Công bố thông tin về tiềm năng dầu khí rất lớn ở biển Đông

VOA,  12.02.2013
Giàn khoan dầu Bạch Hổ ngoài khơi bờ biển Vũng Tàu.

Giàn khoan dầu Bạch Hổ ngoài khơi bờ biển Vũng Tàu.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA) vừa thông báo trữ lượng dầu khí tiềm năng ở biển Đông, cho thấy trữ lượng đó vượt xa so với các dự báo trước đây và nhiều hơn cả các nguồn tài nguyên chưa được khai thác của cả châu Âu.

Theo EIA, biển Đông có trữ lượng tiềm năng là 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ biển Đông, trong đó có cả quần đảo Trường Sa, nơi mà Đài Loan, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền.

EIA ước tính quần đảo Trường Sa có trữ lượng khoảng 800 tới 5,4 tỷ thùng dầu.

Cũng theo cơ quan này, năm 2011, sản lượng khai thác dầu khí ở biển Đông của Việt Nam là 300 nghìn thùng mỗi ngày.

Nguồn năng lượng dầu khí phong phú ở biển Đông là một trong các lý do dẫn tới các tranh chấp ở vùng biển này.

Nguồn: EIA, Reuters, The Philippine Star

Nhật cấp tầu tuần tra cho Philippines

VOA, 11.02.2013

Tàu tuần của hải quân Nhật Bản chạy sát bên chiếc tàu hải giám số 51 của Trung Quốc gần quần đảo tranh chấp Senkaku/Ðiếu Ngư.

Tàu tuần của hải quân Nhật Bản chạy sát bên chiếc tàu hải giám số 51 của Trung Quốc gần quần đảo tranh chấp Senkaku/Ðiếu Ngư.

Tin liên hệ

Nhật Bản dự tính sẽ cấp một số tàu tuần tra cho Philippines, trị giá mỗi chiếc là 11 triệu đôla, nhằm đẩy mạnh các nỗ lực khu vực để giám sát các hoạt động hàng hải của Trung Quốc trong các vùng biển tranh chấp.

Pháp Tấn Xã trích tin của tờ báo doanh nghiệp Nikkei, nói rằng chính quyền Nhật Bản dự tính tài trợ cho dự án này với ngân sách năm nay.

Theo kế hoạch dự trù, Nhật sẽ cấp cho Philippines một số tàu tuần tra mới đóng, với kinh phí hơn 1 tỉ yen một chiếc. Bản tin không cho biết Tokyo sẽ tặng cho Manila bao nhiêu tàu tất cả.

Philippines là một trong nhiều nước Đông Nam Á, kể cả Việt Nam, đang có tranh chấp với Trung Quốc về chủ quyền một số vùng biển trong Biển Đông, với hai điểm nóng là Trường Sa và Bãi cạn Scarborough.

Tờ Nikkei

Business còn cho hay là đội tuần duyên Nhật Bản cũng dự định sẽ huấn luyện nhân sự cho Philippines và Việt Nam trong khuôn khổ các nỗ lực khác của Nhật Bản nhằm tăng cường hợp tác an ninh với Đông Nam Á.Nhật Bản đã dành riêng 2,5 tỉ yen trong dự thảo ngân sách năm 2013 để chi vào các chi phí này.

Cuộc tranh chấp về chủ quyền biển đảo trong biển Hoa Đông đã leo thang từ tháng 9 năm ngoái, khi Tokyo quốc hữu hóa một phần quần đảo Senkaku, gây giận dữ ở Bắc Kinh.

Trong sự cố nghiêm trọng nhất, tuần trước Nhật Bản tố cáo một chiến hạm Trung Quốc đã nhắm radar vào một tàu hải quân Nhật hôm 30 tháng Giêng.

Trung Quốc đã bác bỏ lời cáo buộc đó.

Nguồn: AFP, South China Morning Post.

Trung Quốc sẽ tiếp tục trì hoãn Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông?

Thứ năm, 07 Tháng 2 2013 08:29

Từ lâu, ASEAN và Trung Quốc đã tiến hành thảo luận nhằm cho ra đời Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) để kiềm chế căng thẳng do tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, theo báo “Bưu điện Hoa nam Buổi sáng“, thỏa thuận này giờ đây đang gặp nguy hiểm.

Nếu Trung Quốc đang tìm mọi cớ để gác qua một bên những cuộc thương lượng với ASEAN về tình trạng căng thẳng đang diễn biến ngày một tồi tệ ở Biển Đông thì những hành động của Philíppin trong tuần qua có lẽ sẽ tạo cho họ thêm một cái cớ. Động thái của Manila sử dụng Công ước Liên hợp quốc về Luật năm biển 1982 – nhằm tìm kiếm một phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế về tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ Biển Đông – là khá táo bạo, chuẩn bị cho tiến trình pháp lý kéo dài vài năm nhằm phơi bày những điều không được Bắc Kinh, vốn ngày càng quyết tâm vẽ lại bản đồ khu vực theo ý đồ của họ, hoan nghênh. Theo các chuyên gia nắm rõ tiến trình đàm phán COC, hành động của Philíppin có thể cũng làm phức tạp thêm tình trạng căng thẳng giữa Trung Quốc và ASEAN, gây nguy hiểm hơn cho các cuộc thương lượng đã bị trì hoãn về một bộ quy tắc ứng xử. Bộ quy tắc này được cho là một sự ràng buộc, được xây dựng dựa trên Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC – được ký giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002). Mặc dù năm mới 2013 đã bắt đầu với việc một số nhân vật quan trọng của ASEAN, trong đó có tân Tổng Thư ký Lê Lương Minh, nói về tầm quan trọng của bộ quy tắc này, song có ít dấu hiệu cho thấy những cuộc thương lượng cụ thể với Trung Quốc sẽ sớm được bắt đầu.

Những quốc gia thành viên ASEAN như Inđônêxia và Xinhgapo, cũng như các đối thủ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông như Việt Nam và Philíppin, rất mong muốn có một bộ quy tắc như vậy, nhưng các nước thành viên ASEAN khác lại không mấy thiết tha. Và đương nhiên, Trung Quốc là nước thận trọng, đề phòng nhất trong vấn đề này. Đối với tất cả các cuộc đàm phán về COC, Bắc Kinh đã thẳng thừng “đạp đổ” với tư cách cá nhân, đi đầu là Thứ trưởng Ngoại giao Phó Oánh, với lý do rằng Trung Quốc lo ngại sâu sắc về một số diễn biến. Những lo ngại của họ xuất phát từ sự can dự của những nước bên ngoài Biển Đông – được hiểu là Mỹ và Nhật Bản – vào vấn đề này, việc ASEAN tăng cường quốc tế hóa vấn đề và những nỗ lực liên tục của ASEAN nhằm đưa ra một bản dự thảo COC của riêng ASEAN trong các cuộc thảo luận với Trung Quốc. Sau đó, Trung Quốc lại nói rằng họ quan ngại về những vi phạm đối với DOC, điều bị các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông bác bỏ.

Trong bối cảnh những căng thẳng ở hậu trường như vậy, nước cờ mới đây của Manila có thể cho phép Trung Quốc trì hoãn thêm các cuộc thương lượng bằng cách tuyên bố rằng thời gian hoàn toàn chưa chín muồi. Các quan chức Philíppin khẳng định họ vẫn tuân theo lộ trình của ASEAN, nhưng họ cũng nói rằng Manila đang bị dồn vào một góc sau 18 năm ngoại giao song phương với Bắc Kinh về vấn đề tranh chấp biển đảo, một vấn đề chỉ khiến chủ quyền của họ ngày càng bị nguy hiểm hơn. Một quan chức Philíppin nhấn mạnh: “Với việc chủ quyền của chúng tôi bị đe dọa trực tiếp, ở một số điểm chúng tôi phải hành động để bảo vệ các lợi ích quốc gia của chúng tôi và điểm đó đã xuất hiện. Đó là tìm kiếm giải pháp lâu bền và chúng tôi cảm thấy chúng tôi không thể chờ đợi lâu hơn nữa”. Ngay cả trước khi Manila có động thái kiện Trung Quốc lên Tòa án quốc tế, các nhà ngoại giao ASEAN nói rằng đến năm 2015 hoặc lâu hơn chưa chắc đã có bộ quy tắc ứng xử. Thậm chí, ngay cả khi một văn kiện như vậy ra đời, nó cũng không có tác dụng gì hơn tuyên bố năm 2002.

Phản ứng về Bộ Phim Tài Liệu Mậu thân 1968 – Lê Phong Lan

Phim Tài Liệu Mậu thân 1968 – Lê Phong Lan

ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ VIỆT CỘNG NÓI, MÀ HÃY NHÌN KỸ NHỮNG GÌ VIỆT CỘNG LÀM – DO NOT LISTEN TO WHAT VIETCONG SAY, BUT WATCH CLOSELY AT WHAT THEY’VE DONE

Video Clip cực ngắn dưới đây nhằm bổ túc “công trình vĩ đại” của “Đạo Diễn kiêm Đạo Dụ” Lê Phong Lan đã phải mất hơn 10 năm nghiên cứu để rặn ra bộ phim  “Mậu Thân 1968”

Điểm quan trọng nhất của hai cuộc chiến Mậu thân 1968 và Tháng 4 1975 là người dân miền Nam đã không hề “nổi dậy” để tiếp tay cho quân Cộng sản “giành lại chính quyền về tay nhân dân” như tuyên truyền của Hà Nội trước đây và những gì đã nói trong cuốn phim “Mậu Thân 1968” của “ĐẠO DỤ” Lê Phong Lan.

Bằng chứng rõ nhất là đã không hề có chuyện “đông đảo nhân dân” được “giải phóng khỏi ách kìm kẹp của Mỹ-Ngụy” như tuyên truyền ngụy tạo của miền Bắc và của tổ chức bù nhìn Mặt trận Giải phóng miền Nam do miền Bắc dựng lên để “miền Nam hóa” cuộc chiến xâm lăng của Trung cộng qua tay sai hồ chí minh và đảng CSVN.

Gửi bà Lê Phong Lan và đồng bọn!

Tôi là một người sinh sau đẻ muộn và cũng là dân Bắc, hay còn gọi là sinh trong cái nôi xã hội chủ nghĩa “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Nói như vậy cho bà rõ tôi không có thân nhân nào trong vụ thảm sát Mậu Thân năm 1968. Tuy nhiên tôi nói cho bà và đồng bọn rõ rằng: “Dù một giọt máu của DÂN TỘC tôi, ĐỒNG BÀO tôi đổ xuống do tội ác của đồng bọn của bà cũng không thể tha thứ. Huống chi bà và đồng bọn còn cho quay một bộ phim tài liệu lịch sử đổi trắng thay đen 100% để vu cáo tội ác của Hồ Chí Minh và đồng bọn cho người khác – đó là tội ác không thể dung tha.”
Thưa bà Lan, tôi biết bà cũng là người Việt Nam như tôi. Như vậy chúng ta không thể nào có thể làm ngơ trước những tội ác của những kẻ giết người man rợ. Ấy vậy mà bà lại cho làm một bộ phim hoàn toàn bịa đặt lịch sử. Bà đổ lỗi cho những hố hầm đầy xác người tết Mậu Thân là do “Mỹ Ngụy”. Chính vì bà và những người đang làm tay sai cho chế độ cộng sản khát máu đã cố tình quên đi sự thật để đổi trắng thay đen đã làm tôi không thể ngồi yên để nói với bà rằng những người như bà và đồng bọn là một lũ cơ hội và vô đạo đức.
Thưa bà Lan, nhân dân Việt Nam có câu: “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Bà có biết câu đó không? Tôi hi vọng rằng bà không mất gốc đến nỗi quên mất câu đó. Nếu có biết thì bà có hiểu câu đó không? Đó là đối với người đã khuất thì cái nghĩa của chúng ta phải là cái nghĩa tận tụy nhất, cao cả nhất. Thế nhưng, bà và đồng bọn lại đi làm một bộ phim hoàn toàn bịa đặt lịch sử để đổ vấy sang cho người khác. Tôi thì không lạ gì trò này của cộng sản vì đây là nghề của bà và đồng bọn: “ném đá giấu tay, ngậm máu phun người”. Bà đã bịa đặt hoàn toàn lịch sử, như vậy bà đã làm cho vong hồn những người chết oan uổng bởi đồng bọn của Hồ Chí Minh không được an nghỉ. Bà có lúc nào đó nghĩ rằng làm điều đó thì sẽ gặp quả báo không? Tôi không mê tín nhưng tôi là đệ tử Phật Gia nên tôi tin có quả báo. Bà và đồng bọn cứ chờ đấy!
Thưa bà Lan, nếu nói xuông với bà và đồng bọn thì bà sẽ cho rằng tôi đang nói lấy được mà thôi. Nhưng xin bà nhớ cho rằng còn rất, rất nhiều bằng chứng lịch sử đang còn sống thậm chí ngay cả những người trực tiếp tham gia tàn sát dân lành đã gặp tôi và họ đã kể cho tôi nghe những gì thật nhất về sự kiện Mậu Thân. Họ sẵn sàng ra đối chất để nói lên sự thật kinh hoàng mà bè lũ khát máu cộng sản gây ra cho nhân dân Huế năm 1968. Hôm nay tôi chỉ có đôi dòng gửi đến bà như sau:
Thứ nhất, bà trả lời cho tôi những chứng cứ mà tôi công khai viết tại bài 14 “Những sự thật không thể chối bỏ” là sai hay đúng. Nhất là bà cho tôi ý kiến về những cuốn sách của các tác giả trung lập, thiên tả… viết về sự kiện mậu thân 1968 tại Huế.
Thứ hai, có một người lính cộng sản thuộc trung đoàn Thừa Thiên (cho đến giờ phút này tôi xin được giấu tên vì lý do an ninh) sẵn sàng cùng tôi ra đối chất tại phiên tòa nếu có của LHQ về tội ác cộng sản đã nói với tôi thế này: “Chú là trung đội phó của trung đội tự vệ nhân dân. Chú đã thực hiện lệnh cấp trên tham gia xử chôn sống 14 người ở khe Đá Mài – Huế. Chú xin nhận trách nhiệm nếu phải ra tòa án làm chứng. Chú muốn chú sống quãng đời còn lại thanh thản và con cháu chú không bị quả báo…” Bà cho tôi biết bà có sẵn sàng đối chất không?.
Thứ ba, sau đây 5 ngày tôi xin gửi bà và đồng bọn cũng như đông đảo bạn đọc BẢN CÁO TRẠNG tội ác Hồ Chí Minh và cộng sản (bài 2) có thêm rất nhiều tài liệu cụ thể về sự kiện Mậu thân – Huế. Lúc đó tôi mong bà nếu có thể lên tiếng phản biện cho tôi và bạn đọc xem sự thật là thế nào?
Thưa bà Lan, tôi không có ý thách thức cá nhân bà và đồng bọn, nhưng tôi sẵn sàng thách thức kẻ nào dám viết láo lịch sử bênh vực cho những kẻ sát hại ĐỒNG BÀO tôi. Thưa bà, tôi đã khóc rất nhiều lần khi viết về sự kiện Mậu Thân cũng như khi nghe bài hát “Hát trên những xác người”. Tôi không hiểu sao bà lại có thể đổi trắng thay đen để bịa đặt lịch sử, bà không có trái tim một con người hay sao bà? Con thú còn biết yêu thương nhau, sao bà là người Việt lại đi bịa đặt lịch sử để cho những oan hồn vô tội kia phải buồn tủi?
Đáng buồn cho những kẻ vì tiền, vì quyền lợi mà phải sống hèn hạ!
Đặng Chí Hùng
15/02/2013

ALBUM HÌNH ẢNH NẠN NHÂN BỊ VIỆT CỘNG THẢM SÁT Ở HUẾ

https://www.facebook.com/media/set/?set=a.559403794071506.131063.100000056724297&type=1

Ngay sau khi tấn công chiếm đóng Huế, bộ đội và “Mặt trận Giải phóng” đã tàn sát đồng bào Huế từ đêm giao thừa Mậu Thân 1968 và suốt gần một tháng chiếm đóng Huế. Sau đó chúng đã phải tháo chạy bởi sự phản công tái chiếm thành phố Huế của quân lực VNCH và Hoa kỳ . Sau gần một năm tìm kiếm vô vọng những thân nhân đã bị Việt cộng bắt giữ.Nhờ qua lời khai của một Việt cộng hồi chánh, đã tiết lộ những mồ chôn tập thể bí mật mà Việt cộng đã tàn sát hàng ngàn đồng bào Huế mà chúng đã bắt giữ. Mồ chôn xác những nạn nhân bị thảm sát được lần lượt được phát hiện, cùng với các chứng cứ khác là bằng chứng hành động tàn bạo ở quy mô lớn đã được Việt cộng thi hành ở Huế và vùng lân cận trong 4 tuần chiếm giữ Huế. Các vụ giết người,chôn sống này là Việt cộng có chủ tâm và là một phần của một cuộc trả thù, thanh trừng quy mô lớn với nhiều tầng lớp đồng bào Huế miền Nam Tự do.

*Mồ chôn tập thể thứ nhất tìm thấy ngay sau cuộc chiến:1,173 nạn nhân Trong số những nạn nhân này có hai vị Linh Mục — Cha Bữu Đồng và Cha Micael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng Lasan.

*Mồ chôn tập thể thứ nhì, luôn cả mồ chôn Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969: 809 nạn nhân

*Mồ chôn tập thể thứ ba, suối Đá Mài quận Nam Hòa, tháng 9, 1969: 428 nạn nhân

*Mồ chôn tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969: 300 nạn nhân

 
Vị trí các mồ chôn tàn sát tập thể lần lượt được tìm thấy:

WGBH Phỏng vấn bà Nguyễn Công Minh, thân nhân một trong những nạn nhân bị Việt cộng thảm sát năm 1968

TRẺ EM VIỆT NAM – NẠN NHÂN CHIẾN TRANH – TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH & CỘNG ĐẢNG – Child soldiers in Vietnam 

 Phim Mậu Thân 1968: Một canh bạc bịp

VRNs (08.02.2013) – Washingtin DC, USA – Kế hoạch được gọi là “Tổng tấn công và nổi dậy” mùa Xuân năm Mậu Thân 1968 của quân Cộng Sản nhằm lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại, nhưng quân Cộng sản đã chiếm được Sài Gòn ngày 30/04/1975 không vì biến cố quân sự ấy mà do Hoa Kỳ không giữ lời hứa trả đũa cuộc xâm lăng của Hà Nội và đồng thời không viện trợ đủ để quân đội Việt Nam Cộng hòa bảo vệ miền Nam Việt Nam.

Đó là sự thật cho dù phía Cộng sản có đổi trắng thay đen lịch sử như thế nào chăng nữa.

Hà Nội biết rõ điều đó và không bao giờ dám phủ nhận việc Hoa Kỳ để cho họ được giữ ở miền Nam khoảng 150,000 quân đem từ miền Bắc vào trước ngày ký Hiệp định Paris 1973 là do Tổng thống Cộng hòa Richard Nixon muốn rút khỏi cuộc chiến Việt Nam bằng mọi giá để được tái đắc cử Tồng thống năm 1972, dù biết rằng miền Nam Việt Nam sẽ khó đứng vững nếu không có sự giúp đỡ của Hoa Thịnh Đốn trong khi quân miền Bắc vẫn tiếp tục vào miền Nam đánh phá để xé bỏ “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.

Vì vậy lịch sử của cái được gọi là “Đại thắng Mùa Xuân 1975”, hay như bà đạo diễn Lê Phong Lan, Tác giả bộ phim tài liệu “Mậu Thân 1968” hô hoán tự khoe rằng “nếu không có Mậu Thân 1968 thì sẽ không có Hiệp định Paris 1973, từ đó, đi đến kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình và thống nhất đất nước năm 1975”  cũng chẳng có gì hay ho lắm đâu.

NỔI DẬY TRONG MƠ

Hồi ấy chiến trường đã nghiêng về phía quân Cộng sản từ sau Hiệp định Paris được ký kết ngày 20/01/1973  vì 3 lý do chính:

1) Quân Cộng sản ở miền Nam tiếp tục nhận được viện trợ súng đạn và lương thực của Trung Cộng và khối Liên Sô (trước thời kỳ đổ vỡ 1991) để xâm chiếm miền Nam.

2) Lực lượng Cộng sản được tự do tăng viện vào chiến trường miền Nam mà không còn bị Không quân Mỹ đánh phá trên các ngả đường xâm nhập vào Nam, quan trọng nhất là đường mòn Hồ Chí Minh, trên hai lãnh thổ Lào và Cao Miên.

3) Quân đội Việt Nam Cộng hòa thiếu vũ khí để chống lại các cuộc tấn công của lực lượng Cộng sản và lực lượng Không quân và Hải quân của miền Nam cũng không đủ khả năng oanh tạc các điểm tập trung và đường xâm nhập của quân miền Bắc vào Nam.

Vì vậy dòng chảy của cuộc chiến ở miền Nam đã đi từ kế họach “Việt Nam hoá chiến tranh” bằng cách giảm thiểu tham dự trực tiếp của binh sỹ Hoa Kỳ ở chiến trường để quân đội Việt Nam Cộng hòa tự bảo vệ lãnh thổ nhưng Mỹ vẫn yểm trợ không quân khi được yêu cầu để không cho quân Cộng sản xâm nhập thêm từ miền Bắc vào.

Sự thành công giữ vững lãnh thổ của quân đội Việt Nam Cộng hòa trong mùa hè năm 1972 trên khắp mặt trận đã chứng minh điều đó. Nhưng từ khi quân đội Hoa Kỳ và đồng minh rút khỏi miền Nam theo những điều khoản chỉ có lợi cho phía Cộng sản trong Hiệp định Paris 1973 thì tình hình chiến trường đã dồn quân dội VNCH vào thế bị dộng vì không còn nhận được sự trợ giúp về hỏa lực của Hoa Kỳ như trước nữa.

Sự mất cân bằng lực lượng ở chiến trường là như thế nên điều được gọi là “chiến thắng” của người Cộng sản cũng chẳng vẻ vang gì như các “sửa gia” miền Bắc tô vẽ lên để làm phim.

