia nhập TPP, ông Rushford cho rằng “Có lẽ những người sắc sảo và khôn ngoan đóng vai trò định hướng cho Bộ Chính trị Việt Nam sẽ có cùng quyết tâm như thế hệ cha anh của mình”.
Tác giả cho hay một trợ lý báo chí của Tòa Bạch Ốc từ chối tiết lộ những ai (của cả phía Việt Nam và phía Hoa Kỳ) có mặt trong Phòng Bầu Dục. Một số nhà báo có mặt lúc hai bên tiếp xúc với báo giới cho biết về phía Hoa Kỳ, ngoài Cố vấn An ninh Quốc gia Susan Rice, Bộ trưởng Thương mại Penny Pritzker và trưởng đoàn đàm phán mậu dịch Hoa Kỳ Michael Froman còn có thêm hai quan chức khác nữa.
Bà Pritzker là lính mới trong ngành ngoại giao. Bộ Thương mại của bà là nơi Hà Nội không ưa gì bởi họ đưa ra các thứ thuế chống bán phá giá nhắm vào ngành xuất khẩu tôm và cá tra của Việt Nam. Ông Froman mặc dù cũng gần gũi với ông Obama, dường như tập trung vào sự nghiệp chính trị nội địa nhiều hơn là kinh nghiệp đối ngoại thực thụ.
Từ Phương Uyên đến Lê Hiếu Đằng – Hai thế hệ trắng và xám
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/08/tu-phuong-uyen-en-le-hieu-ang-hai-he.html#.UiC-zj_3qSw
Trung Quốc điều tra ‘ông trùm an ninh’
bbc, 30 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2013/08/130830_china_zhou_yongkang_probe.shtml
Bác Hong Kong nói lãnh đạo Trung Quốc quyết định điều tra trùm công an Chu Vĩnh Khang
Có tin nói cựu ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Chu Vĩnh Khang, người gần gũi với Bạc Hy Lai, đang bị điều tra.
Giới lãnh đạo cao cấp đã chấp thuận cho điều tra cáo buộc tham nhũng đối với cựu trùm an ninh Chu Vĩnh Khang, người cho tới gần đây vẫn là một trong các chính trị gia quyền lực nhất Trung Quốc, hãng tin AP trích nguồn một tờ báo Hong Kong.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Chu Vĩnh Khang từng giữ chức Bộ trưởng Công an và đứng đầu Ủy ban Chính pháp của Trung ương Đảng, là nhân vật đứng thứ chín trong bộ máy quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Các đồn đoán về việc Chu Vĩnh Khang bị điều tra bắt đầu loang ra từ hồi tháng Tư năm ngoái, do ông có mối quan hệ thân thiết với chính trị gia thất thế Bạc Hy Lai, người vừa bị xét xử hồi tuần trước với các tội danh tham nhũng và lộng quyền.
AP dẫn lời báo tiếng Anh, South China Morning Post, trích các nguồn “gần gũi với giới lãnh đạo” nói các vị lãnh đạo đương nhiệm và đã nghỉ hưu đã ra quyết định điều tra ông Chu, người từng phụ trách các hoạt động an ninh rộng lớn của Trung Quốc, có chân trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị, một người trong đỉnh cao quyền lực chính trị.
Tờ báo Hong Kong nói quyết định này được đưa ra hồi đầu tháng Tám, trong một cuộc họp kín của các quan chức cao cấp tại một khu nghỉ dưỡng ven biển.
Tường thuật của South China Morning Post nói cuộc điều tra sẽ tập trung vào các thỏa thuận khai thác dầu và bất động sản vốn đem lợi về cho ông Chu và gia đình.
Tuy nhiên, nội dung tường thuật của báo này không thể kiểm chứng độc lập.
AP nói các đề nghị xin ý kiến bình luận đã được gửi bằng fax tới Hội đồng Thông tin Báo chí Nhà nước và Văn phòng Báo chí Nội các cùng Ban Tuyên giáo Trung ương nhưng chưa được hồi âm.
Nếu quả thật tin này chính xác, thì đây sẽ là lần đầu tiên kể từ hàng chục năm qua một ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, đương chức hoặc đã nghỉ hưu, bị đưa ra truy tố.
Cuộc điều tra ông Chu, năm nay 70 tuổi, nếu có, có lẽ sẽ thể hiện sự quyết tâm của giới lãnh đạo mới trong cuộc chiến chống tham nhũng.
Trước khi nghỉ hưu hồi tháng Mười Một năm ngoái, trong dịp chuyển giao thế hệ lãnh đạo, ông Chu là quan chức đứng thứ chín trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cứng rắn
Sinh năm 1942, trong những năm đầu sự nghiệp, ông hoạt động trong ngành dầu khí quốc doanh, và sau đó trở thành tổng giám đốc của tập đoàn dầu khí China National Petroleum Corp, là tập đoàn dầu khí lớn nhất nước, thuộc sở hữu nhà nước.
Sau đó, ông đứng đầu Bộ Đất đai và Tài nguyên, rồi làm Bí thư tỉnh Tứ Xuyên trước khi lên phụ trách ngành công an hồi đầu thập niên 2000.
Trong thời gian ở Tứ Xuyên, ông nổi tiếng với việc xử lý thẳng tay đối với những người bất đồng, cứng rắn với các nhóm Tây Tạng và cấm phong trào Pháp Luân Công hoạt động.
Về sau này, ông vẫn luôn tỏ thái độ sẵn sàng trấn áp cái mà ông gọi là “các thế lực thù nghịch”.
Ông Chu có ảnh hưởng rộng lớn lên các lực lượng cảnh sát và bán vũ trang, chiu trách nhiệm bảo đảm ổn định trong những giai đoạn nổi lên nhiều vụ bạo loạn.
Ông cũng được nhìn nhận là người có tầm gây ảnh hưởng tới ngành dầu khí thông qua các mối quan hệ của mình.
Tuy nhiên, các tường thuật trên truyền thông hải ngoại Trung Quốc nói rằng hồi đầu năm ngoái, Chu đã bị để ý do ông là người công khai ủng hộ chính trị gia sa cơ Bạc Hy Lai.
Người ta tin rằng Chu muốn đưa Bạc lên làm người thay thế mình, và đã ủng hộ cho tham vọng của Bạc trong việc giành một chân trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị.
Bản lên tiếng của các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam về trường hợp của Đỗ Thị Minh Hạnh
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/08/ban-len-tieng-cua-cac-chuc-sac-ton-giao_30.html#.UiCwzD_3qSw
Phản đối nhà cầm quyền đang dùng nhà tù ngược đãi những thanh niên yêu nước và yêu cầu đưa sinh viên tù nhân Đỗ Thị Minh Hạnh ra ngoài chữa bệnh
Kính gởi:
– Quý vị hữu trách trong Quốc hội và Chính phủ Việt Nam.
Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam
– Xét rằng tại Việt Nam hiện nay có quá nhiều thanh niên yêu nước, bất đồng chính kiến bị nhà cầm quyền bắt giam và xử tù nặng bằng những lý cớ tùy tiện, những bản án oan sai, hoàn toàn trái ngược và vi phạm các Công ước quốc tế Nhân quyền, Hiến pháp và Luật hiện hành. Họ là 14 thanh niên sinh viên Công giáo và Tin Lành, là luật sư Lê Quốc Quân và doanh nhân Lê Đình Quản, là các blogger Đinh Nhật Uy và Đinh Nguyên Kha, là các nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, là những người đấu tranh cho công nhân Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và Đỗ Thị Minh Hạnh, và còn nhiều thanh niên khác.
– Xét rằng các thanh niên yêu nước này chỉ làm những gì Hiến pháp không cấm đoán như rải truyền đơn kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử trá hình, viết bài trên mạng cổ vũ dân chủ tự do, báo động tình trạng xâm chiếm lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam của Trung Cộng, tham gia các hội đoàn, đảng phái chính trị phi cộng sản cũng như bảo vệ quyền lợi công nhân và dân oan…
– Xét rằng các thanh niên yêu nước đang bị tù đầy đã đóng góp nhiều cho cộng đồng về truyền thông chân thực, bác ái từ thiện, bênh vực dân oan, bảo vệ quyền lợi cho các công nhân, góp phần xây dựng một nền chính trị đa nguyên đa đảng lành mạnh.
– Xét rằng giám thị và quản giáo tại các nhà tù đã nhiều lần dùng uy quyền, bạo lực và gian dối để hành hạ các tù nhân lương tâm, ngõ hầu tàn hại thân thể họ và nhất là đánh gục tinh thần họ (buộc họ phải nhận tội cách vô lý vô luật), như những gì tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh đang phải chịu.
Với ý thức trách nhiệm công dân trước tình trạng trên và trong vai trò hướng dẫn tinh thần cho tín đồ giáo dân, Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam lên tiếng:
1. Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam thả ngay những người trẻ yêu nước, bất đồng chính kiến nói trên: 14 thanh niên Công giáo và Tin lành, Lê Quốc Quân, Lê Đình Quản, Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Đỗ Thị Minh Hạnh, và nhiều thanh niên khác đang bị giam trong các nhà tù Việt Nam.
2. Yêu cầu nhà cầm quyền không được dùng các phạm nhân hình sự để tấn công hành hạ các tù nhân lương tâm như đã xảy ra với nhiều thanh niên nói trên, nhất là không được dùng nhà tù với những biện pháp nhục hình, tra tấn để tiếp nối công việc của công tố là buộc họ phải nhận tội. Ngoài ra, phải đưa họ đi bệnh viện hay cho họ tại ngoại để chữa lành thương tích và bệnh tật. Trường hợp đáng quan tâm hiện nay là Đỗ Thị Minh Hạnh.
3. Thỉnh cầu các tổ chức nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Quốc tế và các quốc gia giám sát việc thực thi nhân quyền ở Việt Nam, nhất là kịp thời ngăn cản sự ngược đãi và tra tấn tù nhân dưới mọi hình thức đang diễn ra ở Việt Nam, đồng thời buộc nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các tiêu chuẩn nhân đạo của Liên Hiệp Quốc về nhà tù.
4. Thỉnh cầu các hãng truyền thông, thông tấn quốc tế và quốc nội, thuộc chính phủ và tư nhân kịp thời đưa tin về những vi phạm nhân quyền tại các nhà tù ở Việt Nam, và chất vấn nhà cầm quyền về trách nhiệm đã cho phép hay để xảy ra tình trạng ngược đãi tù nhân dưới
Làm tại Việt Nam, ngày 30.08.2013
CÁC CHỨC SẮC TÔN GIÁO VIỆT NAM
Đồng ký tên
– Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt: 0199.243.2593)
– Hòa thượng Thích Không Tánh, Phật giáo (đt: 0165.6789.881)
– Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công giáo (đt: 0984.236.371)
– Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công giáo (đt: 0935.569.205)
– Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công giáo (đt: 0993.598.820)
– Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài giáo (đt: 0163.3273.240)
– Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (đt: 0988.971.117)
– Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (đt: 0988.477.719)
– Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (đt: 0949.275.827)
– Mục sư Hồ Hữu Hoàng (đt: 0902.761.057)
– Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (đt: 0906.342.908)
– Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082)
– Ông Trần Nguyên Hưởn, PGHH (đt: 0167.341.0139)
– Mục sư Lê Quang Du, Tin Lành (đt: 0121.2002.001)
– Mục sư Nguyễn Trung Tôn (đt: 0162.838. 7716)
Về xu hướng Dân chủ Xã hội cho VN
bbc, 29 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/blogs/2013/08/130828_socialdemocrats_vietnam.shtml
Đảng Cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa đảng
Lời kêu gọi thành lập một đảng mới của đảng viên Lê Hiếu Đằng đang dấy lên những tranh luận về độc đảng và đa đảng, về phương cách và khuynh hướng đấu tranh chính trị, về hiện tình và tương lai Việt Nam.
Bài viết này mong làm rõ hơn con đường xã hội dân chủ để xem con đường này có thích hợp với Việt Nam hay không?
Khuynh hướng Dân Chủ Xã Hội
Ông Lê Hiếu Đằng cho rằng con đường xã hội dân chủ như đường lối của Đệ Nhị Quốc tế và dựa trên chủ nghĩa Marx, đó là điều thiếu chính xác.
Các đảng theo khuynh hướng dân chủ xã hội Âu Châu về tư tưởng và phương cách họat động chịu nhiều ảnh hưởng của Ferdinand Lassalle (1825–1864). Ông là người sáng lập Đảng Dân chủ Xã hội Đức năm 1863 và là chủ tịch đầu tiên của tổ chức này.
Theo ông nhà nước là tổ chức của mọi thành viên trong xã hội. Để xây dựng xã hội mới thay vì đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ cũ, giai cấp công nhân phải tích cực cải cách xã hội cũ qua đấu tranh nghị trường, đấu tranh giành quyền bằng phương thức bầu cử tự do.
Ngay sau đó năm 1869, Đảng Dân chủ Xã hội Đức tham gia cuộc tranh cử tự do, với chủ trương không phân biệt nguồn gốc của cử tri, cấm trẻ em lao động và cổ vũ sự độc lập của tòa án.
Mãi trên 30 năm sau, đến năm 1889 Engels và một số người khác mới đứng ra thành lập Liên Minh Quốc Tế Các Đảng Xã Hội còn gọi là “Đệ Nhị Quốc tế”. Liên minh này thu hút được một số đảng xã hội, trong đó có Đảng Dân chủ Xã hội Đức. Nhưng vì không thống nhất về tư tưởng chiến lược và chia rẽ về phương cách đấu tranh Liên minh này phải giải tán năm 1914.
Chủ nghĩa Marx
Theo Karl Marx lịch sử nhân loại là lịch sử đấu tranh giai cấp và nhà nước là công cụ nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Từ đó Marx chủ trương giai cấp công nhân phải đòan kết lại và phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản.
Tư tưởng Karl Marx vẫn làm trí thức người Việt tranh luận
Tư tưởng Marx kết hợp với phương cách tổ chức Đảng Bolshevik của Vladimir Lenin đã dẫn đến cuộc vũ trang cướp chính quyền tại Nga vào tháng 10 năm 1917. Khi đó nhiều người tin rằng “cách mạng vô sản” sẽ nhanh chóng lan sang nước Đức và các quốc gia Âu châu, nhưng sự việc đã không bao giờ xẩy tới.
Năm 1919, Lenin phải cho thành lập Đệ Tam Quốc Tế nhằm “xuất cảng cách mạng vô sản”. Nhưng cũng không như Karl Marx tiên đóan, giai cấp công nhân chưa bao giờ đứng lên giành chính quyền. Một số quốc gia đã trở thành các quốc gia cộng sản lại do thế chiến thứ hai hay do các cuộc nội chiến xẩy ra.
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Marx, một nhà nước chuyên chính và tòan trị đã xây dựng tại Liên Xô và các quốc gia cộng sản: nhà tù, đàn áp, khủng bố, đói kém và chiến tranh. Cũng chỉ vì sai lầm đấu tranh giai cấp kiểu Marx Phong trào Cộng sản đã khiến hằng trăm triệu người thiệt mạng và hằng tỷ người bị ảnh hưởng thể xác hay tinh thần.
Mặt khác chủ nghĩa Marx là tước bỏ quyền tự do cá nhân, đặc biệt là quyền tư hữu, nên hầu các nước theo cộng sản dân chúng đều sống trong nghèo đói, bất bình đẳng, bình quyền. Năm 1989 người dân các nước Liên Xô và Đông Âu đã phải đứng lên để giành lại chính quyền. Hiện chỉ còn vài quốc gia theo cộng sản và tất cả đều đang trong tình trạng khủng hỏang tòan diện.
Trong bài diễn văn kỷ niệm 150 năm thành lập Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức, ngày 23-5-2013 vừa qua, Tổng Thống Đức Joachim Gauck đã nêu rõ sự khác biệt giữa khuynh hướng dân chủ xã hội và Phong Trào Quốc Tế Cộng sản. Ông Gauck nhận xét “Những đảng viên Dân chủ Xã hội đã giữ vững lý tưởng tự do, công bằng, đoàn kết và quyết tâm chống lại những ai đi ngược với tự do và cổ võ chiến tranh.”
Rồi ông so sánh: “Phong trào Cộng sản Thế giới đã quyết định khác và tất yếu đã dẫn tới những hậu quả khốc hại. Nó tạo ra một giai cấp mới của những người cai trị để thay thế giai cấp cũ nay không còn quyền lực. Ở đó những người lao động uổng công chờ đợi tự do, công bằng xã hội và hạnh phúc!”.
Khởi đầu bằng tự do
Tự do và bình đẳng là hai mục tiêu mà nhân lọai luôn muốn đạt đến. Nhưng tự do đến một mức độ lại tiêu diệt bình đẳng của các cá nhân các nhóm khác trong xã hội.
Ngược lại mọi thành viên xã hội nếu ai cũng như ai, sẽ mất đi động năng khích lệ phát triển xã hội, thăng tiến xã hội sẽ bị chậm lại thậm chí bị kéo lùi.
Dân chủ vừa là mục tiêu, lại vừa là phương tiện để cân bằng giữa tự do và bình đẳng.
Từ đó các xã hội dân chủ phát sinh hai khuynh hướng chính trị: tự do và xã hội. Những người theo khuynh hướng xã hội cổ vũ và đấu tranh cho sự bình đẳng: bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng về quyền lợi chính trị, kinh tế, giáo dục và xã hội, bình đẳng về nhân phẩm và giới tính.
Các đảng dân chủ xã hội sử dụng nghị trường Quốc Hội, truyền thông tự do và hệ thống chính trị để tranh luận và tìm sự ủng hộ cho chiến lược và chính sách từng thời điểm.
Họ đấu tranh không theo chủ thuyết, không dựa vào ý thức hệ, mà hướng đến phục vụ con người, hướng đến sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội, sự tái phân phối lợi ích quốc gia tạo công bằng cho mọi thành viên trong xã hội.
Các đảng thắng cử sẽ có cơ hội để thực hiện các chính sách thính hợp với hòan cảnh đất nước trong từng thời kỳ. Nhờ đó xã hội càng ngày càng trở nên tiến bộ, đời sống dân chúng được cải thiện và đất nước mỗi ngày trở nên tốt đẹp hơn.
Trong khi ấy chủ nghĩa Marx chỉ là những lý thuyết không tưởng, không thể làm căn bản để đề ra các chiến lược, các chính sách có thể thuyết phục được cử tri nên trên thực tế không một đảng chính trị nào sử dụng nó trong cuộc đấu tranh nghị trường.
Từ ý thức nói bên trên ông Đằng nhận định rằng theo con đường xã hội dân chủ là chỗ dựa vững chắc ở bạn bè quốc tế. Thực ra các quan hệ quốc tế không đơn giản như thế.
Rõ nhất là Tổ Chức Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa (Socialist International) gồm 143 các đảng chính trị theo khuynh hướng xã hội thuộc 140 quốc gia trên thế giới, không có sự hiện diện của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Tại Âu châu, các chính phủ Âu Châu hầu hết do các đảng xã hội trực tiếp cầm quyền, nhưng đa số lại không ngừng lên án vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Thụy Điển còn công khai ý định đóng cửa Tòa Đại Sứ tại Hà Nội.
Tháng 7 vừa qua Bộ trưởng Ngoại giao Úc Bob Carr, thuộc đảng Lao Động công khai yêu cầu giới chức cộng sản phải trả tự do cho ba người hoạt động công đoàn, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương.
Ông Bob Carr cho biết: “Chúng tôi đặt nặng tầm quan trọng cho việc bảo vệ quyền tự do lập hội và tự do thành lập công đoàn”.
Quá khứ và hiện tại
Như đã trình bày bên trên những người đấu tranh cho tự do chính trị và bình đẳng xã hội đều có thể xem như những người theo khuynh hướng xã hội. Lịch sử phát triển chính trị tại Việt Nam đang được viết lại.
Gần đây ông Hà Sĩ Phu và một số người khác cho rằng Cụ Phan Chu Trinh là người đầu tiên mang khuynh hướng dân chủ xã hội vào Việt Nam. Nhưng theo tôi khuynh hướng này có thể trước đó đã được những người Âu Châu trực tiếp giới thiệu vào tầng lớp trí thức tại Việt Nam.
Chúng ta biết đến tên Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội nhưng các tài liệu về 2 đảng này quả thật hiếm hoi. Theo Bản “Báo cáo về công tác mặt trận tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IV (25 – 30-1-1953)” thì hai đảng do Đảng Cộng sản “xây dựng”.
Trước năm 1952, riêng tại Liên khu 5 Đảng Xã hội đã có hơn 3.000 đảng viên và đa số là những người trí thức. Đảng Dân chủ có cơ sở khắp nơi, số lượng đảng viên lúc cao nhất là gần 3 vạn, đa số là nông dân hay tiểu thương.
Nhưng vì thiếu kiểm soát nên Đảng Cộng sản không thực hiện ý định đã đề ra. Để sửa soạn tiến hành Cải cách Ruộng đất và để có thể trấn an các tầng lớp trí thức, nông dân và tiểu thương, bản Báo Cáo cho biết hai đảng cần được tổ chức lại.
Trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, đảng viên của hai đảng nói trên chịu chung một số phận với đồng bào miền Bắc nên gần như tan rã, và đã thực sự bị Đảng Cộng sản giải tán năm 1986.
“Sẽ không ai chấp nhận ý kiến của ông Đằng thành lập một đảng chỉ với mục tiêu góp ý cho đảng cầm quyền được hoàn thiện hơn.”
Trong đấu tranh giành độc lập, chỉ từ 1939 đến 1945, Phật Giáo Hòa Hảo một tôn giáo lấy dân tộc làm nền tảng đã thu hút được hằng triệu tín đồ. Trong khi đó Đảng Cộng Sản với chủ nghĩa quốc tế ngọai lai chỉ có được chưa đến 5.000 đảng viên.
Do hoàn cảnh đất nước, may ra chúng ta chỉ biết đến Giáo Chủ Hùynh Phú Sổ đã sáng Phật Giáo Hòa Hảo, ít người biết Đức Thầy còn sáng lập Đảng Dân chủ Xã hội vào ngày 21/9/1946.
Dân Xã Đảng hiện vẫn công khai họat động tại hải ngoại và trong nước Đảng vẫn âm thầm sinh họat với cụ Lê Quang Liêm là người được lãnh đạo.
Trong khi ấy Luật sư Lê Hiếu Đằng cho biết ý định muốn nhập chung tên của hai Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội thành tên của đảng mới nên suy nghĩ của ông khó có thể thuyết phục được những người muốn thực sự dân chủ hóa nền chính trị tại Việt Nam.