Cũng nên biết điểm quan trọng nhất của hai cuộc chiến Mậu thân 1968 và mùa Xuân 1975 là ngoại trừ ở một số nhỏ khu vực lãnh thổ ở miền Nam bị mất vào tay quân Cộng sản, người dân miền Nam đã không hề “nổi dậy” để tiếp tay cho quân Cộng sản “dành lại chính quyền về tay nhân dân” như tuyên truyền của Hà Nội trước đây và bây giờ qua cuốn phim “Mậu Thân 1968” của bà Lê Phong Lan.

Bằng chứng rõ nhất là đã không hề có chuyện “đông đảo nhân dân” được “giải phóng khỏi ách kìm kẹp của Mỹ-Ngụy” như tuyên truyền ngụy tạo của miền Bắc và của tổ chức Mặt trận Giải phóng miền Nam do miền Bắc dựng lên để “miền Nam hoá” cuộc chiến xâm lăng của đảng CSVN đã đề ra từ năm 1960.

Cũng chẳng có một tấc đất nào của VNCH đã do “nhân dân nổi dậy” chiếm lấy để lập “chính quyền nhân dân” trao cho Cộng sản cai trị  như mơ ước của người Cộng sản.

Chuyện xẩy ra ở chiến trường Thừa Thiên năm 1968 đã chứng minh cho thất bại thành lập chính quyền ở Huế dù quân Cộng sản đã chiếm cố đô 26 ngày trong Tết Mậu Thân 45 năm trước đây.

Hãy nghe lời kể của Tiến sỹ Lê Văn Hảo, nguyên  chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên – Huế   với Đài Á Châu Tự Do (Radio Free Asia, RFA) về vai trò “bù nhìn” của ông trong vụ Mậu Thân : “Trong tất cả khi nổ ra Mậu Thân tức là trong 26 ngày đêm Cộng Sản chiếm thành phố Huế thì tôi ngồi trên núi để nghe đài phát thanh suốt ngày, tất cả những gì xảy ra dưới Huế tôi chỉ biết qua đài phát thanh của Hà Nội và đài phát thanh giải phóng.

Nguyễn An: Tức là Ông không biết những cái gì thêm ngoài những điều mà đài phát thanh nói?

Tiến sỹ Lê Văn Hảo: Tôi không thể biết được bởi vì tôi không có mặt ở Huế mà nó đâu có dám để cho tôi về Huế vì anh biết khi nó đề nghị một chức vụ như vậy là cả một sự áp đặt. Nó nói là anh phải nhận, nếu anh không nhận thì anh cũng không còn đường về thì cả một sự đe dọa . Anh có thấy tính chất đe dọa đàng sau lời đề nghị đó không?

Nguyễn An: Đây là một chi tiết rất là mới bởi vì hồi xưa cho đến bây giờ người ta cứ tưởng rằng là những đoàn quân họ chiếm đóng Huế hai mươi mấy ngày đó là Ông về trực tiếp điều hành công việc ở đó, thì hóa ra hoàn toàn không có chuyện này!

Tiến sỹ Lê Văn Hảo: Than ôi! Đó không phải là sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin đã bị ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong Tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi để nghe đài, nghe tin tức.

Nguyễn An: Thưa Ông, như vậy tức là Mậu Thân sau khi họ tấn công Huế thì sau đó họ đưa ông về?

Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Không! Tôi không có về lúc đó, lúc đấy là chỉ có mấy anh CS về đánh nhau ở dưới thành phố thôi, chớ còn tôi họ đâu có dám đưa tôi về! Họ biết rằng khi tôi nhận thì tôi cũng miễn cưỡng mà nếu đưa tôi về thì tôi chắc cũng chuồn luôn thì họ đâu có dám đưa tôi về.” (Nguyễn An, RFA, 02-02-2008)

Bằng chứng này có làm cho Hà Nội và bà Lê Phong Lan nhức nhối khi tung ra cuốn phim “Mậu Thân 1968” không, hay nó đã biến thành công cụ phản tuyên truyền ?

Đó phải chăng cũng  là lý do tại sao vào giờ chót miền Bắc đã phải thay đổi kế họach được thêu dệt là “khởi nghĩa” trong trận Mậu Thân 1968?

Hãy đọc lời của Bà Lê Phong Lan viết về nội dung cuốn phim :

“Khi soạn thảo kế hoạch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã đề ra ba khả năng của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Một là giành thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, làm cho ý chí xâm lược của Mỹ bị đè bẹp, phải chấp nhận thương lượng, đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của ta. Hai là giành được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi nhưng phải đối phó với tình huống Mỹ còn lực lượng, dựa vào các căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn – nhất là Sài Gòn. Ba là sau tổng tấn công và nổi dậy, Mỹ tăng cường lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia, buộc quân giải phóng phải lui về thế thủ hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua về chính trị.

Trong đó Bộ Chính trị quyết tâm cố gắng giành thắng lợi hoàn toàn, tức thực hiện khả năng một.

Đại tá Vũ Ba kể, 13 ngày trước giờ nổ súng, Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Lê Duẩn gửi điện cho Trung ương Cục miền Nam (ngày 18-1-1968). “Bức điện đó đại ý nói kế hoạch này chỉ nhằm làm lung lay ý chí xâm lược của địch, buộc địch phải chuyển giai đoạn chiến lược chứ không khẳng định mục tiêu giành chính quyền về tay nhân dân” – Đại tá Vũ Ba nói.

Nhưng khi triển khai thực hiện trên thực tế, ba khả năng của kế hoạch này đã được chuyển dần thành mục tiêu thực hiện trận quyết chiến chiến lược, giành chính quyền về tay nhân dân. Đại tá Nguyễn Ngọc Lân nói: “Khi phổ biến ở dưới thì Trung ương Cục chỉ thị cho các địa phương là chỉ phổ biến khả năng một chứ không phổ biến các khả năng khác để khỏi ảnh hưởng đến quyết tâm. Từ chỗ tính toán các khả năng như vậy, chúng ta dồn sức để dứt điểm. Cho nên chúng ta xài xả láng. Tức là có bao nhiêu xài hết”.

Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), Cụm trưởng tình báo H63, nhớ lại: “Lúc đó có những đồng chí cán bộ nói đánh trận này thôi chứ sau còn giặc đâu nữa mà đánh. Anh em lại bị hút vào cái khả năng một, tức là khả năng lấy luôn Sài Gòn. Lấy luôn và coi như hết giặc”. (báo Pháp Luật,TpHCM,01/02/2013)

Nhưng “giặc” chẳng những không hết mà đã đánh bại quân CS trên khắp mặt trận Mậu Thân 1968 và gây tổn thất nặng nề cho cả quân chính quy miền Bắc và du kích miền Nam, thường được gọi là “Việt Cộng”.

BẰNG CHỨNG HỤT HẪNG

Tại mặt trận Sài Gòn, bà Lê Phong Lan huênh hoang: “Trong Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Sài Gòn-Gia Định được xác định là chiến trường trọng điểm của trọng điểm, nơi có các mục tiêu quan trọng mà bằng bất cứ giá nào ta cũng phải đánh, để đánh thẳng vào ý chí xâm lược của kẻ thù. Nhiệm vụ xung kích, tiên phong được giao cho các chiến sĩ lực lượng biệt động Sài Gòn-Gia Định.

Cố Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) từng nói: “Đầu tiên là dùng lực lượng xung kích (biệt động) chiếm lĩnh các mục tiêu. Sau biệt động tới thanh niên, sinh viên để hỗ trợ, trang bị súng cho biệt động giữ mục tiêu. Mục tiêu đây là cửa mở, chiếm cửa mở để đại quân (bấy giờ dùng đại quân nhưng sau này không đúng), các tiểu đoàn mũi nhọn tiếp ứng, vào chiếm hẳn mục tiêu”.

Đúng giờ G, các chiến sĩ biệt động đồng loạt tấn công vào năm mục tiêu chiến lược quan trọng. Đội 3 đánh Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn. Đội 4 đánh chiếm đài phát thanh. Đội 5 đánh Dinh Độc Lập. Đội 6 và 9 đánh Bộ Tổng tham mưu. Đội 11 đánh chiếm Tòa Đại sứ Mỹ. Nhiệm vụ chiếm và giữ cửa mở được lực lượng biệt động Sài Gòn hoàn thành, thậm chí hoàn thành vượt mức thời gian được giao. Thế nhưng vào phút chót, đại quân – các tiểu đoàn mũi nhọn đã không thể xuất hiện để tiếp ứng. Khi buộc phải đơn thương độc mã chiến đấu giữa vòng vây kẻ thù đông hơn gấp bội lần thì sự hy sinh của họ dường như là một tất yếu. 88 chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu thì có đến 56 người đã hy sinh, số ít còn lại hầu hết đều rơi vào tay giặc và bị đày ra Côn Đảo.”  (báo Pháp Luật,TpHCM,03/02/2013)

Đại quân là lực lượng chính quy miền Bắc được ngụy trang dưới cái tên “quân giải phóng” mà theo lời cáo giác của Bà Dương Quỳnh Hoa, nguyên Bộ trưởng Y tế của cái gọi là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (hay Mặt  trận Giải phóng miền Nam) đã “chủ ý” đẩy “lính Việt Cộng” miền Nam vào chỗ thiêu thân trong trận Mậu Thân!

Không có tài liệu nào để lại cho biết số thiệt hại của quân miền Nam là bao nhiêu nhưng chắc là nhiều lắm!

Sau đây là lời nhìn nhận của bà Lê Phong Lan căn cừ theo lời kể của những người sống sót: “Do thời gian hành quân gấp rút, địa hình trắc trở, nhiều đơn vị vừa hành quân vừa đánh địch nên phần lớn không kịp thời gian theo đúng kế hoạch. Thêm vào đó, tuyến phòng thủ của địch ở vùng ven khá mạnh nên dù chiến đấu rất anh dũng nhưng hầu hết các tiểu đoàn mũi nhọn và các đơn vị bộ đội địa phương trên năm mũi tấn công vào Sài Gòn đã không thể thực hiện nhiệm vụ tiếp ứng cho lực lượng biệt động đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu trong nội thành. Quân số các tiểu đoàn cũng bị thương vong nặng sau mỗi trận đánh, có tiểu đoàn chỉ còn lại 1/5 đến 1/10 quân số.

Đại tá Vũ Ba, nguyên cán bộ tham mưu Miền, kể ngày mùng 5 tết Mậu Thân, tại sở chỉ huy cơ bản đóng ở phía sau, Tư lệnh Hoàng Văn Thái không nhận được báo cáo từ chiến trường gửi về. Biết tình hình chiến trường rất căng thẳng và gây cấn, vị tư lệnh liền phái ông xuống chiến trường gặp tướng Trần Văn Trà để báo cáo nguyên văn rằng: “Dựa vào tin tức của các đài phát thanh phương Tây, như anh đã biết, ta có thể đánh giá là bước đầu cơ bản ta đã giành được thắng lợi. Thắng lợi chiến lược quan trọng. Ý nghĩa thắng lợi to lớn đến đâu, hiện giờ ta chưa có thể hình dung được”. (báo Pháp Luật,TpHCM,03/02/2013)

Cuối cùng, bà Lê Phong Lan được phép tiết lộ tổng số thương vong của quân CS trong trận Mậu Thân : “Để làm nên chiến thắng vô giá của sự kiện Mậu Thân 1968, quân dân ta đã phải gánh chịu những hy sinh, mất mát to lớn. Theo thống kê của Cục Tác chiến, mặt trận đường 9 có gần 4.000 liệt sĩ, mặt trận Trị Thiên có gần 5.000 liệt sĩ. Con số tương ứng ở đồng bằng Khu 5 là gần 11.000 liệt sĩ, Tây Nguyên gần 3.500 liệt sĩ, Khu 6 gần 1.300 liệt sĩ, Khu 10 gần 500 liệt sĩ, Đông Nam Bộ gần 14.200 liệt sĩ, Khu 8 khoảng 2.500 liệt sĩ, Khu 9 hơn 3.500 liệt sĩ.

Tổ quốc và dân tộc Việt Nam đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, trong đó có gần 45.000 người đã ngã xuống trong Mậu Thân 1968 để Tổ quốc mãi trường sinh.”  (báo Pháp Luật,TpHCM,05/02/2013)

Tuy nhiên, theo tin đồng minh của VNCH thì  họ ước lượng đã có từ  85,000  đến 100,000 quân Cộng sản bị loai khỏi vòng chiến sau 3 đợt tấn công trừ tháng 01 cho đến tháng 9/1968.

Thương vong của  qquân đội  đồng minh có trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích.

Tổn thất thường dân trong vụ Mậu Thân không có thống kê chính thức, nhưng riêng ở mặt trận Huế thì đã có từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích, đa số bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để chiến đấu như đã diễn ra ở khu vực Khe Đá Mài thuộc vùng núi Ðình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa.

Phiá Cộng sản Việt Nam thì  đã liên tiếp phủ nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hoà gây ra như lời bà Lê Phong Lan nói trong cuốn phim

Nhưng liệu sự dối trá này có bịp được những người dân Huế còn sống sót hay thân nhân của những oan hồn hãy còn vất vưởng đó đây ở 23 địa điểm họ bị hành quyết bởi lính Cộng sản ?

Phạm Trần

http://www.chuacuuthe.com/?p=46620

http://vietnamsaigon75.blogspot.com/2012/08/tham-sat-mau-than-1968-toi-ac-viet-cong.html

Mô hình chính quyền đô thị và vấn đề phân quyền

Nhân Khánh, thông tín viên RFA. 2012-08-02

Hiện nay, thời điểm đổi mới mô hình chính quyền đô thị tại Việt Nam đã chính thức khởi động từ cấp chính phủ.

022012.mp3Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

MG_0386-305.jpg

Trụ sở Hội đồng nhân dân TP Đà Nẵng hôm 06-07-2011.

RFA PHOTO

Liên quan đến sự thay đổi có tính hệ thống về quản lý hành chính này, có nhiều vấn đề cần giải quyết.

Trước những khó khăn dồn dập về mặt kinh tế, chính sách ổn định xã hội cần thúc đẩy mạnh hơn. Phương cách sử dụng các nguồn lực xã hội, góp phần tăng trưởng bền vững cho quốc gia là một thực trạng cần có những cải cách lớn. Chính quyền đô thị là mô hình quản lý hành chính phù hợp với đặc thù của đô thị, có sự phân biệt rõ rệt với nông thôn.

Tự chủ cho địa phương?

Vừa qua, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã giao cho 8 tỉnh cùng một số bộ, ngành nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức chính quyền đô thị. Thời gian hoàn thành các báo cáo là cuối tháng này. Chúng tôi có trao đổi với Tiến sỹ Luật sư Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển thì được biết thêm như sau:

Các địa phương cần có một sự tự chủ nhiều hơn nữa trong quản lý địa phương những vấn đề về đất đai, quản lý đô thị, về môi trường, về trật tự an toàn giao thông.TS Hoàng Ngọc Giao

“Có thể khái quát là, theo tôi, vấn đề các chính quyền địa phương hiện nay đặt ra trên các phương tiện truyền thông, xuất phát từ những đòi hỏi một cách khách quan của địa phương. Bởi vì các địa phương cần có một sự tự chủ nhiều hơn nữa trong quản lý địa phương những vấn đề về đất đai, quản lý đô thị, về môi trường, về trật tự an toàn giao thông.

Hà Nội đang trong quá trình vận động là làm sao có được một luật về thủ đô, để có những quyền riêng của địa phương mình. Thực ra hiện tượng Hà Nội phải có một luật về thủ đô, theo tôi hiện tượng này cũng giống như xu thế của một số các thành phố lớn. Khi nhu cầu tự chủ hơn nữa trong quản lý thành phố lên cao, người ta cần phải có những quy chế riêng mà không phụ thuộc nhiều vào trung ương. Đây là câu chuyện suy cho cùng là vấn đề phân cấp, phân quyền giữa trung ương với các địa phương.”

So với mô hình chính quyền hiện tại, đề án về mô hình chính quyền đô thị muốn vươn tới những mục tiêu quản trị cao hơn. Quá trình hình thành một mô hình chính quyền đô thị hợp lý và hoàn chỉnh còn nhiều việc cần bàn. Chúng tôi liên hệ với Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển, một trong những đơn vị nghiên cứu về đề án chính quyền đô thị tại Sài Gòn. Về đặc điểm chính của đề án, chúng tôi được Phó Giáo sư Tiến sĩ Tôn Nữ Quỳnh Trân, Giám đốc Trung tâm này cho biết:

qn-250.jpg
Tòa nhà trụ sở Chi cục thuế Thành phố Quảng Ngãi hôm 05-07-2011. RFA PHOTO.

“Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học của chúng tôi. Đặc điểm chính của đề tài này, là chúng tôi muốn trình ra một mô hình quản lý nhà nước hữu hiệu, thúc đẩy sự phát triển và gọn nhẹ hơn.Bây giờ chúng tôi cũng đang mới bắt đầu làm và muốn tìm ra phương thức làm thế nào xây dựng được mô hình hữu hiệu trong quản lý nhà nước, giúp tăng trưởng kinh tế hơn.”

Điểm chung về mô hình chính quyền đô thị do các thành phố đề xuất cho thấy, người đứng đầu chính quyền đô thị sẽ có toàn quyền quyết định các vấn đề quan trọng tại địa phương. Do nắm rõ những lĩnh vực trong phạm vi địa phương, chính quyền sở tại cần được chủ động giải quyết những vấn đề của đô thị. Trong bối cảnh tăng quyền tự chủ cho chính quyền địa phương, theo Tiến sỹ Hoàng Ngọc Giao, nhà nước cần phải thực hiện đồng bộ các hoạt động phân quyền khác:

“Vậy thì tổ chức chính quyền địa phương như thế nào, trong mối quan hệ với chính quyền trung ương. Nếu như chúng ta tăng quyền tự chủ cho chính quyền địa phương, ở đây là chính quyền địa phương sẽ được quyền tự chủ quyết định nhiều hơn. Theo quan điểm cá nhân tôi, như thế chưa đủ. Muốn có sự phát triển chính quyền địa phương một cách tự chủ, mà chỉ có phân quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương; không có sự kiểm soát, không có sự đánh giá thì dễ dẫn đến chuyện địa phương sẽ có những tùy tiện trong việc điều hành quản lý các nguồn lực, cũng như quản lý đô thị.

Tôi nghĩ rằng, rõ ràng xã hội ngày càng cần đến một xã hội dân sự lành mạnh và có năng lực. Đây là điều hiển nhiên.Ô. Lê Quang Bình

Để giải quyết vấn đề này, yếu tố rất quan trọng là, khi trao quyền cho chính quyền địa phương thì đồng thời cũng trao nhiều quyền hơn nữa cho người dân; có nghĩa là trao quyền kiểm soát của người dân đối với hoạt động của chính quyền địa phương. Phải thấy rằng, cách trao nhiều quyền nhất cho người dân, là phải trao quyền cho người ta được có tiếng nói trong việc bầu ra những người thực sự có năng lực, có trách nhiệm phát triển được địa phương.

Đây là hai mặt của vấn đề cần phải thu xếp. Nếu chỉ đòi tự chủ cho chính quyền địa phương mà không tăng cường quyền lực nhân dân, không tăng cường tiếng nói của nhân dân, không có những cơ chế để nhân dân kiểm soát; không tăng tính trách nhiệm và giải trình của chính quyền thì rõ ràng chưa chắc cải thiện được tình hình.”

Sao cho minh bạch?

Trong mô hình chính quyền đô thị, bộ máy hành chính vận hành mà không cần nhiều hỗ trợ từ trung ương. Vấn đề cốt lõi là cách vận hành bộ máy hành chính sao cho minh bạch và có hiệu quả. Trong trường hợp tinh giản Hội đồng nhân dân các cấp trung gian, xã hội dân sự có một vai trò nhất định trong cơ chế giám sát của nhân dân. Chúng tôi có trao đổi ý kiến này với ông Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường thì được cho biết như sau:

“Tôi nghĩ rằng, rõ ràng xã hội ngày càng cần đến một xã hội dân sự lành mạnh và có năng lực. Đây là điều hiển nhiên. Mặc dù Hội đồng nhân dân thay đổi như thế nào, xã hội nhân sự vẫn đóng một vai trò quan trọng. Tôi nghĩ là ngày càng quan trọng trong vấn đề đóng góp, góp ý và giám sát chính sách của chính quyền.”

MG_0933-250.jpg
Toà nhà Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội hôm 11-07-2011. RFA photo.

Xã hội dân sự là một cộng đồng có yếu tố tự quản cao, có nhiều vấn đề không nhất thiết cần có những can thiệp từ sức mạnh chính quyền. Mô hình chính quyền đô thị thể hiện một đổi mới về cơ cấu tổ chức. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, vai trò điều hành của nhà nước cần điều chỉnh cho phù hợp hơn.Do liên quan đến nhiều lãnh vực khác nhau, việc triển khai mô hình chính quyền đô thị vào thực tế đã kéo dài nhiều năm. Theo Tiến sỹ Hoàng Ngọc Giao, khó khăn lớn nhất là:

“Theo tôi, khó khăn nhất là quyết tâm chính trị. Khi đã có quyết tâm chính trị, quyết tâm làm thì tôi nghĩ rằng về mặt cơ chế, về mặt thể chế cải cách; chúng ta đều có rất nhiều chuyên gia giỏi. Chứ không phải là vấn đề khó khăn gì cả.

Và mức độ quyết tâm tới đâu. Rõ ràng là có nhiều chuyện, chúng ta thấy rất là có lý nhưng khi vào cuộc, thấy nó cứ kéo dài. Theo tôi, quan trọng nhất là phải có quyết tâm làm thực sự, làm có lộ trình thì làm được thôi.”

Nhìn chung, một loạt vấn đề được đặt ra trong việc thực hiện mô hình chính quyền đô thị. Nếu hệ thống chính quyền được sắp xếp tinh gọn lại thì hệ thống đoàn thể hiện nay cũng không thể nằm ngoài xu thế chung này. Về chế độ tự quản địa phương, thực tiễn thế giới đã có những bước phát triển lớn. Hiến chương về tự quản địa phương ở châu Âu có hiệu lực từ năm 1988, Trung Quốc đã chuyển sang cơ chế người dân trực tiếp bầu thị trưởng từ năm 1994. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương là cần thiết.

Theo dòng thời sự:

Điều 4 Hiến pháp 1992 phá hủy nền tảng của chính bản Hiến pháp

tmhĐiều 4 trong bản “Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 2005 – Bản sửa đổi), có đoạn viết như sau: “Đảng Cộng Sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Điều 4 này mâu thuẫn và chống lại Điều 2, Điều 3, Điều 8, Điều 15, Điều 16, Điều 21, Điều 83… của chính bản Hiến pháp. Chúng tôi sẽ lần lượt chứng minh.