Có chăng chỉ là khuynh hướng của những người đang muốn từ bỏ tư tưởng cộng sản để từ bỏ Đảng Cộng sản.
Ông viết lời kêu gọi trên giường bệnh, có thể ngầm ám chỉ cơn bệnh của Đảng Cộng Sản, của chế độ cộng sản hay của cả dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, khuynh hướng của ông Lê Hiếu Đằng chưa phải là khuynh hướng của người dân chủ xã hội.
Điều mà các đảng xã hội và chính phủ các quốc gia dân chủ cũng mong muốn là Việt Nam có tự do, có dân chủ, có đa đảng chính trị thực sự.
Sẽ không ai chấp nhận ý kiến của ông Đằng thành lập một đảng chỉ với mục tiêu góp ý cho đảng cầm quyền được hoàn thiện hơn.
Ôn lại lịch sử để rút ra bài học: một đảng chính trị mới muốn vững chắc cần có tư tưởng chỉ đạo, có mục tiêu và mục đích rõ ràng, và phải độc lập với Đảng Cộng sản.
Bài viết của ông Nguyễn Quang Duy, Melbourne, Australia phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, nguyên chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Canberra và phó chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc Châu.
CSVN làm chiếu lệ: 4 tù chính trị được đặc xá vào dịp 2/9
Hơn 15.500 tù nhân ở Việt nam hôm nay bắt đầu rời trại giam để về nhà sau khi được đặc xá theo quyết định mà Văn phòng chủ tịch nước công bố cũng trong ngày hôm nay.
Quyết định đặc xá cho hơn 15.500 phạm nhân được đưa ra nhân dịp kỷ niện 68 năm Cách mạng Tháng 8 và quốc khánh 2 tháng 9 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay mà tiền thân là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa khi mới ra đời hồi ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Truyền thông trong nước trích dẫn phát biểu của ông Hà Kim Ngọc, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết trong số những phạm nhân được đặc xá dịp này có 4 người bị kết tội xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam. Theo Vietnamnet thì 4 phạm nhân này gồm:
Dương Đức Phong (sinh năm 1960 tại Hà Giang, thi hành án trại giam Nam Hà), phạm tội gián điệp, được đặc xá trước thời hạn 3 tháng 20 ngày.
Hoàng Hưng Quyền (sinh năm 1934 tại Hải Hà, Quảng Ninh, thi hành án trại giam Nam Hà), phạm tội gián điệp, được đặc xá trước thời hạn 4 tháng 7 ngày.
Y Kõn Niê và Y Huông Niê (Đắk Lắk) phạm tội phá hoại chính sách đoàn kết, thi hành án trại giam Xuân Phước, được đặc xá trước thời hạn (lần lượt) là 1 năm 10 tháng 7 ngày và 1 năm 9 tháng 12 ngày.
Và trong tổng số 15.500 phạm nhân được đặc xá có hơn 1800 người là nữ.
Đợt đặc xá lần này được nhiều người quan tâm theo dõi và cho rằng đó là một chỉ dấu về thay đổi nào đó trong hành xử của chính quyền Việt Nam như trình bày của giáo sư Hán Nôm Trần Khuê, nguyên phó tổng thư ký Đảng Dân chủ Thế kỷ 21 sau đây:
Nếu đại xá mà trả tự do cho những tù chính trị như Cù Huy Hà Vũ và một số người khác như Lê Quốc Quân …; đó là một xu thế tốt. Còn nếu vẫn giữ những người đó mà thả bọn tham nhũng… thì lại là một xu thế khác. Cho nên nhìn nước cờ đại xá người ta sẽ thấy tình hình sẽ tốt lên hay sẽ xấu đi.
giáo sư Hán Nôm Trần Khuê
Tôi đang quan sát nước cờ đại xá như thế nào. Nếu đại xá mà trả tự do cho những tù chính trị như Cù Huy Hà Vũ và một số người khác như Lê Quốc Quân …; đó là một xu thế tốt. Còn nếu vẫn giữ những người đó mà thả bọn tham nhũng… thì lại là một xu thế khác.
Cho nên nhìn nước cờ đại xá người ta sẽ thấy tình hình sẽ tốt lên hay sẽ xấu đi. Cũng như nước cờ sửa đổi hiến pháp sắp đến, nếu người ta đi nước cờ cao thì sẽ sửa đổi một cách nghiêm chỉnh, còn nếu sửa một cách hình thức thì đó là nước cờ thấp. Chuyện đi thấp đi cao hiện nay nằm trong tay nhà cầm quyền.
Bà Dương Thị Tân, vợ cũ của tù nhân Nguyễn Văn Hải, tức blogger Điếu Cày bị kết án 12 năm tù về tội danh tuyên truyền chống nhà nước theo điều 88 Bộ Luật hình sự thì nói rõ dù ai cũng mong người thân được tự do nhưng những tù nhân chính trị, yêu nước như ông Nguyễn Văn Hải sẽ khó có thể được đặc xá. Bà nói:
Tự do cho người thân luôn là điều mong mỏi của tất cả mọi người, đặc biệt những người đang bị cầm tù, giam hãm nữa; nhưng những người bị qui cho tội danh chống phá nhà nước- nói chung là tù nhân chính trị; sự giảm án đó nếu có phải kèm theo rất nhiều thứ. Hoặc giảm án, hoặc tha, nếu được ra ngoài phải kèm theo rất nhiều thứ.
Ông Hải là người đấu tranh chống Trung Quốc, người yêu nước. Ông đã lên tiếng rất sớm từ khi chính phủ này chưa dám lên tiếng, nhà cầm quyền này chưa nói lên tiếng nói nào về biển đảo, về đất đai bị mất, ông đã nói rồi. Câu nói của người đã đến nhà tôi, người truy lùng ông Hải trong rất nhiều tháng, nói với tôi rằng nếu không bắt ông Hải, Trung Quốc sẽ mếch lòng và gây chiến tranh. Vào thời điểm đó họ bắt ông Hải để làm đẹp lòng Trung Quốc, để đổi lấy những ân sủng. Khi họ đã kết án ông Hải, bắt đi tù rồi, thì việc thả ông Hải là một việc làm khác nữa.
Thống kê của các tổ chức theo dõi nhân quyền cho thấy từ đầu năm đến nay cơ quan chức năng Việt Nam bắt giữ gần 50 người chỉ vì họ công khai bày tỏ chính kiến của họ theo các quyền được qui định trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; thế nhưng nhà cầm quyền lại cho họ vi phạm và kết tội theo những điều khoản được chính cơ quan chức năng đưa ra.
Tin, bài liên quan
- Lung lay Dân tộc hay lung lay Đảng?
- Một ngày trước phiên xử phúc thẩm hai sinh viên Uyên – Kha
- Nhà Nước muốn lấy ý kiến người dân về Nhân quyền?
- Nữ tù nhân chính trị bị phân biệt đối xử
- Ông Nguyễn Bắc Truyển gặp đại diện Ủy ban đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ
- Những phản ứng thông minh và dũng cảm của blogger Việt
- Blogger Việt Nam trao “Tuyên Bố 258” cho Đại sứ quán Thụy Điển
- Hoa Kỳ, Google, Facebook chỉ trích nghị định mới của Việt Nam về internet
- Hai blogger trao “Kiến nghị 258” cho LHQ đã về đến VN
Xin lên tiếng cho Đỗ Thị Minh Hạnh
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/08/xin-len-tieng-cho-o-thi-minh-hanh.html#.UiCywT_3qSw
BẢN TƯỜNG TRÌNH
Thư ngỏ của ông Lê Hiếu Đằng
http://www.boxitvn.net/bai/18816
TP HCM, ngày 26 tháng 8 năm 2013
Kính gửi: – Các ông Giám đốc Đài Truyền hình Trung ương, TP HCM
– Tổng biên tập các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Đại đoàn kết, Công an Nhân dân, Sài Gòn Giải phóng và các báo do sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương đã và sẽ đăng bài phê phán bài viết Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh của tôi.
Thưa các ông/bà,
Sau khi trang mạng Bauxite Việt Nam và các trang mạng khác đăng bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh của tôi thì Đài Truyền hình Trung ương và TP HCM cùng nhiều tờ báo, trong đó có báo của quý ông/bà, dồn dập đưa tin hoặc đăng nhiều bài phê phán bài viết của tôi và chắc chắn trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều tờ báo nữa vào cuộc “đánh đòn hội chợ” này.
Để các tầng lớp nhân dân, trong đó có nhân sĩ, trí thức, hiểu rõ bài viết của tôi và có điều kiện so sánh với những bài phê phán đăng trên báo của các ông/bà, xem đúng sai thế nào, tôi đề nghị các ông/bà cho đăng công khai trên báo các ông/bà hai bài viết sau đây của tôi: Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh (bài có sửa chữa đăng ngày 17/8/2013 trên mạng Bauxite Việt Nam) và Những điều nói rõ thêm… (đăng ngày 19/8/2013 trên mạng Bauxite Việt Nam).
Tôi thấy các ông/bà cần làm điều này vì nếu phê phán bài viết của một người mà người đọc không biết bài viết nói gì, ngược lại, các ông/bà chỉ cắt xén vài đoạn rồi hô hoán, lên án thế này thế kia, thì hoá ra các ông/bà chơi trò “bỏ bóng đá người” mà tôi đã cảnh báo trong bài viết của mình. Và nếu các ông/bà không cho đăng (tôi biết chắc như vậy), thì hoá ra các ông/bà sợ sự thật: khi so sánh bài viết của tôi với các bài phê phán, nhân dân sẽ biết các ông/bà đã dối trá, ăn nói hàm hồ, quy chụp, chỉ là những tên bồi bút. Tôi thách các ông/bà đấy, các ông/bà có dám làm không, hỡi những tổng biên tập đầy quyền uy hiện nay!
Qua các bài viết trên báo các ông/bà, tôi thấy có ba điểm bị các ông/bà xuyên tạc, đánh lận con đen.
Một là, tôi chưa bao giờ phản bội lý tưởng mà cả một thời tuổi trẻ tôi và các bạn, các đồng đội của tôi, có người đã nằm xuống trong tù, trên chiến trường cũng như bao thế hệ cha anh đã theo đuổi. Đồng bào, chiến sĩ chúng ta đã hy sinh biết bao xương máu với hy vọng họ và con cháu được sống trong một xã hội lành mạnh, công bằng, ở đó con người đối xử với nhau một cách tử tế, các quyền sống, quyền con người được tôn trọng. Nhưng nay chúng ta đang sống một xã hội như thế nào? Bài viết của tôi, nhất là bài Những điều nói rõ thêm…, đã chứng minh – bằng những kinh nghiệm của một người đã hơn 45 năm sống và hoạt động trong hệ thống chính trị hiện nay – ai phản bội ai. Tôi rất mong các ông/bà công tâm xem xét. Tôi quan niệm rằng hiện nay đã có điều kiện để nhận biết cái đúng cái sai, mà vẫn u mê, mù quáng bào chữa cho cái ác, cái xấu, cái sai, thì đó là tội ác đối với dân tộc, với đất nước. Con cháu các vị sẽ nghĩ sao về các vị?
Hai là, trong hai bài viết nói trên, tôi chưa bao giờ nói là chống Đảng Cộng sản hoặc xoá bỏ Đảng Cộng sản. Tôi chỉ đề nghị Đảng Cộng sản nên chấp nhận đối lập chính trị, để phát triển một nền chính trị lành mạnh, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của thế giới. Không nên duy trì chế độ độc tài toàn trị, bóp nghẹt các quyền tự do, dân chủ của người dân mà chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng cam kết trước nhân dân trong Tuyên ngôn độc lập và trong Hiến pháp năm 1946.
Sau bài viết của tôi, ngày 23/8/2013, luật sư Trần Vũ Hải đã chính thức gửi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bản “Đề nghị cho ý kiến về vấn đề thành lập và tham gia một đảng ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam dưới góc độ pháp luật Việt Nam”. Cũng như bao người khác, tôi đang chờ sự trả lời chính thức bằng văn bản của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, của Đảng và Nhà nước Việt Nam để với tư cách công dân, tôi có thể “sống và làm việc theo luật pháp” như khẩu hiệu mà báo các ông/bà thường hô hào. Tôi cũng đề nghị các ông/bà cho đăng văn bản của luật sư Trần Vũ Hải gửi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để nhân dân biết. Đây là văn bản gửi cho cơ quan trọng yếu của Quốc hội, một việc làm công khai, minh bạch, thì tại sao các ông/bà không dám đăng? Các ông/bà sợ cái gì? Sợ sự thật à? Chính các ông/bà là những người bưng bít, che giấu sự thật, thế mà còn cho tay sai bù lu bù loa thế này thế kia. Các ông/bà không có lòng tự trọng và liêm sỉ tối thiểu của người cầm bút sao?
Ba là, trong hai bài viết nói trên, không có chỗ nào tôi đòi lật đổ chế độ. Tôi viết rất rõ: “Chủ trương của chúng ta là ôn hòa, bất bạo động, chống lại các hành động quá khích, khủng bố, vũ trang lật đổ.” (Những điều nói rõ thêm…). Chấp nhận đa nguyên đa đảng, đấu tranh trong hoà bình, là để tạo cơ chế cho Đảng Cộng sản tự điều chỉnh, được nhân dân giám sát, ngăn chặn khuynh hướng lộng quyền và lạm quyền, là khuynh hướng vốn có của bất cứ một chính quyền nào, dù cộng sản hay không cộng sản, nếu không được các lực lượng của toàn xã hội giám sát. Nếu không giải quyết sớm, kịp thời, sẽ có nguy cơ bùng nổ những bạo loạn chính trị mà người dân sẽ là người trước tiên gánh chịu hậu quả.
Thưa các vị Giám đốc Đài Truyền hình, truyền thanh, Tổng biên tập các báo,
Các vị chịu trách nhiệm chính về nội dung những bài viết đăng trên báo của mình, nên không thể vì trên chỉ đạo “đánh ông Đằng bằng bất cứ giá nào” mà đi đăng những bài với luận cứ ngớ ngẩn, thiếu trung thực, chỉ làm trò cười cho thiên hạ.
Nhưng tôi cũng thành thực cảm ơn các ông/bà: nhờ báo các ông/bà phê phán tôi mà đông đảo quần chúng biết đến hai bài viết của tôi – những bài viết đã làm cho cả hệ thống báo chí, phát thanh, truyền hình đồng loạt tấn công trong một cơn lên đồng tập thể. Các vị nên biết rằng Việt Nam chúng ta hiện nay được xếp là một trong những nước mà người dân, nhất là giới trẻ, sử dụng rộng rãi Internet. Qua các bài báo phê phán tôi, các vị đã “quảng cáo” giúp tôi. Người dân sẽ nhờ con cháu, người quen cung cấp hai bài viết của tôi. Tôi tin rằng họ sẽ công minh, sáng suốt để phân định đúng sai.
Trân trọng,
Lê Hiếu Đằng
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Tuyên bố của Marie Harf, Phó Phát ngôn viên: Tuyên bố chung của Liên minh Tự do Trực tuyến về Nghị định 72 của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Văn phòng Phát ngôn viên
Dành cho đăng tải ngay
Ngày 26 tháng 8 năm 2013
2013/2034
Liên minh Tự do Trực tuyến quan ngại sâu sắc về Nghị định 72 mới công bố của Việt Nam, theo đó sẽ áp đặt thêm những hạn chế đối với cách thức truy cập và sử dụng Internet ở Việt Nam khi nghị định có hiệu lực ngày 1 tháng 9. Ví dụ, Nghị định 72 hạn chế luồng thông tin trực tuyến và giới hạn việc chia sẻ một số loại tin tức và ngôn luận khác. Nghị định 72 dường như không phù hợp với nghĩa vụ của Việt Nam đối với Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị, cũng như các cam kết của họ đối với Tuyên ngôn Nhân quyền.
Nghị định 72 có nguy cơ làm tổn hại đến nền kinh tế của Việt Nam với việc hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp ở Việt Nam, hạn chế sự đổi mới, và làm chùn bước đầu tư nước ngoài. Mạng Internet cởi mở và tự do là điều thiết yếu đối với một nền kinh tế hiện đại, vận hành hoàn chỉnh; các văn bản luật hạn chế sự công khai và tự do như Nghị định 72 tước khỏi các nhà sáng tạo và các doanh nghiệp các công cụ cần và đủ để cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay.
Liên minh Tự do Trực tuyến lưu ý rằng nghị quyết 20/8, được Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhất trí thông qua vào tháng 7 năm 2012, khẳng định rằng nhân quyền được áp dụng cả trên mạng cũng như trong cuộc sống thực. Liên minh Tự do Trực tuyến kêu gọi Chính phủ Việt Nam sửa đổi Nghị định 72 để văn bản này thúc đẩy khả năng thực thi quyền con người của các cá nhân, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận.
Liên minh Tự do Trực tuyến là một nhóm liên khu vực gồm 21 chính phủ hợp tác để đẩy mạnh tự do Internet trên toàn thế giới. Liên minh mang lại một diễn đàn để các chính phủ cùng chí hướng phối hợp các nỗ lực và làm việc với xã hội dân sự và khu vực tư nhân để hỗ trợ cho khả năng thực hiện quyền con người và các quyền tự do trực tuyến cơ bản của các cá nhân.
Liên minh Tự do Trực tuyến được thành lập tại một cuộc họp do Chính phủ Hà Lan tổ chức vào năm 2011, và liên minh đã tổ chức thêm các cuộc họp ở các nước chủ nhà là Kenya vào năm 2012 và Tunisia trong năm 2013. Chính phủ Estonia, Chủ tịch Liên minh, sẽ tổ chức các hội nghị tiếp theo vào mùa xuân năm 2014.
(hết tuyên bố)
Nguồn: http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/pr260813i.html
________________________________________________
Bản tiếng Anh củaTuyên bố về Nghị định 72
Người dịch: Nhóm Hương Nguyên
Người hiệu đính: Nam Việt
STATEMENT ON THE DECREE NO. 72/2013/ND-CP, A VIOLATION OF THE CONSTITUTION OF VIETNAM AND OF INTERNATIONAL CONVENTIONS TO WHICH VIETNAM IS A SIGNATORY
We:
– Citizens of the Socialist Republic of Vietnam, especially those who use the Internet as a means to enrich knowledge and awareness, to be updated with domestic and international information in order to live, to learn and to work with human dignity in a civilized and modern society;
– Vietnamese people who are residing abroad and concerned about the destiny of Vietnam, about the freedom and democracy of the compatriots inside the country;
Consideringthat the Decree No 72/2013/ND-CP of the Government on “Management, provision and use of Internet services and online information” dated 15 July 2013, effective 01 September 2013 (hereinafter referred to as Decree 72) includes provisionsthat are or potentially are of arbitrary implementation and contrary to the Constitution, the laws of Vietnam, the International Covenant on Civil and Political Rights and the Universal Declaration of Human Rights of the United Nations:
Some wrongful provisions in Decree 72:
I. Clauses 3, 4, 5 of Article 20 – “Classification of electronic information”, give the following definitions:
“3. Internal websites are those of agencies, organizations and businesses that provide information on the functions, powers, duties, organizational structure, services, products, field of activity or business and other information for the operations of such agencies, organizations, and businesses and that do not provide general information.
4. Individuals’ websitesare those set by such individuals or by using social networking services that provide and exchange information of such individuals and that do not representother organizations or individuals and that do not provide general information.
5. Professional websites are those of agencies, organizations and businesses that provide applications and services in the fields of telecommunication, information technology,radio, television, trade, finance, banking, culture, health, education and other professional fields and that do not provide general information. ”
Article 3. Interpretation of terms
In this Decree, the termsbelow are construed as follows:
“19. General information is the one that is compiled from multiple sources, multiple types of information, on the fields of politics, economy, culture and social affairs.”
‘II. Article 22. Provide public information across borders. 1. Foreign organizations, businesses and individuals that provide public information through the border to users in Vietnam or accessible in Vietnam, must comply with the provisions of the laws of Vietnam. 2. Ministry of Information and Communications shall give detailed guidance on this issue.”
The above mentioned contents are contrary to the Information Technology Law of Vietnam promulgated on June 29, 2006 in which:
Article 4. Interpretation of terms
“17. Website means a website or a collection of websites in the network environment in service of information supply and exchange.”
Article 2 of the Information Technology Law, on Subjects of application, read: This Law applies to Vietnamese and foreign organizations and individuals engaged in information technology application and development activities in Vietnam.
and
Article 3.- Application of the Information Technology Law
When a treaty to which the Socialist Republic of Vietnam is a contracting party contains provisions different from those of this Law, the provisions of that treaty prevail.
Decree 72 is also a step backwards in comparison to the Decree No. 97/2008/ND-CP on the management, provision and use of Internet services and electronic information on the Internet as at the following points:
Article 2. Subjects of application
“1.This Decree applies to organizations and individuals involved in the management, provision and use of Internet services and electronic information on the Internet inVietnam.”
2. When a treaty relating to the Internet to which the Socialist Republic of Vietnam is a signatory or a participant contains provisions different from those of this Decree, the provisions of that treaty prevail.
Article 3. Interpretation of terms
“12. Website means a website or a collection of websites on the Internet in service of information supply and exchange on the Internet, including blogs, portals and other similar forms.”
Thus, the clauses 3, 4, 5 in the Article 20 – “Classification of websites” andArticle 22 – “Providing public information across borders” contain provisions that are or potentially are of arbitrary implementation to prevent Vietnamese citizens from exercising their freedom of speech, freedom to seek, receive and impart information and ideas that are protected by the Constitution of Vietnam and international conventions to which Vietnam is a signatory.
1- Article 69 of the 1992 Constitution, amended and supplemented in 2001:
“Citizens are entitled to freedom of speech and freedom of the press; they have the right to receive information and the right of assembly, association and demonstration in accordance with the law”.
2 – International Covenant on Civil and Political Rights in 1966 that Vietnam participated in 1982:
Article 19:
“2.Everyone shall have the right to freedom of expression; this right shall include freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds, regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the form of art, or through any other media of his choice”.
“3.The exercise of the rights provided for in paragraph 2 of this article carries with it special duties and responsibilities. It may therefore be subject to certain restrictions, but these shall only be such as are provided by law and are necessary:
(a) For respect of the rights or reputations of others;
(b) For the protection of national security or of public order, or of public health or morals.”
3 –Universal Declaration of Human Rights of the United Nations, 1948:
- Article 19: Everyone has the right to freedom of opinion and expression; this right includes freedom to hold opinions without interference and to seek, receive and impart information and ideas through any media and regardless of frontiers.
Decree 72 contains provisions that are contrary to the recent claims of improving democracy, human rights by the Communist Party of Vietnam, especially in the nationwide discussion on amending the 1992 Constitution;that go against the interests of the people and the country; that undermine people’s confidence in the honesty and wisdom of government.
The promulgation of Decree 72, with the obvious violations of laws andwith potential risks of being implementedarbitrarily and violating the people’s freedom of speech, in the context of Vietnam having announced a comprehensive partnership with the U.S. in the recent visit of President Truong Tan Sang to the U.S., in the context that the appeal trial of two students Dinh Nguyen Kha and Nguyen Phuong Uyen which is recognized as a step towards progress of freedom of speech; while Vietnam was submitting her candidacy to the Human Rights Council of the United Nations, is an act that goes against the trend of Vietnam’s integration into the world community, that undermines the prestige of Vietnam in the international arena, that is very detrimental to enlisting the support of international partners for the national defense cause against the Beijing expansionists.
Therefore, we state our stance:
1/ Reject Decree 72;
2/ Request the government to delay the implementation of this decree to modify and adjust those provisions that break or potentially break the Constitution and the laws of Vietnam as well as the International Conventionsto which Vietnam is a signatory as mentioned above;
3 / Urgently request the Congress to verify those provisionsin Decree 72 that break Vietnam’s Constitution and international conventions to which Vietnam is a signatory and then, to intervene in this issue, within Congress’ authority.
Paragraph 9 of Article 84 of the 1992 Constitution:
“The National Assembly has the following duties and powers:
9.To abrogate texts adopted by the President, the Standing Committee of the National Assembly,the Government, the Prime Minister of the Government, the Supreme People’s Court and thePeople’s Inspectorate General which are incompatible with the Constitution, the laws andresolutions of the National Assembly.
Freedom of speech,freedom to seek, receive and impart information are prerequisite to build democracy for the country. They are essential for the country to expand relationship with international community for a sustainable development. If those rights are hampered or limited, all progresses of the country, comprehensively, will fall into stagnation. The very modest pace of our country on its way to develop, which has been very hard to gain, will certainly be pushed back. We demand that all policies of the State of Vietnam in the future do absolutely respect these sacred and basic rights.
Khả năng tấn công Syria rõ nét : Mỹ, Anh và Pháp sẵn sàng ra quân
rfi, Trọng Nghĩa,28/8/13
Vào hôm nay, 28/08/2013, ba nước phương Tây trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, đứng đầu là Mỹ, đã có dấu hiệu sẵn sàng khởi động một chiến dịch không kích hạn chế vào Syria. Mục tiêu được nêu bật không phải là lật đổ chế độ Damas, mà là « ngăn chặn » việc dùng vũ khí hóa học sát nhân hàng loạt.
Phương Tây đã tỏ quyết tâm can thiệp vào Syria bất chấp cảnh báo của Iran, Nga và Trung Quốc về nguy cơ toàn khu vực trở thành bất ổn.
Từ ngày ra vụ tấn công bằng vũ khí hóa học sát hại hàng trăm người gần Damas hôm 21/08/2013, khả năng tấn công Syria đã được các thủ đô phương Tây gợi lên trở lại càng lúc càng nhiều. Sau khi đã đoan chắc rằng chính quyền Syria phải chịu trách nhiệm trong vụ thảm sát này, ba cường quốc Mỹ, Anh và Pháp đã tuyên bố sắn sàng hành động, không phải là để lật đổ chế độ của Tổng thống Bashar al-Assad, mà là để cảnh cáo không cho chính quyền Syria sử dụng vũ khí hóa học một lần nữa.
Theo phủ Thủ tướng Anh, vào hôm qua, Tổng thống Mỹ Barack Obama và lãnh đạo chính phủ Anh David Cameron đã hội ý với nhau qua điện thoại và xác định rằng « không còn nghi ngờ gì về trách nhiệm của chế độ Assad » trong cuộc tấn công.
Phát biểu tại Hoa Kỳ, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng nhấn mạnh : « Tổng thống (Obama) và tôi đều cho rằng những kẻ sử dụng vũ khí hóa học chống lại những người đàn ông, đàn bà và trẻ em không có khả năng tự vệ phải gánh chịu trách nhiệm ».
Tổng thống Pháp François Hollande, cũng cùng quan điểm. Trước lúc tiếp ông Ahmad al-Jarba chủ tịch Liên minh Quốc gia Syria, lãnh đạo phong trào đối lập Syria vào ngày mai, ông Hollande đã xác nhận rằng nước Pháp cũng « sẵn sàng » can thiệp quân sự để « trừng phạt » chế độ Damas về tội « đầu độc » người dân của mình.
Là nước sẽ phải đi đầu trong chiến dịch không kích Syria, trong tuần này Washington sẽ công bố một phần của bản phúc trình tình báo xác nhận trách nhiệm của chế độ Damas trong việc dùng vũ khí hóa học.
Theo tạp chí Mỹ Foreign Policy (Chính sách đối ngoại), sở dĩ Hoa Kỳ đã xác quyết trách nhiệm của Damas, đó là vì tình báo Mỹ đã chặn nghe được các cuộc điện đàm giữa một quan chức Bộ Quốc phòng Syria với chỉ huy trưởng đơn vị vũ khí hóa học của quân đội Syria.
Theo tiết lộ của lãnh đạo đối lập Syria Ahmad Ramadan, thời điểm tấn công rất gần kề. Theo nhân vật này, đã có những cuộc họp giữa Liên minh Quốc gia Syria, Quân đội Syria Tự do và các nước đồng minh, để thảo luận về « các mục tiêu tấn công tiềm tàng », bao gồm sân bay, căn cứ quân sự và kho vũ khí.
Quan chức trong chính quyền Obama, đã loại trừ khả năng gửi quân can thiêp « trên bộ », chiến dịch sẽ được giới hạn trong một vài ngày, dùng tên lửa hành trình Tomahawk bắn đi từ bốn khu trục hạm Mỹ đang túc trực ngoài khơi Syria.
Thỉnh nguyện thư kêu gọi Mỹ không đàm phán TPP với Việt Nam
Tin liên hệ
- Giao dịch tình nghi rửa tiền ở VN năm 2012 lên tới hàng tỷ đô la
- Liên minh về Quyền Tự do trên Mạng ra thông cáo chung về nghị định 72 của VN
- RSF sắp phát động chiến dịch đòi VN trả tự do cho blogger
- Ý nghĩa bản án của Phương Uyên-Nguyên Kha
- Ông Lê Hiếu Đằng: Báo Quân đội Nhân dân ‘bỏ bóng đá người’
Công đoàn Anh Em Vận tải Quốc tế (International Brotherhood of Teamster) tại Hoa Kỳ vừa phát động chiến dịch yêu cầu chính phủ Mỹ ngưng đàm phán Hiệp định Đối tác Tự do Thương mại Xuyên Thái Bình Dương với Việt Nam cho tới khi nào Hà Nội đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về lao động, nhân quyền, và môi trường.
Thỉnh nguyện thư trên trang web của tổ chức này kêu gọi mọi người ký tên để bày tỏ với Quốc hội và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ rằng người dân Mỹ cần các thỏa thuận mậu dịch công bằng chứ không cần thêm các thỏa thuận mậu dịch tự do.
Thỉnh nguyện thư nêu rõ không phải tự nhiên mà thu nhập của các gia đình Mỹ bị sút giảm trong 20 năm qua mà nguyên nhân là vì các nhà chính trị Hoa Kỳ ký kết các thỏa thuận “mậu dịch tự do” đánh đổi công ăn việc làm của người dân Mỹ cùng các tiêu chuẩn về an toàn lao động, an toàn tiêu dùng, và an toàn thực phẩm để được lợi nhuận lớn hơn cho các tập đoàn công ty.
Thỉnh nguyện thư nói giờ đây các chính trị gia Mỹ đang nỗ lực thông qua Hiệp định TPP mà hiệp định này tự do đánh đổi việc làm và quyền lợi của dân Mỹ để lấy về các sản phẩm giá rẻ được làm bởi các công nhân bị cưỡng bách lao động trong các điều kiện làm việc không an toàn.
Công đoàn này đề nghị các thỏa thuận thương mại của Hoa Kỳ nên đề ra những tiêu chuẩn với người lao động, với sản phẩm chất lượng và an toàn, với việc bảo vệ môi trường không khí, nước, và đất đai thay vì đẩy mọi người xuống mức phải làm việc trong các xưởng bóc lột sức lao động và độc hại như ở Việt Nam.
Mục tiêu của thỉnh nguyện thư đề ra là một ngàn chữ ký, nhưng tới nay đã có trên 1400 người tham gia ký tên.
Một cuộc vận động tương tự của cộng đồng người Việt tại Mỹ do Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS phát động cũng đang được tiến hành.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành BPSOS, cho biết:
“Hiện nay nhiều nhóm lợi ích khác nhau đang vận động để không cho Việt Nam vào TPP cho đến khi Hà Nội thật sự tôn trọng quyền của người lao động, có những công đoàn tự do và độc lập của người lao động. Nếu mậu dịch Việt-Mỹ được gia tăng trong tình trạng nhân quyền Việt Nam như bây giờ thì e rằng càng trầm trọng hơn nạn công nhân bị bóc lột mà không có tiếng nói. Hiện ở Việt Nam đang xảy ra tình trạng cưỡng bức lao động như đối với các tù nhân và các cải tạo viên. Một khi có nạn cưỡng bức lao động như vậy, giá thành sản phẩm của Việt Nam sẽ được thấp xuống, không cạnh tranh công bằng với Mỹ. Chúng tôi mong Việt Nam sẽ được vào TPP, nhưng phải có điều kiện. Bởi, nếu không, sẽ xảy ra tình trạng y hệt như năm 2006. Khi Tổng thống Bush bỏ tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC (Các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo) và cho Việt Nam được hưởng quyền quan hệ bình thường với Mỹ một cách thường trực, lập tức xảy ra các cuộc đàn áp rất nặng nề tại Việt Nam kéo dài tận ngày hôm nay. Đó là tín hiệu sai lầm và nguy hiểm mà Hoa Kỳ đã nhắn cho Việt Nam. Cho nên, chúng tôi muốn chặn lại ngay vì e rằng nếu không sẽ gia tăng đàn áp tại Việt Nam.”
Mới tháng 5 năm nay, Hiệp hội Quyền Công nhân trụ sở tại Hoa Kỳ vừa công bố báo cáo về tình trạng nô lệ trẻ em đồng thời trình bày chi tiết các điều kiện làm việc mất vệ sinh và lương thấp ở Việt Nam.
Mạng lưới bloggers Việt Nam gặp Đại sứ quán Đức
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok. 2013-08-28
Nghe bài này
Đại diện Mạng lưới các bloggers Việt Nam hôm nay 28 tháng 8 tiếp tục đến trao Tuyên bố 258 cũng như trao đổi vấn đề nhân quyền ở Việt nam với Đại sứ quán Đức ở Hà Nội, sau khi họ vừa thực hiện được hoạt động đó hôm 23 tháng 8 với Đại sứ quán Úc.
Tuy nhiên việc làm đó có phải ‘thuận buồm, xuôi gió’ hay không?
Qua mặt an ninh
Mạng lưới bloggers tại Việt Nam vào chiều ngày 27 tháng 8 loan tin cho biết vào ngày hôm sau 28 tháng 8 họ sẽ đến tại Đại sứ quán Đức ở Hà Nội để thực hiện công việc mà họ đang tiến hành trong thời gian qua. Trong thực tế, khi đến tại các cơ quan ngoại giao như thế trong thời gian qua một số bloggers đã gặp sự theo dõi và cản trở của phía cơ quan an ninh Việt Nam.
Vào sáng ngày 28 tháng 8, những bloggers cho biết phía cơ quan an ninh cũng có sự chuẩn bị đối phó tại khu vực đại sứ quán Đức; nhưng rồi những bloggers đại diện cũng được vào bên trong cơ quan ngoại giao này theo như kế hoạch của họ đã định trước. Đó là các blogger nữ Phương Bích, Lan Lê, Sông Quê, Hư Vô và An Đỗ Nguyễn.
Theo như mọi người nói, quanh khu vực sứ quán đó từ sáng có rất nhiều an ninh, công an, dân phòng đứng rải rác quanh đó. Chúng tôi đến 5 người nữ như thế là một bất ngờ đối với họ, và chúng tôi cũng vào sứ quán một cách bình yên
Blogger Phương Bích
Blogger Phương Bích, một trong năm bloggers vừa nói sau khi từ đại sứ quán Đức trở về cho biết:
Việc chúng tôi đi hoàn toàn giữ bí mật cho đến phút chót, vì chúng tôi e ngại sự ngăn cản từ phía chính quyền. Thậm chí chúng tôi không biết ai sẽ đến đó, mà đến đó mới biết gồm 5 người nữ. Và chúng tôi có biện pháp gần như ‘đánh lạc hướng’, tức có một số bạn nam đi cùng. Nói chung mọi người không biết nhau, khi đến đó mới biết. Khi chúng tôi đến, sứ quán ra đứng sẵn đón chúng tôi. Theo như mọi người nói, quanh khu vực sứ quán đó từ sáng có rất nhiều an ninh, công an, dân phòng đứng rải rác quanh đó. Chúng tôi đến 5 người nữ như thế là một bất ngờ đối với họ, và chúng tôi cũng vào sứ quán một cách bình yên.

Mới tuần rồi, vào ngày 23 tháng 8 đại diện Mạng Lưới Bloggers Việt nam cũng trao được Tuyên bố 258 của họ đến Đại sứ quán Úc ở Việt Nam; tuy nhiên họ cũng phải có cách để không bị phía công an ngăn cản. Blogger Gió Lang Thang cho biết cách thức đó vào hôm ấy:
Bên đại sứ quán Úc không muốn có những khó khăn như hôm gặp Thụy Điển nên hẹn gặp từ bên ngoài, và họ yêu cầu bí mật hơn!
Nội dung trao đổi
Tại các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài ở Hà Nội, cũng như văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp quốc tại Bangkok và những tổ chức nhân quyền … khác, những đại diện của Mạng lưới Bloggers Việt Nam trao bản Tuyên bố 258 với nội dung kêu gọi chính quyền Việt Nam phải thay đổi điều luật này khi muốn tranh cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc khóa 2014-2016. Hiện nay thêm một vấn đề nữa là phản đối Nghị định 72 của chính phủ sẽ có hiệu lực vào ngày 1 tháng 9 tới đây, qua đó nhằm siết chặt quyền thông tin trên mạng của những người sử dụng.
Sứ quán tiếp đón rất chu đáo. Họ lắng nghe chúng tôi nói và họ cũng nói sơ qua việc họ cũng đã biết và có những động thái từ phía chính phủ, không phải chỉ có Đức mà một số nước trong Liên minh Châu Âu, cũng đã lên tiếng về Nghị định 72. Chúng tôi đến chỉ trao Tuyên bố 258
Blogger Phương Bích
Blogger Phương Bích cho biết lại nội dung cuộc làm việc với Đại sứ quán Đức vào sáng ngày 28 tháng 8 như sau:
Sứ quán tiếp đón rất chu đáo. Họ lắng nghe chúng tôi nói và họ cũng nói sơ qua việc họ cũng đã biết và có những động thái từ phía chính phủ, không phải chỉ có Đức mà một số nước trong Liên minh Châu Âu, cũng đã lên tiếng về Nghị định 72. Chúng tôi đến chỉ trao Tuyên bố 258. Ngoài ra chúng tôi cũng trao đổi vấn đề bên ngoài một chút và nói thẳng với đại sứ quán là việc đấu tranh dân chủ phải là người trong nước, chủ yếu từ trong nước còn việc đề nghị hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế là cần thiết. Chúng tôi đề nghị họ có động tác nào đó can thiệp với chính phủ Việt Nam về những điều khoản mà Việt Nam đã ký với Liên hiệp quốc về nhân quyền.
Quyền được gặp
Cũng vào ngày 28 tháng 8, một blogger khác là anh Nguyễn Chí Đức, người có mặt tại cuộc gặp với đại diện sứ quán Úc ở Hà Nội bị Công an Khu phố Khâm Thiên, Quận Đống Đa nơi gia đình anh cư trú mời đi làm việc. Trong giấy mời ghi rõ nội dung hỏi việc liên quan đến đề nghị mà anh này nêu ra tại sứ quán Australia.
Tôi nghĩ rằng sẽ có gặp trở ngại, sau những việc làm thế này truyền thông sẽ chú ý hơn và họ sẽ sẵn sàng ngăn cản chúng tôi. Họ sẽ có những ngăn cản từ xa, nhưng chúng tôi cũng có cách và mình phải chấp nhận chuyện đó
Blogger Phương Bích
Blogger Phương Bích thừa nhận sau những cuộc trao Tuyên bố 258 và nói chuyện về tình hình nhân quyền ở Việt Nam với các cơ quan đại diện ngoại giao ở Hà Nội như sứ quán Hoa Kỳ, Thụy Điển, Úc và Đức như vừa qua; sắp đến đây trở ngại từ phía cơ quan chức năng sẽ tăng lên. Tuy nhiên các blogger vẫn kiên định việc làm của họ. Blogger Phương Bích nói:
Tôi nghĩ rằng sẽ có gặp trở ngại, sau những việc làm thế này truyền thông sẽ chú ý hơn và họ sẽ sẵn sàng ngăn cản chúng tôi. Họ sẽ có những ngăn cản từ xa, nhưng chúng tôi cũng có cách và mình phải chấp nhận chuyện đó. Nhưng không có lý do gì mà họ ngăn cản cả vì đây là việc nằm trong quyền của chúng tôi. Nếu kết tội chúng tôi phải đưa ra những điều khoản nào đó. Họ chỉ tìm những cớ rất vớ vẩn để ngăn cản; nhưng họ không hề có bất cứ lý do nào…
Xin được nhắc lại, việc trao Tuyên bố 258 của Mạng lưới Bloggers Việt Nam cho các cơ quan đại diện ngoại giao và các tổ chức quốc tế được bắt đầu ở Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội vào ngày 24 tháng 7 vừa qua. Đến ngày 31 tháng 7 tại Văn phòng cao ủy Nhân quyền Liên hiệp quốc ở Bangkok và tiếp sau đó một loạt các tổ chức ở Thái Lan như Human Rights Watch, Ủy ban Bảo vệ Ký giả, Ủy ban Luật gia Quốc tế, Liên minh Báo chí Đông Nam Á…
Hoạt động ‘quốc tế vận’ đó của Mạng lưới Bloggers Việt Nam được đánh giá bước đầu thành công.
Tin, bài liên quan
Obama: ‘Syria đã dùng vũ khí hóa học’
Lời khẳng định của Tổng thống Mỹ đưa ra sau các tuyên bố của Phó Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ.
Tổng thống Barack Obama nói Hoa Kỳ kết luận rằng chính phủ Syria đã dùng vũ khí hóa học để tấn công gần Damascus vào tuần trước.
Ông nói rằng việc dùng vũ khí hóa học ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ và rằng “đưa ra biện pháp cảnh cáo” có thể có ảnh hưởng tích cực tới cuộc chiến tại Syria.
Các bài liên quan
Tuy nhiên trả lời phóng vấn với PBS, Tổng thống Hoa Kỳ nói ông chưa quyết định về việc liệu có can thiệp bằng quân sự hay không.
Lời bình luận của ông được đưa ra một ngày sau các nỗ lực đưa ra một nghị quyết về Syria tại LHQ.
Anh Quốc đã tạo áp lực cho các thành viên Hội đồng Bảo an LHQ bỏ phiếu chấp thuận một nghị quyết tạo điều kiện có các biện pháp nhằm bảo vệ thường dân tại Syria.
Tuy nhiên, đồng minh của Syria là Nga từ chối chấp nhận nghị quyết này và phiên họp không mang lại kết quả cho bế tắc ngoại giao vốn là điểm tồn đọng trong lập trường của LHQ về Syria.
Washington cho hay sẽ công bố một báo cáo tình báo về vụ Ghouta trong những ngày tới và thanh tra vũ khí LHQ hiện đang có mặt tại Syria để điều tra.
Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon nói họ cần thêm bốn ngày nữa để hoàn tất việc điều tra.
Trước đó, Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nói “không có nghi ngờ gì” là chính phủ Syria đã sử dụng vũ khí hóa học và phải chịu trách nhiệm về việc này.
Mỹ cũng tuyên bố sẵn sàng tấn công Syria nếu như Tổng thống Barack Obama ra lệnh, và các đồng minh của Mỹ nói sẵn sàng hành động.
Hơn 300 người bị cho đã thiệt mạng trong vụ này.
Nga, Trung Quốc và Iran đã cảnh báo về điều mà Moscow gọi là “hậu quả khủng khiếp” của việc tấn công Syria, nơi hơn 100.000 người đã thiệt mạng trong suốt hai năm chiến sự.
Truyền thông nói gì?
Chính phủ Anh đóng vai trò chủ đạo trong việc soạn nghị quyết để đưa ra LHQ.
BBC News: Anh Quốc hiện đã sẵn sàng để đưa ra một nghị quyết ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (LHQ) vào cuối ngày thứ Tư (28/8) nhằm “ủy quyền cho việc sử dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ thường dân” ở Syria.
Thủ tướng Anh, ông David Cameron nhắn tin trên mạng Twitter rằng một dự thảo nghị quyết như thế sẽ được đưa ra trước năm nước thường trực của Hội đồng Bảo an.
Trước đó, nhóm thanh tra vũ khí LHQ đã bắt đầu công việc trở sau để tìm hiểu vụ bị nghi là có xảy ra tấn công bằng vũ khí hóa học hôm 21/8.
Tổng thư ký LHQ, ông Ban Ki-moon kêu gọi Hội đồng Bảo an cùng hành động.
“Hội đồng Bảo an phải thống nhất để hành động, phải dùng uy quyền của mình cho hòa bình.”
Báo The Guardian:
Iran ra lời đe dọa đáp lại tuyên bố của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, John Kerry hôm thứ Hai rằng Hoa Kỳ sẽ “có phản ứng trước việc Syria “sử dụng vũ khí hóa học”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Iran, Abbas Araqchi nói “can thiệp quân sự của nước ngoài vào Syria sẽ đem lại hậu quả là một cuộc xung đột lan rộng trong toàn khu vực”.
“Hậu quả và các diễn biến sẽ không chỉ gói gọn vào Syria mà sẽ làm cả vùng bùng cháy”
Tổng thống Asad của Syria thăm quân lính
Ông cũng nói:
“Chúng tôi cảnh báo mạnh mẽ trước bất cứ vụ tấn công quân sự nào vào Syria. Nó sẽ gây ra hậu quả vô cùng xấu cho cả vùng.”