Điều 2 của bản Hiến pháp có đoạn viết như sau: “Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”. Theo Điều 2 này khẳng định nước CHXHCNVN là một nước dân chủ. Bởi, Điều 2 nhắc lại định nghĩa của Ngài Abraham Lincoln (1809-1865) – vị anh hùng giải phóng nô lệ, vị tổng thống thứ 16 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, thần tượng của Karl Marx, được Marx tôn làm biểu tượng của Tự Do – định nghĩa về một quốc gia dân chủ như sau: “Một quốc gia dân chủ là một quốc gia mà chính quyền của dân, do dân, vì dân!”.

Như vậy, khi Điều 4 khẳng định: “Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, tức là nước CHXHCNVN theo một chế độ Đảng trị = Đảng chủ, hoàn toàn chống lại Điều 2: khẳng định nước CHXHCNVN là một nhà nước Dân trị = Dân chủ! Như vậy, nếu căn cứ vào Điều 2, thì Điều 4 là vi hiến và ngược lại; nhưng Điều 2 có trước Điều 4, nên ta có thể coi Điều 4 là điều vi hiến được chăng?

Điều 83 của Hiến pháp có đoạn viết như sau: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCNVN. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp…”. Như vậy, Điều 2 và Điều 83 cùng khẳng định quyền tối thượng của nước CHXHCNVN thuộc về nhân dân chứ không thuộc về Đảng CSVN như Điều 4 đã quy định Đảng CSVN nắm quyền tuyệt đối: “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” . Xã hội là toàn bộ đời sống văn hoá, chính trị, kinh tế, pháp luật, thể chế, lịch sử, tôn giáo…của con người trong một quốc gia. Tức là Điều 4 quy định Đảng CSVN là chủ nhân ông của đất nước và dân tộc Việt Nam, là ông vua của các vua, chúa của các chúa. Nhưng oái oăm thay, ở Điều 2 và Điều 83, bản Hiến pháp năm 1992 lại khẳng định Nhân Dân là chủ nhân ông của đất nước và dân tộc, nắm quyền tối thượng quốc gia, y hệt các nhà nước dân chủ khác trên thế giới vậy (Thế giới ngày nay có chừng 95% số quốc gia theo chế độ dân chủ đại nghị). Do đó, cứ theo Điều 4, Điều 2, Điều 83, thì nước Việt Nam ta có hai “vua”: “Vua Đảng CSVN” và “Vua Nhân Dân” ư ? Nếu lấy hai chọi một, thì Điều 4 là thiểu số phải bị coi là vi hiến trước Điều 2 và Điều 83 đa số?

Chưa hết, ngay cả ở Điều 3 trong bản Hiến pháp 1992 cũng hàm chứa yếu tố chống lại Điều 4.

Điều 3 có đoạn viết như sau: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. “Quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân” nghĩa là nhân dân làm chủ tất tần tật mọi sinh hoạt xã hội từ chính trị, văn hoá xã hội, thể chế, luật pháp, lịch sử… của nước Việt Nam. Mệnh đề này của Điều 3 trong Hiến pháp phủ nhận Điều 4. Như vậy, Điều 3 đã về hùa với các Điều 2 và Điều 83 cùng xóa bỏ Điều 4 trong bản Hiến pháp.

Mệnh đề thứ 2 của Điều 3 viết như sau: “… Thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…”. Chính Điều 3 trong Hiến pháp đã xác định xã hội Việt Nam là một xã hội công bằng, tự do. Tự do và Công bằng xã hội là mọi công dân đều bình đẳng, không ai nhảy ra sai khiến (lãnh đạo) ai mà không được sự đồng ý của người bị sai khiến (bị lãnh đạo). Đảng CSVN chỉ là một nhóm người rất thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (ngót ba triệu đảng viên CS trong khi đó có hơn 90 triệu người dân ngoài đảng). Vậy thiểu số kia muốn cai trị (lãnh đạo) đa số này phải hỏi ý kiến xem 80 triệu dân có đồng ý (cho phép) Đảng CSVN cai trị đại đa số nhân dân Việt Nam hay không?

Nghe câu hỏi này, Đảng CSVN bèn bảo: – Quốc hội nước CHXHCNVN đã bỏ phiếu xác định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CS thì không phải là toàn dân đồng thuận là gì? Vâng, đấy chỉ là sự đồng thuận hình thức, đồng thuận ảo, đồng thuận giả tạo! Vì trong Quốc hội có đến hơn 95% đại biểu là đảng viên CS, thì Quốc Hội thực chất chỉ là Quốc hội của Đảng CS mà thôi! Với phương châm bầu cử: “Đảng cử, Dân bầu” của Đảng CS, thì người dân (hơn 80 triệu) đã bị tước quyền ứng cử và bầu cử. Khi Nhân Dân mất quyền “cử” thì chữ “ bầu” cũng thành vô nghĩa, thành trò hề! Do đó, mọi cuộc bầu bán do Đảng CS tổ chức để hình thành Quốc hội đều chỉ là hình thức, là trò ảo thuật kiểu Đảng CS vừa đá bóng, vừa thổi còi, vừa lĩnh thưởng mà thôi! Bầu cử Quốc Hội mà Đảng CS toàn cử người của mình ra ứng cử, rồi bắt dân chỉ được quyền “Bầu”, không được quyền “Cử”, Dân không được quyền kiểm phiếu… thì cái Quốc Hội kia chỉ là Quốc Hội của Đảng chứ nào đâu còn là Quốc hội của Dân? Do đó, chính Đảng CSVN đã vi phạm Điều 3 của Hiến pháp là không tôn trọng hai chữ: Tự do – Bình đẳng (Công bằng)!

Như vậy, Điều 3 trong Hiến pháp đã phủ nhận chính Điều 4 vậy!

Điều 8 trong bản Hiến pháp 1992 có đoạn viết như sau: “… Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Điều 8 không cho phép ai (kể cả Đảng CS) được phép quan liêu, cửa quyền. Nhưng ở Điều 4, Đảng CSVN đã chứng tỏ sự quan liêu, cửa quyền của mình bằng cách tự cho mình quyền lãnh đạo tối thượng nhân dân Việt Nam trái với quy định ở Điều 2, Điều 3 và Điều 83. Do đó, Điều 8 cũng đã phủ nhận chính Điều 4.

Điều 15 trong bản Hiến pháp, có đoạn viết: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng…”. Chính sự khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường (khái niệm “định hướng XHCN” hoàn toàn vô nghĩa), chấp nhận nền kinh tế tư nhân tại Việt Nam nơi Điều 15 này đã phủ nhận Điều 4; vì Điều 4 ghi: “Đảng CSVN theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì sao vậy? Vì ai đã đọc Mác-Lênin, dù chỉ ở trình độ sơ cấp, cũng biết chủ nghĩa Mác-Lê phủ nhận kinh tế thị trường = tư bản, xóa bỏ sở hữu tư nhân. Có chủ nghĩa Mác- Lê thì không có kinh tế tư bản = kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân và ngược lại! Như vậy, Điều 15 đã xóa bỏ Điều 4 hay ngược lại!?

Điều 17 trong bản Hiến pháp 1992 tiếp tục phủ nhận Điều 4 bằng cách nói rõ hơn sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: “Phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…”. Chính sự khẳng định Đảng CSVN lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Điều 17 này đã giết chết chủ nghĩa Mác-Lênin là tôn giáo và cương lĩnh của Đảng như Điều 4 đã quy định. Vậy, Điều 17 này đã xóa bỏ Điều 4 hay ngược lại?

Điều 21 trong bản Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản chủ nghĩa, như có đoạn viết sau: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động…”. Mục đích của chủ nghĩa Mác-Lê Nin là chôn chủ nghĩa tư bản. Sao Đảng CSVN ghi trong Điều 4 Hiến pháp “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội… theo chủ nghĩa Mác-Lênin” lại phát triển kinh tế tư bản? Hóa ra, bằng cách đề ra bốn Điều: 15, 16,17, 21 trong Hiến pháp 1992 là xây dựng nền kinh tế tư bản trên đất nước Việt Nam, Đảng CSVN đã làm ngược lại 180 độ chủ nghĩa Mác–Lênin; cũng có nghĩa là chính Đảng CSVN không chôn tư bản như nguyên lý Mác-Lênin đã dạy, mà ngược lại còn đi xây dựng tư bản chủ nghĩa. Như vậy, có phải chính là Đảng CSVN đã ngầm xóa bỏ Điều 4 trong bản Hiến pháp?

Tựu trung, Điều 4 trong Hiến pháp 1992 (bản sửa đổi) đã xóa bỏ các Điều 2, 3, 8,15, 16, 21, 83… của chính bản Hiến pháp, cũng là xóa bỏ nền tảng của bản Hiến pháp vậy! Muốn bản Hiến pháp không bị vô hiệu hoá vì sự thậm vô lý (ngược đời), cần phải xóa bỏ Điều 4 . Vả lại, nếu Điều 4 Hiến pháp không bị xóa bỏ, hiển nhiên là các cuộc bầu cử của nhà nước Việt Nam chung quy chỉ là hình thức, là trò đùa mà thôi; vì Hiến pháp đã khẳng định đảng cộng sản Việt Nam với số đảng viên thiểu số (ba triệu) là lực lượng  vĩnh viễn lãnh đạo đất nước, lãnh đạo khối nhân dân đa số (90 triệu) thì còn bầu cử làm gì cho mất công, vô ích. Chính Điều 4 Hiến pháp này đã thông báo một điều hiển nhiên : NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM LÀ NHÀ NƯỚC ĐỘC TÀI, ĐỘC ĐẢNG , TUYỆT ĐỐI KHÔNG PHẢI LÀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ như Hiến pháp đã lừa dối tuyên bố.

Sài Gòn 2006-2013

© Trần Mạnh Hảo

Nguồn: ABS

THEO DÒNG SỰ KIỆN:

Tết MẬU THÂN 1968 – Tội Ác VIỆT CỘNG – Huế MASSACRE

Bấm vào link này để xem đầy đủ các hình ảnh về Thảm Sát Mậu Thân của Cộng Sản Việt Nam

thamsat Hue Tet Mau Than

Ngay sau khi tấn công chiếm đóng Huế, bộ đội và “Mặt trận Giải phóng” đã tàn sát đồng bào Huế từ đêm giao thừa Mậu Thân 1968 và suốt gần một tháng chiếm đóng Huế. Sau đó chúng đã phải tháo chạy bởi sự phản công tái chiếm thành phố Huế của quân lực VNCH và Hoa kỳ .

Sau gần một năm tìm kiếm vô vọng những thân nhân đã bị Việt cộng bắt giữ.Nhờ qua lời khai của một Việt cộng hồi chánh, đã tiết lộ những mồ chôn tập thể bí mật mà Việt cộng đã tàn sát hàng ngàn đồng bào Huế mà chúng đã bắt giữ.

Mồ chôn xác những nạn nhân bị thảm sát được lần lượt được phát hiện, cùng với các chứng cứ khác là bằng chứng hành động tàn bạo ở quy mô lớn đã được Việt cộng thi hành ở Huế và vùng lân cận trong 4 tuần chiếm giữ Huế. Các vụ giết người,chôn sống này là Việt cộng có chủ tâm và là một phần của một cuộc trả thù, thanh trừng quy mô lớn với nhiều tầng lớp đồng bào Huế miền Nam Tự do.

*Mồ chôn tập thể thứ nhất tìm thấy ngay sau cuộc chiến:1,173 nạn nhân Trong số những nạn nhân này có hai vị Linh Mục — Cha Bữu Đồng và Cha Micael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng Lasan.

*Mồ chôn tập thể thứ nhì, luôn cả mồ chôn Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969: 809 nạn nhân

*Mồ chôn tập thể thứ ba, suối Đá Mài quận Nam Hòa, tháng 9, 1969: 428 nạn nhân

*Mồ chôn tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969: 300 nạn nhân

http://vietnamsaigon75.blogspot.com/2012/08/tham-sat-mau-than-1968-toi-ac-viet-cong.html

Tím đen, xác rỉ nước vàng Người tan nát mặt, họ hàng biết ai? Chặt ngang cổ, bổ ngang tai. Đâm bàn tay thủng, kẽm gai xâm vào Cọc tre xuyên đến đỉnh đầu Cụm năm người chết, cụm xâu cả mười Sình trương bao xác đứng ngồi Máu me rùng rợn, rã rời, trơ xương Mưa rơi ray rứt đoạn trường Con thơ khóc Mẹ, vợ thương khóc chồng Mảnh nào nhận dạng bà, ông? Mảnh nào rửa thối động lòng quật khai!

Khai Quat Nan Nhan Tham Sat  Hue 68

Tình Hình Biển Đông năm 2012

Tình_hình_Biển_Đông_2012

Trong năm 2012, tình hình Biển Đông không có đột biến về phương diện quân sự nhưng rất sôi động về những âm mưu của Trung Quốc cố tình tạo ra dưới những hình thức khác nhau. Những phô trương áp lực liên tục kể từ tháng 4 đến giờ đối với Philippines và Việt Nam vừa nằm trong chiến lược chiếm lĩnh Biển Đông của Trung Quốc và cũng có thể để che dấu những khó khăn nội bộ trong thời gian chuyển tiếp lãnh đạo. Bài viết chỉ tổng kết tình hình Biển Đông trong năm 2012. Chi tiết của các biến cố xin vào các đề mục liên hệ trong Website:

TRUNG QUỐC

Cho đến bây giờ, Trung Quốc vẫn dùng chiến thuật cố hữu dưới những hình thức khác nhau, bao gồm các biện pháp hành chính, kinh tế và quân sự, cũng như sự kết hợp giữa các tổ chức chính quyền và phi chính quyền, để cố tình lấn chiếm các vùng lãnh hải của Philippines và Việt Nam cũng như ngăn cản không cho các quốc gia khác can thiệp vào vấn đề Biển Đông. Dù với danh xưng nào (chiến lược “góp gió thành bão”, chiến lược “lát cắt salami”, chiến lược “gặm nhấm dần dần”, “mưa dầm thấm lâu” hay “chiến thuật biển người”), mục đích tối hậu của Trung Quốc là khẳng định chủ quyền và xâm chiếm toàn bộ Biển Đông:

  • Chính quyền Trung Quốc luôn luôn khẳng định rằng họ có chủ quyền “không thể chối cãi” trên hầu như toàn bộ Biển Đông. Thế nhưng Bắc Kinh luôn luôn bác bỏ các đề nghị đưa tranh chấp ra trước tòa án quốc tế hoặc mở đàm phán đa phương về vấn đề này. Tại hội thảo “Tranh chấp Biển Đông: Chủ quyền Quốc gia và Quy tắc Quốc tế” ngày 14/6/2012 do Viện nghiên cứu kinh tế Thiên Tắc và báo điện tử Sina.com tổ chức, nhiều học giả Trung Quốc đã đặt lại vấn đề về cái gọi là “đường chín đoạn” và cách hành xử không hợp lý của Trung Quốc.

Ban Do Bien Dong cua Tau Cong

  • Việc triển khai tàu từ các tàu biển bán quân sự, một số được vũ trang nhẹ và số còn lại không vũ trang như các tàu Hải giám, các tàu thuyền đánh cá, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) cùng với các mạng dân tộc quá khích là những công cụ được Trung Quốc dùng trong thời gian gần đây song song với các biện pháp ngoại giao, kinh tế để mở rộng sự hiện diện và thực thi các tuyên bố chủ quyền và các dạng quyền tài phán khác với trên 80% Biển Đông, mở rộng ra tới khắp trung tâm hàng hải của Đông Nam Á. Trung Quốc làm bộ cho đây không phải là hoạt động quân sự mà chỉ là vấn đề ngư chính. Đây là một nước cờ đầy mưu mô, giúp Bắc Kinh luôn luôn ở trong thế công, đồng thời thử phản ứng của Mỹ và các bên liên quan. Việc chuyển các lực lượng bán quân sự qua các lực lượng hải quân có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cộng đồng quốc tế phải giúp Philippines và Việt Nam có  được những biện pháp đối phó cần thiết.
  • Các diễn biến liên hệ đến vấn đề Biển Đông  trong năm 2012 tập trung vào 2 mục tiêu chính là Philippines và Việt Nam:
  1. Tranh chấp bãi cạn Scarborough: Cuộc đối đầu giữa tàu chiến hai nước bắt đầu ngày 8/4 khi giới chức Philippines phát hiện tám tàu cá Trung Quốc đang đánh bắt ở bãi cạn này – vốn là một chuỗi các hòn đảo và đảo san hô nhỏ nằm cách Luzon, đảo chính của Philippines, 124 hải lý về phía tây. Cả Trung Quốc và Philippines đều tuyên bố nhận có chủ quyền tại bãi Scarborough, bãi đá không có người ở, mà Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham, nằm cách bờ biển gần nhất của Philippines 203 km trong khi đó phần đất gần nhất của Trung Quốc với bãi cạn này là đảo Hải Nam, cách đó tới 1,200 km về hướng Bắc. Trong giai đoạn căng thẳng nhất, Trung Quốc đã dùng chiến thuật lấy thịt đè  người, huy động hàng chục tàu hải giám và ghe đánh cá vào vùng này cũng như dùng áp lực kinh tế với Philippines. Đầu tháng 6/2012, cơn bão Butchoy đã tạo ra một khoảng thời gian “nghỉ giữa hiệp” cho cuộc tranh chấp kéo dài 2 tháng giữa các tàu Philippines và Trung Quốc. Trung Quốc cũng từ  chối đề  nghị  của Philippines đưa vấn đề ra tòa  án quốc tế. Cho đến đầu tháng 7, tình hình vẫn chưa ngã ngủ. Một cựu thứ trưởng Ngoại giao Philippines trong tháng 10 mới đây cho biết, bãi cạn Scarborough trên Biển Đông hiện đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc nhưng tin này không được giới hữu trách Philippines xác nhận. Trung Quốc đã chặn lối vào duy nhất của Bãi cạn Scarborough và hiện đang kiểm soát lối vào đó.
  1. Thủ đoạn đối với Việt Nam: Sau khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển ngày 21/6/2012, trong đó khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, Trung Quốc đã đưa ra một loạt các hành động khiêu khích:

v  Nâng cấp đảo Phú Lâm: Quốc Vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn quyết định thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” trên đảo Phú Lâm với phạm vi quản lý bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, lập đặc khu quân sự trên khu vực này, loan báo Bắc Kinh đã bắt đầu các cuộc tuần tra sẵn sàng tác chiến trong vùng biển xung quanh nhóm các quần đảo có tranh chấp ở Biển Đông. Dù rằng Phú Lâm chỉ là một đảo san hô nhỏ rộng chưa đến 2 km², cả đến nước ngọt cũng không có, Trung Quốc đã nâng đảo này lên cấp thành phố Tam Sa và liên tiếp tăng cường và không ngừng mở rộng các hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế, du lịch, và dân cư. Ngày 24/7, chính phủ Trung Quốc tổ chức lễ ra mắt thành phố Tam Sa tại Biển Đông đồng thời quyết định thành lập cơ quan chỉ huy quân sự tại thành phố này. Phòng khí tượng cũng được lập trên đảo Phú Lâm hôm 8/10. Hãng tin Bloomberg cuối tháng 12 trích tin của báo Thương Nghiệp Thế kỷ 21 của Trung Quốc, dẫn lời Tỉnh trưởng tỉnh Hải Nam, là tỉnh cai quản thành phố Tam Sa, nói rằng chính phủ trung ương đã phê chuẩn kế hoạch để đầu tư 10 tỉ Nhân dân tệ, tương đương với 1.6 tỉ USD để xây dựng cấu trúc hạ tầng tại các khu vực được đặt dưới quyền cai quản của thành phố Tam Sa.

Mời thầu 9 lô dầu khí:Tổng Công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (China National Offshore Oil Corp – CNOOC) thông báo mời thầu thăm dò-khai thác 9 lô dầu khí nằm bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Hãng dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC vừa loan báo sẽ bắt đầu khoan thăm dò ba giếng dầu ở vùng nước sâu trong năm nay bằng giàn khoan Hải dương Thạch du 981 mà Trung Quốc mới khai trương.

Hộ chiếu ‘lưỡi bò’: Tháng 11, Trung Quốc chính thức lưu hành hộ chiếu phổ thông điện tử in bản đồ đường lưỡi bò thực tế đã diễn ra từ tháng 5 cũng như cho in bản đồ thành phố Tam Sa cũng như hình đường chủ quyền chín đoạn ở Biển Đông lên hộ chiếu điện tử kiểu mới.

Bắt giữ tàu cá, ngư dân: Năm 2012, Trung Quốc đã bắt giữ 21 ngư dân và 2 tàu cá của Việt Nam tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

v  Leo thang xâm phạm:

–          Trung Quốc triển khai bốn tàu hải giám tại đảo đá ngầm mang tên Đá Châu Viên trên quần đảo Trường Sa. Giữa tháng 7, Trung Quốc cho một đội tàu đánh cá gồm 30 chiếc đổ xuống Trường Sa. Tân Hoa Xã nói thêm rằng chuyến đi đánh cá này sẽ kéo dài 20 ngày quanh đảo Vĩnh Thử (Việt Nam gọi là Đá Chữ Thập) đảo Chử Bích (Việt Nam gọi là Đá Su Bi).

–          Ngày 23/11, Trung Quốc xuất bản bản đồ “Tam Sa”, phạm vi bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.

–          Ngày 27/11, tỉnh Hải Nam thông qua bản sửa đổi “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam”, trong đó đưa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam vào phạm vi áp dụng.

–          Ngày 30/11/2012, hai tàu kéo của Trung Quốc đã gây đứt cáp địa chấn trong khu vực làm việc của của tàu Bình Minh 02 thuộc lãnh hải của Việt Nam. Vị trí cáp bị đứt có tọa độ là 17º26 Bắc và 108º02 Đông, cách đảo Cồn Cỏ 43 hải lý về phía đông nam và cách đường trung tuyến Việt Nam – Trung Quốc 20 hải lý về phía tây.

v  Bước leo thang mới: Các hãng thông tấn nước ngoài từ Bắc Kinh hôm 29/11/2012 cho hay từ 1 tháng 1/2013, cảnh sát tỉnh Hải Nam sẽ “lên tàu và khám xét” thuyền bè nước ngoài đi vào vùng mà Trung Quốc coi là ‘lãnh hải’ của họ ở Biển Đông.

TP Tam Sa

Thành phố Tam Sa được thiết lập trên đảo Phú  Lâm mà Việt Nam và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền

  • Các hành động bá quyền ngang ngược của Trung Quốc đã gặp phải phản ứng gay gắt từ Quốc Tế, thuận lợi cho nỗ lực bảo vệ chủ quyền của Philippines và Việt Nam. Đặc biệt, những nhân vật danh tiếng trong lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ như TNS John McCain (Cộng Hòa), John Kerry, Jim Webb (Dân Chủ) và Joe Lieberman (Độc Lập) đều có chung quan điểm này.  Trong cuộc hội thảo về an ninh Biển Đông do Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế Hoa Kỳ CSIS tổ chức, thượng nghị sĩ Lieberman đã có lời phát biểu đáng cho Trung Quốc suy ngẫm: “Biển Đông không phải là điểm chính trong quan hệ Mỹ – Trung. Đó là quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, nhưng hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông sẽ ảnh hưởng đến Mỹ và các nước khác trên thế giới. Xét khía cạnh này, điều gì xảy ra trên Biển Đông cũng là mối quan tâm của tất cả mọi người trên thế giới”. Và vị thượng nghị sĩ này nói thêm: “Không một nước nào trong khu vực phải cảm nhận cần lựa chọn giữa Mỹ hay Trung Quốc, nhưng việc họ có cảm thấy như vậy hay không, còn phụ thuộc vào cách hành xử của các nước lớn”.

HOA KỲ

NỢ CÔNG VÀ THÂM THỦNG NGÂN SÁCH ÂU CHÂU VÀ HOA KỲ

Vấn đề nợ công và thâm thủng ngân sách không chỉ ảnh hưởng đến Âu Châu và Hoa Kỳ mà còn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của Trung Quốc và các nước Á Châu. Sự tái cấu trúc nền kinh tế và tài chánh của Châu Âu và Hoa Kỳ để vừa giảm nợ công và cùng một lúc tăng trưởng kinh tế sẽ có ảnh hưởng rất sâu xa nhất là liên hệ thương mãi với Trung Quốc. Cuối tháng 6/2012, lãnh đạo EU vừa thống nhất sử dụng quỹ cứu trợ đồng tiền chung để hỗ trợ trực tiếp các ngân hàng đang gặp khó để không thêm nợ cho các chính phủ. Họ cũng thỏa thuận thiết lập một tổ chức giám sát ngân hàng chung cho khu vực Eurozone. Dù Đức là quốc gia đóng vai chính trong nỗ lực cứu nguy Âu Châu, Đức không thể và cũng không đủ khả năng giúp cho Âu Châu nếu các nước này không tự cứu mình trước. Nói chung:

–          Các chủ nhà băng, tập đoàn dầu khí, các đại công ty và những người giàu có tại Âu Châu và Hoa Kỳ phải đóng góp thêm vào cho ngân sách. Các thành phần dân cử phải làm việc cho đại đa số quần chúng thay vì phục vụ các các nhóm lợi ích tư bản.

–          Các công ty đầu tư đang đầu tư ở nước ngoài, nhất là tại Trung Quốc, phải hy sinh một số lợi nhuận để chuyển một số công việc về lại Âu Châu và Hoa Kỳ. Trung Quốc cũng sẽ phải đóng góp phần mình để giúp giải quyết tình trạng bất cân xứng trong vấn đề hối đoái và xuất-nhập khẩu giữa Trung Quốc và các đối tác.

–          Thành phần trung lưu cũng phải hy sinh khi một số lợi ích xã hội bị cắt giảm. Thành phần nghèo phải chấp nhận sự cắt giảm những phung phí quyền lợi về Medicare – Medicaid. Các tập đoàn bảo hiểm, sản xuất dược phẩm và giới bác sĩ phải chịu hy sinh những quyền lợi mà họ đã lợi dụng trong một thời gian quá lâu.

–          Chánh quyền và Quân lực của các nước liên hệ cũng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để tăng cường hiệu năng và giảm bớt phung phí. Điều này cũng áp dụng cho việc xuất cảng công nghệ quốc phòng.

Các cuộc “biểu tình chiếm phố Wall” trong mấy tháng ở nhiều nơi trên thế giới đòi hỏi giới lãnh đạo phải có những quyết định can đảm vì quyền lợi quốc gia.

Ngày 6/11, Tổng thống Barack Obama, tái đắc cử nhiệm kỳ 2 trước ứng viên Cọng Hòa Mitt Romney. Điều này cho thấy dân chúng Hoa Kỳ đã rất cẩn thận lựa chọn tổng thống của họ trong hoàn cảnh rất là khó khăn của đất nước. Hy vọng trước cuối tháng 12/2012, đảng Cộng Hòa sẽ đặt quyền lợi đất nước lên trên ý thức hệ của 2 đảng để giải quyết những khó khăn căn bản của Hoa Kỳ nhất là vấn đề tăng thu và giảm chi. Một kịch bản mà nhiều người đang lo ngại hiện nay là Quốc hội Mỹ và Nhà Trắng không đạt được thỏa thuận về vấn đề liên quan đến “vách đá tài chính” trước ngày 1/1/2013, điều sẽ đẩy nền kinh tế hàng đầu thế giới rơi vào suy thoái, khi việc tăng thuế và cắt giảm chi tiêu (tự động) khiến chi tiêu tiêu dùng giảm sút, thất nghiệp tăng lên, thị trường chứng khoán chao đảo. Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế cho rằng ngay cả khi kịch bản này xảy ra, những hậu quả của nó có thể không đáng ngại đến mức đó. Cuối cùng thì Thượng viện Hoa Kỳ đã chấp thuận với đa số áp đảo 89/8 một thỏa thuận lưỡng đảng để đa số người Mỹ khỏi bị tăng thuế nhiều và trì hoãn các cắt giảm công chi áp đặt bởi “bờ vực tài chính.” Cuộc biểu quyết diễn ra vài giờ sáng 1/1/2013 sau khi Hoa Kỳ trên nguyên tắc đã rơi xuống bờ vực tài chính này và dự luật đã được Hạ viện phê chuẩn với tỷ số 257/167 khuya Thứ Ba.

HOA KỲ THỂ HIỆN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO TẠI Á CHÂU – THÁI BÌNH DƯƠNG

Vai trò quan trọng nhất của Mỹ tại Đông Nam Á/Biển Đông là kiềm chế, đối trọng và cân bằng quyền lực với Trung Quốc.

Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 2 khai mạc tại Phnom Penh ngày 11/7, ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton lại một lần nữa  khẳng định, Mỹ không có tuyên bố chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ hay biên giới hàng hải “nhưng chúng tôi có một lợi ích cơ bản trong tự do hàng hải, duy trì hòa bình và ổn định, tuân thủ luật pháp quốc tế và thực hiện thương mại không cản trở” ở vùng biển này”.

Hoa Kỳ đã nói rõ rằng phần lớn lịch sử sẽ được viết ra về thế kỷ thứ 21 sẽ được thực hiện trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Sự chuyển hướng rộng rãi hơn của Hoa Kỳ qua châu Á không phải chỉ có nghĩa là gia tăng tiếp cận, mà là tìm ra giao điểm của các quyền lợi và nhu cầu sẽ giúp cho liên minh tiến tới vào thế kỷ này. Sẽ không phải là một điều gì đã thấy trong thời Chiến tranh Lạnh hay trong thời chiến tranh Việt Nam, mà là một điều gì mới mẻ, nhỏ hơn, nhậm lẹ hơn, có tính cách bền vững về mặt chính trị cho các đối tác và đồng minh của Hoa Kỳ.

Bà Hillary Clinton đã công bố một kế hoạch mới gọi là “Sáng kiến can dự chiến lược ở châu Á Thái Bình Dương” gọi tắt là APSEI cùng với những yếu tố chủ đạo trong chiến lược của Hoa Kỳ dành cho châu Á – Thái Bình Dương. Bà nói Hoa Kỳ chú trọng vào sáu cột trụ chiến lược, gồm hợp tác vì an ninh khu vực, hội nhập kinh tế và trao đổi mậu dịch, khai mở vùng hạ lưu Mekong, đối phó những nguy cơ liên quốc gia, phát huy dân chủ, và giải quyết những di hại của chiến tranh.

Việc Mỹ nối lại hợp tác với Việt Nam và một số quốc gia châu Á khác như Indonesia không thể coi là một chiến lược nhằm kiềm chế Trung Quốc. Tổng thống Obama muốn cho mọi người thấy Mỹ họ có trách nhiệm trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và sẵn sàng hợp tác với các nước trong khu vực, kể cả Trung Quốc để duy trì an ninh tại đây.

Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta thu hút sự chú tâm của cả thế giới khi ông công bố chiến lược quân sự mới của Washington tại Hội nghị Diễn đàn Quốc phòng Shangri-La vào tháng 6/2012. Ngũ Giác Đài sẽ tái phối trí lực lượng hải quân theo trục chiến lược mới quay sang châu Á, thi hành từ nay và hoàn tất năm 2020, song song với kế hoạch thực hiện những ưu tiên chiến lược trên địa bàn Á Châu. Lực lượng hải quân Hoa Kỳ sẽ được phân bố 60% trên Thái Bình Dương và 40% trên Đại Tây dương thay vì 50-50% như hiện nay. Ông Panetta cũng cho biết, Mỹ dự định không chỉ tăng quân số Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ và thay thế các hạm tàu cũ và hết hạn sử dụng, mà còn trang bị cho chúng các trang thiết bị hiện đại.

Ông Panetta nói đến việc khôi phục và củng cố các liên minh quân sự song phương sẵn có như Australia, Nhật, Hàn Quốc, Philippines, và Thái Lan, đồng thời tăng cường đối tác với nhiều nước châu Á khác trong đó có Việt Nam.

Với chủ trương chuyển dịch chiến lược sang châu Á, Lầu Năm góc đang đối diện với triển vọng phải tiến hành tác chiến từ một số lượng căn cứ hạn chế ở tây Thái Bình Dương như Hawaii, Guam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia … Mỹ đang tìm cách thỏa thuận với Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam để triển khai luân phiên quân Mỹ giống như ở Australia. Các máy bay, tàu bè và binh lính Mỹ có thể được triển khai tới các cơ sở này trong giai đoạn căng thẳng tăng cao, làm cho kẻ địch khó mà tiêu diệt các vị trí tập trung quân và các cơ sở quân sự Mỹ.

Vài tháng trước, xuất hiện tin nói rằng, Mỹ muốn có quyền tiếp cận nhiều hơn tới các cảng và sân bay Philippines để sử dụng như các căn cứ phân tán trong bất kỳ cuộc xung đột nào ở tây Thái Bình Dương. Bộ Quốc phòng Mỹ không muốn xây dựng các căn cứ thường xuyên mới, song muốn có sự bảo đảm là các máy bay và tàu bè của Mỹ có quyền tiếp cận các sân bay, hải cảng của Philippines để huấn luyện, tiếp nhiên liệu, tiếp vận hậu cần và sửa chữa. Lầu Năm góc cũng muốn triển khai một số lượng nhỏ máy bay do thám P-3 Orion ở Philippines và đưa nhiều vũ khí tới nước này trong khi Trung Quốc tăng cường sự hiện diện quân sự ở Biển Đông.

Đáng chú ý là việc này xảy ra ngay sau khi Lầu Năm góc tiết lộ rằng Hải quân Mỹ sẽ đồn trú các tàu chiến hoạt động trong vùng nước cạn LCS ở Singapore, một vị trí chiến lược ở cuối eo biển Malacca, một trong những tuyến giao thông hàng hải quan trọng nhất thế giới.

Cuối tháng 6/2012, đề xuất của Mỹ được sử dụng căn cứ hải quân U-tapao, cách thủ đô Bangkok khoảng 140 km về phía Đông Nam, cho các hoạt động nhân đạo và cứu trợ thiên tai cũng như nghiên cứu khí hậu toàn cầu đã được thủ tướng Thái Lan xem xét cùng với các cố vấn quân sự. Tuy nhiên, nội các Thái Lan hôm 26/6 từ chối đưa ra quyết định liên quan tới sân bay U-tapao và đẩy trách nhiệm này cho quốc hội.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Panetta, hồi đầu tháng 6/2012, đã thăm viếng Cam Ranh. Đây là lần đầu tiên một Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm Cam Ranh sau gần 4 thập kỷ. Ông Leon Panetta đã thăm chiếc tàu vận tải USNS Richard E. Byrd của Hải quân Mỹ, vốn dùng để tiếp vận cho các căn cứ quân sự Mỹ ở các khu vực trên thế giới. Hiện nay, tàu đang nằm ở cảng Cam Ranh. “Đây là một chuyến thăm lịch sử. Việc con tàu này đang ở Cam Ranh lúc này, nơi nó được các nhà thầu bảo dưỡng, còn các bạn Việt Nam của chúng ta đang sửa chữa nó, cho thấy rõ chúng ta đã tiến bộ xa đến mức nào”, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phát biểu trước các thủy binh Mỹ. Ông nhấn mạnh, việc các tàu chiến Mỹ tiếp cận cơ sở này (Cam Ranh) là một “thành tố then chốt” của chiến lược quân sự mới của Lầu Năm góc. Qua những diễn đạt rất thận trọng trong phát biểu của ông Panetta, một kết luận rõ ràng là Hoa Kỳ đánh giá cao tầm quan trọng quan hệ của Mỹ với Việt Nam.

Có thể nói rằng sau khi Tổng thống Obama tái cử, chiến lược “trở lại châu Á” của Mỹ về cơ bản không có sự thay đổi lớn, nhưng các bước tiến đang được thúc đẩy nhanh hơn trên tất cả phương diện quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao. Sự đề cử TNS John Kerry thay thế bà  Hillary Clinton trong chức vụ  Bộ  trưởng Ngoại giao cho thấy một sự liên tục rõ ràng trong đường lối đối ngoại của Hoa Kỳ.

MẶT TRẬN KINH TẾ

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một thị trường rộng lớn với 800 triệu người tiêu dùng và chiếm gần 40% tổng sản phẩm quốc nội toàn thế giới đang được đàm phán giữa Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam, TPP sẽ là một trong những thỏa ước thương mại rộng lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ loan báo các cuộc thảo luận với các đối tác đã đạt được tiến bộ quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực như hải quan, dịch vụ xuyên biên giới, và viễn thông. Canada và Mexico đã quyết định gia nhập vào tháng 10/2012. Như vậy đã có 11 quốc gia tham dự. Các bên đang chờ xem Nhật Bản có muốn tham gia vào Hiệp định TPP hay không. Với sự gia nhập của 3 nước này, TPP sẽ cộng thêm nhiều tỉ đôla vào nền kinh tế Mỹ và sẽ tăng cường các cam kết chính trị, tài chính, và quân sự của Washington đối với khu vực Thái Bình Dương trong nhiều thập kỷ tới. Đợt thảo luận sắp tới về TPP sẽ diễn ra từ ngày 3 đến 12/12/2012 ở Auckland, New Zealand. Trung Quốc và Nga chắc chắn cũng sẽ được mời tham dự với những điều kiện của những nước đi trước.

MẶT TRẬN QUÂN SỰ

Trong năm 2012, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục triễn khai những thay đổi chiến lược đề ra trong năm 2011.

  • RIMPAC (the Rim of the Pacific Exercise) là cuộc tập trận hải quân quốc tế lớn nhất tổ chức hai năm một lần, bắt đầu từ những năm 1970. Tập trận Rimpac 2012 dự tính còn lớn hơn, có 42 tàu chiến các loại, sáu tàu ngầm, 200 phi cơ và 25,000 lính từ 22 quốc gia. Cuộc tập trận năm nay bắt đầu từ thứ Tư 27/6 và kéo dài tới 7/8/2012. Quy mô của các cuộc tập trận Rimpac các năm có khác nhau, nhưng Hoa Kỳ luôn giữ vai trò chủ lực với số quân tham gia lên tới hàng chục nghìn. Trung Quốc không tham gia các hoạt động tập trận, mà chỉ có mặt với tư cách quan sát viên tại một số cuộc tập trận. Việt Nam đã gởi 6 sĩ quan quan sát các hoạt động và trao đổi kinh nghiệm về y học biển, y học hàng không, chuyển thương đường không, tìm kiếm cứu nạn trên biển. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có mặt với tư cách quan sát viên.
  • Song song với cuộc tập trận RIMPAC, hải quân Hoa Kỳ cũng đã tham dự nhiều cuộc tập trận song phương hay đa phương với hải quân các nước

Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan và các quốc gia ASEAN.

  • Thông tin được Hải quân Mỹ đưa ra từ Yokosuka, Nhật Bản cuối tháng 9 cho hay hai hải đoàn tấn công HKMH (Carrier strike groups: CSG) gồm hàng không mẫu hạm USS George Washington, USS John C. Stennis và nhiều tàu mang hỏa tiễn định vị như USS Cowpens đang tuần tra tại vùng Tây Thái Bình Dương. Một lực lượng can thiệp tiền phương (Expeditionary strike group: ESG) gồm có tàu sân bay trực thăng USS Bonhomme Richard, được hai tàu khu trục nhỏ hộ tống cùng với tàu ngầm hạt nhân tấn  công USS Olympia đã cập cảng Freeport, vịnh Subic, Philippines vào đầu tháng 10, mang theo 2,200 thủy quân lục chiến Mỹ.
  • Ngày 20/10/2012, Mỹ đã phái một cụm tàu sân bay, gồm hàng không mẫu hạm George Washington và các tàu hộ tống đến Biển Đông trong hoạt động tuần tra định kỳ Thái Bình Dương để bày tỏ sự ủng hộ đối với các nước ASEAN, cụ thể là Việt Nam và Philippines trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Cụm tàu sân bay này đã tuần tiểu khu vực gần đảo Hoàng Sa của Việt Nam cũng như bãi cạn Scarborough của Philippines.

VIỆT NAM

Trong năm 2012, Việt Nam đang phải đối phó với những khó khăn trầm trọng về chính trị và kinh tế/tài chánh cũng như tệ nạn tham nhũng và bất mãn/khiếu kiện của dân chúng. Hội nghị Trung ương 6 Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải bắt đầu vào ngày 1-10 cho đến 15-10 vừa qua, 2 tuần sớm hơn dự trù. Như khá nhiều người tiên đoán, trong ngày cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”. Từ ngữ “một đồng chí trong Bộ Chính trị” ở đây dường như là chỉ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Điều này chứng tỏ những người lãnh đạo Việt Nam đặt  sự ổn định chính trị và tồn tại của đảng là những điều quan trọng nhất lên trên những ưu tiên khác. Ngày 22/10, trong buổi khai mạc Quốc hội khóa 13, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhận trách nhiệm trước Quốc hội, trước Đảng và trước dân về những khuyết điểm trong quản lý, điều hành kinh tế.  Thời gian sắp đến sẽ cho thấy đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ giải quyết những vấn đề khó khăn căn bản của đất nước như thế nào.

Về vấn đề Biển Đông, Việt Nam vẫn tiếp tục có những cố gắng đáng kể trong các lãnh vực ngoại giao-kinh tế-quân sự và tăng cường nỗ lực phòng thủ hải phận:

CHÍNH TRỊ & NGOẠI GIAO:

  • Ngày 21/06/2012, Quốc hội Việt Nam chính thức thông qua Luật Biển, trong đó khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Theo báo chí Việt Nam, Luật Biển đã được 495/496 đại biểu bỏ phiếu tán thành. Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013. Với sự hình thành của Luật Biển, Việt Nam đã chính thức có cơ sở pháp lý trong vấn đề tranh chấp Biển Đông trong khi Trung Quốc vẫn loay hoay với Đường Lưởi Bò dựa theo cách giải thích hoàn toàn trái với các quy định của luật pháp quốc tế. Luật Biển sẽ giúp Việt Nam tranh thủ hậu thuẫn quốc tế về Biển Đông. Bộ luật này một công cụ cần thiết cho Việt Nam nếu Việt Nam quyết định đưa tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông với Trung Quốc ra trọng tài quốc tế để phân xử. Trung Quốc đã phản ứng dữ dội, chứng tỏ họ lo sợ ở thế “hạ phong” trong những diễn biến sắp tới.
  • Ngày Chủ Nhật 1/7/2012 đã diễn ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở hai thành phố Sài Gòn và Hà Nội. Dù số người tham dự chỉ khoảng 500 người mỗi nơi và sự kiểm soát của chính quyền vẫn không khác gì năm 2011 nhưng 2 cuộc biểu tình xem như khá thành công và đã cho người láng giềng phương Bắc thấy được sự căm phẩn của dân chúng Việt Nam đối với thái độ bá quyền của Trung Quốc.
  • Các cuộc viếng thăm Việt Nam liên tục trong tháng 6 và tháng 7 của Bộ  trưởng Quốc phòng Leon Panetta tại Cam Ranh, Ngoại trưởng Hillary Clinton, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Cecil Haney và cuộc viếng thăm Hoa Kỳ dài ngày của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh giữa tháng 7 có thể là biểu hiệu hai nước bắt đầu đi vào chi tiết các thỏa thuận chiến lược đã đạt được trong thời gian gần đây.
  • Dù rằng hoàn cảnh khác nhau, Việt Nam cũng nên rút được những bài học từ vụ tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc-Nhật Bản. Trong lúc Nhật Bản giữ thái độ hòa hoãn nhưng cương quyết, đề nghị đưa vấn đề ra toà án Quốc Tế thì Trung Quốc không dám đồng ý với đề nghị này.