Nói tại một cuộc họp báo, ông Araqchi cảnh báo:
“Hậu quả và các diễn biến sẽ không chỉ gói gọn vào Syria mà sẽ làm cả vùng bùng cháy.”
Iran với đa số dân theo đạo Hồi phái Shia là đồng minh gần gũi nhất của Syria và đang cáo buộc một liên minh của phe Hồi giáo Sunni cùng Israel và các cường quốc Phương Tây dùng cuộc xung đột nhằm chiếm trọn vùng Trung Đông, theo tờ Bấm The Guardian ra ở Anh hôm 28/8.
Báo Haaretz, Israel:
“Đang có đà cho một hành động quân sự chống lại Syria. Hoa Kỳ và Pháp nói họ đã sẵn sàng vào vị trí cho một đợt không kích. Liên đoàn Ả Rập kêu gọi có hành động trừng phạt…”
Tờ báo trích lời trưởng biên tập trang quân sự ‘The Armed Forces’ của Anh, ông Charles Heyman nói với các hãng thông tấn rằng chiến dịch sẽ diễn ra qua ba giai đoạn, trong đó, giai đoạn một là bao vây hải phận và không phận của Syria đã diễn ra.
“Giai đoạn hai có thể là không tập mang tính trừng phạt, bắn vào trung tâm chỉ huy và các hệ thống thông tin liên lạc. [Vũ khí] có thể là hỏa tiễn định vị từ phi cơ hoặc tàu chiến,”
“Giai đoạn ba có thể là tấn công ồ ạt để tiêu diệt không lực của Syria”, ông Heyman được trích lời cho biết.
Báo nhà nước Trung Quốc:
Người Israel mua mặt nạ phòng độc ở Jerusalem hôm 28/8 trong tinh thần trực chiến
Truyền thông Trung Quốc cảnh báo việc lặp lại vụ xâm lăng Iraq do Hoa Kỳ dẫn đầu năm 2003 mà không có sự ủy quyền của LHQ.
Trang Nhân dân Nhật báo viết:
“Cộng đồng quốc tế cần nêu cao cảnh giác trước các thế lực bên ngoài muốn lặp lại mô thức này tại Syria. Vụ ‘dùng vũ khí hóa học’ không thể được giải quyết bằng các biện pháp ‘vô căn cứ’ và bất cứ hành động tiếp theo nào cũng phải được hỗ trợ bằng các bằng chứng do điều ra đúng đắn, đáng tin cậy.”
Còn báo Hoàn cầu bản tiếng Anh thì viết:
“Các thế lực trên thế giới vốn chống lại can thiệp quân sự cần đoàn kết để ngăn ngừa càng nhiều càng tốt khả năng Hoa Kỳ và Anh Quốc cùng những nước khác không kích Syria. Nếu không ngăn được thì họ cần công khai ủng hộ chính phủ Syria để kháng cự lại.”
Ông Trần Công Trục: ‘Sòng phẳng’ khi đàm phán biên giới
BBC, 28 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/08/130828_tran_cong_truc_border_iv.shtml
Ông Trần Công Trục nói cuộc đàm phán Việt Trung diễn ra ‘khách quan và khoa học’
Cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói ông muốn giải thích “khách quan và khoa học” cuộc đàm phán tranh chấp biên giới Việt – Trung, từng một thời gây tranh cãi trong dư luận.
Tiến sĩ Trần Công Trục nêu ý kiến trên với BBC Tiếng Việt sau khi có bài trả lời phỏng vấn trên báo Bấm Giáo dục Việt Nam, nhìn lại quá trình ông tham gia đàm phán với Trung Quốc về biên giới trên bộ và Vịnh Bắc Bộ.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trong bài này, tiến sĩ Công Trục thừa nhận ngay cả nhiều người làm việc cho chính phủ Việt Nam vẫn “mơ hồ, lăn tăn” về các hiệp định ký với Trung Quốc.
“Họ nghĩ Việt Nam là nước nhỏ, nước yếu…phải có sự nhượng bộ không thể tránh khi đàm phán,” ông Trục nói với báo Giáo dục Việt Nam.
Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc được ký năm 1999.
10 năm sau đó, hai nước ký thêm ba văn kiện về biên giới đất liền, và tuyên bố kết thúc 35 năm đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền.
Thế nhưng những tiếng nói chỉ trích, đặc biệt trong giới bất đồng chính kiến, vẫn nói rằng thông tin về đường biên giới Việt-Trung “rất mờ mịt”.
Luồng dư luận này cũng cáo buộc Đảng Cộng sản Việt Nam dường như tìm cách che giấu tình hình đường biên giới mới.
Trả lời BBC hôm 28/8, tiến sĩ Trần Công Trục nói ông lên tiếng với báo trong nước nhằm để dư luận “hiểu rõ”.
“Tôi là người trực tiếp đàm phán, trực tiếp nghiên cứu không chỉ tài liệu pháp lý mà còn đến các khu vực tranh chấp.”
Các thỏa thuận được ký theo tinh thần “cầu thị và khách quan”, theo ông Trục.
Biểu tượng và thực tế
Ông Trục giải thích lại với BBC việc đàm phán quanh các khu vực mang tính biểu tượng của lãnh thổ Việt Nam, trong đó có Thác Bản Giốc và Hữu Nghị Quan (Ải Nam Quan).
Chính phủ Việt Nam nói phần thác phụ của Thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc phía Việt Nam, còn phần thác chính đổ thẳng xuống sông Quây Sơn là sông chung biên giới.
Hai nước cũng sẽ tiến hành phát triển du lịch, kinh tế tại khu vực thác.
Những tiếng nói chỉ trích cho rằng Việt Nam hoặc bị thiệt hoặc nhượng bộ quá mức trong vấn đề này.
Theo ông Trục, “xuất phát từ tài liệu lịch sử, văn học, sách giáo khoa, đã đi vào tiềm thức người Việt Nam rằng Thác Bản Giốc là của Việt Nam, nước Việt Nam kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau”.
“Đó là văn chương, còn về mặt pháp lý, khi hai bên đàm phán, không thể quay lại văn chương, những yếu tố mơ hồ để khẳng định.”
“Hai bên đã đi đến ký kết hết sức sòng phẳng, rõ ràng và tôn trọng lẫn nhau, vì lợi ích của cả hai bên,” ông Trục khẳng định với BBC.
“Có nhóm sử dụng vấn đề biên giới lãnh thổ, tung tin ông này ông kia nhân nhượng vô nguyên tắc với Trung Quốc, ‘cắt đất’, ‘bán đất’ cho TQ nhằm tư lợi cho mình”
Trần Công Trục
Còn trên báo Giáo dục Việt Nam, ông Trục nói “những vùng đất tranh chấp phải thông qua đàm phán giữa ta và Trung Quốc thì cả hai bên…đều không đủ cơ sở pháp lý thuyết phục để khẳng định nó là của mình”.
“Nếu đã có đầy đủ chứng cứ pháp lý chứng minh được chủ quyền đối với những khu vực này thì không bao giờ có thể nhân nhượng được, kể cả là ta hay Trung Quốc.”
“Những ‘vùng tranh chấp’ là các khu vực chưa có thể nói nó là của anh hay của tôi, mà đàm phán phân chia theo luật pháp quốc tế, thì như vậy không thể nói là ta đã để mất các khu vực này vào tay Trung Quốc, hay ngược lại Trung Quốc, mất các khu vực này vào tay ta,” ông Trục nói.
Trong bài trên báo Giáo Dục, ông Trần Công Trục nói rằng ông “từng bị chửi là bán đất cha ông cho Trung Quốc”.
Ông cũng cho rằng có ba nhóm người với ba loại quan điểm hoài nghi về đàm phán biên giới Việt – Trung nhưng có động cơ khác nhau.
“Nhóm đối tượng thứ nhất gồm đại đa số cán bộ, nhân dân quan tâm lo lắng cho sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ nước nhà,” theo tiến sỹ Trần Công Trục.
Ông coi nhóm thứ hai “có những đối tượng, thế lực muốn lật đổ, bôi nhọ chính thể này” thông qua câu chuyện về chủ quyền lãnh thổ.
Còn nhóm thứ ba, theo ông “nằm ngay trong nội bộ chúng ta” và họ là “những cá nhân vì tranh giành lợi ích này lợi ích khác”.
Ông Trần Công Trục cho rằng họ đã “sử dụng vấn đề biên giới lãnh thổ, tung tin ông này ông kia nhân nhượng vô nguyên tắc với Trung Quốc, ‘cắt đất’, ‘bán đất’ cho TQ nhằm tư lợi cho mình.”
Bộ trưởng Hagel ‘sẽ thăm VN vào năm tới’
BBC, 28 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/08/130828_phungquangthanh_hagel.shtml
Các bộ trưởng quốc phòng Asean mở rộng họp mặt ở Brunei
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel và người đồng nhiệm Việt Nam Phùng Quang Thanh đã có cuộc gặp bên lề Hội nghị ADMM+ tại Brunei vào thứ Tư 28/8, tại đó, ông Hagel đã đồng ý đi thăm Việt Nam vào năm 2014.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Sau cuộc gặp, thông cáo báo chí của Bấm Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nói:
“Ngài Bộ trưởng đã cảm thấy vinh dự nhận lời mời từ Tướng Phùng Quang Thanh để đến thăm Việt Nam vào năm sau”.
Trước đó, Bấm bản thông cáo của Lầu Năm Góc cũng nói hai nhà lãnh đạo quân sự Mỹ – Việt đã “ghi nhận tầm quan trọng của các giải pháp hòa bình cho tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa”.
Báo Singapore The Straits Times cho hay đây là một trong các cuộc gặp được lên kế hoạch cho một ngày bận rộn bên lề Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng Asean mở rộng của ông Hagel.
Ngoài Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ còn gặp bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản, Nam Hàn và Brunei. Ông cũng sẽ gặp Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn và người tương nhiệm Miến Điện.
Tuy tình hình Syria có khả năng chiếm lĩnh nghị trình của ông Hagel, ông vẫn được trông đợi sẽ kêu gọi các nước kiềm chế tại Biển Đông và cổ suý cho tiến trình chuyển dịch trọng tâm sang châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ.
Hội nghị ADMM+ là sáng kiến do Việt Nam đưa ra năm 2010, có sự tham gia của bộ trưởng quốc phòng các nước Asean và 8 quốc gia khác là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Australia, và New Zealand. Hội nghị năm nay là lần thứ hai, diễn ra trong hai ngày 28/8-29/8.
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh vừa có chuyến công du Philippines ba ngày trước khi tới Brunei tham dự ADMM+.
Tại Manila, ông Thanh cũng đã thảo luận với Bộ trưởng Quốc phòng Philippines về tình hình Biển Đông.
Thời gian gần đây, Việt Nam và Hoa Kỳ đã đẩy mạnh hợp tác quốc phòng trên nhiều cấp độ, tuy nhiên Mỹ vẫn chưa bán vũ khís át thương cũng như chưa tập trận chung với Việt Nam.
‘Cường quốc tầm trung’
Hôm 27/8, hãng tin Bloomberg có bài đề cập tới vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực quốc phòng-quân sự tại khu vực.
Hãng này nhận định “cuộc tranh giành nguồn lợi dầu khí, hải sản và ảnh hưởng đang đặt Việt Nam vào tầm chú ý trong vị thế cường quốc tầm trung đang nổi lên ở Đông Nam Á”.
Theo Bloomberg, kể từ hội nghị ADMM+ lần thứ nhất ở Hà Nội năm 2010, vai trò của Việt Nam đang đi lên trong bối cảnh Mỹ chuyển dịch trọng tâm sang châu Á-Thái Bình Dương và Trung Quốc cũng mở rộng tầm ảnh hưởng.
Ralf Emmers, phó giáo sư tại Học viện Nghiên cứu các vấn đề Quốc tế mang tên S. Rajaratnam ở Singapore, được dẫn lời nói: “Việt Nam ngày càng được coi như một quốc gia quan trọng trong khu vực”.
Tuy nhiên điều này, theo ông Emmers, khiến Việt Nam phải cân nhắc hành xử để không bị coi là quá thân với Mỹ mà làm phật lòng Trung Quốc.
Việt Nam cần hỗ trợ của Mỹ, nhất là trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, nhưng Việt Nam cũng không muốn đi con đường của Philippines, đồng minh lâu năm của Mỹ.
Một số chuyên gia, như Termsak Chalermpalanupap từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á cũng ở Singapore, cho rằng quan hệ giữa hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cho phép Hà Nội giải quyết bất đồng với Bắc Kinh tại Biển Đông một cách thuận lợi hơn Manila.
Phương Tây triển khai lực lượng tiến gần Syria
rfi, Đức Tâm, 28-08-13
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20130828-phuong-tay-trien-khai-luc-luong-gan-syria
Trong viễn cảnh can thiệp quân sự vào Syria, các nước phương Tây, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp đã gia tăng chuẩn bị và triển khai các phương tiện quân sự gần sát Syria. Hoa Kỳ huy động bốn khu trục hạm, có trang bị tên lửa hành trình, tiến đến vùng biển gần Syria.
Hàng không mẫu hạm USS Harry S.Truman, tuần trước, cũng đã lên đường, qua kênh đào Suez, để tới biển Hồng Hải. Theo nhiều chuyên gia quân sự, từ vị trí này ở ngoài khơi, hàng không mẫu hạm Harry Truman có thể thực hiện các vụ tấn công Syria. Bên cạnh đó, các tàu hộ tống cho hàng không mẫu hạm này cũng có khả năng phóng tên lửa hành trình Tomahawk.
Sau cuộc tập trận chung, kể từ năm nay, theo yêu cầu của chính quyền Amman, các máy bay tiêm kích F-16 của Mỹ hiện diện tại Jordani. Ngoài ra, Washington còn có một căn cứ quân sự lớn ở Incirlik, Thổ Nhĩ Kỳ, nơi có thể đón tiếp nhiều máy bay Mỹ.
Về phần mình, nước Pháp có các máy bay tiêm kích Rafale và Mirage tại Tiểu vuơng quốc Ả Rập Thống nhất và có thể tham gia vào các vụ oanh kích Syria.
Khi cần, Paris cũng có thể huy động hàng không mẫu hạm nguyên tử Charles de Gaulles. Sau nhiều tháng tu sửa, con tàu này có thể quay lại hoạt động. Tuy nhiên, cho đến lúc này, hàng không mẫu hạm Charles de Gaulles vẫn thả neo tại Toulon, miền nam nước Pháp.
Anh Quốc không có hàng không mẫu hạm có thể tham chiến và dường như sẽ huy động các tàu ngầm lớp Astute và Trafalgar, được trang bị tên lửa hành trình, để tham gia tấn công Syria.
Nhiều nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Anh Quốc khẳng định rằng vì lý do này mà từ nhiều tháng nay, có ít nhất là một tàu ngầm của nước này vẫn hoạt động ở Địa Trung Hải.
Hiện nay, không có một chiếc máy bay chiến đấu nào của Anh có mặt ở trong vùng. Về lý thuyết, các máy bay tiêm kích có thể được điều động đến những căn cứ quân sự của Anh tại Chypre, nếu như chính quyền Nicosia chấp nhận.
Báo Đảng công kích ông Lê Hiếu Đằng
BBC, 28 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/08/130828_vietmedia_lehieudang.shtml
Ông Lê Hiếu Đằng là Đảng viên CSVN với 45 năm tuổi ĐảngCác báo của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đăng nhiều bài chỉ trích quan điểm kêu gọi thành lập đảng đối lập của ông Lê Hiếu Đằng.
Hồi giữa tháng Tám này, luật gia Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam ở TP HCM, công bố một bài viết mới nhấn mạnh tầm quan trọng của đa nguyên, đa đảng.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trong bài viết tựa đề “Bấm Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh (bệnh)…”, ông Lê Hiếu Đằng, người được biết lâu nay với nhiều ý kiến đóng góp cho tiến trình dân chủ hóa ở trong nước, kêu gọi các đảng viên CSVN đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng cùng “tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ Xã hội”.
Ông cũng nói đa nguyên, đa đảng là “quy luật tất yếu”.
Ngay lập tức, các báo của Đảng CSVN đã có chiến dịch bút chiến phản bác lại luận điểm của ông, tới nay đã có khoảng mười bài.
Báo Quân đội Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, đi đầu trong ‘chiến dịch’ này với tổng cộng 5 bài báo, bài đầu tiên đăng hôm 18/8.
Tiếp đó là các báo Sài Gòn Giải phóng và Nhân dân.
Bài mới nhất trong loạt bài phản hồi tác giả Lê Hiếu Đằng đăng trên báo Sài Gòn Giải phóng (SGGP) của Thành ủy TP HCM hôm thứ Ba 27/8 với tựa đề ‘Bấm Những hành vi độc hại của một khuynh hướng tư tưởng sai lầm‘.
Tác giả bài báo là ông Trần Hữu Phước, người từng là thư ký của cố chính khách Lê Đức Thọ.
‘Thùng nước bẩn về chính trị’
Bài trên SGGP của ông Trần Hữu Phước nói ông Lê Hiếu Đằng đã “dội lên một thùng nước bẩn về chính trị giữa những ngày mùa thu cách mạng thiêng liêng”.
Ông Phước cũng nói bài viết của ông Đằng là “con đường bế tắc của sự nhận thức lệch lạc về chính trị và lý luận”.
Ông nhắc lại và so sánh ông Lê Hiếu Đằng với một bậc cựu công thần khác của Đảng CSVN, sau chuyển sang bất đồng chính kiến, là ông Hoàng Minh Chính, cựu Viện trưởng Viện Triết học (đã mất).
“… chủ nghĩa xã hội giàu sinh lực đã được đổi mới và trẻ hóa, vẫn đang đứng vững và tỏa sáng như ngọn hải đăng từ sông Áp Lục xuống tận vùng đất mũi của bán đảo Cà Mau trù phú, từ cánh đồng Chum nổi tiếng của xứ “Triệu voi” nối dài tới hòn đảo tự do của đất nước Cuba, tới châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribê mênh mông bát ngát.”
Trần Hữu Phước
Bài viết giận dữ của ông Phước không ngần ngại gọi ông Đằng, người có 45 năm làm Đảng viên CSVN, là “quay lưng lại lịch sử, chống báng Đảng và đã bị trượt chân xuống vực trong sự tha hóa về tư tưởng”.
“Đừng nên quên rằng, ‘người nói láo’ đã được xếp vào loại biệt hạng, đó chính là Lê Hiếu Đằng,” ông Trần Hữu Phước thẳng thừng chỉ trích.
Bài viết của ông Phước cũng cảnh báo rằng chủ trương của Đằng đã biến ông thành “bạn đường của các thế lực chống đối đang rắp tâm tổ chức thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn… thâm độc trên đất nước ta”.
Đây có lẽ là những chỉ trích gay gắt nhất nhằm vào cá nhân ông Lê Hiếu Đằng từ khi bài viết ‘Suy nghĩ trên giường bịnh…’ của ông được công bố.
Tuy nhiên dường như ông Trần Hữu Phước không đưa ra được nhiều ý tưởng và lý luận phục vụ cho phản bác của mình, ngoài việc ca ngợi chủ nghĩa Mác-Lênin một cách chung chung.
“… chủ nghĩa xã hội giàu sinh lực đã được đổi mới và trẻ hóa, vẫn đang đứng vững và tỏa sáng như ngọn hải đăng từ sông Áp Lục xuống tận vùng đất mũi của bán đảo Cà Mau trù phú, từ cánh đồng Chum nổi tiếng của xứ “Triệu voi” nối dài tới hòn đảo tự do của đất nước Cuba, tới châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribê mênh mông bát ngát.”
Trước bài của ông Phước trên SGGP một ngày, hôm thứ Hai 26/8 báo Nhân dân cũng đăng bài của Hồng Quang chỉ trích quan điểm của ông Lê Hiếu Đằng, nhưng tránh tên ông mà gọi là ‘ông X’.
Bài trên báo Nhân dân còn đề cập tới điều mà tác giả gọi là “sự phụ họa, cổ vũ của BBC, RFA, RFI…”.
Các bài liên quan
Lê Hiếu Đằng, quy luật thoái đảng và “cơn lên đồng tập thể”
Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam. 2013-08-27
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bandocviet-082713-pcd-08272013133307.html
Thay phản biện xã hội và đấu tranh cho công bằng của người nghèo bằng những giáo điều chính trị, đổi chỗ đứng trong lòng dân lấy vị trí xếp hạng trên ngực Đảng, nhiều tờ báo Việt Nam không chỉ chịu chung tình cảnh bị định hướng như Trung Quốc mà còn đang tự sa chân vào chế độ “tự kiểm duyệt”.
Cân bằng lực lượng
Chỉ ít ngày sau sự kiện nữ sinh áo trắng Phương Uyên được trả tự do ngay tại tòa, danh giá của giới truyền thông xã hội Việt Nam lại một lần nữa được báo đảng tôn vinh nhiệt liệt.
Nhưng còn hơn cả thế, tháng 8/2013 đánh dấu lần đầu tiên mối tương quan lực lượng giữa truyền thông xã hội với các báo Lề đảng giao thoa nhau tại một điểm được xem là tạm cân bằng, khác biệt với thế so le trong sự kiện “Kiến nghị 72” và khác hẳn tư thế lắng tiếng của Lề dân vào những năm trước.
Cũng khởi xướng từ trang mạng Bauxite Vietnam như đã từng với “Kiến nghị 72”, hai bức thư của hai nhân vật cứng rắn trong phong trào Lực lượng ba ở Sài Gòn trước năm 1975 – “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” của ông Lê Hiếu Đằng, và ông Hồ Ngọc Nhuận với “Phá xiềng” – đã như quá đủ để lôi kéo một chiến dịch công kích tổng lực của hầu hết các báo đảng danh giá nhất như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Đại Đoàn Kết ở Thủ đô, và cả vài tờ báo quốc doanh thiếu sâu sắc chuyên môn về “phản tuyên truyền” như Tuổi Trẻ và Người Lao Động ở TP.HCM.
Không quá khó khăn để mặc định não trạng của những tờ báo đảng có bề dày thành tích nhất trong cuộc chiến “Phòng, chống diễn biến hòa bình”, khá dễ để lý giải về một diễn biến hòa bình mang tính “kiên định đột biến” của báo Tuổi Trẻ sau khi toàn bộ ban biên tập cũ đã được “thay gen” bởi đội ngũ “cánh tay phải của đảng”, còn một thư ký tòa soạn cũ lại được điều đi “học tập”… Nhưng lại quá khó để hình dung về một tờ báo như Người Lao Động khi nơi đây hiện lên những “phán quyết” sắt máu nhất: “Lẽ ra ông Lê Hiếu Ðằng nên hiểu rằng nếu muốn thành lập một đảng chính trị ở Việt Nam thì nhất thiết phải dựa trên những quy định của pháp luật. Còn hành động “ôn hòa, bất bạo động” cũng không chứng minh rằng đó là những hành vi không vi phạm pháp luật, chẳng hạn, điều 88 Bộ Luật Hình sự quy định: “Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam””.