KINH TẾ:

  • Tháng 6-2012, Chính phủ Việt Nam cùng với Đại diện cấp cao của EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu (EC), ký chính thức Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn diện (PCA) Việt Nam – EU, thay thế Hiệp định hợp tác Việt Nam ký với Cộng đồng Châu Âu năm 1995.
  • Một dự án đáng chú ý là việc công ty Oshima Shipuilding (Nhật Bản) đầu tư nhà máy đóng tàu biển tại Cam Ranh (06/06/2012) với tổng vốn đăng ký 3,780 tỷ đồng. Dự án được triển khai tại xã Cam Thịnh Đông, TP Cam Ranh, trên diện tích 304 ha. Giai đoạn 1, mỗi năm đóng mới 12 chiếc tàu có trọng tải từ 37,000 – 56,000 tấn/chiếc; giai đoạn 2, đóng mới 24 chiếc tàu/năm. Dự án đi vào hoạt động sẽ giải quyết việc làm 3,000 lao động có tay nghề kỹ thuật cao của địa phương.
  • Ngày 21/9, Bộ Tư lệnh Hải quân đã làm lễ khởi công xây dựng giai đoạn 1 khu đô thị tại bán đảo Cam Ranh. Tổng dự án có quy mô hơn 340 ha, được triển khai đến năm 2020, với tổng vốn trên 14,000 tỷ đồng (672 triệu USD) với cơ sở hạ tầng hiện đại và đồng bộ. Giai đoạn 1 có tổng mức đầu tư trên 1,450 tỷ đồng, được triển khai từ nay đến năm 2014, trên diện tích hơn 33 ha, gồm 8 khu chung cư cao tầng (870 căn hộ), giải quyết nơi ở cho khoảng 3,500 người, kèm theo các công trình đồng bộ khác như: hệ thống điện, đường giao thông, trường học, y tế, hệ thống cung cấp nước và xử lý rác thải. Theo bản tin, khu đô thị này dành cho cán bộ, sĩ quan và gia đình đang công tác tại Vùng 4 hải quân và tại huyện đảo Trường Sa nhưng với quy mô 672 triệu USD thì khu vực này cũng có thể quy hoạch cho các thủy thủ đoàn ngoại quốc đến nghỉ ngơi và sữa chửa tại Cam Ranh.

Cang Cam RanhCảng Cam Ranh

Quy Hoach Do Thi Cam Ranh Gđ 1

Quy hoạch giai đoạn 1 khu đô thị căn cứ Cam Ranh

 

QUÂN SỰ & TĂNG CƯỜNG PHÒNG THỦ:

  • Tháng 5-2012, Phó đô đốc Matthieu Borsboon, Tư lệnh Hải quân Hoàng gia Hà Lan sang thăm Việt Nam. Về hợp tác an ninh hàng hải, có những trao đổi với phía Việt Nam về khả năng của Việt Nam liên quan đến đóng tàu hộ tống và hợp đồng sắp ký với Tập đoàn đóng tàu Damen.
  • Tháng 5-2012, tờ Kommersant cho biết, một đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam đã sang nhà máy 558 ở Belarus và tỏ ý muốn mua lại 18 máy bay Su-30K hiện đại hóa lên chuẩn Su-30KN với giá thấp nhất là 270 triệu USD (khoảng 15 triệu USD/1 máy bay đã nâng cấp), so với giá hiện tại của 18 chiếc Su-30 mới (hơn 1 tỷ USD).
  • Với sự  thăm viếng Cam Ranh của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta, chắc chắn đã có một sự thỏa thuận chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam; tuy nhiên mức độ tiếp cận của hạm đội Hoa Kỳ chỉ được biết rõ hơn theo thời gian phù hợp với quyền lợi chiến lược của 2 quốc gia .
  • Ngày 15-6-2012, lần đầu tiên Trung đoàn không quân tiêm kích 940 đưa máy bay chiến đấu Su-27 từ căn cứ Phù Cát ở miền Trung ra tuần tiễu, trinh sát, bảo vệ chủ quyền biển đảo tại Trường Sa.
  • Việt Nam lần đầu tiên cử sáu sĩ quan tham dự tham dự đợt tập trận Vành đai Thái Bình Dương, tức RIMPAC, do Hoa Kỳ tổ chức và chỉ huy, kéo dài từ ngày hôm qua 29 tháng 6 cho đến ngày 3 tháng 8-2012 tới đây gần Hawaii.
  • Bộ Quốc phòng Mỹ đang đề xuất việc nới lỏng việc xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài và thị trường đang được hướng tới một số quốc gia ở châu Á

như Ấn Độ và Việt Nam. Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm 25-6 phê chuẩn đề xuất của Ngân hàng Xuất – Nhập khẩu Mỹ (Ex-Im Bank) mở gói cho vay 125.9 triệu USD cho một công ty nhà nước Việt Nam mua vệ tinh truyền thông và truyền hình của Mỹ, hãng tin Reuters dẫn nguồn Nhà Trắng cho biết.

  • Đầu tháng 12, chính phủ Việt Nam vừa ban hành một nghị định về việc thành lập lực lượng kiểm ngư trong bối cảnh căng thẳng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông chưa có dấu hiệu lắng dịu. Được biết, nghị định về việc thành lập lực lượng kiểm ngư của chính phủ Việt Nam sẽ có hiệu lực bắt đầu từ cuối tháng Giêng năm 2013 và khởi đầu với 4 tàu tuần.

CÁC CƯỜNG QUỐC Á CHÂU – THÁI BÌNH DƯƠNG

Trong năm 2012, các cường quốc Á Châu vẫn tiếp tục phối hợp với Hoa Kỳ trong thế liên minh nhằm đối lại với những tham vọng của Bắc Kinh trong khu vực:

NHẬT BẢN: Là nước lớn duy nhất sẵn sàng đứng cùng chiến tuyến với Việt Nam và các nước ven Biển Đông trong khi bản thân cũng đang phải căng sức ra để đối phó với âm mưu bành trướng của TQ tại vùng biển phía Nam, trong đó có đảo Điếu Ngư/Senkaku, đồng thời đối phó với Nga ở vùng biển phía Bắc về quần đảo Kuril và tranh chấp với Đại Hàn xung quanh quần đảo Dokdo/Takeshima. Cuộc bầu cử Quốc hội Nhật Bản trước thời hạn hôm 16/12/2012 đã đem lại thắng lợi vang dội cho đảng Tự do-Dân chủ (PLD), mở đường cho chủ tịch đảng, ông Shinzo Abe, lên lãnh đạo chính phủ sắp tới đây. Thắng lợi này một phần là nhờ PLD đã khơi dậy tinh thần dân tộc trong cử tri Nhật.

1)    Căng thẳng giữa Bắc Kinh và Tokyo bùng phát vào tháng 9/2012 sau khi Chính phủ Nhật Bản quyết định mua 3 hòn đảo thuộc quần đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) của các tư nhân Nhật Bản. Trung Quốc coi hành động mua bán này của Chính quyền Tokyo nhằm mục đích sáp nhập quần đảo vào lãnh thổ Nhật Bản. Bắc Kinh bắt đầu tuyên bố chủ quyền quần đảo Điếu Ngư/Senkaku thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ năm 2010 và chính thức công bố các tọa độ địa lý của quần đảo để hỗ trợ các tuyên bố chủ quyền và gửi tài liệu này lên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon. Trên khía cạnh lịch sữ, Nhật Bản chiếm đảo Điếu Ngư/Senkaku sau khi đánh bại Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Trung Quốc-Nhật Bản năm 1895. Tiếp đó, Mỹ kiểm soát quần đảo sau khi đánh bại Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, nhưng Mỹ đã trao trả quần đảo này cho Nhật Bản theo Hiệp ước Đảm bảo An ninh Mỹ-Nhật năm 1960. Hai vấn đề đặt ra là Mỹ vẫn có trách nhiệm hỗ trợ Nhật Bản trong trường hợp bị tấn công và đảo Điếu Ngư/Senkaku nằm trong hiệp ước này và Trung Quốc có đồng ý đưa vấn đề tranh chấp ra tòa án quốc tế của Liên Hiệp Quốc không. Trong thời điểm hiện tại, Trung Quốc dường như quyết định sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế chống Nhật Bản. Bắc Kinh khẳng định rõ rằng Trung Quốc cũng sẽ bị thiệt hại, nhưng chắc chắn thiệt hại của Nhật Bản sẽ lớn hơn nhiều lần và thậm chí những thiệt hại đó sẽ đẩy lùi xã hội Nhật Bản trở lại quá khứ ít nhất 20 năm. Tất nhiên, một cuộc xung đột giữa hai nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba thế giới sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng khác cho các nền kinh tế khác của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và bên ngoài khu vực. Hiện nay, các tàu Trung Quốc đang được cử hàng ngày tuần tiễu xung quanh các đảo, thách thức đội tàu phòng vệ bờ biển của Nhật Bản. Đồng thời, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tuyên bố rõ ràng là họ sẽ không rút các tàu tuần tra và nói rằng hiện trạng mới đã được xác lập.

2)    Do tương đồng lợi ích, Nhật Bản là đồng minh tự nhiên của Việt Nam và Philippines trong vấn đề tranh chấp Biển Đông. Những quyết định gần đây của Nhật Bản:

  • Dù rằng trong tình trạng suy thoái chung của thế giới, Nhật Bản là nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam trong năm 2012, chiếm 65% tổng số đầu tư của các nước ngoài.
  • Nhật là nước đầu tiên viện trợ cho Philippines 10 tàu tuần tra sau vụ bãi cạn Scarborough.
  • Ngoại trưởng Nhật Bản và các nước ASEAN ngày 11/7 họp tại thủ đô Phnom Penh của Campuchia bàn về các căng thẳng gần đây tại Biển Đông và khả năng tiến tới một thỏa thuận tự do mậu dịch. Tin PTI cho hay Ngoại trưởng Koichiro Gemba loan báo Nhật Bản muốn tổ chức một thượng đỉnh đặc biệt với 10 nước ASEAN vào năm tới và ý định này đã được các Ngoại trưởng tán đồng.
  • Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản ngày 15-7 nói rằng nước này sẽ giúp Việt Nam tăng cường khả năng tuần tra ven biển.

Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư – Ảnh: Kyodo

ẤN ĐỘ:  Là cường quốc hạng lớn tại Châu Á. Mặc dù hoàn toàn đồng cảm với VN, Philippines và ASEAN và có lợi ích thiết thân về giao thường hàng hải, song cho đến bây giờ, Ấn Độ vẫn giữ thế cân bằng tế nhị giữa quan hệ Trung- Ấn với liên hệ với Hoa Kỳ và các quốc gia ASEAN. Quan hệ Hoa Kỳ- Ấn Độ gần đây trở nên nồng ấm hơn và với sự khuyến khích của Hoa Kỳ để có một vai trò mạnh mẽ hơn ở Châu Á. Tuy nhiên giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ vẫn còn những sự khác biệt về việc mua vũ khí của Hoa Kỳ và chuyển giao công nghệ quốc phòng cho Ấn Độ. Sự giúp đỡ của Ấn Độ đối với Philippines và Việt Nam cũng chẳng có gì rõ ràng lắm. Không có nhiều khả năng để Ấn Độ can dự trực tiếp nếu TQ chủ động gây hấn với một trong các bên tranh chấp tại Biển Đông. Ngày 20/12/2012, lần đầu tiên Ấn Độ tổ chức hội nghị thượng đỉnh với khối Đông Nam Á trên lãnh thổ của mình. Hội nghị thượng đỉnh này đã kết thúc một cách thành công mà không hề đề cập tới sự trỗi dậy của Trung Quốc và những mối đe dọa có thể cảm nhận từ sự trỗi dậy đó. Ấn Độ nên có hành động nhiều hơn trong tương lai để duy trì lòng tin của ASEAN và thể hiện cam kết của họ để có những tiến bộ rõ rệt trong mối quan hệ giữa hai bên.

ÚC ĐẠI LỢI: Úc Đại Lợi là một quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản, đất rộng, người thưa, lại ở xa vùng Biển Đông nên có nhiều chọn lựa đối với sự bành trướng của Trung Quốc. Hiện tại, Úc chỉ đóng vai trò vòng ngoài trong chuổi phòng vệ cùng với Mỹ nhằm bảo vệ lợi ích của bản thân và đồng minh; rất ít khả năng can dự vào cuộc chiến tại Biển Đông. Những quyết định gần đây của Úc Đại Lợi:

  • Biên tập viên nổi tiếng David Uren của báo The Australian tiết lộ trong cuốn sách mang tên The Kingdom and the Quarry: China, Australia, Fear and Greed (tạm dịch: Trung Quốc, Úc, nỗi sợ và lòng tham) tiết lộ việc Bộ Quốc phòng Úc từng soạn kế hoạch chi tiết ứng phó một cuộc chiến có thể xảy ra giữa nước này và đồng minh Mỹ với Trung Quốc. Ban đầu, đây là kế hoạch nằm trong sách trắng quốc phòng của Úc năm 2009 nhưng cuối cùng đã bị rút ra trước khi sách trắng được công bố.
  • Theo Đài Tiếng nói nước Nga, ngày 12/7, Bộ Quốc phòng Australia đã công bố kế hoạch chi 153 tỷ Úc kim (155.5 tỷ USD) để mua vũ khí và trang thiết bị quân sự trong vòng bốn năm tới. Theo kế hoạch, từ 2013-2016, bộ trên sẽ phân bổ tiền cho 111 dự án, trong đó có việc hiện đại hóa cho một nửa trên tổng số 24 máy bay tiêm kích F/A-18F Super Hornet. Giá thành của dự án này ước tính vào khoảng 2 tỷ USD. Trong khuôn khổ của chương trình mua sắm quốc phòng, tới năm 2018, Australia dự định sẽ nhận được tám máy bay tuần tra Boeing P-8A Poseidon trị giá từ 3-5 tỷ USD. Ngoài các máy bay tuần tra, việc mua 7 máy bay do thám không người lái có tầm hoạt động cao với tổng giá trị từ 2-3 tỷ USD cũng được đưa vào kế hoạch trên. Việc bàn giao chúng sẽ được hoàn tất trong giai đoạn từ năm 2015-2018. Australia cũng dự định sẽ mua của Lockheed Martin 100 máy bay tiêm kích F-35 Lightning II trị giá khoảng 10 tỷ USD. Tuy nhiên, thời hạn cụ thể của việc mua máy bay hiện vẫn chưa được xác định. Australia có thể sẽ nhận được phi đội đầu tiên vào năm 2018.
  • Có khả năng một hiệp ước Hàn-Nhật sẽ được ký kết để hai nước chia sẻ cho nhau những tin tình báo về Bắc Triều Tiên và đặc biệt là về chương trình phát triển tên lửa và hạt nhân của nước này. Hiệp ước về chia sẻ tin tình báo quân sự cũng là nhằm đối phó với sự lớn mạnh của Trung Quốc. Hàn Quốc vẫn tham gia tập trận với Hoa Kỳ và Nhật Bản cho dù liên hệ Nhật-Hàn có nhiều sóng gió trong thời gian gần đây liên quan đến quần đảo Dokdo/Takeshima.
  • Ngành công nghiệp đóng tàu hùng mạnh đã giúp hỗ trợ và bảo đảm cho việc mở rộng cũng như hiện đại hóa Hải quân Hàn Quốc. Bốn tàu đổ bộ Dokdo 19,000 tấn và sáu tàu khu trục KD-III 10,000 tấn đã nằm trong kế hoạch, cho dù việc xây dựng trên thực tế có thể chưa đáp ứng được các con số trên. Nếu Hàn Quốc thực hiện được kế hoạch này, đây có thể sẽ là một trong những hạm đội tàu chiến hải quân uy lực nhất trên thế giới, có khả năng thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác nhau trong khu vực. Tàu KD-III và Dokdo được hộ tống bởi một đội gồm chín tàu khu trục (có tải trọng 3,500-6,000 tấn) được thiết kế chuyên biệt cho chiến tranh trên và dưới mặt nước.
  • Dù rằng các doanh nghiệp Hàn Quốc hưởng lợi khá nhiều trước sự tranh chấp Trung-Nhật, Hàn Quốc rất là cương quyết đối với sự xâm nhập lãnh hải của tàu đánh cá Trung Quốc. Trong hai ngày 25-26/12, các tàu tuần tra Hàn Quốc đã chặn bắt 21 tàu Trung Quốc cùng thủy thủ đoàn đánh bắt trái phép tại vùng biển cách bờ biển phía tây của Hàn Quốc.

·         Tại Hội Nghị Úc-Mỹ hàng năm ở cấp Bộ Trưởng Ngoại Giao và Quốc Phòng – gọi tắt là Ausmin – được tổ chức tại Perth, thủ phủ bang Western Australia, vào ngày 14 tháng 11, Mỹ đã đạt được thỏa thuận để dựng một trạm radar có tầm phủ sóng lớn và kính viễn vọng không gian tại Úc.

HÀN QUỐC: Dù phải bận tâm  lo đối phó với Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc vẫn có những hành động phối hợp với các đồng minh đối với vấn đề Biển Đông:

 

CÁC NƯỚC ASEAN

Là một tổ chức lỏng lẻo, chỉ có 10 nước mà những gì xảy ra trong năm 2012 đã cho thấy nhiều khuynh hướng khác nhau. Nguyên tắc nhất trí (concensus) khiến tổ chức khó đạt “tiếng nói chung” và hạn chế trong đấu tranh với TQ. Những hành động của các nước ASEAN trong năm 2012 cho thấy một tương lai bất định của khối này:

–          Campuchia đã lộ rõ thái độ thân Trung Quốc. Với tư cách là nước chủ nhà năm 2012, Campuchia đã bỏ túi một số tiền viện trợ sau khi làm theo ý Trung Quốc phá hoại sự đoàn kết của ASEAN.

–          Bốn nước có hay không tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc như Brunei, Maslaysia, Thái Lan, Lào đều giữ thái độ nước đôi, thậm chí có nước chọn sách lược thân TQ để cầu lợi.

–          Indonesia là nước lớn nhất trong vùng cố gắng đoàn kết ASEAN cũng không thực tế khi đánh giá ý định thực sự của Trung Quốc.

–          Myanmar còn quá mới để biết rõ thái độ nhưng đường đi của Myanmar tương đối khá thẳng thắn so với Thái Lan.

–          Chỉ còn lại Philippines và Việt Nam là có quyền lợi sinh tữ tại Biển Đông. Philippines có hiệp ước phòng thủ hỗ tương với Hoa Kỳ. Chỉ còn Việt Nam là còn giữ thế đu dây nhưng không biết còn giữ đến bao giờ.

Những hoạt động của ASEAN trong năm 2012:

  • Sự bất đồng giữa Campuchia, đương kim chủ tịch ASEAN năm nay với các nước ASEAN và cụ thể là hội nghị AMM-45 đã kết thúc mà không có một tuyên bố chung nào được đưa ra. Điều đó cho thấy đang diễn ra xu hướng phân cực giữa các nước thành viên ASEAN. Trung Quốc đã khá thành công trong việc khai thác và chia rẽ lợi ích giữa các thành viên ASEAN, trong đó đã khéo léo chia thành một bên là các quốc gia cùng có các yêu sách trên biển Đông như Philippines, Việt Nam và Malaysia, còn bên kia là các quốc gia không có các yêu sách, bao gồm Singapore, Lào, Campuchia, Myanmar. Campuchia dưới quyền Thủ tướng Hun Sen đã “trở thành kẻ phá đồng thuận” AASEAN theo ý của Trung Quốc.
  • Theo tin từ tờ Bangkok Post số ra ngày 29/09/2012, trong một cuộc họp không chính thức bên lề Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hôm thứ Năm vừa qua, các Ngoại trưởng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã đồng ý để cho Thái Lan, với tư cách điều phối viên giữa ASEAN với Trung Quốc, nỗ lực giúp giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh hải Biển Đông. Tuy nhiên với những khó khăn nội bộ gần đây và với chiến lược đi nước đôi giữa Hoa Kỳ-Trung Quốc, không có kỳ vọng Thái Lan sẽ làm gì có lợi cho ASEAN.
  • Theo Kyodo, một bộ trưởng nội các và các nguồn tin từ ASEAN ngày 3/10 cho biết Indonesia đã đề xuất dự thảo các quy định có tính ràng buộc nhằm quản lý hành vi của các bên đòi chủ quyền trên Biển Đông, trong đó bao gồm cách thức kiểm soát hoạt động của các tàu qua lại khu vực này. Indonesia đã lần lượt chuyển dự thảo nghị quyết này tới ngoại trưởng của 10 nước thành viên ASEAN tại cuộc gặp hôm 27/9 bên lề phiên họp toàn thể của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York.
  • Tại hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Phnom Penh từ 19 đến 21/11, quan điểm của ASEAN về các tranh chấp ở Biển Ðông, trở nên rạn nứt hơn ngày hôm qua khi Philippines xác định Việt Nam là nước thứ hai chống lại tuyên bố của Campuchia rằng ‘ASEAN đã đạt đồng thuận không quốc tế hóa vấn đề này’.

Nói tóm lại, Hoa Kỳ và rất nhiều chuyên gia quốc tế nhấn mạnh về nhu cầu của một ASEAN đoàn kết tuy nhiên điều này cũng rất là bất định. Philippines đã chọn lựa đường đi của họ. Việt Nam vẫn còn đu dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Hy vọng Việt Nam sẽ có được một quyết định rõ ràng trước khi tình hình tại Hoàng Sa trở nên bất lợi cho Việt Nam hay một biến cố quân sự trên Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể xảy ra và Việt Nam lại mất thêm một số biển đảo tại Trường Sa.

PHILIPPINES: Philippines là nước yếu nhất trong khu vực về kinh tế-quân sự nhưng lại có thái độ cương quyết nhất khi đương đầu với Trung Quốc. Là một quốc gia biển-đảo và với hiệp ước phòng thủ hỗ tương với Hoa Kỳ, Philippines tương đối có lợi thế hơn Việt Nam trong chính sách ngoại giao của mình. Mặc dù mắc phải một vài lổi lầm chiến thuật ngoại giao nhỏ khi đương đầu với Trung Quốc, Philippines đã đạt được sự giúp đỡ cần thiết từ Hoa Kỳ và các quốc gia Á Châu.

Sau Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á cuối tháng 11, vì thái độ thân Trung Quốc của Campuchia, Tổng thống Benigno Aquino đã tuyên bố “ASEAN không phải là con đường duy nhất cho Philippines. Là một quốc gia có chủ quyền, Philippines có quyền bảo vệ các lợi ích quốc gia của mình”. Điều này cho thấy khả năng của nước này có thể sẵn sàng lựa chọn một con đường khác liên quan đến Mỹ – đồng minh thân cận truyền thống của Philippines và cũng có những lợi ích tự do, an ninh hàng hải và hàng không trên Biển Đông.

HỢP TÁC MỸ – PHI:

  • Mỹ đã đồng ý giúp Philippines tuần tra vùng biển duyên hải của nước này nhưng chi tiết của sự giúp đỡ này hiện còn chưa được xác định. Philippines muốn tăng cường trang bị tàu chiến, máy bay và thiết bị giám sát (như radar bờ biển), đồng thời muốn Mỹ cử tàu chiến và máy bay đến hiện diện tại Philippines. Nội dung hiệp định mới giữa hai nước Mỹ-Philippines cho phép quân Mỹ được tái sử dụng các căn cứ cũ ở Philippines là vịnh Subic và Clark. Manila đang cứu xét lời đề nghị Mỹ hỗ trợ các phi cơ P3C-Orion để thám sát bờ biển. Trong năm 2012, Mỹ liên tiếp gửi 3 tàu ngầm hạt nhân tấn công ra vào cảng biển Philippines. Chiếc tàu ngầm nguyên tử USS Louisville (SSN 724) cùng thủy thủ đoàn cập cảng Subic ngày 25/6. USS Hawaii (SSN-776) cập cảng vịnh Subic, Philippines ngày 10/9. Tàu ngầm USS Olympia (SSN-717) viếng Subic Bay vào cuối tháng 9/2012.
  • Trong 10 tháng đầu năm 2012, đã có 4 cuộc tập trận Mỹ-Phi. Tháng 01/2012, Hoa Kỳ và Philippines đã có cuộc tập trận chung mang tên Malampaya tại Biển Đông, gần vùng biển đang bị nhiều quốc gia tranh chấp. Cuộc tập trận chung tập trung cho việc thử nghiệm các trình tự nhằm bảo vệ các giàn khoan khai thác dầu khí trên biển. Tháng 7/2012 một cuộc diễn tập quân sự quy mô lớn nhất thế giới ở vùng biển Hawaii mang tên “Vành đai Thái Bình Dương-2012” (RIMPAC) do Hoa Kỳ tổ chức, với sự tham gia của 22 quốc gia trong đó có Philippines với tư cách quan sát viên. Cùng lúc, Hoa Kỳ và Phi tổ chức cuộc diễn tập Carat thường niên từ 2 đến 10-7-2012 về phía Đông Nam đảo Mindanao. Tháng 10/2012 quân đội Philippines và Mỹ đã bắt đầu cuộc tập trận đổ bộ Phiblex kéo dài 10 ngày trên Vịnh Subic.
  • Philippines ngày 8/10 cho biết căn cứ hải quân Subic Bay hướng ra Biển Đông có thể đóng một vai trò quan trọng như là một trung tâm tập hợp các tàu chiến Mỹ khi Washington xoay trục chiến lược về châu Á – Thái Bình Dương.

Căn cứ Hải quân Subic – Philippines

TĂNG CƯỜNG PHÒNG THỦ:

  • Theo tiết lộ của nhật báo Yomiuri Shimbun ngày 04/04/2012, Tokyo đang xem xét khả năng cung cấp cho cho Manila một hệ thống thông tin liên lạc giữa đất liền và lực lượng ngoài biển và 12 tàu tuần tra gồm 10 chiếc loại PS 07 Ashitaki – Mihashi, trọng tải 197 tấn và 2 chiếc lớn hơn. Sự hỗ trợ này nằm trong chương trình viện trợ phát triển chính thức ODA của Nhật Bản dành cho Philippines.
  • Trang tin ABS-CBN ngày 20/6 dẫn lời các viên chức không quân nước này cho biết Không quân Philippines sẽ nhập nhiều máy bay chiến đấu từ Hàn Quốc theo một hợp đồng có giá trị lên tới gần 600 triệu USD. Hợp đồng bao gồm 12 chiến đấu cơ hạng nhẹ TA-50. Các phi cơ này sẽ được giao từ nay cho tới năm 2013.
  • Theo Asia Times, vào tháng 8, Philippines sẽ đấu thầu các dự án tăng cường vũ trang trị giá khoảng 70 tỉ peso (1.8 tỉ USD). Đây là bước đầu tiên trong chiến dịch hiện đại hóa lực lượng vũ trang Philippines (AFP) trong vòng năm năm tới với tổng đầu tư dự kiến lên đến 500 tỉ peso (gần 12 tỉ USD).
  • Có khả năng Philippines sẽ mua 2 tàu khu trục cũ lớp Maestrale do Ý sản xuất. Đây sẽ là những tàu chiến hiện đại nhất của hải quân Philippines.
  • Kể từ tháng 10/2012, theo nguồn tin từ NHK dẫn lời một quan chức cấp cao của quân đội Philippines cho hay nước này đã triển khai 2 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến tại 9 đảo và bãi đá ở Trường Sa. Theo hãng AFP, Philippines ngày 27/12 thông báo sẽ mua 3 máy bay lên thẳng AW 109 “Power” do tập đoàn Anh- Ý Agusta Westland chế tạo để trang bị cho Hải quân.

MIẾN ĐIỆN: Kể từ khi có chính phủ “dân sự” đầu tiên, Miến Điện trong năm 2012 đang có những diễn biến ngoạn mục làm ngạc nhiên giới quan sát quốc tế dù rằng vẫn còn những khó khăn về xung đột chủng tộc:

  • Tháng 4, Mỹ bổ nhiệm đại sứ đầu tiên tại Myanmar sau 22 năm. Hoa Kỳ và EU bắt đầu nới lỏng lệnh cấm vận, quyết định giảm nhẹ trừng phạt kinh tế Miến Điện, bỏ lệnh cấm thị thực cho quan chức Myanmar và bãi bỏ lệnh cấm nhập khẩu sản phẩm của nước này vào thị trường Hoa Kỳ và Âu Châu.
  • Bà Aung San Suu Kyi đắc cử dân biểu Myanmar (tháng 4/2012)
  • Cuối tháng 6, bà Aung San Suu Kyi thực hiện chuyến công du lịch sử tới Pháp, Anh và Châu Âu. Bà được đón tiếp trọng thể như một nguyên thủ quốc gia khắp mọi nơi bà viếng. Cuối tháng 9, bà bắt đầu chuyến công du Hoa Kỳ kéo dài 2 tuần, và tại đây bà đã nhận giải thưởng cao quý nhất của Quốc Hội nước này.
  • Tháng 8, Tổng thống Miến Điện tuyên bố bỏ kiểm duyệt báo chí và cải tổ mạnh mẽ nội các.
  • Trong bài diễn văn tại đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 9, Tổng thống Thein Sein nói, với tư cách là công dân Miến Điện, ông hoan nghênh bà Aung San Suu Kyi đã được Hoa Kỳ trọng thị và vinh danh và ông bày tỏ lòng biết ơn về “những nỗ lực của bà đóng góp cho nền dân chủ của đất nước. Ông còn nói với BBC ông sẽ chấp nhận bà Aung San Suu Kyi là Tổng thống nếu người dân bỏ phiếu cho bà.
  • Cuộc họp của 26 nhà tài trợ quốc tế cho Miến Điện đã được tổ chức đầu tháng 10 bên lề Hội nghị thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF – và Ngân hàng Thế giới – WB – ở thủ đô Nhật Bản. Ý thức được tác hại kinh tế của vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc, chính quyền Tokyo đang đa dạng hóa đầu tư của Nhật Bản vào các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Việt Nam và nhất là Miến Điện. Cuối tháng Chín vừa qua, Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đã cử một phái đoàn hùng hậu sang tìm hiểu thị trường, tiếp xúc, gây dựng quan hệ với các doanh nhân và giới chức Miến Điện.
  • Ngày 19/11, Tổng thống Barack Obama đã có chuyến thăm lịch sử đến Miến Điện với tư cách là tổng thống Mỹ đương quyền đầu tiên đến thăm quốc gia Đông Nam Á này.
  • Bất chấp lệnh giải tán của chính quyền Miến Điện, hàng trăm dân làng, sinh viên, nhà sư vẫn tiếp tục biểu tình cho đến 28/11/2012. Họ phản đối một đề án khai thác mỏ đồng mà Trung Quốc muốn tiến hành ở Monywa, phiá Bắc Miến Điện. Hôm 01/12/2012, cảnh sát Miến Điện đã xin lỗi những người chống đối vì đã dùng vũ lực để giải tán biểu tình làm cho nhiều người bị thương.

KẾT LUẬN

Năm 2012 là một năm sôi động với các mưu đồ lấn chiếm trên Biển Đông của Trung Quốc không những đối với 2 láng giềng nhỏ gần nhất là Philippines và Việt Nam mà  còn đối với Nhật Bản trong vùng biển Điếu Ngư/Senkaku. Ông Tập Cận Bình đầu tháng 11 được cữ làm Chủ tịch nước với một Ủy ban Thường vụ mới gồm 7 người. Lãnh đạo mới có thể có những đường đi nước bước khác trước trên một số lĩnh vực. Nhưng riêng âm mưu bành trướng để độc chiếm Biển Đông, uy hiếp lợi ích sống còn của các nước Đông Nam Á thì không hề thay đổi, thậm chí còn khiêu khích hơn. Việt Nam, hơn ai hết, phải hiểu rằng trên thế giới này không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn”. Trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay, việc lựa chọn bạn thân hay đồng minh, hoặc đối tác đều phải tham chiếu lợi ích quốc gia. Và những lợi ích này cần phải được đánh giá ở góc độ tổng thể, đa chiều, xem xét cả trước mắt lẫn lâu dài. Hành vi bá quyền của Trung Quốc vẫn tiếp tục xảy ra cho đến khi các cường quốc liên hệ như Hoa Kỳ, Ấn Ðộ và Nhật Bản khẳng định rõ cho Trung Quốc rằng có một lằn ranh mà nước này không thể vượt qua cũng như các nước này và các quốc gia Đông Nam Á liên quan ở Biển Đông hình thành được một mạng lưới vững vàng về quân sự, chính trị, kinh tế. Một “NATO phiên bản châu Á” hay các liên minh thu hẹp với hạt nhân là Mỹ-Nhật- Úc Đại Lợi và có thể cả Ấn Độ-Hàn Quốc-Nga Sô cùng một vài quốc gia Đông Nam Á liên hệ là điều sớm hay muộn cũng sẽ xẩy ra. Cũng không có gì ngạc nhiên Việt Nam sẽ là một trong những thành viên chủ yếu của bất kỳ liên minh chống Trung Quốc nào có thể xuất hiện trong tương lai gần. Hy vọng Trung Quốc nhận ra được vị thế của mình để trở thành một thành phần có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới.

Phần kết luận của bài này được viết với những suy nghĩ tích cực nhất. Hy vọng sự thật sẽ khá hơn những tin tức từ nhiều mạng truyền thông trong nước cũng như các bình luận gia quốc tế về một bức tranh ảm đạm hơn nhiều cho Việt Nam trong năm 2012.

Hồ sơ: ITN-123112-QT-Tinh hinh Bien Dong 2012.doc

http://www.tranhchapbiendong.com

Nguyễn Mạnh Trí

E-Mail: prototri2012@yahoo.com

http://www.tranhchapbiendong.com

Tu chỉnh: 31  tháng 12 năm 2012

Hiến Pháp Phải Gắn Liền Với Con Người Việt Nam.

Nguyễn Quang Duy

Hiến Pháp Phải Gắn Liền Với Con Người Việt Nam.

Muốn thiết lập một Thể Chế Tự Do Việt Nam cần một Hiến Pháp Dân Chủ điều này không cần phải bàn tới, nhưng có người vẫn tin rằng phải trở lại với Hiến Pháp 1946.

Trên diễn đàn BBC trước đây, người viết chứng minh rằng chính Hiến Pháp 1946 xây dựng nền tảng cho thể chế độc tài cộng sản. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến Pháp này không được rõ ràng. Nghị Viện (Quốc Hội) chỉ có Một Viện duy nhất và cũng chính Viện này lại bầu lên một Chủ tịch nước. Quyền hạn của chủ tịch nước được liệt kê ở Điều thứ 49, cho phép chủ tịch nước các quyền hạn tuyệt đối không thua gì Tổng Thống Hoa Kỳ.

Nhưng đến Điều thứ 50 lại ghi rõ “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.” Khi ấy Hồ chí Minh là chủ tịch nước, Điều 50 đặt ông Hồ trên cả Hiến pháp và Luật pháp quốc gia.

Ông Hồ còn kiêm nhiệm chủ tịch đảng Cộng sản. Điều 50 như vậy sửa soạn cho cả một guồng máy chuyên chính cộng sản thần thánh hoá biến ông thành nhà độc tài trong một thể chế chuyên chính toàn trị. Vì thế ông Hồ đã tùy tiện xé bỏ Hiến Pháp 1946 để thay bằng các Cương Lĩnh Đảng 1959, 1980 và 1992. Thật ra dưới chế độ cộng sản Hiến Pháp chỉ là hình thức. Mọi quyết định đều từ các Nghị Quyết Đảng và không ít Nghị quyết hòan tòan vi hiến, thí dụ Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Công Thương Nghiệp hay Nhân Văn Giai Phẩm.

Học theo gương Hồ chí Minh đặt chủ tịch trên Hiến Pháp trên Luật Pháp Quốc Gia, các cháu ngoan của “Bác” đặt Điều 4 vào Hiến Pháp thôn tính tất cả quyền lực nhưng chẳng ai “phải chịu một trách nhiệm nào”. Trường hợp Đại tá Công an Đỗ Hữu Ca vi phạm Hiến Pháp và luật pháp tấn công lương dân nhưng lại trở thành người điều tra xét xử, trong khi gia đình Đòan văn Vươn vì tự vệ lại phải tù. Nhờ tiếng súng của gia đình Đòan văn Vươn mới biết Hiến Pháp 1992 không có điều lệ nào cho phép quân đội (và cả công an) tham gia cưỡng chế đất đai. Hai lực lượng này là để bảo vệ dân chứ không phải để tấn công dân. Còn “luật đất” thì có nhưng nhà nước cộng sản không áp dụng mà chỉ dùng “luật rừng”. Tình trạng lộng quyền đã nói lên tình trạng khủng hỏang Hiến Pháp, khủng hỏang luật pháp và phá sản của guồng máy cai trị tại Việt Nam.

Hồ chí Minh còn sợ bị người dân lật mặt nạ phản quốc. Con và cháu “Bác” ngày nay thì vượt “Bác” ở chỗ không sợ cả tội phản quốc công khai bán nước cho Tầu.

Nhưng khuyết điểm lớn nhất của Bản Hiến Pháp 1946 là thiếu vắng “con người Việt Nam”. Một Hiến Pháp đúng nghĩa cho Việt Nam cần gắn liền với làng xã với con người Việt Nam.

Hiến Pháp Hoa Kỳ

Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ đã xác nhận “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tư tưởng này là nền tảng cho Bản Hiến pháp Hoa Kỳ, nó đặt quyền người dân trên hết, còn quyền hạn của Chính phủ và Quốc Hội là những quyền do người dân ủy nhiệm.

Một mô hình tam quyền phân lập rõ ràng được đưa vào Hiến Pháp Hoa Kỳ. Quốc hội được trao quyền lập pháp, Tổng thống quyền hành pháp và Tòa án quyền tư pháp. Các quyền của mỗi nhánh lại được cân bằng và kiểm soát bởi các quyền của hai nhánh kia.

Hiến pháp Hoa Kỳ còn nêu rõ quyền hạn của các viên chức chính phủ. Các Nghị sỹ Dân Biểu chỉ được tiếp tục phục vụ nếu họ được tái bầu cử trong các cuộc bầu cử có định kỳ. Các viên chức bổ nhiệm phải được bổ nhiệm theo đúng Hiến Pháp. Nhờ Bản Hiến Pháp này Hoa Kỳ đã thiết lập một chính quyền Trung Ương Liên bang có thực quyền và thống nhất quyền lực đưa Hoa Kỳ từ những thuộc địa trở thành một cường quốc số một trên thế giới.

Cũng chính nhờ Bản Hiến pháp đặt quyền con người trên hết, dù xuất thân từ bất cứ nguồn gốc nào, mỗi người dân đều gắn bó với đất nước trong một niềm tự hào chung là công dân Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Và vì thế Hiến Pháp Hoa Kỳ đã trở thành một Hiến Pháp kiểu mẫu, một mô hình kiểu mẫu được nhiều quốc gia trên thế giới noi theo.

Hiến Pháp 1946 Thiếu Vắng Con Người Việt Nam

Trong bài “Viễn Tượng Việt Nam”, người viết có nhắc đến những người sọan ra Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945 đã sao chép những lời vàng ngọc trong Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ. Trước đó năm 1919 tại Hội Nghị Versailles, nhân Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tham dự và phát biểu về quyền tự quyết dân tộc, Nhóm Người Việt Yêu Nước Nguyễn ái Quốc đã gởi bản “Yêu sách của Nhân Dân Việt Nam” với yêu sách thứ bẩy mong người Pháp ban hành Hiến Pháp cho Việt Nam. Điều này cho thấy giới trí thức Việt Nam từ lâu đã hướng đến Hoa Kỳ như một quốc gia mẫu mực cho Việt Nam noi theo.

Hiến Pháp 1946 cũng được xây dựng dựa trên Hiến Pháp Hoa Kỳ như Điều 49 quyền hạn của Chủ tịch nước tương tự như quyền hạn của vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Nhưng các điều khác trong Hiến Pháp này lại trái ngược như tam quyền không phân lập. Việc nghiên cứu tìm hiểu thêm về Hiến Pháp này sẽ giúp cho chúng ta nắm được một giai đọan lịch sử mà tòan dân vừa giành được độc lập đang hướng đến xây dựng một thể chế tự do theo khuôn mẫu Hoa Kỳ.

Điều cần nói Hiến Pháp Hoa Kỳ là mô hình xây dựng cho một quốc gia lớn gồm nhiều cựu thuộc địa và dân chúng xuất xứ từ nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng tất cả đều ham muốn tự do và quyết tâm khai phá miền đất mới Hoa Kỳ.

Trong khi ấy Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nhỏ. Vào năm 1946 có đến 90 phần trăm dân Việt sống ở nông thôn và cơ cấu hạ tầng của Việt Nam là làng xã. Người Việt luôn gắn bó với làng xã quê hương. Cho dù phải sống xa quê hương người Việt luôn hướng về làng mạc nơi ông cha họ đã khai phá gầy dựng. Chương V của Hiến Pháp 1946 đề cập đến cơ cấu và trách nhiệm Hội Đồng Nhân Dân và Ủy Ban Hành Chánh. Nhưng Chương này nhằm mục đích duy nhất là để Trung Ương cai trị địa phương và địa phương cai trị người dân.

Hiến Pháp 1946 cùng chung mục đích với Hiến Pháp Hoa Kỳ ở chỗ nó hướng đến việc tập trung quyền lực về Trung Ương. Tòan Bản Hiến Pháp 1946 thiếu hẳn sự kết hợp và tham dự của người dân địa phương vào việc hình thành chính sách và chiến lược quốc gia.

Đất và Con Người trong Mô Hình Phát Triển Quốc Gia

Đất, tài nguyên, tiền vốn, kỹ thuật, nhân lực và tri thức là các yếu tố chính trong một nền kinh tế quốc gia. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp. Đến nay 70 phần trăm dân chúng vẫn sống tại thôn quê.

Theo Hiến Pháp hiện hành đất nông nghiệp không thuộc sở hữu nông dân mà thuộc sở hữu nhà nước. Nói cách khác người nông dân chỉ là những bần nông không ruộng không vườn. Dù họ đang sống trên mảnh đất do ông cha để lại, nhưng mảnh đất này đã bị đảng Cộng sản tước mất chủ quyền. Mất quyền sở hữu là mất động năng để người nông dân cần cù chăm sóc cho mảnh ruộng, mảnh vườn. Mất động năng làm việc người nông dân sẽ chỉ làm đủ sống qua ngày. Dân nghèo thì nước cũng nghèo.

Nhà nước giao đất cho nông dân và có quyền lấy lại đất bất cứ lúc nào. Quyền lấy lại đất lại bị các giới chức cầm quyền từ trung ương đến địa phương lạm dụng. Cũng như gia đình Đòan văn Vươn hằng triệu nông dân và gia đình đã, đang và sẽ lâm vào đường cùng. Trong khi đó giới chức cầm quyền càng ngày càng trở nên giàu có và quyền lực hơn.

Các phương cách thu hút vốn đầu tư hay phương cách phân chia vốn đầu tư quốc gia chủ yếu tập trung vào các thành phố các khu công nghệ càng làm cho nông thôn trở nên nghèo khó hơn. Người nông dân phải đóng thuế nhưng họ đóng thuế để phục vụ người giàu. Hậu quả là nông dân phải tha phương cầu thực hay sống nghèo đói tại quê nhà.

Một quốc gia mà phân cách giầu nghèo giữa thôn quê và thành thị càng ngày càng bị đào sâu thì dù giầu có cách mấy cũng không thể xem là một quốc gia phát triển. Đằng này Việt Nam lại là một nước nghèo và nông thôn Việt Nam ngày càng nghèo thêm.

Nói tóm lại cái nghèo của dân quê là do đảng Cộng sản tước bỏ tất cả các quyền mà tạo hóa đã ban cho con người. Muốn đất nước thóat khỏi cảnh nghèo vươn lên một Hiến Pháp mới phải gắn liền với làng xã Việt Nam, quyền của người nông dân phải được mang vào Hiến Pháp này.

Việt Nam Đất Nước của Làng Xã

Khi quân Nguyên xâm chiếm nước ta vua Trần cho vời các vị bô lão đại diện cho làng xã Việt Nam về kinh để xin ý kiến: Nên hòa hay nên chiến? Đây là bản sắc của dân tộc Việt Nam, là sự gắn bó dân chủ giữa trung ương và địa phương, là sự đòan kết giữa người cầm quyền chính danh và người dân từ khắp các thôn quê làng mạc.

Sự thất bại của chế độ cộng sản thúc đẩy chúng ta quay về tìm lại bản sắc dân tộc. Một trong những bản sắc nổi bật nhất chính là làng Việt truyền thống một tổ chức vô cùng đặc biệt. Trong bài viết mới đây tác giả Trần Trung Chính đã chỉ rõ làng là một tổ chức xã hội dân sự.

1. Mỗi làng đều có chợ, chùa, đình, văn từ văn chỉ, đền-miếu, công quán-điếm sở, giếng làng-ao làng, cổng làng, kho nghĩa sương, hệ thống đường làng, nghĩa trang làng và công điền-ruộng công. Nghĩa là mỗi làng đều có mọi phương tiện dịch vụ công cộng nhằm phục vụ cư dân trong làng trong xã.