Lòng dân hay ngực Đảng?
Trong tâm tưởng nhiều người dân và cả cán bộ đảng viên, Ngươi Lao Động là một trong những tờ báo có tính phản biện và chiến đấu cao nhất liên quan đến sự kiện lịch sử “người nông dân nổi dậy” Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng. Hoàn toàn xứng đáng với sứ mệnh của mình, tờ báo này đã tung cả một ê kíp phóng viên điều tra vào cuộc, đã làm rõ trách nhiệm của chính quyền huyện Tiên Lãng và của cả Công an Hải Phòng trong cách đã đẩy người nông dân vào tình cảnh mất đất và cùng đường đến mức nào.
Vào đầu năm 2013, khi nổ ra vụ việc hàng trăm người biểu tình trước trụ sở tuần báo Nam Phương Chu Mạt ở Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc để phản đối chế độ kiểm duyệt báo chí, Người Lao Động cũng là một trong những tờ báo Việt Nam dụng tâm đưa tin và bình luận sớm nhất.
Số là nhân dịp năm mới, tuần báo Nam Phương Chu Mạt có bài viết “Giấc mơ chính thể lập hiến tại Trung Quốc” để bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Thế nhưng một quan chức của tỉnh Quảng Đông đã kiểm duyệt, rút bỏ bài báo này và thay vào đó là một bài viết hoàn toàn mờ nhạt.
Điều bị coi là dối trá và hèn nhát này đã làm dấy lên một làn sóng phản đối từ một bộ phận các nhà báo trong ban biên tập tuần báo Nam Phương Chu Mạt. Họ ra một tuyên bố lên án hành động can thiệp, kiểm duyệt trên. Bản tuyên bố của các nhà báo thuộc Nam Phương Chu Mạt đã lan truyền nhanh chóng trên internet, bất chấp sự kiểm duyệt.“Chúng tôi muốn tự do báo chí, tôn trọng Hiến pháp và dân chủ” – những người biểu tình đã tụ tập và giương cao biểu ngữ.
Nhưng ngay sau đó, một chi nhánh của Nhân Dân nhật báo là Hoàn Cầu thời báo đã tuyên bố: “Không quan trọng việc người dân có sung sướng hay không (với việc kiểm duyệt), suy nghĩ chung là không thể có loại truyền thông tự do mà họ mơ ước với thực tế chính trị và xã hội hiện nay ở Trung Quốc”.
Trong giai đoạn 2011 – 2012, Tổ chức phóng viên không biên giới đã xếp Trung Quốc đứng hàng thứ 174 trên tổng số 179 quốc gia về quyền tự do báo chí. Còn Việt Nam cũng nhận được vị trí rất “láng giềng” với người bạn có tên “Bốn Tốt” của mình.
Thay phản biện xã hội và đấu tranh cho công bằng của người nghèo bằng những giáo điều chính trị, đổi chỗ đứng trong lòng dân lấy vị trí xếp hạng trên ngực Đảng, nhiều tờ báo Việt Nam không chỉ chịu chung tình cảnh bị định hướng như Trung Quốc mà còn đang tự sa chân vào chế độ “tự kiểm duyệt”.
“Cơn lên đồng tập thể”
Sau sự kiện “Kiến nghị 72” vào quý đầu năm 2013, một lần nữa người dân trong nước và kiều bào người Việt ở nước ngoài được chứng thực cuộc bút chiến giữa hai bờ xa cách.
Hình ảnh xa cách đó cũng phản chiếu một sự chênh lệch thường thấy: “tỷ lệ chọi” là 6/1, tức 6 tờ báo quốc doanh phản chiến chỉ một trang Bauxite.
Chỉ một nhóm trí thức nhỏ bé như Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Thế Hùng của nhóm Bauxite phải chịu sự thách đấu của một lực lượng hùng hậu các nhà báo chìm nổi và những chính khách chưa bao giờ xuất đầu lộ diện.
Hiện tượng “Những con chim ẩn mình chờ chết” cũng lộ ra với một phát hiện xao xuyến của blog Tâm sự y giáo: thông qua những dẫn cứ đủ thuyết phục, blog này chứng minh tác giả xưng danh việt kiều Mỹ Amari TX trên báo Nhân Dân và tác giả Hoàng Văn Lễ trên báo Sài Gòn Giải Phóng – cùng chỉ trích ông Lê Hiếu Đằng – rất có thể chỉ là một người.
Nếu có thể nói thêm về danh xưng, ông Hoàng Văn Lễ chính là nguyên tổng biên tập của Sổ tay xây dựng đảng – một cơ quan phát ngôn “đậm đà bản sắc dân tộc” của Ban tuyên giáo thành ủy TP.HCM.
Xã hội Việt Nam cũng đang chứng kiến cùng lúc hai hiện tượng chuyển mùa thú vị: một hiện thực thuộc về Lê Hiếu Đằng và một hướng đến tâm linh “cơn lên đồng tập thể” – cụm từ mà Lê Hiếu Đằng điềm chỉ chiến dịch “đánh đòn hội chợ” của một số tờ báo đảng và báo quốc doanh, thể hiện qua bức thư ngỏ mới đây của ông đăng trên trang mạng Bauxite Vietnam.
Tuy thế, hàm số ngược lại hiện ra ở nơi tưởng như chênh biệt ghê gớm nhất: giới truyền thông xã hội ở Việt Nam đang có khá đủ lý do để tự hào về quá trình tích lũy của họ, đủ khiến tạo nên một sang chấn thần kinh bất thường cho cả Ban tuyên giáo trung ương lẫn đường lối đối ngoại của Trung ương đảng.
Hiện tượng bất thường cũng liên quan đến một chủ đề “thần kinh” khác: xu hướng thoái đảng đang ngày càng diễn ra trên diện rộng, để cứ với đà này thì có thể xảy ra hiện tượng xã hội học về “thoát đảng” một cách sâu sắc.
Quy luật thoái đảng
Vào tháng 5/2013, một phụ trương của tờ Nhân Dân nhật báo ở Bắc Kinh đã lần đầu tiên đưa ra đề nghị chỉ cần giữ lại 30 triệu đảng viên trong tổng số hơn 80 triệu tấm thẻ đảng hiện thời.
Với mối quan hệ “nhân quả” giữa Trung Quốc và Việt Nam từ nhiều năm qua, giới phân tích xã hội học dĩ nhiên có thể nhận thấy tình trạng bị xem là “đảng viên suy thoái về đạo đức và lối sống” giữa hai quốc gia này là không quá khác biệt, và hệ quả này hoàn toàn có thể dẫn tới giả định ban đầu về một tỷ lệ chỉ 30% hoặc chưa tới con số đó là số đảng viên được xem là “trung thành” đối với chính đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay.
Thế nhưng cũng không phải tỷ lệ 70% hoặc hơn các đảng viên còn lại đều bị suy thoái đạo đức. Rất nhiều dư luận đã công phẫn lên án chỉ có một bộ phận trong đó, với tuyệt đại đa số là giới quan chức, mới là những kẻ suy thoái đạo đức thực chất. Nhưng ngược lại, những người bị xem là suy thoái về tư tưởng lại là những đảng viên có biểu hiện “lãn công” hoặc “đình công” trong sinh hoạt đảng tại cơ quan và chủ yếu tại các địa phương. Một số chi bộ địa phương đã cho rằng nếu tính đúng thì phải có đến phân nửa số đảng viên “thoái đảng” như thế.
Không khí ở Việt Nam vào thời gian này cũng khiến không ít người là du học sinh ở Liên Xô trước năm 1990 hoài niệm về những biến động trước sự sụp đổ hoàn toàn của Liên bang Xô viết.
Một bài nghiên cứu trên báo Nhân Dân của chính đảng cầm quyền ở Việt Nam đã phải thừa nhận thực trạng: Năm 1991, trong số hàng vạn triệu phú ở Moscow, đại bộ phận nguyên là những cán bộ làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền. Kết quả điều tra tiến hành trong tháng 6 năm đó cho thấy, trong tầng lớp cán bộ cao cấp Liên Xô có tới 76,7 % số người cho rằng nên đi theo con đường tư bản. Bọn họ không chỉ vơ vét cho đầy túi tham mà còn tiếp tục nắm giữ những cương vị cao, kiểm soát quyền lực của nhà nước… Trước khi Đảng cộng sản Liên Xô sụp đổ không lâu đã có một cuộc điều tra dân ý về chủ đề: “Đảng cộng sản Liên Xô đại diện cho ai?”. Kết quả là, số người cho rằng Đảng cộng sản Liên Xô đại diện cho nhân dân Liên Xô chiếm 7%, đại diện cho công nhân chiếm 4%, đại diện cho toàn thể đảng viên chiếm 11%. Trong khi đó, có tới 85% số người được hỏi cho rằng: Đảng cộng sản Liên Xô đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước.
Còn với hiện tình Việt Nam thì sao?
“Sự phản bội toàn diện”
Nhiều người dân Việt lại luôn đau đáu: chính đảng cầm quyền tại đất nước này đang đại diện cho ai?
Không có câu trả lời công khai nào trên báo chí quốc doanh, và càng không thể có thống kê nào trong các báo cáo tuyên giáo về những tỷ lệ bất mãn và phản ứng của người dân và đảng viên. Thế nhưng những ngày gần đây đã rải rác trên vài ba tờ báo có tính phản biện một gợi mở về những nhóm lợi ích chính trị nào đó đang thao túng chính sách để bảo vệ “quyền lợi giai cấp”.
Người viết bài đã có dịp gặp Lê Hiếu Đằng và thấu cảm người cựu tử tù này không phải là một kẻ cực đoan như những người đòi áp dụng điều luật 88 đối với ông thường mô tả. Ngược lại, ông là người ôn hòa và chỉ mong muốn loại trừ các nhóm lợi ích chính trị và tài phiệt đang lũng đoạn đất nước, tránh cho quốc gia vong thân bởi một cơn can qua máu đổ trong tương lai gần. Lê Hiếu Đằng còn thật lòng lo ngại việc một số thanh niên quá sốt ruột mà có thể sẽ “đốt cháy giai đoạn” và tạo nên xung khắc đối đầu với thể chế, dẫn tới tình trạng bắt bớ và bị đàn áp…
Những ngày qua, trước mọi biểu hiện diễn biến của “cơn lên đồng tập thể”, trong một cảm nhận sâu xa và rõ rệt nhất, Lê Hiếu Đằng vẫn bình thản đón nhận. Ông chỉ có tâm nguyện muốn nói lên sự thật và làm thay đổi sự thật đó. Một đảng mới cần hình thành chỉ nhằm tạo nên đối trọng cho sự thay đổi trong một xã hội sắp cùng quẫn, chứ chẳng phải muốn “lật đổ” ai cả.
Và một điều kỳ diệu là chính cái sự thật bị nhà đấu tranh nhân quyền Lê Hiền Đức ở Hà Nội coi là “sự phản bội toàn diện” lại đang khiến cho Lê Hiếu Đằng khỏe hẳn, như thoát khỏi cơn bạo bệnh đang rắp tâm hành hạ ông…
*Bài viết do TS Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam. Nội dung không phản ảnh quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
Tin, bài liên quan
- Lê Hiếu Đằng, quy luật thoái đảng và “cơn lên đồng tập thể”
- Vịn Đảng mà đứng
- Vịn Đảng mà đứng
- Vào Đảng, Bỏ Đảng
- Đảng đã can thiệp vào việc xét xử như thế nào?
- Chuyện Súc vật và Chuyện kiểm duyệt
- Không có lối ra cho điều 4 hiến pháp
- Đảng đang khủng hoảng?
- Tập Cận Bình: ĐCS TQ đang đứng trước nhiều thử thách
RSF sắp phát động chiến dịch đòi VN trả tự do cho blogger
voa, 27.08.2013
Ông Benjamin Ismail, giám đốc phụ trách ban Á Châu-Thái bình dương của Tổ chức Ký giả Không biên giới
- Giao dịch tình nghi rửa tiền ở VN năm 2012 lên tới hàng tỷ đô la
- Việt Nam tham gia diễn tập hải quân chung ở Biển ĐônÔng Lê Hiếu Đằng: Báo Quân đội Nhân dân ‘bỏ bóng đá người’
Nguyễn Phương Uyên: Tôi muốn làm bài thuốc chữa bệnh vô cảm cho thanh niên
Việt Nam sắp quản lý các dịch vụ thông tin miễn phí trên internet
Nghị định 72 của Việt Nam còn bị nhiều tổ chức và tập đoàn internet chỉ trích. Tổ chức Ký giả Không biên giới mới đây nói rằng Nghị định 72 là một cuộc “tấn công nhắm vào quyền tự do thông tin”.
Tổ chức bênh vực các nhà báo này bày tỏ quan ngại rằng Nghị định 72 là thêm một công cụ khác nữa để nhà cầm quyền bóp nghẹt những tiếng nói bất đồng.
Báo Nhân Dân.com hôm 6 tháng 8 nêu đích danh Tổ chức Ký giả Không biên giới, cho rằng tổ chức này cùng với một số đài phát thanh quốc tế, kể cả BBC và Đài VOA, RFA vv trong thời gian qua đã có những bài đánh giá có tính cách vu cáo, và càng gần đến ngày nghị định có hiệu lực, thì chiến dịch “tuyên bố xuyên tạc, vu khống” càng được tăng cường.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Ban Việt ngữ-Đài VOA hôm nay, ông Benjamin Ismail, giám đốc phụ trách ban Á Châu-Thái bình dương của Tổ chức Ký giả Không biên giới đáp lại những lời đả kích đó:
“Không có sự lời vu khống nào trong những tuyên bố của chúng tôi. Chúng tôi không không tấn công Việt Nam, như một tổng thể. Những gì mà chúng tôi chỉ chỉ trích là những luật lệ có tính cách đàn áp, và những người hối thúc việc ban hành thêm những đạo luật để đàn áp các blogger và các nhà báo nhiều hơn nữa. Chúng tôi chỉ trích những chính sách độc tài đang được thi hành tại Việt Nam, chúng tôi vẫn dành cho mình cái quyền này. ”
Ông Benjamin Ismail cho hay Tổ chức Ký giả Không biên giới tới đây sẽ phát động một chiến dịch mới để tăng sức ép để đòi Hà nội trả tự do cho 35 bloggers còn bị cầm tù tại Việt Nam. Ông nói:
“Chúng tôi sẽ phát động một chiến dịch mới để đòi trả tự do cho tất cả 35 blogger hiện còn đang bị cầm tù tại Việt Nam. Họ là những thí dụ sống minh họa cho những chính sách đàn áp đang được thi hành tại Việt Nam, vốn đã được tăng cường trong vài tháng, vài tuần qua.”
Nguồn: AP, Contactmusic.com
Việt Nam: các kịch bản thời sự sắp tới
Phạm Chí Dũng. Gửi cho BBC từ Sài Gòn. 26 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/blogs/2013/08/130826_vn_crisis_scenario_solution.shtml
Một “triển vọng” đang ngày càng rõ dần là bối cảnh xã hội Việt Nam đang gần hoàn tất giai đoạn vận động thứ hai của nó, nếu lấy mốc từ thời điểm mở cửa kinh tế những năm 1990.

Trước đó, giai đoạn vận hành đầu tiên kéo dài từ năm 1975 đến hậu khủng hoảng giá – lương – tiền.
Nhưng cho tới giờ, ở Việt Nam hầu như chưa hình thành một lực lượng đối lập, chưa mang tính đối trọng đủ lớn đối với chính quyền để ít nhất có thể tác động nhằm điều chỉnh một số chính sách và hoạt động thực hành chính sách.
Những tiền đề đối trọng ở Việt Nam cho tới nay vẫn chỉ là phong trào phản biện xã hội đa dạng và đa tầng, thể hiện chủ yếu qua ý kiến chứ không phải bằng những hành động sâu xa hơn.
Ngoài nhóm “Kiến nghị 72” và vài nhóm blogger, đa phần còn lại là những cá nhân phân tán và hoạt động manh mún.
Tác động của hoạt động bất đồng chính kiến đối với chế độ chỉ có ý nghĩa như một xúc tác phụ.
Nếu không được tác động sâu sắc bởi hành động của lực lượng đối trọng, hoặc không có một số tác động vừa thuyết phục vừa áp lực về chính sách kinh tế, quân sự và chính trị, ngoại giao từ Mỹ và phương Tây, nền chính trị Việt Nam sẽ do chính nội bộ trong lòng nó quyết định.
Mọi chuyện ở Việt Nam đang diễn ra theo một quy luật: vô cảm quan chức tỷ lệ thuận với tham nhũng và quyền lợi của nhóm lợi ích.
Thời gian suy thoái kinh tế từ đầu năm 2011 đến nay đã cho thấy một hiện tượng xã hội rất đặc trưng: bất chấp sự phản ứng và tâm trạng phẫn uất của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều nhóm lợi ích và chủ nghĩa thân hữu vẫn liên kết đầy se sắt, hòa quyện vào nhau với độ kết dính như thể bám víu vào sự tồn tại cuối cùng.
“Những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất động sản, chứng khoán và vàng là biểu hiện của các tác động vào chính sách”
Người ta có thể nhìn ra rất nhiều minh chứng cho thái độ bất chấp đó từ những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất động sản, chứng khoán và vàng, kể cả những nhóm lợi ích có quyền lợi can dự như điện lực và xăng dầu.
Song song với trào lưu lợi ích ấy, cũng có nhiều bằng chứng về hoạt động chạy chính sách vì đặc quyền đặc lợi cho “tư sản đỏ”.
Tác động ở tầm mức mạnh mẽ nhất của người dân và xã hội đối với thể chế cầm quyền ở Việt Nam nhiều khả năng sẽ được quyết định bằng việc có hay không mối cộng hưởng của một cuộc khủng hoảng kinh tế ở chính đất nước này.
Trong 2-3 năm nữa thôi, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ có thể phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế với hậu quả chưa có tiền lệ tính từ giai đoạn lạm phát tăng đến 600% vào những năm giá – lương – tiền 1985-1986.
Những kịch bản kinh tế – chính trị
Kịch bản 1: Trong trường hợp cuộc suy thoái kép hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới chưa nổ ra vào những năm tới, và do vậy nền kinh tế Việt Nam vẫn có thể trì kéo tấm thân băng hoại rệu rã của nó, tình thế vẫn chưa diễn ra một sự thay đổi đủ lớn.
Những phản ứng tự phát của dân hiện không mang tính hệ thống và hình thành các liên kết sâu rộng và thường thể hiện bằng biểu tình, thậm chí bạo động cục bộ vẫn có thể bị chính quyền phong tỏa và đàn áp.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng vai trò xúc tác mà không thể hiện tính dẫn dắt cho một phong trào đối lập nhằm thay đổi thể chế.
Kịch bản 2: Trong trường hợp xảy ra suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, những lô cốt cuối cùng của nền kinh tế Việt Nam sẽ có thể bị tàn phá cùng nhiều hệ lụy trực tiếp.
Vốn đang nằm trong xu thế không chỉ suy thoái gần như toàn diện nội lực trong nước mà còn quá kém hiệu quả trong cơ chế xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không nhỏ từ làn sóng thoái vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ nhanh chóng rơi vào tình thế bĩ cực không lối thoát. Một cuộc khủng hoảng toàn diện đối với nền kinh tế Việt Nam cũng từ đó mà khởi phát.
Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng vai trò xúc tác
Nếu hệ lụy khủng hoảng kinh tế thế giới được bắt nguồn từ khủng hoảng của kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do suy thoái kinh tế giai đoạn cuối, một do động loạn từ Trung Quốc.
Trong cả hai yếu tố hiệu ứng tác động đó, xã hội Việt Nam đều có thể rơi vào vòng bế tắc. Nền kinh tế vốn đã què quặt, cộng thêm nhân tố rối loạn xã hội, sẽ khiến cho chính thể cầm quyền hết sức khó khăn trong việc duy trì quyền lực của mình để kiểm soát xã hội.
Phản ứng của nông dân về đất đai, của công nhân về nạn thất nghiệp và điều kiện làm việc, của tiểu thương về buôn bán, của công chức và giới về hưu về an sinh xã hội… sẽ liên tiếp xảy ra với quy mô ngày càng rộng.
Phản ứng của người dân đối với nhân viên công quyền cũng sẽ diễn ra dày đặc và mang tính tự phát với tính đối đầu nhiều hơn, ban đầu tản mạn và tự phát, sau đó sẽ có xu hướng liên đới để hình thành những phong trào, kể cả tổ chức phản kháng, của nông dân, công nhân, trí thức và với cả một số tôn giáo như Công giáo, Phật giáo Hòa hảo thuần túy, Tin Lành.
Kịch bản về không gian phản ứng và phản kháng sẽ có thể bắt nguồn từ nông thôn miền Bắc với nông dân, thậm chí ngay tại Hà Nội với thành phần trí thức, sau đó lan rộng ra các khu vực khác của đất nước như miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.
Trong một số trường hợp phản ứng xã hội đặc biệt sâu sắc về nguyên nhân và tính chất, bạo động và có thể cả bạo loạn sẽ xảy ra.
Đó là chưa kể đến những hoạt động phản ứng riêng rẽ và có tổ chức chặt chẽ hơn nhiều của các tôn giáo có xu hướng ly khai với nhà nước, trong đó có một phần Công giáo, Tin lành, Phật giáo Việt Nam thống nhất và Phật giáo Hòa hảo thuần túy.
Gần như trái ngược với Kịch bản 1, xác suất suy thoái kép hoặc khủng hoảng của kinh tế Việt Nam trong Kịch bản 2 có thể lên đến ít nhất 70% trong những năm tới. Và dĩ nhiên, sự đổi khác chính trị cũng phải liền mạch và trực tiếp với các biến động kinh tế.
Lối thoát từ TPP?
Cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, nếu xảy ra với xuất phát điểm từ Trung Quốc, có thể rơi vào thời gian hai năm 2016-2017. Đó cũng là thời gian chứng nghiệm những nỗ lực cuối cùng và mang tính quyết định cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam.
Cú hội nhập TPP có thể đem lại một lối thoát cho kinh tế và cả chính trị Việt Nam
Nếu không tự thay đổi, và hơn nữa phải cải cách một cách gấp rút theo hướng hạn chế quyền lợi của các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu, đồng thời gia tăng mối quan tâm thực tế cho các tầng lớp dân sinh, trong đó đặc biệt là nông dân và công nhân, cũng như thực thi quyền tự do dân chủ về ngôn luận, báo chí và tôn giáo một cách đúng nghĩa…, đảng cầm quyền sẽ vấp phải một thử thách mà có thể xác quyết sự tồn vong của chính nó.
Một trong rất ít lối thoát để thoát khỏi vòng xoáy kinh tế – chính trị là TPP – Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Thế nhưng, điều quá rõ ràng là trong hiện tình, TPP chỉ có thể được sinh sôi ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền.
Cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ về an ninh Biển Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ.
Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được bản lĩnh của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong nước và mục tiêu chiến lược địa chính trị của phương Tây, chính đảng cầm quyền sẽ có được cơ hội tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh, trong khi nhận được sự hậu thuẫn của Washington và Cộng đồng châu Âu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.
Nếu thành công trong cơ chế “xoay trục” sang phương Tây, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một chế độ cởi mở hơn về dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính trang trí về một xã hội dân sự manh nha tại đất nước này, kể cả việc phải chấp nhận một lực lượng đối lập ôn hòa…, vẫn có thể duy trì được quyền lực một đảng chi phối và quyền lợi của giới lãnh đạo thêm một thời gian nào đó.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Phạm Chí Dũng từ TP Hồ Chí Minh.
Lung lay Dân tộc hay lung lay Đảng?
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok. 2013-08-26
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/haoi-fear-of-blog-08262013061255.html
08262013-haoi-fear-of-blog.mp3

Việc bắt giữ những chủ nhân trang nhật ký mạng nổi tiếng vừa qua vào khi mạng xã hội phát triển mạnh ở Việt Nam, theo nhận định của giới quan sát, là vì chính quyền Hà Nội lo sợ về nguồn thông tin từ những trang đó cung cấp.
Nhận định đó chuẩn xác đến đâu?
Chặn vì chống Đảng, Nhà nước
Vụ bắt giữ hai blogger được nhiều người biết đến ở Việt Nam là Trương Duy Nhất hồi ngày 26 tháng 5, sau đó là blooger Phạm Viết Đào hồi ngày 13 tháng 6, khiến cho cộng đồng những người viết nhật ký mạng tại Việt Nam bàn tán xôn xao.
Lý do vì hai trang blog đó được nhiều người vào đọc do có những bài viết về tình hình thời sự Việt Nam được đánh giá là kịp thời, với những nhận định chuẩn xác, cũng như nguồn tin xuất phát từ nội bộ của Đảng và chính phủ mà có.
Cả hai blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào đều là những người từng làm việc trong bộ hệ thống công quyền của Việt Nam, nay thôi không tham gia sinh hoạt ‘chính thống’ nữa.
Khi hai blogger có tiếng đó vẫn còn bị giam giữ, lại có thêm thông tin từ nhà văn Nguyễn Trọng Tạo nói rằng một thành viên trong đoàn của chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi thăm Trung Quốc từ ngày 19 đến 21 tháng 6 điện về cho biết có một danh sách 20 blogger khác nữa cũng sẽ bị bắt.
Họ phát hiện ra một công văn tối mật của Tập đoàn Bưu chính VT gửi cho các công ty cung cấp dịch vụ Facebook nói rõ theo yêu cầu của cơ quan an ninh phải chặn Facebook không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước VN
Cộng đồng cư dân mạng lại bàn tán râm ran, bình luận ai sẽ là người kế tiếp.

Sang trung tuần tháng sáu, nhiều cư dân mạng lại bị chặn Facebook. Đây là mạng xã hội hiện rất nhiều người đang sử dụng để trao đổi thông tin cá nhân với những đối tượng khác nhau mà họ thấy hợp. Tìm hiểu nguyên nhân họ phát hiện ra một công văn tối mật của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông gửi cho các công ty cung cấp dịch vụ Facebook nói rõ theo yêu cầu của cơ quan an ninh phải chặn Facebook không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang, sau chuyến công du Trung Quốc về rồi đi tiếp xúc cử tri hai quận 1 và 3 thành phố Hồ Chí Minh lên tiếng cho rằng hiện trên mạng có nhiều thông tin mà ông này cho là sai sự thật; ông nhắc nhở người dân mà ông tiếp xúc phải cảnh giác. Ông nói nếu không tỉnh táo sẽ thấy xã hội toàn màu đen, không có một ông lãnh đạo nào tốt cả.
Ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi đến kết luận là không lẽ một dân tộc anh hùng như dân tộc Việt Nam lại để cho một vài ngọn gió từ các trang mạng làm lung lay.
Blogger lên tiếng
Một số người hiện đang công khai viết blog với tên tuổi, địa chỉ rõ ràng phản ứng ra sao trước đánh giá của chủ tịch nước Trương Tấn Sang về thông tin trên các trang mạng mà ông này cho là sai sự thật và làm lung lay dân tộc anh hùng Việt Nam?
Blogger Bùi thị Minh Hằng, một người từ chỗ là dân oan đi khiếu kiện, tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn với Việt Nam, rồi bị bắt nhốt một cách tùy tiện, lên tiếng về phát biểu của ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang về những trang mạng ‘lề trái’ hiện nay:

Bây giờ với việc bắt bớ, ngăn chặn… chỉ thể hiện tính độc tài và kìm hãm sự phát triển của một dân tộc; chứ không phải điều gì tốt đẹp đem đến cho người dân cả
Blogger Bùi thị Minh Hằng
Một vị nguyên thủ quốc gia mà phát biểu như thế cũng đủ để mọi người nhìn nhận rằng tình trạng của Việt Nam rất tồi tệ rồi. Một người ở vị trí lãnh đạo mà không có sự phát biểu một cách chín chắn, nhận thức. Bởi vì một dân tộc anh hùng, chúng tôi vẫn hay dùng những từ này, một dân tộc dân tộc từng đánh bại những thế lực xâm lược, đế quốc nhưng rồi cuối cùng họ sử dụng mọi ‘cái’ để bóp nghẹt dân tộc Việt Nam. Họ đàn áp dân oan, đàn áp những người biểu tình. Báo chí nhà nước và các phương tiện truyền thông truyền hỉnh bị một nhóm cầm quyền sử dụng vào những việc hoàn toàn sai trái, Họ xuyên tạc, bôi nhọ người dân mà các chứng cứ rõ ràng; thế cho nên chừng mực và hình thức đấu tranh ngoài việc đi khiếu kiện, họ phải sử dụng tiếng nói bằng cách viết blog. Bây giờ với việc bắt bớ, ngăn chặn… chỉ thể hiện tính độc tài và kìm hãm sự phát triển của một dân tộc; chứ không phải điều gì tốt đẹp đem đến cho người dân cả.
Nổ lực duy trì quyền lực
Giáo sư Tương Lai, nguyên viện trưởng Viện Khoa học- Xã hội Việt Nam, đưa ra nhận định của ông về việc bắt bớ những blogger công khai nêu ý kiến cá nhân về tình hình đất nước, xã hội hiện nay:
Bất cứ nhà nước nào cũng sử dụng quyền lực của họ để duy trì quyền lực mà họ đang nắm giữ. Chuyện này trở thành qui luật rồi. Cho nên việc bắt giữ những bloggers với những lý do này nọ; khi thì người ta vận dụng điều luật này của Bộ Luật Hình sự, khi khác thì người ta sử dụng điều luật khác; nhưng tất cả những ‘thứ’ đó đều nằm trong một bối cảnh chung. Bối cảnh chung đó gắn liền với, không thể tách riêng ra được, với những hoạt động khác về mặt đối nội hay về mặt đối ngoại.
Với việc các bloggers bị bắt và nghe đâu người ta còn bắt thêm nhiều người nữa, nhưng điều này không có gì mới, nó chỉ thể hiện một cuộc đấu tranh phức tạp, giằng co giữa nhiều thế lực, và sự giằng co giữa nhiều thế lực đó có liên quan đến mặt đối nội và đối ngoại
Giáo sư Tương Lai
Với việc các bloggers bị bắt và nghe đâu người ta còn bắt thêm nhiều người nữa ( đó là dư luận mà người ta nói trên mạng), nhưng điều này không có gì mới, nó chỉ thể hiện một cuộc đấu tranh phức tạp, giằng co giữa nhiều thế lực, và sự giằng co giữa nhiều thế lực đó có liên quan đến mặt đối nội và đối ngoại. Theo tôi nghĩ, những bloggers đó sau một thời gian bị bắt, người ta cũng thả. Mới có một trường hợp blogger mới bị bắt nhưng nghe đâu sau đó người ta cũng thả rồi…
Những động thái này xen kẻ nhau, phức tạp lắm. Mình không ở trong bộ máy làm sao có thể hiểu được cho đầy đủ. Nhưng phân tích một cách khách quan căn cứ trên những diễn biến của thời cuộc, tôi cho rằng việc đó không có gì lạ cả: bắt, giữ rồi thả. Đó là theo tình hình chung về mặt đối nội và đối ngoại, cái áp lực của quốc tế về tình hình nhân quyền, cái đấu tranh giữa những phe phái trong nội bộ những người lãnh đạo cũng đẩy đến những hiện tượng phức tạp nổi lên đó. Tuy nhiên đó cũng chỉ là phần nổi của tảng băng mà thôi.
Thống kê cho thấy từ đầu năm đến nay tại Việt Nam đã có 46 blogger và nhà hoạt động bị kết án tù. Cả năm ngoái chỉ có 40 người mà thôi. Tác giả Brendan Brady trong bài viết tựa đề ‘Vào khi sự bất đồng gia tăng, chính quyền Việt Nam trấn áp giới viết blog’ đăng trên tạp chí Time, cho rằng trên trang blog và mạng xã hội, những người dân Việt Nam nổi giận đã vượt qua sự độc quyền về thông tin của chính quyền độc đoán, để loan tải tin tức về những thất bại của chính quyền và rồi kích thích sự bất mãn đối với chế độ cầm quyền.
Tin, bài liên quan
- Miến: Đặc phái viên LHQ Quintana không bị tấn công
- Bắc Hàn vi phạm nhân quyền nghiêm trọng
- Đặc phái viên LHQ Quintana chỉ trích Miến vô trách nhiệm trong việc bảo vệ ông
- Một ngày trước phiên xử phúc thẩm hai sinh viên Uyên – Kha
- Nhà Nước muốn lấy ý kiến người dân về Nhân quyền?
- Ông Nguyễn Bắc Truyển gặp đại diện Ủy ban đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ
- Những phản ứng thông minh và dũng cảm của blogger Việt
- Blogger Việt Nam trao “Tuyên Bố 258” cho Đại sứ quán Thụy Điển
- Hoa Kỳ, Google, Facebook chỉ trích nghị định mới của Việt Nam về internet
Đánh trúng yếu huyệt của Đảng
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok. 2013-08-27
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/cal-opp-hit-communis-har-08272013061609.html08272013-cal-opp-hit-communis-har.mp3
![]()
Chủ xướng một đảng chính trị đối lập mà ông Lê Hiếu Đằng nêu ra khiến truyền thông Nhà nước tiến hành một đợt chỉ trích mạnh mẽ ông này.
Vào ngày 27 tháng 8, xuất hiện một thư ngỏ của ông Lê Hiếu Đằng gửi cho tổng biên tập các cơ quan truyền thông Nhà nước vừa có những phê phán đối với ông.
Gia Minh hỏi chuyện ông này về thư ngỏ mới đó và trước hết ông đưa ra nhận định vì sao phía truyền thông Nhà nước có những phản ứng như thế.
Ông Lê Hiếu Đằng: Có thể nói đầu tiên khi tôi đặt ra những vấn đề đó thì thật ra đó là những vấn đề đi vào yếu huyệt của đảng cộng sản, của chế độ; thành ra quí vị đó phản ứng hơi mạnh. Tôi nghĩ đó là điều tất nhiên thôi. Mà vấn đề đó là vấn đề cốt tử hiện nay bởi vì một xã hội phát triển bình thường phải có những đảng chính trị đối lập để giám sát, chế ước lẫn nhau. Điều đó là xu thế trên thế giới; thế nhưng Việt nam thì chưa quen, thành ra họ phản ứng. Nhưng những bài phản ứng đó không có bài nào có thể phản bác từng điểm của tôi được.
Khi tôi viết thư ngỏ tôi đề nghị các vị phải đăng toàn văn hai bài của tôi lên để xem các vị phản bác những điều đó như thế nào cho người dân người ta biết; chứ nói cách như thế là không chân thật.
Tôi đặt vấn đề như vậy để làm rõ vấn đề hơn.
Gia Minh: Trước đây ở Việt Nam cũng từng có bút chiến như ‘nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh’; lần này ông thấy có tính chất một cuộc bút chiến như thế không?
Ông Lê Hiếu Đằng: Nói bút chiến thì hai bên phải công khai trình bày quan điểm của mình và đăng tải trên các báo; nhưng chuyện này ‘mấy ổng’ có sẵn phương tiện trong tay và sử dụng phương tiện đó.

Có thể nói đầu tiên khi tôi đặt ra những vấn đề đó thì thật ra đó là những vấn đề đi vào yếu huyệt của đảng cộng sản, của chế độ; thành ra quí vị đó phản ứng hơi mạnh. Tôi nghĩ đó là điều tất nhiên thôi. Mà vấn đề đó là vấn đề cốt tử hiện nay
Ông Lê Hiếu Đằng
Lần này trên các trang mạng, nhiều người cũng phản bác những bài đó. Báo Tuổi trẻ ngày hôm nay đăng bài của anh Sáu Quang- Nguyễn Chánh Trung thì trên trang mạng Người Lót gạch cũng có bài phản bác lại. Thành ra với mạng Internet hiện nay thì họ không thể nào giấu diếm nói một chiều được… Dư luận xã hội là một sức mạnh hết sức lớn của một xã hội công dân. Do đó tôi không có ngại, nói gì thì nói các tầng lớp nhân dân người ta cũng thông minh, người ta biết ai đúng, ai sai.
Gia Minh: Cũng qua sự việc này, ngoài những bài biết trên truyền thông Nhà nước nói về ông như thế, còn có ý kiến nói là ‘dân chủ cuội’ thì ông nghĩ thế nào?
Ông Lê Hiếu Đằng: Cả phía bên này lẫn phía bên kia đều có những người cực đoan; nếu nói dân chủ cuội thì tôi không làm như vậy vì thật ra đó là những điều cốt tử của thể chế hiện nay. Những người nói là ‘cuội’ tôi không tranh luận làm gì; tình hình thực tiễn sẽ cho thấy. Nếu ‘cuội’ thì nhà nước không tấn công tôi dữ dội như vậy, phải không? Thành ra trong bài viết tôi đặt vấn đề là bây giờ bỏ qua quá khứ, khép lại đi để đừng có thù hận, đoàn kết với nhau đấu tranh cho một nước Việt nam thật sự dân chủ. Đó là lợi ích chung của dân tộc, của đất nước, của người dân. Chứ còn những người còn hận thù, nói này nói kia, tôi cho là thiểu số không phải số đông; nhiều trí thức nước ngoài người ta rất chia sẽ quan điểm của tôi. Nhiều người chia sẽ quan điểm với những trí thức trong nước là xây dựng một xã hội dân chủ trong đó quyền của người dân được tôn trọng.
Gia Minh: Còn đối với những người trẻ bắt đầu bày tỏ chính kiến của họ qua những trang blog, facebook làm thế nào cho họ tin, thư ông?
Bất cứ chính quyền nào, cộng sản hay không cộng sản mà ‘một mình, một chợ’, không có giám sát của xã hội dân sự cũng sẽ trở thành hư đốn, lộng quyền và lạm quyền thôi
Ông Lê Hiếu Đằng
Ông Lê Hiếu Đằng: Tin hay không tin thì phải làm qua hành động, việc làm của mình thôi. Cái này là một quá trình, tôi chỉ đề xuất ý kiến vậy thôi, còn quá trình làm phải toàn xã hội làm, trong đó có giới trẻ. Bây giờ chính bản thân giới trẻ là lực lượng rất quan trọng để làm việc này. Chứ không thể chờ, không thể ngồi chờ những ông ‘lão làng’ làm thế này thế kia, mà giới trẻ nên chủ động làm. Vừ rồi tôi thấy giới trẻ làm những việc rất hay ví dụ những kiến nghị về nhân quyền, dân quyền đưa đến các tòa đại sứ, và qua cả Thái Lan để đưa Kiến nghị 258 qua tường thuật của Đoan Trang. Tôi thấy việc làm đó rất hay và tôi tin tưởng khi chúng tôi gợi ý, giới trẻ sẽ tiếp lửa và từ những ý tưởng đó họ sẽ biến thành hành động cụ thể và tôi cho đó là xu thế đáng mừng hiện nay và trong tình hình này.
Gia Minh: Qua những vấn đề quanh ông như thế, ông có nhận ra những gì tích cực không thưa ông?
Ông Lê Hiếu Đằng: Thật ra khi tôi viết ra những vấn đề đó tôi không nghĩ những phản ứng của Nhà nước mà như vậy. Trúng yếu điểm của họ nên họ cũng hơi tập trung phê phán. Nhưng điều tôi rất mừng là nhìn chung toàn xã hội ủng hộ quan điểm này, thấy đó là xu thế phát triển của nền chính trị lành mạnh là phải có lực lượng chính trị đối lập để làm vai trò giám sát, để điều tiết chính quyền. Bất cứ chính quyền nào, cộng sản hay không cộng sản mà ‘một mình, một chợ’, không có giám sát của xã hội dân sự cũng sẽ trở thành hư đốn, lộng quyền và lạm quyền thôi.
Như anh biết Việt Nam là một nước sử dụng Internet rất cao, nhiều người nhất là thanh niên sẽ tìm hiểu bài viết của tôi thế nào mà nhà nước nói như thế. Họ sẽ thấy, vì thật ra tôi đặt ra những vấn đề rất đúng đắn.
Gia Minh: Cám ơn ông về những chia sẻ mới nhất của ông.
Tin, bài liên quan
- VN đã sẵn sàng cho hệ thống đa đảng?
- Đa đảng và độc đảng
- Kêu gọi thành lập đảng Dân chủ Xã hội
- “Quần chúng tự phát”, cái gai trong thực thi dân chủ
- Thư ngỏ của ông Lê Hiếu Đằng gửi các nhà lãnh đạo VN
- Trung Quốc khống chế Việt Nam trên lãnh vực Chính trị
- Việt-Trung giảm căng thẳng nhiều hậu ý
- Việt-Trung giảm căng thẳng nhiều hậu ý
- Thư ngỏ của một công dân yêu nước
“Lợi ích nhóm” trong các văn bản, chính sách?
Vũ Hoàng, phóng viên RFA. 2013-08-26
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/special-gr-legal-documents-vh-08262013161808.html
Trong phiên chất vấn của Thường vụ Quốc hội mới đây, các đại biểu đã đặt ra nhiều câu hỏi thẳng thắn, công khai cho Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường về những sơ hở và sự thiếu khoa học trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam. Câu hỏi về “lợi ích nhóm” trong các văn bản chính sách bắt đầu được dư luận đặt câu hỏi.
Chỉ trong hơn một tuần trở lại đây, người dân Việt Nam liên tục được “đón nhận” những công văn hay những dự luật vừa thiếu cả tính pháp lý lẫn thực tế, đó là chuyện phải “xin phép” ghi hình cảnh sát giao thông khi đang làm nhiệm vụ, hay quy định người điều khiển xe gắn máy phải có vòng ngực tối thiểu là bao nhiêu…
Thực ra, thì chuyện văn bản trái khoáy tại Việt Nam không có gì là mới, nhưng khi nó trở nên ngô nghê đến mức khó hiểu, khiến cả người dân lẫn người thi hành công vụ không biết thế nào để tuân thủ thì dư luận mới thực sự dậy sóng.
Một bài viết mới đây có tên Những văn bản mang tên “lợi ích nhóm” được đăng tải trên báo Dân Trí, tác giả chia các văn bản vi phạm làm ba loại: Thứ nhất, đó những văn bản được soạn thảo bởi những công chức yếu kém về nghiệp vụ, điển hình như các qui định ngực lép không được cấp bằng lái xe, ghi họ tên cha mẹ trong chứng minh thư nhân dân, quy định về tang lễ cán bộ công chức, hay cộng điểm thi đại học cho bà mẹ Việt Nam anh hùng… Loại thứ hai là những văn bản không thực hiện được nhưng vẫn ban hành với mục đích chiếu lệ“chúng tôi ban hành rồi đấy nhé,” đó là những quy định phạt người hút thuốc nơi công cộng, cấm sử dụng điện thoại khi mua xăng… Và loại thứ ba, chính là những văn bản mà người ban hành giành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, để thông qua các cơ chế, chính sách đó, người ta có thể trục lợi, gây thất thoát tài sản của Nhà nước.
Trước phản ứng về đề xuất “ngực nhỏ” không được lái xe máy, một trong những dự thảo được đánh giá là thể hiện sự tối kiến của những người soạn thảo – những người chỉ biết “ngồi trong phòng máy lạnh đẻ ra quy định giấy tờ” – bà Thu Giang, người dân Hà Nội cho biết quan điểm của bà:
Tôi thấy văn bản mới ra nghe rất lạ, không hiểu tại sao những người ngực nhỏ, rồi những người thấp bé nhẹ cân lại không được đi xe máy, đương nhiên mọi người biết là phải đủ sức khỏe, nhưng cơ thể người Việt Nam không phải là to tát lắm, nó cũng sàn sàn như nhau vậy thôi, tôi thấy yêu cầu như vậy là không thực tế, và từ đó sẽ ảnh hưởng đến chuyện đi lại của chúng tôi rất nhiều, không phải chỉ cá nhân tôi mà nhiều người nữa, người ta cũng có ý kiến phản hồi không hiểu tại sao lại đưa ra một văn bản như vậy, không biết có hiệu quả hay không?
Tính hiệu quả và hợp lý

Để hiểu thêm về tính hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật cũng như tính hợp lý và thực tế của những thông tư, hướng dẫn, chúng tôi trao đổi với một giảng viên dạy luật tại một đại học ở Hà Nội, trước hết ông phân tích về tính hiệu quả trong các văn bản quy phạm pháp luật:
Theo quan điểm của tôi, hiệu quả của các văn bản pháp luật đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội, đây là một phạm trù quan hệ rất chặt chẽ, các văn bản pháp luật phải được xây dựng trên thực tế xã hội. Nhưng hiện nay có một số văn bản pháp luật được xây dựng không sát với thực tiễn.
Thực tế thì hiệu quả của một văn bản pháp luật được đánh giá qua phản ánh của xã hội, nếu những văn bản xa rời thực tế xã hội sẽ dẫn đến những phản ánh trái chiều của dư luận. Chính vì thế, những văn bản như vậy sẽ không thể nào đi vào đời sống xã hội được.
Song song với tính hiệu quả là tính hợp lý trong các văn bản quy phạm pháp luật, vị giáo viên luật giải thích thêm:
Sự hợp lý của văn bản pháp luật nó phải phù hợp với lợi ích của người dân, bởi vì sinh ra pháp luật là để điều tiết các mối quan hệ xã hội và để phục vụ lợi ích của người dân, chính vì vậy, nếu văn bản pháp luật không đi vào đời sống xã hội thì đương nhiên nó sẽ không phục vụ lợi ích của người dân.
Thực tế thì hiệu quả của một văn bản pháp luật được đánh giá qua phản ánh của xã hội, nếu những văn bản xa rời thực tế xã hội sẽ dẫn đến những phản ánh trái chiều của dư luận.
– Một giảng viên ở Hà Nội
Với cách giải thích trên, có thể hiểu rằng tính hợp lý của các văn bản quy phạm pháp luật cần phải vừa đáp ứng được yêu cầu về quản lý nhà nước, vừa phải hợp lòng dân, thể hiện được ý chí và lợi ích chung của xã hội. Tính hợp lý của một quy định sẽ mang lại khả năng thực thi cao vì nó thể hiện được nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của đại đa số người dân:
Tôi thấy một số văn bản lúc mới đầu ban hành nghe cũng gượng ép, mọi người cũng xôn xao, nghe có vẻ không thực thi, lâu ngày đi vào thực tế, chẳng hạn, chuyện đội mũ bảo hiểm, lúc mới đầu mọi người khó chịu, đến giờ nhân dân thấy thấm nhuần và thực thi văn bản đó rất tốt và tôi thấy đó là những văn bản khi đề ra, có chủ trương đúng đắn, mang lại thiết thực cho bà con, rõ ràng người ta sẽ thực hiện tốt, như vấn đề đội mũ bảo hiểm.
Với lời chia sẻ của bà Thu Giang có thể thấy, nếu một quy định hướng dẫn hay một văn bản pháp luật có tính hợp lý, nó sẽ giúp cho người dân tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc và tự nguyện, xóa bỏ được những xung đột lợi ích và để xã hội hoạt động một cách hài hòa, có nguyên tắc.
Về mặt tác động xã hội là vậy, văn bản pháp luật ở tầm vĩ mô hoàn toàn có thể trở thành dụng ý của người soạn luật, để biến những công cụ pháp luật phục vụ cho quyền lợi cá nhân.
Văn bản phục vụ cho ai?

Không phải ngẫu nhiên, trong phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ tư pháp mới đây, đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thuyền đã đặt nghi vấn: liệu có vấn đề “tham nhũng chính sách, pháp luật” bởi nhiều bộ ngành vẫn ban hành những văn bản, thông tư “đá” nhau, người ta soạn ra luật để bảo vệ và làm lợi cho bộ ngành của chính mình.
Qua câu hỏi “có hay không tình trạng ban hành văn bản pháp luật để phục vụ lợi ích nhóm?” của đại biểu Chu Sơn Hà, Bộ trưởng Bộ tư pháp Hà Hùng Cường đã phải thừa nhận “không loại trừ khả năng có lỗ hổng trong kiểm soát.” Tuy nhiên, ông giải thích thêm điều này ở Việt Nam là rất hãn hữu vì chế độ chính trị, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nên pháp luật sẽ không bị chi phối, ảnh hưởng bởi các phái chính trị khác.
Tôi thấy một số văn bản lúc mới đầu ban hành nghe cũng gượng ép, mọi người cũng xôn xao, nghe có vẻ không thực thi, lâu ngày đi vào thực tế, chẳng hạn, chuyện đội mũ bảo hiểm…
– Một giảng viên ở Hà Nội
Nhìn một cách khách quan, “lobby chính sách” hay “vận động chính sách” đã ra đời từ rất lâu ở các nước phát triển, mục đích chính của việc này là thông qua chính sách của Chính phủ để những công ty vận động được hưởng lợi. Nhưng sự khác biệt giữa các quốc gia tiên tiến và Việt Nam là sự minh bạch. Ở nước ngoài, những khoản tiền “vận động” được công khai và thường thì không làm hại đến phúc lợi chung toàn xã hội, trong khi tại Việt Nam, vì trục lợi cá nhân, vì lợi ích cho từng ban ngành, mà “vận động chính sách” biến thành tham nhũng, móc ngoặc, gây thất thoát tài sản quốc gia. Những thí dụ điển hình là các nghị định về hoạt động độc quyền kinh doanh vàng, vận hành kiểm soát giá xăng dầu, điện lực và ngân hàng.
Có thể nói, mục đích của các văn bản pháp luật là nhằm tạo thuận lợi và là thước đo quy chiếu cho các quan hệ xã hội được vận hành một cách bình đẳng, có quy tắc, dựa theo đó, Nhà nước ban hành những chế tài xử phạt. Thế nhưng câu hỏi đặt ra liệu ai sẽ xử phạt những người soạn luật vì sự yếu kém kiến thức và tư lợi cá nhân? Hẳn câu hỏi này sẽ còn bỏ ngỏ rất dài…
Tin, bài liên quan
- Thêm một nghị định không khả thi
- Thêm một nghị định không khả thi
- Lái xe không phải mình đứng tên bị phạt tới 10 triệu đồng
- Ban hành Nghị định mới cho báo chí nước ngoài tại VN
- 4000 văn bản pháp lý trái pháp luật, cần làm gì?
- Nhiều chính sách mới sẽ có hiệu lực vào tháng 8 năm 2011
- Thêm một văn bản về chủ quyền Hoàng Sa được phát hiện
- Hà Nội bãi bỏ gần 150 thủ tục hành chánh
- Hệ thống có lỗi? (phần 2)
Bộ trưởng Hagel: Mỹ chuẩn bị cho hành động đối với Syria
VOA, 25.08.2013
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ nói rằng quân đội chuẩn bị sẵn sàng hành động đối với Syria, nếu Tổng thống Barack Obama quyết định như vậy.
Bộ trưởng Chuck Hagel phát biểu hôm Chủ nhật trong khi đang đi thăm Malaysia rằng Washington và các đồng minh vẫn đang tính toán cách phản ứng đối với bằng chứng về vũ khí hóa học được sử dụng tại Syria.
Các cố vấn an ninh quốc gia và cố vấn quân sự hàng đầu hôm thứ Bảy đã đệ trình cho Tổng thống Obama chi tiết của một loạt chọn lựa cho phản ứng đối với việc chính phủ Syria đã sử dụng vũ khí hóa học như cáo buộc.
Một tuyên bố của Tòa Bạch Ốc nói rằng Tổng thống Obama cũng đã hội ý với Thủ tướng Anh David Cameron trong lúc cộng đồng tình báo Hoa Kỳ tiếp thu thập các thông tin dữ liệu của sự việc này. Cả hai nhà lãnh đạo đều lên tiếng bày tỏ “lo ngại thật sự” về các cáo buộc vũ khí.
Cuộc họp an ninh ở Tòa Bạch Ốc, có sự tham dự của Phó Tổng thống Joe Biden, Giám đốc cơ quan tình báo CIA John Brennan, và Cố vấn An ninh Quốc gia Susan Rice, diễn ra chỉ vào ngày sau những cáo buộc nói rằng hàng trăm người đã bị giết hại gần Damascus trong một vụ tấn công bằng vũ khí hóa học.
Các giới chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói rằng Ngoại trưởng John Kerry đã thảo luận vấn đề này với ngoại trưởng Syria và các giới chức hàng đầu khác trong khu vực. Ông Kerry hôm thứ Năm nói với Ngoại trưởng Syria Walid al-Moallem rằng nếu Syria không có gì phải dấu, thì nên cho phép “ngay lập tức và không cản trở” Liên hiệp quốc tiếp cận với địa điểm bị cáo buộc, thay vì ngăn cản các nhà điều tra.
Ông Kerry hôm thứ Bảy cũng nói với các giới chức của Liên đoàn Ả Rập, Ả Rập Xê-út, Jordan, Liện hiệp các Tiểu Vương quốc Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ cần phải chu ý đến “tính quan trọng của việc nhanh chóng xác định các bằng chứng” vũ khí hóa học được sử dụng ở Syria.
Tổ chức cứu trợ y tế quốc tế Y sĩ Không Biên giới hôm thứ bảy nói rằng 3 bệnh viện ở Damascus tiếp nhận khoảng 3.600 bệnh nhân có các triệu chứng bị phơi nhiễm chất độc gây tê liệt hệ thần kinh, trong có có triệu chứng bị co giật và mắt mờ. Tổ chức cứu trợ này cho biết gần 10% số bệnh nhân đó đã chết. Một số nhân viên y tế và cấp cứu được đưa đến nơi cũng nhận thấy chính họ bị nhiễm độc.
Trao đổi với Giáo sư Vũ Minh Giang: Cơ sở pháp lý cho phép việc thành lập các chính đảng mới ở Việt Nam
Bauxite Vietnam, Đào Tiến Thi
http://www.boxitvn.net/bai/18680
Trong trả lời BBC mới đây, GS. Vũ Minh Giang nói: “Hiện chưa thấy có cơ sở pháp lý nào để cho phép việc thành lập các chính đảng mới ở Việt Nam”.
GS. Vũ Minh Giang dùng chữ “cho phép” như trên khiến nhiều người cảm thấy phản cảm, vì liên hệ ngay đến cái cơ chế “xin cho” tồn tại lâu nay trong chế độ XHCN ở Việt Nam. Chính vì thế GS. Ngô Đức Thọ và nhà văn Phạm Đình Trọng đã phản ứng tức thời.
Lẽ dĩ nhiên Đảng CSVN chẳng bao giờ muốn một lực lượng khác bên cạnh mình. Nhưng muốn là một chuyện, còn điều muốn đó có hợp thức hay không, tốt xấu thế nào lại là chuyện khác. Bởi vì Hiến pháp hiện hành cũng như Điều lệ Đảng hiện hành đều ghi nguyên tắc của Đảng: “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Cho nên muốn kết tội tổ chức nào đó “bất hợp pháp” thì, về mặt chính danh (chỉ nói mặt chính danh thôi, chứ nếu bất chấp thì không có gì để bàn), cũng không thể qua mặt Hiến pháp và pháp luật.
Dưới đây tôi xin đưa ra một số cơ sở pháp lý.
1. Hiến pháp hiện hành nói Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chứ không hề nói là đảng “duy nhất”, tức là không cấm một đảng thứ hai, thứ ba,…
2. Điều 69 Hiến pháp hiện hành ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật” (Đảng cũng là một kiểu “hội”). Quyền này đã nằm trên giấy đã gần 70 năm, chẳng lẽ còn bắt nó tiếp tục nằm trên giấy? Nếu còn muốn chung sống với nhân loại tiến bộ thì dứt khoát phải thực thi các quyền này.
3. Cũng từng đã có tiền lệ[1]: trước đây trong Quốc hội và Chính phủ đã từng có mặt đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam. Về sau Quốc dân Đảng bị đánh đuổi, nhưng hai đảng còn lại vẫn tồn tại bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến năm 1988. Xã hội ngày càng cần phải dân chủ hơn thì không lý do gì lại từ chối đa đảng.
4. Ông TBT Nguyễn Phú Trọng khi còn làm Chủ tịch Quốc hội, trong chuyến thăm Ấn Độ (2-2010) đã nói: “Thực tiễn các bạn thấy đất nước chúng tôi, chính trị, xã hội ổn định, nhân dân được làm chủ thực tế, quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ (…), đất nước phát triển ngày càng đi lên. Thực tế trong hoàn cảnh cụ thể đất nước chúng tôi, thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả nhất”. Vậy có nghĩa là: khi đất nước không còn ổn định, không còn phát triển, cơ chế một đảng không hiệu quả, trong khi ấy, đa đảng sẽ tốt hơn, thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không từ chối đa đảng.
Phát biểu của GS. Vũ Minh Giang thực ra mang tính “nước đôi”. Tuy mang ý chí chính thống nhưng ông cũng không dám bác bỏ thực tế hiển nhiên. Vì vậy, ý này theo tôi là được:
“Trong lịch sử Việt Nam kể từ khi sau cuộc Cách mạng tháng 8/1945, trong hệ thống chính trị từng có tồn tại một cơ cấu có những đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, lúc đó gọi là Đảng Lao động Việt Nam, thí dụ như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, v.v…
Cho nên tôi cho rằng việc ở đâu đó có những người hoặc có những nhóm người xuất phát từ những quan niệm, những mong muốn mà họ có những đề xuất này khác, tôi cho cũng là hiện tượng bình thường thôi”.
Ta biết rằng Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam tuyên bố “tự giải tán” (năm 1988) chứ không phải bị cấm hoạt động. Hai đảng trên, dù quyền lực rất hạn chế, đã đóng góp rất lớn vào công cuộc kháng chiến kiến quốc suốt gần nửa thế kỷ. Ít nhất họ cũng làm “bình phong” cho Đảng Cộng sản để đoàn kết các thành phần xã hội, huy động sức mạnh toàn dân tộc và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Đảng Dân chủ Việt Nam có nhiều nhân vật trí thức sáng giá: Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Nghiêm Xuân Yêm,… Đảng Xã hội Việt Nam cũng vậy: Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Xiển,… Nhiều lãnh tụ hai đảng trên được Nhà nước trao Huân chương Sao vàng.
Nhưng đến ý sau, Giáo sư nói: “Lý luận của một nhóm nào đó nói đa thành phần kinh tế ở hạ tầng cơ sở thì cũng có thể mở đường cho nhu cầu đa nguyên, đa đảng xuất hiện tương ứng ở thượng tầng kiến trúc có thể chỉ là suy luận lôgic hình thức” thì Giáo sư lại rất dại dột. “Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng”, “kiến trúc thượng tầng phù hợp với “cơ sở hạ tầng”, đấy là nguyên lý “nằm lòng” của những người theo chủ thuyết Mác-Lê nin. Chẳng lẽ Giáo sư lại hồn nhiên phủ định?
Nói thêm
GS. Vũ Minh Giang nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam hiện nay đang rất cần kiểm soát quyền lực”. Đó đúng là một thực tế. Nhưng đó chỉ là ý chí của Đảng, chính xác là bộ phận đang nắm quyền (và tất nhiên nắm lợi) của Đảng, chứ không phải nhu cầu của xã hội nói chung, của dân tộc nói chung, kể cả của nhiều đảng viên. Ngược lại, xã hội hiện nay có nhu cầu bức thiết kiểm soát quyền lực của Đảng (hay của bất cứ ai cầm quyền sau này). Chính quyền lực bao trùm của Đảng đã tạo nên đủ loại vấn nạn xã hội, kể cả vấn nạn cho chính Đảng, làm cho Đảng ngày càng thoái hoá.
Xét quy luật phổ biến, tất cả các nhà nước dân chủ đều cần sự kiểm soát quyền lực. Nhà nước nào càng bị/được kiểm soát quyền lực thì càng tồn tại lâu dài. Trái lại, tất cả các nhà nước độc tài đều sụp đổ rất nhanh, như đã từng diễn ra với chế độ Tần Thủy Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Hitler, Polpot,…
Mặt khác, chính Hiến pháp hiện hành quy định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Tại Hội nghị Trung ương V, ông TBT Nguyễn Phú Trọng còn nhắc lại điều đó. Quyền lực thuộc về nhân dân nghĩa là nhân dân có quyền lập hiến, có quyền chọn chế độ chính trị, chọn đảng cầm quyền, chọn các cá nhân vào các ghế quyền lực,… (Tất cả thông qua phiếu bầu). Điều 4 hiện nay cũng có thể có lý do tồn tại nếu được nhân dân bỏ phiếu.
Tuy nhiên khi nói tới “nhu cầu kiểm soát quyền lực thì đã nói sang “cơ sở xã hội”, chứ không phải “cơ sở pháp lý” nữa.
Nếu sau đây GS. Vũ Minh Giang tiếp tục nói về “cơ sở xã hội”, tức là những nhu cầu hiện nay (đã có hay chưa) của việc đa đảng, thì sẽ rất hay. Bởi vì đấy mới là vấn đề. Hiến pháp, pháp luật hay mọi luật lệ nói chung đều do con người làm ra. Giả sử bây giờ việc đa đảng chưa có “cơ sở pháp lý” nhưng cuộc sống đòi hỏi thì hiến pháp, pháp luật cũng phải thay đổi để mở đường cho cuộc sống đi lên.
Đ.T.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
[1] Chữ Tiền lệ theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, in lần thứ chín, 2003) là: “Việc xảy ra từ trước, tạo thành cái lệ cho những việc về sau”. Có những việc đã thành tiền lệ, phải theo. Tạo thành một tiền lệ cho sau này”. Như vậy cũng là một kiểu “cơ sở pháp lý”. Nhất là cái tiền lệ trên đã tồn tại khá lâu dài, rất đàng hoàng và hai đảng trên được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tuyên dương công trạng.
Việt Nam không còn con đường nào khác
Nguyễn Ngọc Già gửi RFA từ Việt Nam. 2013-08-24
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/an-illegal-cpv-08242013132306.html
Xu hướng hội nhập thế giới trở nên tất yếu không gì cưỡng nổi, Việt Nam không còn con đường nào khác con đường tự do dân chủ. Không những thế, nó là con đường sống còn của dân tộc Việt Nam đặt trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi nhìn lại chỉ còn vài “quốc gia cộng sản” đi ngược trào lưu tiến hóa của xã hội loài người.
Bài viết* “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”* của ông Lê Hiếu Đằng, đã được những trang báo: Quân Đội Nhân Dân, Đại Đoàn Kết, Nhân Dân mang ra mổ xẻ, mà không, phải nói nó bị mang ra để chì chiết, thóa mạ một cách phản động, phản khoa học và phản văn hóa như nhiều tác giả phân tích.
Những bài viết của ba trang báo này lẽ ra nên xoay quanh nội dung khoa học mà tác giả Lê Hiếu Đằng đề cập để phân định trắng đen, ngược lại họ dùng sức khỏe vừa tạm hồi phục của ông như là một phương tiện để biểu lộ tà tâm và bản chất vô nhân đạo, khi cố tình nhắc chữ “giường bịnh”, “người bịnh” nhiều lần. Điều đó thật khó che giấu tâm địa của họ trước dư luận.
Sai lầm, tội ác của ĐCSVN không chỉ đối với những người họ gọi là “đồng chí” mà tội ác của chính đảng này còn lớn hơn nhiều lần, đối với dân tộc Việt Nam. Đó là điều cho đến nay thật khó chối cãi trong thời đại Internet bùng nổ. Xin dẫn ra chứng cớ mới đây, ĐCSVN đã phá nát gia cang của gia đình thường dân vô tội mà Luật sư Hà Huy Sơn cho biết[1]: (trích)
*”…Nhận tiện gặp luật sư, cô con gái lớn của bà Liên hỏi thủ tục thuận tình ly hôn ở tòa ra làm sao. Và cô con gái bà Liên kể rằng vì thằng Kha, thằng Uy vướng vào chuyện như vậy nên ảnh hưởng anh rể nó không được vào Đảng, có vào Đảng thì mới được đề bạt. Nếu vợ nó không chịu cách ly với gia đình đằng nhà vợ thì nó ly dị và hai bên thuận tình vì con gái bà không thể cách ly với gia đình bố mẹ và 02 em ruột…”*
(hết trích).
Những kẻ hứa hẹn với con rể bà Liên nhìn hạnh phúc gia đình – tế bào đầu tiên và quan trọng nhất làm nền tảng cho một xã hội nhân bản – sao thật giản đơn đến lạnh lùng và tàn nhẫn như thế(!). Đó có phải thứ tư duy “búa liềm”, hàng chục năm qua đập nát và xén đứt tất cả nhân tâm người Việt Nam, cũng như để lại những di họa khôn lường cho đến nay chưa xóa nổi?!
Người anh rể của Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy thật khờ khạo và ảo tưởng về những lời hứa hão như thế! Có lẽ ông ta chưa bao giờ tìm hiểu để biết “danh hiệu” “đệ nhất lật lọng” thuộc về “đảng ta” tồn tại hàng chục năm qua. Tệ hơn, khi trót “nhúng chàm”, người đàn ông đã phá tan gia đình mình, vô hình chung cũng tự tay lái “chuyến xe cuộc đời” trượt dài trên con đường vong thân, vong bản. Không có gì bảo đảm tốt đẹp hơn cho phần đời còn lại của người đàn ông này, khi chỉ vì “bả lợi danh”, dù là thật đi chăng nữa, lại đang tâm nghe lời “đảng dạy” bỏ rơi và đoạn tuyệt ân nghĩa vợ chồng – cha con. Đó là nỗi đau của thường dân do ĐCSVN gây ra và nó cũng là nỗi nhục nhã ê chề của những
ai còn mơ tưởng đến “thiên đường XHCN”. Một chính đảng như thế có nên “tự tưởng thưởng” danh hiệu “đảng ta là đạo đức là văn minh” (?) “Đảng Cộng Sản Việt Nam bách chiến bách thằng”, “đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”, hay như Lê Duẩn nói [2]: “đảng ta, người lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam” bỗng trở nên thô bỉ hơn bao giờ hết!
Trong bài trả lời phỏng vấn BBC, ông Vũ Minh Giang, người được biết là giáo sư, nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho hay [3]:
“…chưa thấy có cơ sở pháp lý nào để cho phép việc thành lập các chính đảng mới ở Việt Nam, bên cạnh Đảng Cộng sản…”
Thường dân chúng tôi muốn đặt câu hỏi:
– Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang hoạt động theo cơ sở pháp lý nào?
– Giấy phép hoạt động của ĐCSVN mang số hiệu gì? Ngày, tháng, năm được cấp? Người có thẩm quyền nào ký? Cấp có thẩm quyền nào ban hành?
– Tất cả các bộ luật, nghị định, thông tư hiện hành có do bất kỳ ai mang danh “đảng viên ĐCSVN” ký phát hành không?
– Người dân sống và làm việc theo Luật hay theo điều lệ đảng?
– Bằng chứng nào cho thấy người dân Việt Nam chọn ĐCSVN lãnh đạo?
Nói cách khác, ĐCSVN hoạt động bất hợp pháp và tiếm quyền dân hàng chục năm qua. Không chỉ Hiến pháp Việt Nam không cấm lập đảng, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (CƯQTVCQDSCT), có hiệu lực từ 23/3/1976, sau đó Việt Nam tự nguyện tham gia và cam kết thực hiện công ước vào ngày 24/9/1982 cũng nói rõ về tự do tư tưởng, tư do ngôn luận.
Trong Công ước này điều 1 khoản 3 viết:
*”Các quốc gia thành viên Công ước này, kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lý các Lãnh thổ uỷ trị và các Lãnh thổ Quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc”.*
Điều 2 khoản 1 viết:
*”Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác”.*
Do đó, cần xem lại hồ sơ cam kết tự nguyện gia nhập CƯQTVCQDSCT của Việt Nam do ai ký, vì Điều 48 CƯQTVCQDSCT viết:
*1. Công ước này để ngỏ cho bất kỳ quốc gia quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, hoặc thành viên của bất kỳ tổ chức chuyên môn nào của Liên Hợp Quốc, hoặc cho bất kỳ quốc gia thành viên nào của Quy chế Toà án Công lý quốc tế, cũng như cho bất kỳ quốc gia nào khác được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc mời tham gia Công ước này, ký kết.
2. Công ước này đòi hỏi phải được phê chuẩn. Các văn kiện phê chuẩn sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
3. Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia nêu ở khoản 1 điều này gia nhập.
4. Việc gia nhập sẽ có hiệu lực khi văn kiện gia nhập được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
5. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các quốc gia đã ký hoặc gia nhập Công ước này về việc nộp lưu chiểu của từng văn kiện phê chuẩn hay gia nhập.*
Hơn 30 năm qua, chẳng lẽ Việt Nam chưa nộp lưu chiểu cho Liên Hiệp Quốc? Trong khi đó, điều 49 viết:
*1. Công ước này sẽ có hiệu lực ba tháng sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập thứ 35 được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Đối với quốc gia nào phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 35 đã được lưu chiểu, thì Công ước này sẽ có hiệu lực sau ba tháng kể từ ngày nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập của quốc gia đó.*
Do đó, không tài nào tin được 31 năm qua Việt Nam quên “nộp lưu chiểu vănkiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập”.
Thời điểm ký vào Công ước này, người Việt Nam biết ông Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Quốc hội (4/1981 – 4/1987) và ông Trường Chinh là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (7/1981 – 6/1987). Chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nghĩa là chức vụ Chủ tịch nước hiện nay do ông Trương Tấn Sang đảm nhiệm.
Nêu lại vấn đề lịch sử này nhằm chỉ rõ, Việt Nam tự nguyện cam kết với quốc tế cũng do những người đứng đầu Quốc Hội hay đứng đầu Nhà nước, không một ông (bà) nào, dù là Tổng bí thư được phép ký vào CƯQTVCQDSCT, thậm chí có ký cũng chẳng quốc gia nào công nhận. Do đó, ĐCSVN cần phải nhận rõ: đảng phái không phải là tuyệt đối, bao trùm toàn xã hội như họ ngộ nhận đến mụ mị và mù quáng.
Năm 2014, Việt Nam phải trình bày về tình trạng nhân quyền trước Liên Hiệp Quốc – điều hệ trọng mang thể diện quốc gia, nó cũng không có chỗ cho ĐCSVN tham gia vào.
Đề nghị các luật sư, luật gia nghiên cứu, thảo luận CƯQTVCQDSCT và trình bày trước công luận: trong trường hợp bất kỳ quốc gia nào (ví dụ như Việt Nam) đã tự nguyện ký gia nhập mà không thực hiện, hay không thực hiện đầy đủ, thậm chí vi phạm nghiêm trọng, thì biện pháp gì để buộc quốc gia đó khắc phục hoặc thủ tục tiến hành kiện ra tòa án quốc tế hay Ủy ban Nhân quyền LHQ ra sao.
Suy nghĩ và thao thức của ông Lê Hiếu Đằng về thành lập một chính đảng không nằm ngoài CƯQTVCQDSCT mà Việt Nam đã tự nguyện tham gia. Nó cũng hoàn toàn phù hợp với Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Câu hỏi đọng lại cho đến hết bài viết này: Theo cam kết khi gia nhập WTO, đến 31/12/2018 Việt Nam phải đoạn tuyệt với nền kinh tế phi thị trường, trong trường hợp không đáp ứng cam kết này thì hậu quả gì xảy ra và người Việt Nam phải làm gì để khắc phục hậu quả (nếu có)?
Rất mong các luật sư, luật gia và những ai am hiểu về luật lệ quốc tế hãy vạch rõ tất cả và đề ra những biện pháp khả thi để cứu quê hương trong cơn nguy khốn. Xin đừng để như tình trạng CƯQTVCQDSCT như một nỗi hổ thẹn của thói trí trá, gian manh mà ĐCSVN đã gây ra để người Việt Nam chúng ta gánh chịu hậu quả về nỗi nhục quốc thể trước toàn thế giới.
Nguyễn Ngọc Già
_________________
http://xuandienhannom.blogspot.nl/2013/08/ha-huy-son-long-truoc-ngay-phien-toa.html[1]
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/08/130817_vuminhgiang_on_new_party.shtml[3]
Ghi chú:
1/ Hiện nay một số quốc gia đã ký Công ước nhưng không thông qua
– Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (05 tháng 10, 1998).
– Comoros (25 tháng 11, 2008)
– Cuba (28 tháng 02, 2008)
– Nauru (12 tháng 11, 2001)
– São Tomé và Príncipe (31 tháng 10, 1995)
2/ Một số quốc gia khác không ký cũng không thông qua như: Malaysia, Myanmar, Ả Rập Saudi, Brunei v.v…
http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C6%B0%E1%BB%9Bc_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF_v%E1%BB%81_c%C3%A1c_Quy%E1%BB%81n_D%C3%A2n_s%E1%BB%B1_v%C3%A0_Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B
Tin, bài liên quan
- Nghịch lý Công–Nông–Trí
- Hàng trăm trí thức kiến nghị đa đảng
- Tham nhũng cản trở quyết tâm chỉnh đốn đảng
- 19 điều cấm đối với đảng viên
- Những dấu hiệu thay đổi của Đảng CSVN
- Thành phần nhân sự cấp cao dự kiến
- Góc tối trong những cuộc bầu cử
- Ý kiến các nhà dân chủ trong nước về Đại hội Đảng
- Thành phần nhân sự mới của Bộ Chính Trị Đảng CSVN?
Buổi họp mặt của Mạng lưới Blogger Việt Nam tại Sài Gòn
Danlambao. danlambaovn.blogspot.com
Ngoài ra còn có chị Đinh Nguyễn Quỳnh Như (chị ruột của Uy và Kha), chị Nhung mẹ Phương Uyên, chị Trần Thị Nga từ Hà Nam vào, chị Dương Thị Tân.
Blogger / Nhà báo Phạm Chí Dũng đến tham dự và ký vào Tuyên Bố 258 của Mạng lưới Blogger Việt Nam.
và blogger Nguyễn Giáp Dần ký tên vào Tuyên bố:
Chị Trần Thị Nga từ Hà Nam vào và đến sinh hoạt với anh em Sài Gòn:
Buổi họp mặt của Mạng lưới Blogger Việt Nam tại Hà Nội
DANLAMBAO, 24/08/2013
Thông tin chi tiết về cuộc họp sẽ được tường thuật trên website của Mạng lưới Blogger Việt Nam, tại địa chỉ http://tuyenbo258.blogspot.com, và trên mạng xã hội.
*
14h:26 – Địa điểm họp mặt: Cafe Win, 94 đường Láng, Đống Đa, Hà Nội.
Hiện tại, các bạn blogger cũng vừa mới đến. Số người hiện có mặt là 20 blogger.
Mời các bạn blogger, bằng hữu ngay bây giờ hãy đến cùng tham dự.
Các bạn có thể vào xem truyền hình trực tiếp tại đây.
Cập nhật: 15h05
Nguyễn Hoàng Vi cũng là người cùng với phái đoàn đại diện blogger
đến trao Tuyên bố 258 cho Đại sứ quán Úc.
Cập nhật: 15h30
Facebooker Trần Sơn đến tham dự buổi gặp mặt
và ký tên vào Tuyên bố 258.

Bố của blogger Nguyễn Anh Tuấn, một trong những bloggerđến trao Tuyên bố 258
cho đại diện UN và nhiều tổ chức quốc tế tại Bangkok cũng đến tham dự.
Hiện giờ đã có 30 người tham dự buổi họp mặt.
Cập nhật: 16:50
Nhìn lại vụ án Phương Uyên – Nguyên Kha
BBC, 24 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/08/130823_tuonglai_phuong_uyen_case.shtml
Media Player
Hôm 16/8, tòa phúc thẩm tỉnh Long An thay đổi bản án của sinh viên Nguyễn Phương Uyên thành ba năm tù treo, để cô được về với gia đình ngay tại tòa.
Người bạn cùng hoạt động, Đinh Nguyên Kha, được giảm nửa án tù, từ 8 năm còn 4 năm.
Cả hai người bị xử tù 6 năm và 8 năm tù giam vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự tại phiên sơ thẩm ngày 16/5/2013.
Trao đổi với BBC, giáo sư Tương Lai, từ Sài Gòn, cho rằng đây là nhượng bộ của Đảng Cộng sản.
“Người ta phải run sợ trước sức mạnh lòng yêu nước và ý chí chiến đấu của dân tộc,” ông nói.
Từ năm 1988 – 1999, ông Tương Lai là Viện trưởng, Viện Xã hội học Việt Nam và sau đó làm cố vấn cho các Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải.
“Những người cầm quyền dù có khuất phục bọn bành trướng Đại Hán, nhưng sâu xa, họ vẫn hổ thẹn nếu không đứng về phía nhân dân.”
Giáo sư Tương Lai cũng đặt vụ án này trong bối cảnh giới lãnh đạo Đảng, dù có mâu thuẫn, nhưng “có một điểm nhất trí là phải bảo vệ quyền lực”.
Sinh năm 1936, ông Tương Lai cho rằng thế hệ của ông đi theo cuộc cách mạng Hồ Chí Minh nhưng nay cảm thấy bị “phản bội”.
Các quyền tự do ghi trong Hiến pháp 1946 “từng bước bị xóa bỏ, và chưa bao giờ bị xóa bỏ trắng trợn như hiện nay”.
GS. Tương Lai cho rằng những người như Phương Uyên và Nguyên Kha đang “đấu tranh cho tự do, dân chủ”.
“Vai trò của blogger, cách mạng thông tin đem lại sức mạnh rất mới cho cuộc đấu tranh hiện nay,” ông nói.
Hãy đặt gánh nặng tư tưởng xuống
Huỳnh Thục Vy. Gửi cho BBCVietnamese.com từ Quảng Nam. 22 tháng 8, 2013
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/08/130822_ganh_nang_tu_tuong.shtml
Không nên lẩn quẩn trong mớ bòng bong CNTB và CNXH?
Gần đây dư luận mạng quan tâm đáng kể đến các bài tiểu luận của tác giả Nguyễn Tùng Hiếu, một đảng viên cộng sản Việt Nam cao cấp.
Trong các luận đề rất dài của mình, với văn phong bị ảnh hưởng sâu đậm của kinh tế chính trị học Marx-Lenin, tác giả cổ vũ rất nhiệt tình cho cái mà ông gọi là “dân chủ xã hội”. Ông đã dành nhiều phần để cổ vũ cho sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà theo ông, đó gần như là xu thế của thời đại. Ông cho rằng “dân chủ xã hội” có thể tận dụng cả ưu điểm của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội để thiết lập một xã hội thịnh vượng và công bằng như các quốc gia Bắc Âu.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Một đặc điểm nổi bật của những người cộng sản Việt Nam là lối tư duy chưa thoát ra khỏi cái thiên kiến lệch lạc của Marx. Marx chỉ nhìn thấy CNTB trong mối quan hệ đối trọng với CNXH, chứ không thấy sự tồn tại và vai trò của chủ nghĩa tự do hợp hiến trong nỗ lực định hình nền móng của các xã hội tự do lúc bấy giờ. Ngày nay, khi nhận thấy chủ nghĩa Marx đã đi đến hồi mạt vận trong cả lý thuyết lẫn thực tiễn, các trí thức CNXH cố vớt vát bằng cách kêu gọi kết hợp CNTB với CNXH để tạo ra cái gọi là Dân chủ xã hội. Họ đã bỏ sót cái tinh thần tự do cá nhân và nền dân chủ chính trị mà chủ nghĩa tự do đã đưa vào thế giới hiện đại. Đó mới chính là cốt lõi của các xã hội dân chủ, chứ không phải chỉ là chủ nghĩa tư bản. Những người chưa bao giờ sống trong xã hội dân chủ và tư duy chưa bao giờ vượt ra ngoài một mớ lý thuyết cũ rích của chủ nghĩa Marx, chỉ nhìn thấy chủ nghĩa tư bản và nghĩ rằng chỉ cần kết hợp với các ưu điểm của chủ nghĩa tư bản là đủ để giải quyết tất cả những vấn đề của quốc gia.
Các vấn đề của một quốc gia không chỉ là kinh tế và sự tái phân phối phúc lợi; mà phức tạp hơn nhiều, bao gồm nhiều không gian lý luận khác như thể chế chính trị, Hiến pháp, pháp trị, văn hoá và phương cách đối phó với những nan đề liên quan đến Công lý và tự do…Họ trầm trồ khen các nước dân chủ tự do rằng: “Người ta như thế mới là chủ nghĩa xã hội chứ!” Nhưng họ không hề biết chỉ hai chủ thuyết này không đủ để thai nghén nên một xã hội dân chủ tự do, giàu mạnh và đạt được những tiến bộ đáng kể trong cố gắng cải thiện công bằng xã hội. Thị trường tự do cộng với sự tái phân phối các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế và các chương trình phúc lợi chưa thể thể hiện hết cái cốt lõi tinh thần của các nền dân chủ. Mô hình đó có một nền tảng đặc biệt của nó, vượt ra ngoài sự kết hợp miễn cưỡng đó.
Sự lẩn quẩn trong mớ bòng bong CNTB và CNXH làm người ta quên mất rằng cần phải có thêm các chủ thuyết tự do làm bệ đỡ cho tinh thần tự do của một nền dân chủ hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước “tư bản” chứ không phải là “dân chủ tự do”. Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá…
“Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước “tư bản” chứ không phải là “dân chủ tự do”. Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá…”
Các chủ thuyết xã hội, đặc biệt là chủ nghĩa Marx chỉ tập trung vào mục tiêu đánh đổ chủ nghĩa tư bản, thực hiện công cuộc “cào bằng” đầy bạo lực và khiên cưỡng, đề xuất mô hình kinh tế tập trung bao cấp để thay thế chủ nghĩa tư bản… chứ chưa bao giờ thiết lập một nền tảng tư tưởng hữu lý cho việc kiến tạo các định chế quyền lực và xã hội nhằm bảo vệ tự do cá nhân, xây dựng một nhà nước dựa trên sự đồng thuận của người dân, xây dựng khế ước quyền lực…Đối với chủ thuyết này, Hiến pháp, pháp trị, tam quyền phân lập, cân bằng và kiểm soát, tự do, nhân quyền… chỉ là công cụ thống trị của nhà nước tư sản và họ cố tình gạt bỏ các giá trị này ra khỏi trung tâm lập thuyết của họ. Ngày nay, để tiếp tục tồn tại và biện minh cho sự tồn tại đó, các lý thuyết gia xã hội cố vay mượn các giá trị tự do (mà họ không xây dựng được) từ chủ nghĩa tự do hợp hiến để bù đắp cho sự thiếu hụt căn bản này.
Trong khi đó, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tự do hợp hiến đã làm tất cả những công việc quan trọng nhằm đúc kết nên những nguyên tắc nền tảng mà từ đó các chế độ dân chủ hiện đại được xây dựng nên. Họ thiết lập và biện minh không mệt mỏi cho các giá trị tự do dân chủ mà ngày nay chúng ta đang cổ vũ. Bởi vậy, các nền dân chủ hiện đại thực ra được thai nghén trong tinh thần đề cao tự do, nhân quyền và nhân phẩm của chủ nghĩa tự do hợp hiến, chứ nó chưa bao giờ là con đẻ của chủ nghĩa xã hội, dù là chủ nghĩa xã hội bạo lực kiểu Marx hay chủ nghĩa xã hội dân chủ. Nhìn nhận sự thành công của các nền dân chủ hiện đại như Thuỵ Điển và các nước Bắc Âu như là kết quả của phiên bản mới – chủ nghĩa xã hội dân chủ – là một ngộ nhận lớn.
Chủ nghĩa tự do hợp hiến
Chủ nghĩa tự do có nhiều xu hướng khác nhau. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa TỰ DO KINH TẾ đề cao quyền tư hữu, tự do khế ước và do đó họ ủng hộ chủ nghĩa tư bản laissez-faire và một Nhà nước càng nhẹ càng tốt. Nhưng thực tế cho thấy, kiểu tự do này sẽ giúp duy trì những lợi thế vĩnh viễn của tầng lớp giàu có và quyền thế trong xã hội, còn những người bị gạt ra bên lề xã hội sẽ khó có cơ hội để vươn lên bởi đơn giản là họ có rất ít cơ hội. Tự do kinh tế chưa đủ để thúc đẩy tự do cá nhân và dân chủ thực sự, mà nó còn đào sâu các bất bình đẳng xã hội do khoảng cách quá lớn về tiềm lực kinh tế và cơ hội chính trị. Tình trạng các quốc gia phương Tây trong giai đoạn phát triển cao của cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ hai đã cho thấy nhược điểm của chủ thuyết tự do cổ điển này.
Đảng Cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa đảng
Trước những bế tắc xã hội không giải quyết được của chủ nghĩa tự do kinh tế, các lý thuyết gia của chủ nghĩa TỰ DO XÃ HỘI đã đưa ra luận thuyết của mình để giải quyết các bất công và mâu thuẫn xã hội đồng thời đưa ra một số câu trả lời cho vấn đề Công lý. Với sự công nhận vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội bằng hệ thống luật pháp, tạo không gian pháp lý ổn định cho các hoạt động dân sự, làm trọng tài cho các thoả thuận tự do của người dân, tái phân phối một phần các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế, và tăng cường bình đẳng cơ hội cho những người ở tầng lớp dưới qua các chương trình phúc lợi xã hội…., chủ nghĩa tự do xã hội đã giúp các nền dân chủ hiện đại sửa sai các khiếm khuyết của chủ nghĩa tự do kinh tế. Trong khi đó, phương cách của chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế tập trung, một nhà nước trung ương đầy quyền lực để áp đặt mô hình kinh tế này, kết quả là cho ra đời những Nhà nước toàn trị tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại.
Độc tài hay Dân chủ mới là mấu chốt
Ngày nay những người xã hội đã cải biến chủ thuyết của mình theo kiểu “đẽo chân cho vừa giày” để phù hợp với không gian chính trị dân chủ và xã hội tự do. Các đảng xã hội cũng thay đổi để tiếp tục tồn tại và tham gia lãnh đạo quốc gia cùng với các đảng cánh hữu. Tùy thuộc vào bối cảnh văn hoá, kinh tế và chính trị cũng như các định chế xã hội mà các đảng cánh tả ở những nền dân chủ lâu đời có thể dành được sự ủng hộ của người dân hay không. Nhưng điều quan trọng là đảng phái này chỉ mang cái danh “xã hội” nhưng thực chất họ đi gần với chủ nghĩa tự do xã hội hơn là chủ nghĩa xã hội (xin lưu ý sự khác biệt này) và mọi hoạt động đảng phái cũng như hoạt động quyền lực của họ đều phải nằm trong không gian chính trị do chủ nghĩa tự do hợp hiến thiết lập và quy định từ lâu.
“Tại sao chúng ta không đặt cái di sản xã hội chủ nghĩa nặng nề ấy xuống để bắt đầu bàn về những chủ đề quan trọng hơn cho đất nước, những giá trị mang tính phổ quát, vượt ra khỏi biên giới hạn hẹp của mọi chủ nghĩa? “
Gán ghép các thành tựu chính trị-xã hội ngoạn mục ở các quốc gia dân chủ Bắc Âu cho chủ nghĩa xã hội (có sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản), mà bỏ qua dấu ấn sâu sắc của chủ nghĩa tự do hợp hiến ở các quốc gia này là quá gượng ép và thiển cận. Tiếp tục đề cao vai trò của một phiên bản chủ nghĩa xã hội mới trong không gian chính trị dân chủ tự do của các quốc gia phương Tây chỉ là một cách để các trí thức cộng sản ở Việt Nam giảm nhẹ những sai lầm, đổ vỡ và tội ác mà các nhà nước độc tài xã hội chủ nghĩa đã gây ra ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng; để tuyên truyền cho luận điệu rằng: chủ nghĩa xã hội không sai, chỉ là chúng ta chưa biết cách vận dụng…
Thời đại ngày nay, thế giới đã đổi thay, nhu cầu dân chủ hoá của các dân tộc đang nằm dưới chế độ độc tài khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vì thế thật không phù hợp khi tốn công sức để bàn về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay sự kết hợp của chúng. Trong khi cái thực sự cần bàn là dân chủ, tự do, nhân quyền và công lý…Thiết nghĩ, tại sao chúng ta không đặt cái di sản xã hội chủ nghĩa nặng nề ấy xuống để bắt đầu bàn về những chủ đề quan trọng hơn cho đất nước, những giá trị mang tính phổ quát, vượt ra khỏi biên giới hạn hẹp của mọi chủ nghĩa?
Trí thức là tầng lớp tinh hoa mở đầu cho mọi tiến bộ, đã đến lúc các trí thức cộng sản Việt Nam phải làm một cuộc cách mạng tư tưởng để nhận thức sinh động rằng cái gốc của vấn đề ở đây không chỉ là chủ nghĩa tư bản hay xã hội, mà chính là Tự do hay Nô lệ, Dân chủ hay Độc tài! Nếu không làm được điều này, họ sẽ tiếp tục đi bên lề những vận động tích cực trong tương lai của đất nước.
Bài viết thể hiện cách hành văn và quan điểm riêng của tác giả.


“Việt Nam cần giải quyết hậu quả của vấn đề độc đảng chứ không phải tiếp tục khiêu khích hay thách thức ĐCSVN là vô địch.”






















“Những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất động sản, chứng khoán và vàng là biểu hiện của các tác động vào chính sách”




