2. Mỗi làng có pháp chế riêng (hệ thống hương ước), có tín ngưỡng của từng làng (thành hoàng làng)… Các hệ giá trị của làng được dân làng coi trọng như pháp luật nhà nước. 3. Người đứng đầu do các thành viên của làng bầu lên, được khởi đầu vào thời Lê đến thời Hậu Lê đã hoàn thiện và phổ biến áp dụng. Theo Đào Duy Anh việc quản trị hệ thống làng Việt Nam theo kiểu: “Công việc làng thường do dân làng bàn định, chứ nhà nước ít can thiệp đến, mà nhiều khi nhà nước có can thiệp cũng vô hiệu quả, cho nên ở nước ta có câu tục ngữ rằng: Phép vua thua lệ làng”.Chính nhờ thế khi đất nước lâm nguy, khi quân Tầu xâm lược làng xã mới nối kết để giữ gìn từng tất đất do ông cha để lại.

Cuộc Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc mục tiêu chính là đánh vào cơ cấu hạ tầng dân tộc để đặt lên một guồng máy trung ương tập quyền nhằm kiểm sóat địa phương. Guồng máy này đang trong thời kỳ phá sản và một thể chế tự do sớm muộn gì cũng sẽ đến với Việt Nam.

Từ đầu thế kỷ thứ 20 đến nay người Việt chuộng khuynh hướng hướng ngọai tìm cái hay của ngọai quốc. Điều này rất tốt nhưng cái hay của người ngòai thường khi lại không thích hợp với đất nước với dân tộc Việt Nam. Thể chế tự do chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Để phục hồi xây dựng lại đất nước chúng ta chỉ còn một con đường là quay về gìn giữ những giá trị mà ông cha ta để lại trong đó có giá trị dân chủ trong tổ chức làng xã đã nói bên trên.

Hiến Pháp Thụy Sĩ

Trả lời với các hội viên Lions International, Giáo sư Victoria Curzon-Price của Đại học Genève, cho biết nền kinh tế chánh trị Thụy sĩ hoàn toàn trái ngược các quốc gia láng giềng phần đông đang bị khủng khoảng và đình trệ là nhờ họ có một Hiến Pháp dân chủ đặc biệt đang hình thành bởi hai sức ép: sự cạnh tranh giữa các “tỉnh –canton” và “quyền sáng kiến”. Về quyền sáng kiến thì “… Những người dân cử đều dưới quyền kiểm soát của công dân. Bất cứ lúc nào, một nhóm công dân đều có thể đưa ra một ý kiến một sáng tạo. (100 000 chữ ký cho một sáng kiến cấp Liên bang) chống một đạo luật, đề nghị một đạo luật, có khi cả một dự án luật, miễn là đừng đi ngược với Hiến Pháp. Dĩ nhiên với một sức ép như vậy, các vị dân cử khó có thể đề nghị tăng thuế hay tăng tiền xài …”

Không riêng gì Thụy sĩ, tại các quốc gia dân chủ người lãnh đạo luôn muốn lắng nghe quan điểm của công dân. Ngày 24-2-2012, Quốc Hội Liên Bang Úc mời Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Khối 8406, Ủy Ban Bảo Trợ Người Lao Động và Qũy Tù Nhân Lương Tâm xin ý kiến nhằm hòan chỉnh diễn trình Đối thọai Nhân quyền giữa chính quyền Úc và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Tổng thống Barack Obama cũng đã chính thức muốn tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ để lắng nghe chúng ta trình bày các quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Cuộc gặp đã được thu xếp và sẽ diễn ra tại Tòa Bạch Ốc vào trưa Thứ Hai, mùng 5 tháng Ba sắp tới. Cuộc gặp dự trù kéo dài 3 giờ đồng hồ giữa các giới chức Tòa Bạch Ốc và khoảng 100 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ

Thế nhưng Hiến Pháp Úc Hiến Pháp Hoa Kỳ lại không cho quyền người dân trực tiếp tham gia hình thành các chính sách quốc gia.

Hiến Pháp Gắn Liền Với Con Người Việt Nam

Ưu điểm của Hiến Pháp Thụy Sĩ là ghi nhận quyền sáng kiến để người dân có thể trực tiếp đề ra những chính sách hầu tối đa lợi ích quốc gia. Quyền sáng kiến đã thích hợp với Thụy Sĩ sao lại không thích hợp với Việt Nam ?

Vì thế quyền sáng kiến nên được đưa vào Hiến Pháp Mới của Việt Nam. Nhưng thay vì chữ ký của người dân nên thay bằng chữ ký của một tỷ lệ làng xã Việt Nam, cả thôn quê lẫn thành thị. Nó sẽ giúp người dân nhất là người nông dân được trực tiếp tham gia vào việc hình thành các chính sách quốc gia. Nó sẽ giúp cân bằng quyền lực giữa trung ương và địa phương và tạo nên sự công bằng giữa các địa phương. Một Hiến Pháp với sự liên tục tham gia trực tiếp giữa làng xã và chính quyền Trung Ương sẽ giúp Việt Nam thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

DCVOnline


Bài do tác giả gởi, DCVOnline trình bày và minh hoạ.

Tài Liệu Tham Khảo:

1. Nguyễn Quang Duy (10-2005), Hiến pháp đúng mực sẽ giúp người dân làm chủ, http://www.bbc.co.uk
2. Nguyễn Quang Duy (2-2012), Viễn Tượng Việt Nam: Tự Do, Tri Thức Và Phát Triển.
3. Phan Văn Song (1-2012), Sự thành công của Thụy sĩ: Chánh trị hay Kinh tế?
4. Trần Trung Chính (2-2012), Tổ chức xã hội dân sự – một di sản của Việt Nam

Lê Hiếu Đằng và đề nghị sửa đổi Hiến pháp 1992

Tin từ BBC cho biết: ngày 30/11/2011, tại Saigon trong cuộc hội thảo về “Tổng kết việc thực hiện và kiến nghị sửa đổi hiến pháp”, ông Lê Hiếu Đằng đã đọc một bài tham luận có tựa đề: “Góp ý về sửa đổi hiến pháp 1992”. Mở đầu bài tham luận vừa kể là phần “Cách đặt vấn đề”, Lê Hiếu Đằng viết:

“Muốn sửa đổi hiến pháp một cách triệt để và toàn diện thì trước hết cần phải xác định Việt Nam đang ở trong giai đoạn nào, thực trạng kinh tế-xã hội ra sao, trên cơ sở đó xem xét lại các điều khoản trong hiến pháp 1992 cho phù hợp.

Thực chất là Việt Nam chúng ta chưa có chủ nghĩa xã hội. Vừa qua chúng ta mới hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc còn nhiệm vụ dân chủ thì chưa thực hiện được bao nhiêu do chiến tranh liên miên và khi hết chiến tranh thì do những sai lầm trong chính sách cải tạo và một số chính sách khác đã không tạo được những nền tảng cơ bản để đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó hiện nay thực chất chúng ta đang làm nhiệm vụ dân chủ trong cách mạng DTDC mà chúng ta chưa thực hiện được.

Vì vậy cần nghiên cứu để giữ lại, khôi phục những điều khoản trong hiến pháp 1946. Hiến pháp của nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước dân chủ mới”

Nhận định đối với “cách đặt vấn đề”:

Tuy không minh thị nói ra nhưng rõ ràng là Lê Hiếu Đằng đã vận dụng duy vật sử quan để trình bày “Cách đặt vấn đề”.

Xây dựng hiến pháp không có sử quan (Sử quan duy vật không là sử quan duy nhất trong lịch sử triết học) chẳng khác nào thực hiện một cuộc hải hành không có la bàn. Thế nhưng nhân danh sự ủy nhiệm nào (ngoại trừ những cuộc bầu cử man trá) của nhân dân để đảng CSVN từ nhiều thập niên qua vẫn khăng khăng đòi đưa dân tộc tiến lên xã hội chủ nghĩa? Mặt khác làm thế nào để lý giải, theo phép biện chứng, rằng vài năm nữa, vài chục năm nữa, đảng CSVN sẽ đưa Việt Nam, từ một xã hội thị trường tự do (vĩnh viễn từ giã kinh-tế-độc-quyền-xã-hội-chủ-nghĩa), tiến lên xã hội chủ nghĩa? Thế nào là xã hội chủ nghĩa? Đạt đến bao nhiêu thành tố thì một xã hội sẽ đươc gọi là xã-hội xã-hội-chủ-nghĩa? Đây là những câu hỏi hiển nhiên không có câu trả lời. Rõ ràng “cách đặt vấn đề” của Lê Hiếu Đằng chính là cách đẩy câu chuyện “sửa đổi hiến pháp 1992” rơi vào thế giới mơ hồ, huyễn hoặc.

Sau phần “Cách đặt vấn đề”, Lê Hiếu Đằng nêu lên 12 đề nghị nhằm sửa đổi hiến pháp 1992. Bài viết này xin trích dẫn nguyên văn từng đề nghị một, kế đó là lời nhận định của người cầm bút.

Đề nghị (1):

“Cần trở lại hình thức nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trước đây để thiết chế bộ máy nhà nước phù hợp với thể chế cộng hòa như ở một số nước trên cơ sở những điều khoản trong hiến pháp 1946, một hiến pháp mà tôi cho là cho đến nay là tiến bộ nhất…”

Nhận định (1):

Bất kỳ chế độ chính trị nào cũng có khả năng “vẽ ra” một hiến pháp rất đẹp. Điều quan trọng không là hiến pháp 1946 tiến bộ nhất hay tiến bộ nhì. Điều quan trọng nằm ở dấu hỏi rằng chế độ cai trị có nghiêm chỉnh thực thi hiến pháp do chính họ “sáng tác” ra hay không? Đừng quên rằng chế độ Hà Nội vừa là tác giả tài ba của hiến pháp 1946 vừa là can phạm cực độc của hai tội đại ác vào giữa thập niên 1950: cải cách ruộng đất và Nhân Văn Giai Phẩm.

Nếu hiến pháp 1946 là hiến pháp tiến bộ nhất thì hiến pháp 1992 phải là hiến pháp tinh vi nhất. Tinh vi ở điểm: mọi quyền lợi của công dân đều được hiến pháp 1992 long trọng minh xác là quyền hành kia sẽ được nhà nước thượng tôn. Thế nhưng ngay sau mỗi điều khoản gọi là được thượng tôn vừa nêu, hiến pháp 1992 bao giờ cũng cẩn thận ghi chú thêm: quyền này sẽ thực thi “theo qui định của pháp luật”. Chúng ta hãy khảo sát điều 69 của hiến pháp 1992 như một thí dụ điển hình để tìm hiểu thế nào là “theo qui định của pháp luật”.

Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo qui định của pháp luật

Câu hỏi là: pháp luật của CSVN đã qui định như thế nào về quyền tự do ngôn luân và tự do báo chí? Xin thưa:

1) Thông báo ngày 11/10/2008 của bộ chính trị và chỉ thị số 37 ngày 29/11/2008 của thủ tướng CSVN đều ra lệnh cấm tư nhân làm báo.

2) Quyết định số 97 ngày 24/07/2009 của thủ tướng CSVN qui định: các nhà khoa học Việt Nam không được phép công bố ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước.

Hai văn bản pháp luật nêu trên cho thấy “theo qui định của pháp luật” có nghĩa là đảng Cộng Sản đã dùng pháp luật ngăn cấm quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Điều 69 chỉ là một trường hợp trong vô số trường hợp khác đã minh chứng: tại Việt Nam, dưới chế độ CS, pháp luật cao hơn hiến pháp. Pháp luật có quyền ngang nhiên tước bỏ mọi quyền sống của người dân kể cả những quyền đã được hiến pháp mạnh mẽ tuyên xưng và cam kết bảo vệ.

Vấn đề không là đi tìm một hiến pháp tiến bộ nhất, vấn đề chính là đi tìm một giải pháp có năng lực triệt tiêu vĩnh viễn tệ nạn hiến pháp bị đè bẹp bởi pháp luật. Giải pháp kia không là gì khác hơn là thể chế dân chủ đa nguyên chân chính.

Đề nghị (2):

“Trong hiến pháp sửa đổi cần có qui định cụ thể về sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản với một số điều khoản cụ thể, có thể có một chương riêng, trong đó có điều khoản giám sát và chế tài của nhân dân đối với đảng Cộng Sản, nếu không đảng Cộng Sản sẽ trở thành một siêu quyền lực, đứng ngoài và trên luật pháp sau đó có thể có một luật về sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Không thể duy trì một điều khoản quá chung về sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản như điều 4 trong hiến pháp hiện nay. Nếu không luật hóa sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản thì đảng không phải lãnh đạo nữa mà đảng cai trị trực tiếp.”

Nhận đinh (2):

Có thể nói được rằng không người Việt Nam nào không cảm thấy “mát gan, mát ruột” khi nghe Lê Hiếu Đằng kêu gọi “luật hóa sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản”, kêu gọi cần “có điều khoản giám sát và chế tài của nhân dân đối với đảng Cộng Sản”

Nhân dân chỉ có đầy đủ quyền lực để giám sát và chế tài đảng Cộng Sản chừng nào đảng Cộng Sản biết sợ lá phiếu của người dân, chừng nào nhân dân có thực quyền sử dụng lá phiếu để bầu đảng Cộng Sản lên nếu đảng quả thực anh minh hoặc truất phế đảng Cộng Sản xuống nếu đảng đúng là tham ô, thối nát, tay sai của ngoại bang. Luật hóa sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản phải có nghĩa là mang sinh mệnh chính trị của đảng CSVN đặt dưới quyền sinh sát của lá phiếu công dân trong pháp chế tự do dân chủ đích thực. Ngoài phương pháp luật hóa vừa trình bày, mọi mưu tính đi tìm con đường luật hóa nào khác chỉ là nỗ lực sử dụng chuồng gà để nhốt con cọp.

Đề nghị (3):

“Nếu chúng ta chưa chấp nhận đa nguyên, đa đảng thì phải nâng cao vai trò MTTQVN trong vai trò giám sát phản biện xã hội với những điều khoản cụ thể, trong đó có những qui định về quyền hạn thực sự của một tổ chức độc lập như một kiểu thượng nghị viện như ở một số nước. Hiện nay MTTQVN và các đoàn thể còn rất hình thức, chẳng có quyền hạn gì, hoạt động không hiệu quả, dân mất lòng tin. Thậm chí cả quốc hội cũng vậy. Cần có một chương riêng về vai trò MTTQVN.”

Nhận định (3):

Điều 69 hiến pháp 1992 xác định công dân có quyền tự do hội họp, lập hội. Hội ở đây là hội nói chung. Vì vậy hội có thể là một công ty thương mãi, môt câu lạc bộ thể dục, một đảng chính trị. Mỗi hội mỗi đảng là một nguyên. Nhiều hội, nhiều đảng là đa nguyên, đa đảng. Phục vụ luật pháp có nghĩa là giải thích luật pháp, làm cho luật pháp trở nên thông thoáng. Thay vì đấu tranh đòi hỏi thực thi điều 69 để hình thành xã hội đa nguyên đa đảng, Lê Hiếu Đằng lại đề nghị biến MTTQVN thành một loại thượng viện để thượng viện này đóng vai trò giám sát phản biện xã hội. Ngày nay không ai không biết đảng CSVN và MTTQVN gắn bó với nhau như tay phải và tay trái. Người Việt Nam nổi tiếng thông minh, dân số Việt Nam là 87 triệu người. Không lẽ quốc gia Việt Nam thiếu người và thiếu tim óc đến độ phải nhờ tay trái “giám sát phản biện” tay phải?

Đề nghị (4):

“Hiến pháp sửa đổi cần tăng cường quyền lực của chủ tịch nước, không thể vai trò tượng trưng như hiện nay. Muốn vậy cần hợp nhất vai trò tổng bí thư đảng Cộng Sản với chủ tịch nước là một. Hay nói cách khác tổng bí thư đảng Cộng Sản nên là chủ tịch nước. Hiện nay vấn đề này đã chín mùi, không nên vì việc “chia ghế” mà ảnh hưởng đến sự nghiệp chung.”

Nhận định (4):

Vấn đề “chia ghế” (chữ dùng của Lê Hiếu Đằng) hiển nhiên là những “chia chác” tối mật trong nôi bộ của đảng, người dân không quan tâm. Người dân chỉ nhận biết công lý rằng: guồng máy cầm quyền mạnh hay yếu không nằm ở sự việc hai chức vụ hợp lại thành một ghế hay một chức vụ được chia ra thành ba ghế nhằm hóa giải căn bệnh “trâu buộc ghét trân ăn”. Guồng máy cầm quyền chỉ mạnh, chính phủ chỉ có uy tín quốc tế chừng nào nhân dân hợp tác chặt chẽ với nhà nước thông qua hình thức người dân dùng lá phiếu hoàn toàn tự do dân chủ để tuyển chọn cấp lãnh đạo quốc gia.

Đề nghị (5):

“Nếu chưa chấp nhận nguyên tắc “Tam quyền phân lập” (Thực ra đây là thành quả đấu tranh của con người trong việc thực hiện quyền dân chủ của người dân chứ chẳng phải là sản phẩm của dân chủ tư sản như đảng Cộng Sản quan niệm) thì cũng cần những điều khoản qui định vai trò độc lập của lập pháp, hành pháp và tư pháp. Không thể để nhập nhằng như hiện nay. Nên cần có một chương riêng với những điều khoản cụ thể.”

Nhận định (5)

Đúng như Lê Hiếu Đằng nhận định: tam quyền phân lập là công lý hằng cửu của loài người. Tuy nhiên làm thế nào có được phân lập nếu cả ba quyền kia đều nằm gọn trong tay của đảng viên đảng Cộng Sản, dưới sự lãnh đạo duy nhất và chặt chẽ của bộ chính trị? Không có tam quyền phân lập thật sự, dân chủ chỉ là chiếc bánh vẽ thô thiển và kệch cỡm. Không có tam quyền phân lập quan hệ giữa nhà cầm quyền và người dân chỉ là quan hệ thống trị – bị trị.

Đề nghị (6):

“Cần trở lại những điều khoản nói về các quyền công dân trong hiến pháp 1946. Đây là những điều khoản còn phù hợp trong tình hình hiện nay và phù hợp với xu thế hội nhập, tiến bộ hiện nay của thế giới, bảo đảm các quyền con người theo công ước quốc tế, tạo được niềm tin, sự tin cậy và thống nhất rộng rãi với các nước trong khu vực và thế giớikết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại”.

Nhận định (6):

Như đã trình bày ở Nhận đinh (1): vấn đề không là trở lại hiến pháp 1946 hay đi sao chép hiến pháp của các quốc gia dân chủ tiến bộ để cống hiến cho Việt Nam “một hiến pháp đẹp”. Vấn đề chính là làm thế nào để các điều khoản trong hiến pháp Việt Nam không bị gục chết trên con đường âm u “theo qui định của pháp luật”. Vả lại, tổ chức nào đưa Việt Nam trở lại hiến pháp 1946? Quốc hội hiện nay ư ? Quốc hội giả làm sao tạo ra được hiến pháp thật, hiến pháp chính thống, chính danh?

Đề nghị (7):

“Cần có những điều khoản minh bạch, rõ ràng về quyền tự do bầu cử và ứng cử của công dân mà không có bất cứ tổ chức nào, kể cả đảng Cộng Sản đi ngược lại hoặc vi phạm”

Nhận định (7):

Hiển nhiên là bằng vào Đề nghị (7) Lê Hiếu Đằng đang biểu lộ quyết tâm đạp đổ tệ nạn “đảng cử, dân bầu, công an canh chừng”. Nói rõ hơn Lê Hiếu Đằng đang đòi hỏi đảng Cộng Sản hãy để cho nhân dân Việt Nam có được những cuộc bầu cử tuyệt đối tự do và công bằng theo đúng pháp chế dân chủ đa nguyên của thế giới văn minh. Nhận định (7) xin chấm dứt bằng lời cầu chúc Lê Hiếu Đằng nhanh chóng thành công.

Đề nghị (8):

“Thực hiện nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” nên có điều khoản qui định việc tổ chức hình thức “tối cao pháp lệnh”, “tòa án hiến pháp” để xử các vi phạm của các chức danh cao của nhà nước như chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng…”

Nhận định (8):

Chỉ trong trường hợp đảng Cộng Sản khuất bóng, đề nghị (8) mới có thể trở thành hiện thực. Ở vào hoàn cảnh mới và tốt đẹp này Việt Nam cần gì phải cặm cụi sửa đổi hiến pháp 1992? Việt Nam sẽ có ngay quốc hội lập hiến, có ngay hiến pháp mới: hiến pháp đích thực của công lý dân chủ đa nguyên.

Đề nghị (9):

“Hiến pháp sửa đổi cần có những điều khoản qui định cụ thể, thể hiện những phương châm tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là trong hai lãnh vực giáo dục và y tế. Nếu không có những điều khoản qui định những phúc lợi xã hội trong hai lãnh vực thiết yếu nói trên thì không có gì là ưu việt của chế độ chúng ta, thậm chí còn tệ hơn các chế độ khác.”

Nhận định (9):

Ngày 29/11/2011, tại Hà Nội, Đại sứ Anh, tiến sĩ Antony Stokes, phát biểu: “Tham nhũng đe dọa sự phát triển và ổn định của đất nước cũng như uy tín của Việt Nam. Đồng thời tham nhũng làm tổn thương người nghèo, và những người dễ bị tổn thương”. Đây là kiểu nói của giới ngoại giao. Trong thực tế, tham nhũng tại Việt Nam ghê gớm và độc hại gấp nhiều lần so với lời phát biểu của đại sứ Anh. Với tệ nạn tham nhũng trầm trọng như vậy, nhà nước CSVN làm gì có tiền để phân bổ phúc lợi xã hội đến với người dân? Đề nghị (9) chỉ có tác dụng của một loại hoa giấy nhằm “làm dáng” cho công việc sửa đổi hiến pháp 1992.

Đề nghị (10):

“Hiến pháp sửa đổi cần xác định quyền sở hữu ruộng đất của người dân, bãi bỏ chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước về ruộng đất hiện nay, phù hợp với nghị quyết đại hội đảng CSVN lần thứ 11 về vấn đề quyền sở hữu.”

Nhận định (10):

Xác định quyền sở hữu có thể là một hình thức “luật hóa” những tài sản của quốc gia hay của tư nhân bị cưỡng chiếm sau biến cố 20/07/1954 và 30/04/1975. Vì vậy quyền sở hữu của công dân ở đây cần được nhấn mạnh là quyền sở hữu phải chân chính. Và cũng vì vậy, tài sản của Nhà Chùa xin trả lại cho Nhà Chùa, của Nhà Thờ xin trả lại cho Nhà Thờ, của Thánh Địa nào xin trả lại cho Thánh Địa đó, của quốc gia xin trả lại cho quốc gia… Thêm vào đó, xin đừng quên: những người trước đây bị gọi là những tên vượt biên phản quốc, ngày nay những tên phản quốc kia gửi về nước hàng năm trên tám tỉ Mỹ Kim và được thân thương gọi là “Khúc ruột ngàn dặm”. Bên cạnh lời tôn xưng đậm đà tình tự dân tộc này, liệu chừng tài sản của “khúc ruột ngàn dặm” năm xưa có được nhà nước CSVN trả lại hay không?

Đề nghị (11):

“Qui định rõ vấn đề chủ quyền biển đảo, trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”

Nhận định (11):

Phải chăng đảng Cộng Sản dự tính chống ngoại xâm bằng cách ghi vào hiến pháp vấn đề chủ quyền biển đảo? Muốn chống ngoại xâm hữu hiệu, người Viêt Nam cần có nội lực dân tộc. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên nội lực dân tộc chính là mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa quần chúng và nhà cầm quyền. Sự hợp tác chặt chẽ vừa nói chỉ hiện thực trong bối cảnh người dân có quyền tuyển chọn cấp lãnh đạo thông qua những cuộc bầu cử hoàn toàn tự do và công bằng.

Đề nghị (12):

“Cần có điều khoản qui định lực lượng vũ trang (Quân Đội Nhân Dân Việt Nam), Công an không được làm kinh tế bao gồm làm kinh doanh thương mãi, cho thuê mặt bằng…”

Nhận định (12):

Rõ ràng là đề nghị (12) có chủ đích trói tay giới tham ô, nhũng lạm. Thế nhưng, thực tế cho thấy không phải tất cả đại gia đỏ đều là thành viên của quân đội hay công an. Như vậy cội nguồn của tham ô nhũng lạm không là quân đội hay công an mà chính là đảng CSVN. Vì vậy muốn diệt trừ tham nhũng tận gốc rễ tất cả người Việt Nam phải tích cực đấu tranh nhằm buộc đảng CSVN phải nằm dưới quyền sinh sát của lá phiếu tự do từ trong tay người dân.

Kết luận:

Ngôn ngữ là ngôn ngữ chung, quan điểm là quan điểm riêng của mỗi cá nhân. Dùng ngôn ngữ chung để thuyết phục khối quan điểm riêng chấp nhận một chân lý chung là việc làm rất khó khăn, rất dễ bị kết án là võ đoán, từ đó cuộc thuyết phục bị thất bại. Nhằm vượt thắng thất bại vừa nêu, ông Lê Hiếu Đằng đã sáng tạo ra một phương pháp thuyết phục mới. Phương pháp này được phô diễn dưới hình thức “12 đề nghị sửa đổi hiến pháp 1992”. Thực vậy, mỗi đề nghị trong 12 đề nghị kia là một mô đất trên dòng lịch sử. Phân tích từng mô đất một người phân tích nhận thấy phương pháp luận của dân chủ đa nguyên là giải pháp duy nhất hợp lý giúp san bằng mô đất. Mười hai lần phân tích là 12 lần chân lý dân chủ đa nguyên ngời sáng. Dân chủ đa nguyên là chân lý hằng cửu, là cao điểm của văn minh nhân lọai. Chỉ cần một lần giới thiệu là dân chủ đa nguyên lập tức được nghinh đón. Đặc biệt, Lê Hiếu Đằng trong một tiểu luận góp ý đã kiên nhẫn giới thiệu và đề cao dân chủ đa nguyên đến 12 lần. Đó là lý do thầm kín và là nội dung cốt lõi mà, theo dòng suy nghĩ của người đọc, tác giả Lê Hiếu Đằng muốn ký gửi trong bài viết “Góp ý về sửa đổi hiến pháp 1992”. Nếu dòng suy nghĩ của người đọc là đúng thì phương cách dễ hiểu và nhanh gọn nhất là Lê Hiếu Đằng hãy cùng toàn dân đấu tranh trực tiếp đòi hỏi dân chủ đa nguyên thay vì đề nghị sửa đổi hiến pháp 1992, hiến pháp của một chế độ mà ông Gorbachov, cựu lãnh tụ của Cộng Sản Liên Xô, đã phê phán là “không thể sửa đổi được”.

© Đỗ Thái Nhiên

dothainhien@yahoo.com

© Đàn Chim Việt

 THEO DÒNG SỰ KIỆN:

Vài suy nghĩ về việc sửa đổi Hiến pháp?

Những ngày này, báo chí trong nước, giới thạo tin và những người có quan tâm đến tình hình đất nước đang bàn tán về việc sửa đổi Hiến pháp 1992. Các đại biểu Quốc hội, nhà báo, luật gia, kinh tế gia… đã hăng hái đưa ra rất nhiều ý kiến đóng góp xung quanh vấn đề thủ tục, nhân sự tham gia cố vấn dự thảo Hiến pháp sửa đổi, những định hướng và nội dung cụ thể cho việc sửa đổi. Mặc dù còn nhiều người hoài nghi về hiệu quả của việc làm này nhưng không ít người đặt những hi vọng nhất định vào nó.

Về luật học, Hiến pháp là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, đóng vai trò chỉ đạo các luật. Về chính trị, Hiến pháp là một cái khung định hình những nguyên tắc chính trị cơ bản, thiết lập hình thức chính thể, cấu trúc Nhà nước của một quốc gia. Cũng như bất cứ một định chế chính trị xã hội nào, Hiến pháp phải được linh động thay đổi theo thời gian cho thích hợp với các điều kiện cụ thể của quốc gia. Không thể phủ nhận rằng, sau một khoảng thời gian nhất định, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của một quốc gia sẽ có những thay đổi và việc tu chính một bản Hiến pháp là rất cần thiết để làm cho văn bản mang tính cốt lõi pháp lý và chính trị này phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Nếu không, Hiến pháp lỗi thời sẽ ngăn cản những tiến bộ xã hội.

1/ Thay đổi nhiều nhưng không căn bản

Từ năm 1945 tới nay, Nhà cầm quyền cộng sản đã ban hành bốn bản Hiến Pháp (1946, 1959, 1980 và 1992) và ngay chính bản Hiến pháp 1992 hiện hành cũng đã được bổ sung, sửa đổi một lần mới đây vào năm 2001. Thay đổi là cần thiết, nhưng khi người ta thay đổi quá nhiều lần và khoảng cách giữa hai lần thay đổi quá ngắn khiến chúng ta không thể không suy nghĩ.

Việc bỏ đi một Hiến pháp cũ để thay bằng một Hiến pháp mới, hay việc tu chính một bản Hiếp pháp hiện hành là một việc hệ trọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Việc làm này phải song hành với thiện chí tiến bộ của Nhà cầm quyền, nhận thức và sự đóng góp của người dân trong việc xây dựng Hiến pháp, trình độ lập pháp của Quốc hội, hiện trạng quốc gia… Sự thay đổi, sửa đổi chóng vánh và chắp vá chỉ thể hiện một điều là người ta muốn đối phó tình thế, thiện chí giả tạo và xoa dịu những căng thẳng bề nổi hơn là thực tâm thúc đẩy tiến bộ. Hơn nữa, việc thay đổi tùy tiện đối với một văn bản có tầm quan trọng như thế của những người cộng sản trong bao nhiêu năm qua  làm cho ta thấy thái độ coi thường Hiến pháp của họ. Đối với họ, Hiến pháp không phải là  bản cam kết, mà chỉ là cái công cụ trong tay, muốn định đoạt thế nào tùy nghi. Và sự thiếu vắng tiếng nói đóng góp của các tầng lớp dân chúng cũng nói lên rất nhiều cái vai trò mờ nhạt, mang tính danh nghĩa của định chế quan trọng này ở Việt Nam.

Chúng ta hãy nhìn vào Hoa Kỳ, từ một quốc gia mới giành độc lập (13 bang với dân số khoảng 2,5 triệu người) đã trở thành một siêu cường kính tế, chính trị, quân sự (50 bang với dân số hơn 308 triệu người) trong khoảng hơn 200 năm chỉ có duy nhất một bản Hiến pháp. Hiến pháp Hoa Kỳ được soạn thảo năm 1787, cách đây 224 năm (dù đã trải qua 27 lần tu chính) đến nay vẫn có hiệu lực pháp luật. Hay ngay cả một quốc gia rộng lớn, dân số đông, thành phần tôn giáo và sắc tộc phức tạp như Ấn Độ từ năm 1950 (3 năm sau ngày độc lập) đến nay duy chỉ có một bản Hiếp pháp (với nhiều lần tu chính Hiếp pháp). Còn Trung Quốc, một quốc gia cộng sản sát vách Việt Nam từ khi Mao Trạch Đông nắm quyền lãnh đạo toàn bộ Đại lục đã có bốn bản Hiến pháp thay nhau ra đời (năm 1954, 1975, 1978 và 1982), riêng Hiến pháp hiện hành (năm 1982) cũng đã nhiều lần được tu chính. Ở Việt Nam, bao lần Hiến pháp thay đổi, nhưng những bất cập và khiếm khuyết gốc rễ về chế độ chính trị, hình thức chính thể, sự phân chia quyền lực Nhà nước, quyền tư hữu đất đai… vẫn tồn tại.

Ở một quốc gia dân chủ, Hiếp pháp đạt trình độ lập pháp cao với thủ tục nghiêm ngặt, có nội dung hoàn chỉnh và thống nhất, nêu lên cơ sở pháp lý và chính trị mang tính nguyên tắc và cốt lõi. Dù trải qua thời gian dài nó vẫn giữ nguyên giá trị bất hủ; và chỉ cần sửa đổi, bổ sung một số vấn đề mới cho phù hợp với sự phát triển của lịch sử đất nước thì nó có thể có hiệu lực pháp luật vượt thời gian. Còn dưới các chế độ độc tài, Hiến pháp chỉ như một thứ đồ chơi, biến dạng tùy theo sở thích của tầng lớp lãnh đạo. Thực tế cho thấy, Hiến pháp thường hay bị thay đổi bởi các chế độ độc tài. Có hai trường hợp, một là những nhà độc tài lên nắm quyền nhờ một bản Hiến pháp dân chủ như Hitler chẳng hạn sẽ quay ngược lại thay đổi Hiến pháp đó bằng một bản Hiến pháp mới có lợi cho ông ta trong việc thâu tóm quyền lực. Hai là, những chính thể độc tài đang cai trị với bản Hiến pháp phi dân chủ do chính họ làm ra, cũng thường thay đổi nó theo từng thời kỳ để né tránh việc giải quyết những bức xúc trong nước.

Thật buồn cười khi một việc tốn nhiều thời gian, tâm sức chuyên gia và công quỹ quốc gia, chẳng mang lại sự thay đổi và hiệu quả cụ thể nào lại cứ được truyên truyền và liên tục thực hiện. Tiền thuế của dân đâu phải được nộp để các nhà lãnh đạo thỉnh thoảng mang Hiến pháp ra đổi Hiến pháp mới, hay sửa lại cho có công có việc mà làm!

2/ Ý chí của ai?

Nhiều người đã đóng góp ý kiến rằng nên xây dựng một bản Hiến pháp mang tính chất của một khế ước (khế ước trao quyền của người dân cho những người sẽ đại diện họ lãnh đạo quốc gia, đồng thời những người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước nhân dân khi không thực hiện được những điều mình cam kết). Mong ước có một Hiến pháp như một khế ước là mong ước chính đáng của người Việt Nam từ bao năm qua. Thế nhưng, điều kiện tiên quyết để Hiến pháp được coi  là khế ước khi nó được lập nên và  phê chuẩn bởi một Quốc hội đại diện cho nhân dân (do nhân dân bầu lên một cách minh bạch và công bằng). Mỗi một đại biểu Quốc hội phải gánh vác trách nhiệm được dân giao phó, ý chí chính trị của họ chính là ý chí của nhóm người mà họ đại diện. Hiến pháp hay bất cứ đạo luật nào đều được tạo nên bởi Quốc hội thì trước tiên ta khẳng định nó thể hiện ý chí của Quốc hội. Nếu Quốc hội thực sự đại diện cho nhân dân thì bản Hiến pháp ấy cũng thể hiện ý chí người dân. Và như cái cách mà tôi luôn đề cao, mọi thứ đều mang cái bản chất và ý chí của những nhân tố tạo ra nó. Một bản Hiến pháp do những người đại diện cho Đảng tạo ra thì nội dung của nó chỉ thể hiện ý chí của Đảng. Vậy làm sao ta có được một  khế ước (hợp đồng) công bằng khi những người lãnh đạo cứ tự biên tự diễn, người dân chỉ việc ký và thực hiện? Đó là vấn đề về thủ tục.

Tiếp đến là vấn đề nội dung. Người dân và các chuyên gia được tham gia vào những nội dung sửa đổi này ở mức độ nào?! Hay đó chỉ là sự “tiếp nhận cởi mở” các ý kiến đóng góp, để rồi cuối cùng đâu lại vào đó, nội dung sửa đổi chỉ là những văn bản đặt trên bàn làm việc Trung ương Đảng; Quốc hội chỉ việc nhắm mắt thông qua, còn người dân chẳng mảy may biết gì. Đó là chưa kể đến một cuộc trung cầu dân ý là không thể thiếu cho một tu chính án Hiến pháp. Cứ giả định rằng, những đại biểu Quốc hội “Đảng cử dân bầu” này dù không có trưng cầu dân ý, dù không tham khảo ý kiến chuyên gia vẫn đưa ra được những nội dung sửa đổi cực kỳ tiến bộ, hợp lòng dân, thể hiện ý chí người dân. Thì có gì đảm bảo được rằng Hiến pháp sửa đổi này sẽ được tôn trọng? Chúng ta đều biết rằng một bản hiến pháp cực kỳ tiến bộ cũng chỉ là một cái “hàng rào giấy”. Có ai ngăn cản được nhà cầm quyền vi phạm nó? Riêng cái đuôi “theo quy định của pháp luật” cũng đã mở ra một con đường thênh thang cho sự ra đời của các đạo luật vi hiến. Người ta cố tình làm cho Hiến pháp phụ thuộc vào luật chứ không phải ngược lại. Khi làm luật, hoặc ra các nghị định, sắc lệnh, người ta sẽ quăng Đạo luật cao nhất này vào một xó. Để bảo vệ Hiến pháp, nhiều người nghĩ đến một Tòa bảo hiến. Nhưng khi chưa có tam quyền phân lập thì Tòa bảo hiến cũng bằng thừa. Và khi chưa có xã hội dân sự và đa đảng thì tam quyền phân lập cũng chỉ là trên danh nghĩa. Có đa đảng và xã hội dân sự mạnh mẽ, thẩm phán sẽ không dính dáng gì đến Đảng phái, chỉ làm việc theo lương thức và dưới sự giám sát của người dân. Còn khi chỉ có một Đảng cầm quyền và xã hội dân sự hầu như không có thì dù có tam quyền phân lập chăng nữa, tất cả thẩm phán kể cả thẩm phán Tòa bảo hiến (cũng như các quan chức hành pháp và tư pháp) sẽ thống nhất làm việc theo lệnh Đảng và không cần để ý đến phán xét của dân. Một ví dụ gần đây nhất là : bất chấp sự tồn tại của điều 69 Hiến pháp, chính quyền Hà Nội đã ra một thông báo cấm người dân biểu tình chống Trung Quốc. Đến nỗi dù nó không có chữ ký thì vẫn có hiệu lực pháp luật, bằng chứng rõ ràng là nhiều người đã bị bắt vì biểu tình, và cuối cùng chính quyền Hà Nội đã tạm dẹp yên các cuộc biểu tình yêu nước. Ở cái xứ sở này, một bản thông báo không chữ ký có giá trị hơn Hiến pháp!

Người ta tốn nhiều tâm sức và giấy mực để đóng góp nội dung này nội dung kia vào dự thảo Hiến pháp. Chưa nói đến việc Đảng có thực lòng ghi nhận ý kiến đóng góp hay không, thiết nghĩ chữa bệnh phải chữa từ gốc rễ. Cũng như vậy, những tiến bộ phải phát triển từ căn cơ thì mới thực chất và bền vững, chứ không phải cứ úp cái Hiến pháp tiến bộ lên nền chính trị thì dân sẽ bớt khổ, nước sẽ bớt loạn. Mặc dù một Hiến pháp tiến bộ sẽ là cơ sở pháp lý cho những vận động dân chủ tiệm tiến, nhưng đó là cả một quá trình lâu dài nếu chưa kể việc này phụ thuộc rất nhiều vào mối tương quan về thế và lực giữa nhà cầm quyền và người dân. Khi viết những dòng cuối bài này tôi đang nghĩ đến một câu ông bà mình thường nói: “cậy người chi bằng cậy mình”!

Tam Kỳ ngày 7 tháng 9 năm 2011

© Huỳnh Thục Vy

© Đàn Chim Việt

Ông Bùi Tín nói về trận Núi Đất

Một số tài liệu quốc tế nay nhắc lại trận giao chiến Việt – Trung đánh cách đây 26 năm và nói 3 nghìn 700 bộ đội Việt Nam tử nạn được chôn chung tại vùng núi biên giới Hà Giang nay thuộc về Trung Quốc.

Tài liệu được nói là của Đại học Phòng vệ thuộc Cục Phòng vệ Nhật Bản tức Bộ Quốc phòng đề cập tới trận đánh hôm 12/07/1984 giữa lính Việt Nam và Trung Quốc.

Ngoài tài liệu do ông Hà Minh Thành ở Nhật Bản dịch sang tiếng Việt và đăng tải trên một số trang mạng, các trang của Trung Quốc cũng có nhiều bài và hình ảnh nói về trận Lão Sơn mà họ gọi là ‘Trung – Việt huyết chiến’.

Hai cao điểm Núi Đất (1509) và Núi Bạc (1250) nằm trên biên giới giữa hai nước được phía Trung Quốc gọi là Lão Sơn và Giả Âm Sơn.

Tài liệu của Nhật nói trong chiến tranh biên giới 1979, hai cao điểm này thuộc về phía Việt Nam và do Việt Nam chiếm giữ.

Tuy nhiên tháng Tư năm 1984, quân đội Trung Quốc lên kế hoạch đánh chiếm Lưỡng Sơn.

Cựu đại tá Bùi Tín kể lại với BBC hôm 27/7/2010 về bối cảnh trận chiến Việt – Trung đẫm máu hồi 1984 và xác nhận con số ‘hàng nghìn’ liệt sĩ Việt Nam hy sinh trong trận đánh mà nay vẫn để lại di sản chính trị về quan hệ xuyên biên giới.

Khi đó làm việc tại báo Nhân Dân của đảng CSVN ở Hà Nội, ông Bùi Tín cho hay “Đánh rất lớn nhưng báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân không nói đến việc Trung Quốc mở ra trận chiến lớn ở Hà Tuyên, ở vùng Núi Đất”.

Ông nói lúc đó phía Việt Nam cũng biết Trung Quốc làm rùm beng về trận chiến và các tướng chỉ huy Trung Quốc đến cả trận địa, vào hầm chụp ảnh để khích lệ quân Trung Quốc mà con số tập trung toàn vùng lên tới ba quân đoàn.

“Tôi thường ra vào Bộ Tổng Tham mưu, tôi có quyền vào Cục Tác chiến để lấy tin cho báo Nhân Dân, nhưng anh em ở đấy cho biết cả Quân khu 1 và Quân khu Việt Bắc đều tập trung để đối phó. Phía Việt Nam có tướng Vũ Lập là chỉ huy Quân khu 1. Họ được lệnh giữ nhưng thương vong nhiều vì Trung Quốc dùng pháo binh không hạn chế. Lực lượng của no là 6 sư đoàn thiện chiến, chủ yếu đánh các cứ điểm”.

Trước câu hỏi vì sao Trung Quốc lại mở đợt tấn công lớn như vậy, ông Bùi Tín, một nhà báo quân đội kỳ cựu giải thích:

“Vì họ cho rằng đó là vùng cao điểm, có nhiều cao điểm, chiếm rồi sẽ khống chế được cả một vùng rất lớn. Ở Bộ Tổng Tham mưu của Việt Nam người ta cũng cho biết đó là vùng có nhiều tài nguyên, quặng mỏ quý, vì thế cả về mặt chiến lược quân sự, địa hình quân sự thì đây là vùng có lợi thế.”

“Chiến thuật của Việt Nam là cố thủ, và đột kích nhỏ nhưng khó lắm.”

“Phía Trung Quốc nó có trận nã 3000 quả pháo nên bên này không chịu nổi vì thương vong rất lớn và phải rút. [Sau đó] bọn nó đẩy các cột mốc biên giới về phía ta.”

Ông cho hay số thương vong của bộ đội Việt Nam lên tới hàng nghìn.

Hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền vào năm 1999 nhưng mãi tới năm ngoái mới thống nhất được đường biên.

Quá trình đàm phán biên giới đất liền được nói kéo dài hơn 35 năm.

Nay kể lại, ông Bùi Tín cho biết những gì ông còn nhớ về số phận của vùng đất và di sản chiến tranh:

“Cả vùng Lão Sơn dân đã đi hết, bên này cũng lập luận rằng thương vong quá nhiều nên phải rút. Tôi nghe nói là phải rút khỏi trận địa 5 km, cả dải đất dài 20 cây số.”

Nhìn lại lịch sử, vẫn theo ông Tín, “trong lịch sử quân đội Việt Nam không nói rõ về trận đánh, chỉ nói có căng thẳng biên giới. Tôi có lên Cao Bằng, Thái Nguyên (sau đó), và gặp các anh em ở Quân khu Việt Bắc và Quân khu 1 thì họ cho rằng mình không đủ sức giữ đất và dân thì sơ tán rồi, trữ lượng tài nguyên thì trong lòng đất, chưa khai thác nên đành rút.”

Hiện các trang mạng Trung Quốc vẫn có nhiều bài tiếng Trung và tiếng Anh ca ngợi “công trạng” của quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa.