Chọn đường

© Đàn Chim Việt online, Lê Thăng Long

tran hd thuc

Tôi ra tù đã gần 1 năm. Vụ án chúng tôi đã tròn 4 năm.

Gần đây, từ cuối năm 2012, trong những lần làm việc với các sĩ quan an ninh, họ thường nói với tôi rằng: “Đảng và nhà nước cũng đã phần nào nhận ra sai lầm … và cũng đang cố gắng thay đổi. Các anh cũng không nên làm quá sẽ gây khó xử.” Những thành viên khác của phong trào Con đường Việt Nam khi bị nói chuyện với an ninh cũng nghe họ thừa nhận những gì anh Thức cảnh báo đã được thực tế chứng minh. Họ còn nói rằng vụ án của anh Thức sẽ phải xét lại, tuy nhiên không thể là ngày một ngày hai. Những hành xử của các cơ quan an ninh và những bản án chính trị của chính quyền mới đây khiến người ta thật khó tin vào những thiện ý như vậy. Nhưng một điều có thể thấy rõ là vụ án Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, NguyễnTiến Trung, Lê Thăng Long đã tác động sâu sắc đến suy nghĩ của những người cầm nắm quyền lực. Trong những buổi làm việc với an ninh, vào những lúc mà họ gọi là tâm tình ngoài nhiệm vụ, họ thường tỏ thái độ khâm phục tầm nhìn của anh Thức, anh Định và giải bày rằng chẳng qua họ phải làm vì nhiệm vụ.

Không ai không thấy được thực tế xấu đã và đang xảy ra chính là những gì các anh đã cảnh báo và không muốn đất nước gặp phải. Chia sẻ những điều trên với người dân, tôi nhận thấy rằng tất cả họ đều hoài nghi vào thiện chí của chính quyền nhưng lại tin tưởng rằng lẽ phải sẽ nhanh chóng được trả về đúng vị trí của nó. Họ tỏ ra rất tiếc nuối cho đất nước vì đã không có một cơ chế biết lắng nghe hiền tài để tránh được những thảm hoạ làm dân chúng khốn khổ. Họ cũng buồn tiếc cho tôi và những người bạn Thức, Định, Trung. Nhưng tôi nói nếu được lựa chọn lại thì tôi vẫn sẽ chọn con đường chúng tôi đã đi và không có gì phải ân hận. Có người nói rằng nếu tôi không cùng anh Thức kinh doanh thì
giờ đây tôi đã là một quan chức đang thăng tiến, chứ không phải một cựu tù chính trị đang bị chính quyền quản chế. Điều đó có thể đúng. Nhưng nếu vậy thì tôi chắc chắn rằng lương tâm tôi lúc này đang bị dằn vặt và ân hận về con đường mình đã chọn khi phải chứng kiến tương lai của đất nước, của con cháu mình đi vào ngõ cụt. Hậu quả đó có trách nhiệm của mình. Điều đáng mừng là tôi chứng kiến tâm trạng như vậy đang diễn ra với hầu hết những người cộng sản. Điều đó cho tôi niềm tin vào một sự thay đổi tốt đẹp không xa nữa.

Nếu được lựa chọn lại thì tôi vẫn sẽ chọn Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung là những người bạn đồng chí hướng và cùng nhau dấn thân đấu tranh vì một Việt Nam dân chủ và thịnh vượng cho dù biết trước sự lựa chọn đó sẽ dẫn đến những gian nguy, thử thách.

Hôm nay 24/5/2013, tròn 4 năm Trần Huỳnh Duy Thức bị tước đoạt tự do một cách tuỳ tiện. Có nhiều người nói nếu 4 năm qua anh không bị bắt thì anh đã làm được rất nhiều việc có ích cho gia đình, cho cộng đồng và lĩnh vực công nghệ thông tin viễn thông của đất nước. Hẳn là như vậy. Nhưng tôi lại nghĩ 4 năm tù của anh đã tạo ra những giá trị lớn hơn nhiều. Làm cho rất nhiều người phải suy nghĩ và thay đổi nhận thức một cách đúng đắn là điều không hề dễ dàng. Áp đặt một tư tưởng bằng quyền lực thì dễ, còn thuyết phục để người ta hiểu đúng và tự nguyện chấp nhận lẽ phải là điều rất khó và có khi phải hy sinh. Đó chính là cuộc CÁCH MẠNG SUY TƯỞNG mà Thức theo đuổi vì anh tin rằng dân tộc Lạc Hồng chỉ có thể ngẩng cao đầu khi nào người dân nhận thức đúng về quyền con người của mình để hành động như những người chủ đích thực của đất nước. Nếu không thì nhân dân sẽ luôn là những người nô lệ bị trị. Cuộc đấu tranh để con người hiểu ra chân lý thường rất gian khổ và nguy hiểm. Nhất là trong một bối cảnh mà sự giáo điều và phản động ngự trị nhiều năm trời bằng bạo quyền. Nhưng thành công của những cuộc đấu tranh này luôn là những phần thưởng rất giá trị và vĩ đại cho nhân loại.

Nếu được lựa chọn lại tôi vẫn sẽ đồng hành cùng Trần Huỳnh Duy Thức dù biết rằng hành trình đó sẽ trải qua tù đày. Gần một năm ra tù và đối diện với bao nhiêu thử thách nguy nan, tôi nhận ra rằng mình đã bản lĩnh và vững vàng gấp bội trước khi vào tù. Đó là một khoảng thời gian để tu thân tuyệt vời nhất mà không phải ai cũng có được cơ duyên ấy. Tôi tự hào vì là bạn học, đồng nghiệp và bạn tù của Thức. Tôi vẫn sẽ chọn đi cùng anh vì tôi thấy rõ con đường mà chúng tôi đã chọn sẽ dẫn đến một tương lai tươi sáng không còn xa nữa. Và vì tôi đã được thấy ngày càng nhiều người bước vào con đường đó – Con đường Việt Nam – Con đường phát triển đất nước tốt đẹp trên nền tảng quyền con người.

Tôi khâm phục tầm nhìn chính trị của Thức. Trong kinh doanh anh là người luôn nhìn ra các đích nhắm chiến lược chỉ đòi hỏi những nguồn lực nhỏ hơn nhưng giúp đạt được những mục tiêu cuối cùng lớn hơn. Đến giờ anh lại cho thấy anh không chỉ có khả năng quản trị chiến lược trong kinh doanh mà cả trong chính trị. Quyền con người vừa là một mục tiêu chung của tất cả mọi người, vừa là một đích nhắm chiến lược hiệu quả cho cuộc đấu tranh dân chủ hoá đất nước và làm cho dân giàu nước mạnh. Khi các mục tiêu đấu tranh hội tụ về đích nhắm này thì sẽ không có sự độc tài, toàn trị nào có thể tồn tại trên đất nước mãi về sau.

Tôi  rất vui khi thấy ngày càng nhiều người nhận ra chiến lược đó. Và ngày càng có nhiều người thấy được và mong muốn Trần Huỳnh Duy Thức trở về để đóng góp cho đất nước vượt qua khó khăn và phát triển tốt đẹp. Tôi tin ngày đó sẽ không lâu nữa.

Tôi cũng tin rằng ngay bây giờ nếu được lựa chọn giữa phải từ bỏ con đường đã chọn để  được trở lại thành doanh nhân thành đạt, hoặc sẽ chấp nhận gian khổ để tiếp  tục con đường đó thì Thức sẽ chọn gian khổ. Anh không phải là người hy vọng vào ánh sáng cuối đường hầm. Anh hiểu rõ và biết mình phải làm gì, trải qua những gì để đi về đích.

Lê Thăng Long, Phong trào Con đường Việt Nam.

TB: thể theo yêu cầu của nhiều người muốn biết “họ đã bắt chúng tôi như thế nào và hành xử trong tù ra sao?”, hôm nay tôi xin được kể phần của anh Thức trước.
—————————————————-

HỌ ĐÃ BẮT ANH THỨC NHƯ THẾ NÀO?

Thứ sáu 22/05/2009, ban lãnh đạo công ty One-Connection Internet (OCI) họp tại TpHCM thông qua quyết định khởi kiện sở Thông tin truyền thông TpHCM về những quyết định hành chánh sai trái của cơ quan này đối với OCI. Cũng trong cuộc họp này anh Thức phân công những người kế nhiệm trong trường hợp mình bị bắt vì anh tin rằng sở Thông tin truyền thông TpHCM sẽ tìm cách hình sự hóa vấn đề để né tránh trách nhiệm làm sai của họ. Anh Thức cũng cho biết rằng thời gian đó xuất hiện nhiều người lạ mặt lảng vảng trước cửa nhà anh. Sau cuộc họp anh Thức nói chuyện tiếp với tôi trên điện thoại nhận định rằng nếu họ không hình sự hóa được vấn đề thì họ sẽ chính trị hóa nó. Anh dặn tôi cẩn thận nhưng phải chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất và kiên định những gì
đã chọn. Tôi cũng bắt đầu linh cảm những chuyện chẳng lành.

Thứ bảy 23/05/2009, anh Thức gặp luật sư Lê Công Định để chia sẻ tất cả các nội dung trên. Anh Định đảm nhiệm về pháp lý cho vụ kiện sở Thông tin truyền thông TpHCM của OCI. Anh Thức nhờ anh Định nếu anh bị bắt thì anh Định tiếp tục hỗ trợ cho các lãnh đạo kế nhiệm của OCI theo tiếp vụ kiện tới cùng. Tuy nhiên nếu họ chính trị hóa vấn đề thì không loại trừ anh Định cũng sẽ bị bắt. Trong thời gian này. Thanh tra bộ Thông tin truyền thông đang tiếp nhận đơn khiếu nại của OCI và bắt đầu xem xét các trách nhiệm của sở Thông tin truyền thông TpHCM trong việc xử phạt OCI. Cùng lúc đó đài truyền hình Việt Nam (VTV) liên tục phát đi những phóng sự cho thấy sự sai trái và vi phạm pháp luật của sở Thông tin truyền thông TpHCM trong sự việc này. Nhiều tờ báo như Sài Gòn Tiếp thị, Thời báo kinh tế Việt Nam cũng bắt đầu có những phân tích chỉ ra sự lạm quyền của sở Thông tin truyền thông TpHCM. Dư luận đã thấy rõ sự đuối lý của cơ quan này.

Chủ Nhật 24/5/2009, khoảng 8h00 tối, tôi hay tin được đăng trên tờ Công an nhân dân online là anh Thức bị bắt vì tội “trộm cước viễn thông”. Gọi cho Trần Huỳnh Duy Tân, em trai anh Thức thì được biết đang có đến cả trăm người tràn ngập sân, hẻm và nhà anh Thức. Lúc này tôi đang ở Hà Nội nên không thể đến được với anh. Họ ập vào lúc 4h30 chiều, quần nát trong nhà đến 10h30 tối thì đưa anh đến văn phòng công ty OCI. Họ lục soát văn phòng làm việc của anh Thức gần 2 tiếng và thu toàn bộ hồ sơ OCI khởi kiện sở Thông tin truyền thông TpHCM. Nếu không bị bắt thì hồ sơ này sẽ được nộp cho tòa án hành chính TpHCM vào ngày
hôm sau. 0h30 khuya hôm đó họ rời OCI và chở anh về trại giam B34 (Nguyễn Văn Cừ, Q1, TpHCM) và hỏi cung anh đến hơn 2h sáng.

Ngay khi họ nhốt anh vào phòng giam thì một cơn mưa trên toàn thành phố trút xuống. Sài Gòn gần như chưa bao giờ mưa to trên diện rộng đến như vậy. Mưa như thác đổ liên tục từ khoảng 2h00 đến 7h00 sáng mới ngơi dần, nhưng mãi đến trưa hôm đó mới tạnh. Kể cũng lạ, ngày chúng tôi ra tòa sơ thẩm, một cơn mưa kéo dài suốt 2 ngày đêm trên khắp miền Nam. Ngày đó nhiệt độ ở Sài Gòn theo thông báo của đài phát thanh là xuống thấp kỷ lục. Điều kỳ lạ hơn đó là cơn mưa rất to nhưng trái mùa. Lúc đó là tháng Chạp năm Kỷ Sửu (tháng 1/2010). Những cơn mưa phùn tháng Chạp gần như không thấy, đừng nói là mưa rào và giông liên tục 2 ngày.

Hai ngày sau khi anh Thức bị bắt, tôi bay vào Sài Gòn để lo việc công ty OCI và an ủi gia đình anh ấy. Tôi được nghe thuật lại lời kể của những người hàng xóm. Vào tối anh bị bắt, trước cổng, sân, hẻm nhà anh rất đông công an với nhiều loại lực lượng khác nhau. Theo ý kiến của những người hàng xóm thì trong số này không phải chỉ toàn những người đến bắt anh mà có cả những người có mục đích ngược lại. Có những lúc họ tranh cãi nhau rất căng và phải chờ điện thoại chỉ thị từ cấp trên để phân định. Người dân ở đây nghe được những lời nói trên điện thoại rằng: “Không được bắt, không nên bắt”. Họ bao vây kín cả khu vực, có
cả các xe chuyên dụng và xe kỹ thuật. Hàng xóm xung quanh còn nghe thấy các nhân viên an ninh bàn tán với nhau về việc chưa thống nhất từ các lãnh đạo cấp cao, chỉ đạo từ trung ương trong việc bắt này (người đồng ý, người không đồng ý).  Cuối cùng có một người nhận điện thoại rồi truyền đạt lại cho nhóm đại ý rằng quyết định cuối cùng là bắt. Rồi anh ta cùng với toán người của mình rút khỏi hiện trường. Cùng lúc đó một người đàn ông khác bước từ trong xe hơi ra và ra lệnh: “bắt đi”. Sau khi ra tù, tôi đọc lại những thông tin về vụ án này thì biết được bộ chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam bị chia rẽ nặng nề đối với vụ án này. Đây có lẽ là lý do cho những tranh cãi giữa các lực lượng công an nói trên.

Còn những chi tiết về sự ngược đãi, truy bức, nhục hình trong tù thì khá dài. Những bạn nào quan tâm xin hãy đón đọc quyển sách về anh Thức và con đường anh chọn sắp ra mắt.

Thân mến,

© Lê Thăng Long

Bộ Công an xác nhận bắt ông Nhất

Thông báo trên trang web của Bộ Công anCông an xác nhận bắt ông Nhất vì điều 258 Bộ luật Hình sự

Trang tin điện tử của Bộ Công an Việt Nam hôm 27/5 đã xác nhận thông tin blogger Trương Duy Nhất bị bắt một ngày trước đó.

Bản tin ngắn của Bộ Công an chỉ bao gồm bốn câu thông báo:

“Ngày 26/5/2013, Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) Bộ Công an ra Lệnh bắt khẩn cấp và Lệnh khám xét khẩn cấp đối với Trương Duy Nhất, sinh năm 1964 tại Quảng Nam; hộ khẩu thường trú và chỗ ở số 25, phố Tống Phước Phổ, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng vì có hành vi vi phạm pháp luật theo Điều 258 Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam.

“Quá trình thực hiện lệnh bắt, khám xét khẩn cấp, Cơ quan ANĐT Bộ Công an phối hợp với Công an TP. Đà Nẵng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

“Thái độ của Trương Duy Nhất chấp hành.Các cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra, làm rõ hành vi vi phạm của Trương Duy Nhất để xử lý theo quy định của pháp luật.”

Bộ Công an không nói gì về chuyện họ đã chuyển ông Nhất từ Đà Nẵng ra Hà Nội ngay trong ngày 26/5. Trước đó Bộ này cũng đã có thông báo về vụ ông Nhất bị bắt nhưng không đầy đủ như thông báo mới nhất.

Blogger Trương Duy Nhất đã có nhiều năm viết cho báo của ngành công an và của Mặt trận Tổ quốc trước khi tuyên bố nghỉ viết báo để có thể viết những gì ông thực sự muốn viết trên blog ‘Một góc nhìn khác’.

Ông Nhất từng đề cao vai trò và khả năng của ông Nguyễn Bá Thanh, cựu Bí thư Đà Nẵng và nay là Trưởng Ban Nội chính Trung ương.

Tuy nhiên ông Nhất đã bày tỏ sự thất vọng khi ông Thanh thất bại trong cuộc chạy đua giành ghế trong Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 7 hồi đầu tháng này.

Cựu Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TP Hồ Chí Minh nói Bộ Công an bắt blogger Trương Duy Nhất để đe dọa những người ‘yếu bóng vía’.

Trả lời phỏng vấn BBC hôm 27/5, ông Lê Hiếu Đằng nói ông không ngạc nhiên trước vụ bắt chủ nhân của trang blog ‘Một góc nhìn khác’ vì đây là cách mà Đảng Cộng sản Việt Nam hay dùng để trấn áp những người đấu tranh.

Ông Đằng nói: “Đây là biện pháp để họ răn đe những người yếu bóng vía tham gia vào cuộc đấu tranh chính đáng hiện nay vì một nước Việt Nam dân chủ giàu mạnh và chống bọn bành trướng Bắc Kinh.”

Nhưng ông Đằng nói hành động của Bộ Công an sẽ không thể đảo ngược xu thế đấu tranh vì dân chủ và dân quyền ở cả trong và ngoài nước.

Blogger đồng thời là nhà báo tự do Huỳnh Ngọc Chênh đã có những nhận xét tích cực về ông Trương Duy Nhất.

Ông Chênh nhận xét ông Nhất là “người thẳng thắn, mạnh dạn, tích cực đóng góp cho hệ thống này” và mô tả điều ông gọi là “Tất cả các bài viết của ông Nhất đều toát lên tinh thần xây dựng để mong muốn có hệ thống tốt đẹp hơn”.

Chuyển ra Hà Nội

Trước thông báo của Bộ Công an, một loạt các báo trong nước đã đăng tải tin ông Nhất bị bắt.

Tờ Thanh Niên tối 26/5 nói Bộ Công an bắt ông Nhất vì có “hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo điều 258, Bộ luật Hình sự.”

Vài tiếng sau báo Tuổi Trẻ nói Bộ Công an đã khám nhà ông nhất trong ba tiếng đồng hồ sáng 26/5 và “ông Nhất đồng ý ký vào các biên bản.”

Sau đó ông Nhất bị chuyển ra Hà Nội vào buổi chiều.

Chủ nhân của blog ‘Một góc nhìn khác’ đã nhiều lần gặp rắc rối với Bộ Công an nhưng đây là lần đầu tiên người ta chính thức khép ông vào điều 258 của Bộ luật Hình sự.

Ông Nhất chỉ là một trong hàng chục blogger bị bắt vì chỉ trích trực diện chính quyền bị coi là độc đoán ở Việt Nam.

‘Tình nguyện đi tù’

“Cá nhân tôi tình nguyện đi tù cùng Trương Duy Nhất để bảo vệ quyền được nói những điều mình nghĩ.”

Blogger Mẹ Nấm

Vụ bắt ông Nhất cũng đã gây ra nhiều phản ứng trên mạng xã hội Facebook.

Ông Hồ Hải đăng hình gốc mà báo Tuổi Trẻ dùng và bình luận: “Trương Duy Nhất hiên ngang trên đường vào sân bay Đà Nẵng ra Hà Nội để điều tra, nhưng những người áp giải Nhất lại cúi đầu.”

Sau đó Tuổi Trẻ đã cắt bỏ hình ảnh hai nhân viên an ninh cúi đầu và chỉ để ảnh một mình ông Nhất.

Blogger Người Buôn Gió, người mới đây không bị cản trở khi xuất cảnh sang Đức, viết: “Anh Nhất ơi! Nếu mỗi người dân Việt Nam có ”góc nhìn khác” thì làm gì có ban tuyên giáo để “định hướng dư luận”.

Blogger Mẹ Nấm viết: “Cho dù Trương Duy Nhất là ai, viết cái gì đi chăng nữa thì tôi nghĩ cộng đồng blogger Việt Nam phải lên tiếng cho trường hợp của anh Nhất để bảo vệ quyền tự do ngôn luận của mình.

“Cá nhân tôi tình nguyện đi tù cùng Trương Duy Nhất để bảo vệ quyền được nói những điều mình nghĩ.”

Cây viết Đoan Trang bình luận: “Thật tình mình chả sợ, vì đã viết blog chính trị thì xác định là bị quấy phá sách nhiễu (political harassment) là “một phần tất yếu của cuộc sống” rồi.

“Từ một người viết báo Công an, hơn ai hết anh ta phải biết mình nên viết gì, có thái độ ra sao với dân với nước?”

nguyentandung.org

“Nhưng mình đang suy nghĩ một cách rất nghiêm túc về việc phải làm cách nào để vô hiệu hoá Điều 88 (thường được dùng để bắt người bất đồng chính kiến) và Điều 258 (đặc biệt được ưa dùng để bắt nhà báo).

“Phải có một cách nào đó chứ… đúng không, các bạn của tôi, các đồng nghiệp của tôi?”

Trong khi đó trang web Bấm nguyentandung.org có bài ‘Vụ Trương Duy Nhất: Bài học cho những kẻ ngông cuồng vọng tưởng’ trong đó bình luận “Từ một người viết báo Công an, hơn ai hết anh ta phải biết mình nên viết gì, có thái độ ra sao với dân với nước?”

‘Đảng ở với ai’

Ông Trương Duy Nhất (trái) và Chủ tịch Nguyễn Minh Triết khi còn tại chứcÔng Nhất chỉ là trường hợp mới nhất bị bắt vì chỉ trích trực diện chính quyền

Từ Hoa Kỳ, Trinity Hồng Thuận viết trên Facebook: “Không cần phải có dính dáng gì tới đảng này đảng nọ mới bị bắt đâu nhé. Chỉ cần KHÁC một chút là sẽ ngồi tù ráo. :D”

Người dùng Facebook Thanh Bình dẫn lại hai bình luận xung quanh việc ông Nhất bị bắt và đưa ra ý kiến của riêng mình:

“Bình luận về vụ blogger Trương Duy Nhất (chủ trang một “góc nhìn khác”), Osin Huy Đức treo status “Ở nơi không thể tồn tại một góc nhìn khác”

“Bạn Bố Cu Hưng (nhà báo Thế Hiển, báo Pháp Luật TP) bèn bình luận như thế này: “Vấn đề cuả một nhà báo là phải có thông tin. Khi thiếu khả năng hoặc cơ hội tiếp cận thông tin thì góc nhìn nếu khác là chửi đổng mà nếu giống là a dua. Stt này sẽ thuyết phục nếu anh Osin Huy Đức nắm rõ luận điểm khởi tố anh Trương Duy Nhất”

“Bạn BCH có hai điểm sai rất căn bản

“Thứ nhất, TDN bây giờ là blogger, ko phải là nhà báo chuyên nghiệp. Dĩ nhiên một blogger ko ăn lương, ko thẻ nhà báo thì ko thể nào cơ hội tiếp cận thông tin như một nhà báo chính thống . Bố Cu Hưng đòi hỏi như thế thì thật là ngớ ngẩn

“Thứ hai, một nhà nước pháp quyền thì ko thể bắt giam một người vì tội “chửi đổng” và “a dua” . Nói như bạn BCH thì đứa nào kênh kiệu, có cái mặt đáng ghét thì phải bắt nhốt cho hết à ?

Cũng trên Facebook, ông Ngô Nhật Đăng viết: “Thế là đủ hết : Công nhân, nông dân , bộ đội, luật sư, nhà báo, nhà văn , nhà thơ, doanh nhân….đều có mặt trong nhà tù của đảng.

“Thế thì đảng ở với ai bây giờ?”

Ai Đã Chỉ Đạo Bắt Trương Duy Nhất ?

Như trên mạng đã phân tích, việc bắt Trương Duy Nhất vào thời điểm này gây bất ngờ với giới phân tích. Thứ nhất là vụ bắt xảy ra ngay trước thời điểm lấy phiếu tín nhiệm Quốc hội. Thứ hai là đối tượng bị bắt là Trương Duy Nhất chứ không phải là các blogger quá khích khác như Phạm Viết Đào, Nguyễn Hữu Vinh, Huỳnh Ngọc Chênh, Nguyễn Xuân Diện… Chính vì vậy đây là một vụ bắt “rất lạ”, việc bắt khám xét và di lý ra Hà Nội chỉ diễn ra trong vài giờ đồng hồ và ngay lập tức sau đó truyền thông đồng loạt lên tiếng cho thấy đây là một vụ bắt được chuẩn bị rất kỹ và rất quyết tâm.

 truong_duy_nhat3
Trương Duy Nhất bị bắt vì dám trở cờ, làm phản ban thường trực NQTW4?

Vậy ai đã chỉ đạo bắt Trương Duy Nhất?
Chắc chắn không phải là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nếu ông Dũng muốn bắt thì đã làm từ lâu do Trương Duy Nhất từ nhiều năm nay đã liên tục viết bài tấn công, bôi nhọ cá nhân ông. Mặt khác, nếu ông Dũng chỉ đạo bắt thì lần này sẽ bắt đồng loạt nhiều người chứ không chỉ riêng gì Nhất.

Theo nguồn tin chưa kiểm chứng của Tư Sang nham hiểm, lần này chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo bắt Trương Duy Nhất, dĩ nhiên với sự đồng tình của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Như đã phân tích trong bài “Hệ thống chuyên chính của nhà nước Việt Nam đã chết lâm sàng“, trước đây Trương Duy Nhất nằm trong nhóm các blogger được Trương Tấn Sang bảo kê và sử dụng để tấn công Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Từ sau HNTW6 và gần đây là HNTW7, Trương Duy Nhất bất mãn, trở nên nguy hiểm và mất kiểm soát viết các bài tấn công ngược: kêu gọi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từ chức, chê bà Phó Doan là người “không biết xấu hổ”, chê Trương Tấn Sang “hèn hạ” khi không dám nêu tên đồng chí X thậm chí gần đây còn chửi thẳng ông Sang là kẻ “nói nhiều làm ít”.

.
Những hành động này của Nhất trở nên không thể chấp nhận được đối với Tổng bí Thư và Chủ tịch nước nên một lệnh chỉ đạo miệng trực tiếp từ Tổng bí thư, Chủ tịch nước đã giao cho A87 (nơi đã 3 lần gọi Nhất lên nhắc nhở) phải khẩn cấp bắt và vô hiệu hoá Trương Duy Nhất trước thời điểm bỏ phiếu tín nhiệm Quốc hội đã được thực hiện

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không thể chấp nhận sự tồn tại của blogger “Một góc nhìn khác”

Tư Sang nham hiểm dự báo, Điều 258 chỉ là sự khởi đầu, là cái cớ để bắt

Trương Duy Nhất, nếu Nhất không ngoan ngoãn hợp tác và chấm dứt chỉ trích Tổng bí thư, Chủ tịch nước, nhiều Điều khác trong Bộ Luật Hình sự đang chờ đợi Trương Duy Nhất.

(TSNH)
———————–

Nóng: Rộ tin đồn An ninh Điều tra sẽ tiến hành bắt ABS

Đăng bởi Hai Hoang Van vào Thứ hai, ngày 27 tháng năm năm 2013

Sáng nay thứ 2 đầu tuần, ở các quán nước, quán cafe khu vực Hàng Hành, Triệu Việt Vương…, đặc biệt là khu vực công an TP. Hà nội 87 Trần Hưng Đạo người ta thầm thì bảo nhau sau blogger Trương Duy Nhất đệ tử của ông Nguyễn Bá Thanh sẽ là ABS. Một số đối tượng chống đ/c X sẽ bị thanh trừng nhằm mục đích cắt tiết gà dọa khỉ.

Được biết ABS tức ông Nguyễn Hữu Vinh, một trung tá an ninh xin ra khỏi ngành để lập công ty thám tử tư và là người chịu trách nhiệm về trang blog ABS. Một blog chống đảng và nhà nước một cách tích cực, đây là một mắt xích trong vụ án quan trọng. Điều này đã gây tranh cãi trong lãnh đạo đảng, nhất là khi người ta biết người bảo kê cho ABS là Chủ tịch Trương Tấn Sang.

Dư luận cho rằng đây là khởi đầu của phe đ/c X sau khi giành được thế thượng phong trong HNTW 7 vừa kết thúc ở Hà nội.

Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và đưa tin về việc này.

Minh Hùng (TTHN) – Theo Phamvietdaoblog

Lượng khách quốc tế đến Việt Nam liên tục giảm

RFA 26.05.2013
 Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này

Lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng năm giảm 9% so với tháng trước, và đây là tháng thứ ba liên tiếp con số khách quốc tế đến Việt Nam được ghi nhận giảm.

Tổng cục Thống kê Việt Nam cho biết như vừa nêu. Cụ thể số lượt khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng năm là hơn 560 ngàn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam thì tỷ lệ giảm so với cùng kỳ năm ngoái, số khách quốc tế đến Việt Nam vì công việc giảm 1,6%, thăm thân nhân giảm 5,4%, vì các mục đích khác giảm 5,2%; tuy nhiên số đến để du lịch, nghĩ dưỡng có tăng 0,1%.

Các nước có số khách du lịch đến Việt Nam trong thời gian qua giảm gồm có Nhật bản, Hoa Kỳ, Đài Loan… Các nước có khách du lịch đến Việt Nam đông nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia, Nga…

Thông tấn xã Việt Nam cho biết giá tour của Việt nam cao hơn các nước khác đến 30%. Lý do vì thiếu tính liên kết, chia sẽ giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng dịch vụ lữ hành.

Nạn “chặt chém” du khách là một trong những nguyên nhân khiến 80% du khách nước ngoài không trở lại Việt Nam sau chuyến đầu tiên.

Báo động đỏ về suy giảm kinh tế

Nam Nguyên, phóng viên RFA. 2013-05-24
Nhiểu công trình xây dựng phải bỏ dở dang vì cụt vốn

Nhiểu công trình xây dựng phải bỏ dở dang vì cụt vốn. RFA

Nghe bài này

Một nhóm đại biểu Quốc hội cảnh báo tình trạng suy giảm kinh tế đang ở mức báo động và kiến nghị sớm thành lập một Uỷ ban Quốc gia để đối phó. GSTS Trần Hoàng Ngân, đại biểu thành viên Ủy ban kinh tế Quốc hội đã nói với báo chí như vậy, ngay sau phiên khai mạc kỳ họp thứ 5 của Quốc hội vào sáng 20/5 tại Thủ đô Việt Nam.

Cứu doanh nghiệp phải song hành cứu nông thôn

Đề xuất vừa nêu đã như tô đậm thêm nhận định của Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan trước đó một tuần:“Tình hình kinh tế gay go lắm rồi.”

Mạng tin Dân Trí Online trích phát biểu của đại biểu Trần Hoàng Ngân cho rằng, tình hình suy giảm kinh tế hiện nay là vô cùng lo ngại khi doanh nghiệp phá sản và ngừng hoạt động đã trở thành “đại dịch”. Theo lời vị đại biểu, báo cáo của Chính phủ cho thấy 69% doanh nghiệp kinh doanh lỗ trong năm 2012 và cần phải có một Ủy ban mang tầm Quốc gia để cứu vãn tình trạng này.

Sự cần thiết phải giải bài toán cho nông dân. Những người được mô tả là bị thiệt hại kép, thứ nhất thu nhập giảm vì giá lương thực giảm, trong khi chi phí tăng cao….cứu doanh nghiệp phải song hành cứu nông thôn.
-GSTS Trần Hoàng Ngân

Tuy vậy, vị đại biểu cũng là Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP.HCM còn nêu ra một vấn đề đáng chú ý hơn. Đó là sự cần thiết phải giải bài toán cho nông dân. Những người được mô tả là bị thiệt hại kép, thứ nhất thu nhập giảm vì giá lương thực giảm, trong khi chi phí tăng cao. GSTS Trần Hoàng Ngân cho rằng, cứu doanh nghiệp phải song hành cứu nông thôn, nông nghiệp vì 67% dân số sống ở nông thôn; 47% dân số làm nông nghiệp.

Những gì vị đại biểu Quốc hội nói với báo chí có thể chưa diễn tả thực trạng ở nông thôn miền Trung trong thời kỳ suy giảm hiện nay. Ông Hai một nông dân ở Phú Yên một tỉnh ở nam Trung bộ cho biết, đất ít người đông nên nông dân mỗi người được chia khoảng 650 m2 đất canh tác. Lợi tức bình quân đầu người khoảng 250.000 đ/tháng, mức lợi tức này chưa được một nửa so với đồng bằng sông Cửu Long. Vì thế, lúc nông nhàn nông dân phải kiếm thêm thu nhập, người thì bắt cá, mò cua, người thì đi bán vé số, buôn gánh bán bưng, chạy xe ôm, phổ biến nhất là làm lao động thời vụ cho nhà máy xí nghiệp, hay làm thợ hồ. Tuy vậy mấy năm nay kinh tế khó khăn việc kiếm thêm việc làm lúc nông nhàn không thuận lợi như trước.

“ Điển hình tại tỉnh Phú Yên lúc bình thường có khoảng 13.000 công nhân làm hạt đào (hạt điều) tức là tách vỏ chín lấy hạt đào. Nhưng hiện nay công ty hạt đào nợ nần gặp khó khăn chỉ còn hoạt động cầm chừng khoảng 15%. Làm công nhân hạt đào thu nhập không cao chỉ khoảng 1,1 triệu đồng/tháng tức 30.000đ/ngày nhưng cũng không còn việc để làm nữa, tình hình rất bấp bênh. Còn làm thợ hồ ở Phú Yên được 160-170 ngàn đồng/ ngày nhưng vì tình hình bất động sản đóng băng thì thợ hồ bây giờ rất khó kiếm việc. Ngay cả phụ hồ việc quá nặng nhọc không ai muốn làm, thì bây giờ muốn kiếm việc cũng không còn ai mướn.”

Từng có 10 năm phục vụ Nhà nước trong vai trò cán bộ công chức ở địa phương nay trở về với đồng ruộng, ông Hai mô tả rõ nét hơn về tình trạng suy thoái tấn công trực diện vào mỗi gia đình nông dân miền Trung. Ông nói:

“Mức sống, mức kinh tế tôi thấy rất là suy sụp, chẳng hạn như hồi xưa thí dụ 2 vợ chồng 2 đứa con một ngày đi chợ 50.000đ bây giờ giảm chỉ còn 30.000đ coi như giảm 30%-40%. Cuộc sống coi như cố gắng lắm, mới bảo đảm được cái dinh dưỡng.”

Báo cáo của Chính phủ cho thấy 69% doanh nghiệp kinh doanh lỗ trong năm 2
Báo cáo của Chính phủ cho thấy 69% doanh nghiệp kinh doanh lỗ trong năm 2

Suy giảm nhưng đừng để suy thoái

GSTS Trần Hoàng Ngân đã trở thành người tạo thời cuộc với đề xuất phải có Ủy ban Quốc gia đối phó với suy giảm kinh tế. Ngày 23/5 Thời báo kinh tế Việt Nam dành cơ hội cho ông làm rõ hơn tình hình suy giảm kinh tế mà ông nói là những dấu hiệu đã quá rõ ràng. Theo lời ông, nếu như năm 2012 kinh tế Việt Nam là khó khăn đáng lo ngại, thì hiện nay có thể xác định là vô cùng khó khăn và vô cùng đáng lo ngại. Dấu hiệu suy giảm đã rất rõ ràng, không còn gì phải bàn cãi, doanh nghiệp phá sản ngày một nhiều.

Theo nhận định của GSTS Trần Hoàng Ngân, Chính phủ cần phải làm quyết liệt hơn nữa trong việc tạo dựng niềm tin cho dù cũng có một hai điểm sáng xuất hiện trong những tháng đầu năm nay. Cùng về vấn đề này, trả lời Nam Nguyên, chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh từ Hà Nội nhận định:

“Sau 4 tháng đầu năm thì có một số những chỉ dấu về sự khởi sắc nhất định. Thí dụ chỉ số giá có tăng chậm lại, rồi đầu tư nước ngoài thì có những dự án rất lớn đã được cam kết như là Samsung ở Thái Nguyên, rồi có những dự án lớn vào miền Trung, đấy là những tiến bộ nhất định. Xuất khẩu đã dựa chủ yếu vào xuất khẩu của đầu tư nước ngoài, trong đó thì điện thoại di động Galaxy của Samsung vượt lên cả dệt may rồi…

Nhưng mặt khác, các biện pháp cải cách tái cấu trúc cơ bản hiện nay chưa được thực hiện một cách hiệu quả và chưa đem lại các kết quả mà người dân mong đợi. Tình hình đó dẫn tới tình trạng ngân hàng thừa vốn mà doanh nghiệp thì không vay được và cũng không dám vay, dẫn đến việc các doanh nghiệp tư nhân tiếp tục hoạt động kém hoặc phải đóng cửa, phải xin phá sản và tình hình công ăn việc làm của thanh niên là hết sức khó khăn.”

Các biện pháp cải cách tái cấu trúc cơ bản hiện nay chưa được thực hiện một cách hiệu quả và chưa đem lại các kết quả mà người dân mong đợi. Tình hình đó dẫn tới tình trạng ngân hàng thừa vốn mà doanh nghiệp thì không vay được và cũng không dám vay, dẫn đến việc các doanh nghiệp…phải đóng cửa, phải xin phá sản.
-TS Lê Đăng Doanh

TS Trần Du Lịch, Đại biểu Quốc hội đơn vị TP.HCM được Dân Trí Online xếp vào nhóm các đại diện dân cử có những âu lo về sự suy giảm kinh tế đã quá rõ rệt. TS Lịch cho rằng, thời điểm hiện nay lãi suất ngân hàng không còn là chiếc đũa thần, nhiều doanh nghiệp được vay vốn với mức 8%-9% mà cũng không vay. Theo lời ông, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là điểm nghẽn của nền kinh tế không hấp thụ được vốn. Giờ đây không chỉ là vấn đề nợ xấu nữa, mà suy giảm thị trường, suy giảm đầu tư và niềm tin thị trường. TS Trần Du Lịch khuyến cáo đừng nên bàn quá nhiều giải pháp mà phải tập trung thực hiện những giải pháp đã đưa ra trước đây.

Trong tư liệu của chúng tôi, bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội nhận định rằng việc chậm trễ giải quyết những vấn nạn của nền kinh tế, điển hình là nợ xấu đang gây ra những hậu quả khó lường.

“Tôi cho là phải cố gắng sớm và minh bạch đưa ra một giải pháp đầy đủ hơn thì mới có thể làm được và phải làm càng sớm càng tốt, càng kéo dài thì càng bất lợi vì rõ ràng là bây giờ nền kinh tế đứng trước những cản trở như về nợ xấu trong các công việc với ngân hàng rồi sự tắc nghẽn của các doanh nghiệp trong phát triển, bao nhiêu thứ nó đang đè nặng lên nền kinh tế.”

Theo Dân Trí Online, Đại biểu Quốc hội Cao Sĩ Kiêm nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quan ngại về mức tăng trưởng kinh tế khó đạt trong những tháng còn lại của năm 2013. Ông đánh giá các biện pháp của Chính phủ triển khai rất chậm thậm chí chỉ mới đề ra các giải pháp, trong đó có việc kích cầu, tăng sức mua, xử lý nợ xấu, phá băng bất động sản.

Chúng tôi xin trích lời TS Lê Đăng Doanh về vấn đề liên quan:

“Quĩ Tiền tệ Quốc tế có lưu ý là các cải cách của Việt Nam như vậy là chậm. Nếu như không giải quyết sớm các cải cách ngân hàng và giải quyết nợ xấu thì nền kinh tế Việt Nam khó có thể lấy lại được đà tăng trưởng trước đây.”

“Tình hình kinh tế gay go lắm rồi” như cảnh báo của Phó chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan, hoặc kiến nghị sớm thành lập ủy ban đối phó suy giảm kinh tế của Đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân được xem là tín hiệu báo động đỏ.

Các chuyên gia cho rằng giới lãnh đạo Việt Nam không thể không nhận thức tình trạng này. Nhưng cũng có thể có những vướng mắc từ đâu đó như lời ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Bưu điện Liên Việt trên VnEconomy ngày 21/5/2013. Doanh nhân ngân hàng này nhận định: “Liều thuốc chính hiện nay là kích cầu cứu nền kinh tế. Phải chấp nhận là chúng ta đang suy giảm rồi. Sao không dám công nhận? Chúng ta đang suy giảm, đừng để nó vào ngưỡng cửa suy thoái.”

 Tin, bài liên quan

Blogger Trương Duy Nhất bị bắt

Blogger Trương Duy NhấtÔng Nhất bị bắt sáng 26/5

Blogger có tiếng Trương Duy Nhất đã bị bắt hôm 26/5 tại Đà Nẵng và bị chuyển ra Hà Nội trong cùng ngày.

Báo Thanh Niên đưa tin Bộ Công an bắt ông Nhất vì có “hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo điều 258, Bộ luật Hình sự.”

Ông Nhất, năm nay 49 tuổi, nghỉ viết báo và chuyển sang viết blog Một góc nhìn khác từ đầu năm 2011 để có thể nói thẳng những suy nghĩ của mình.

Blog thẳng thắn chỉ trích đích danh các lãnh đạo Việt Nam đã nhiều lần bị tin tặc tấn công và hiện cũng đang không thể truy cập được.

Tâm sự với độc giả khi chuyển sang viết blog, ông Nhất nói ông đã làm cho báo Công An Quảng Nam Đà Nẵng 8 năm và sau đó có vài năm làm tại báo Đại Đoàn Kết.

Ông Nhất đã nhiều lần bị Bộ Công an Việt Nam gây sức ép về những gì ông viết trên blog.

Blogger này từng chê Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “Bấm hèn hạ” khi không dám nêu đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người bị Bộ Chính trị đề nghị kỷ luật tại Hội nghị Trung ương 6 hồi cuối năm 2012.

Ông Sang gọi người bị đề nghị kỷ luật là “đồng chí X”.

Mới đây ông Nhất kêu gọi ông Nguyễn Bá Thanh từ chức Trưởng Ban Nội chính Trung ương sau khi Ban chấp hành Trung ương bác đề nghị đưa ông vào Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 7 hồi đầu tháng này.

‘Khát khao thay đổi’

Một loạt các cuộc bắt bớ ở Việt Nam từ đầu năm 2012 được cho là có phần liên quan tới cuộc tranh giành quyền lực đang diễn ra trong đội ngũ cầm quyền cao cấp của Việt Nam.

Trưởng ban Nội chính Nguyễn Bá ThanhÔng Nhất từng kỳ vọng nhiều vào ông Nguyễn Bá Thanh

Tại hai hội nghị trung ương gần đây nhất, Ban chấp hành Trung ương gồm 175 vị đã bác các đề nghị liên quan tới nhân sự của Bộ Chính trị, từ việc kỷ luật ông Nguyễn Tấn Dũng cho tới việc đưa người được xem là đối thủ của ông, Trưởng ban nội chính Nguyễn Bá Thanh, vào Bộ Chính trị.

Trước khi bày tỏ sự thất vọng về ông Nguyễn Bá Thanh sau thất bại của ông này tại Hội nghị Trung ương 7, ông Nhất từng có nhiều kỳ vọng vào vị cựu Bí thư Đà Nẵng:

Ông Nhất nói trong một Bấm phỏng vấn với BBC hồi đầu năm nay:

“Trong con mắt của tôi, thì ông Nguyễn Bá Thanh là một nhân vật cần có trong lúc này, kể cả về tính cách, lẫn tài năng và tư duy. Không chỉ riêng tôi, mà nhiều người tỏ ra rất hồ hởi trước ‘hiện tượng Nguyễn Bá Thanh’.

“Người dân đang khát khao một sự thay đổi, đúng sai gì không biết, nhưng tình hình đã quá u ám, trì trệ kéo dài. Phải thay đổi, phải khác những gì đang có.

“Tôi cho rằng ông Nguyễn Bá Thanh là người làm được việc, nếu giao việc cho ông Thanh thì ông sẽ là nhân vật ít nhiều mang lại sự đổi thay chứ không u ám như bây giờ.”

‘Viết điều cần viết’

Blogger Trương Duy Nhất thu hút được nhiều sự chú ý khi bỏ viết báo để chuyên tâm viết blog.

Giải thích về quyết định này, ông Nhất viết hồi năm 2011:

“Trong nhiều năm liền, với chức phận là một nhà báo ăn lương, tôi luôn phải viết cả những điều không muốn viết. ”

Ông Nhất viết trên blog hồi năm 2011

“Trong nhiều năm liền, với chức phận là một nhà báo ăn lương, tôi luôn phải viết cả những điều không muốn viết.

“Ừ thì cũng như muôn vàn nhà báo khác thế thôi. Đó là những bài báo viết không cần suy nghĩ, không động não, không tư duy, viết khoán cho đủ chỉ tiêu bài vở nhận lương hàng tháng. Những bài báo vô thưởng vô phạt mà tự thân mình phải xấu hổ khi núp dưới bút danh khác.

“Nhưng: làm báo chả lẽ mãi như vậy? Trên trang blog của mình, tôi đã nhiều lần treo câu này “Nếu không có quyền nói (viết) tất cả những điều mình muốn, thì ít ra cũng giữ cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”. Đó là câu của cụ Huỳnh Thúc Kháng, người sáng lập đồng thời là chủ nhiệm tờ báo Tiếng Dân, sau này cụ được Hồ Chí Minh cử làm quyền Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

“Tôi đã chọn cách của cụ Huỳnh trong nhiều năm khi giữ cho mình cái quyền “không nói (viết) những điều người ta ép buộc nói”.

“Nhưng đã đến lúc tôi chọn phương cách khác, lắc đầu nói không với cụ Huỳnh: Nếu không có quyền nói (viết) tất cả những điều mình muốn, thì… nghỉ làm báo để viết được những điều mình cần viết!”

Ông Nhất chỉ là trường hợp mới nhất trong số hàng chục cây viết mà Việt Nam đã bắt giam trong vài năm qua.

Tổ chức Phóng viên Không Biên giới coi Việt Nam nằm trong số ít các nước bị coi là “Kẻ thù của Internet” do chính sách hà khắc của Hà Nội với các cây viết bày tỏ quan điểm ôn hòa trên không gian ảo.

Người trong cuộc lên tiếng

Mặc Lâm, biên tập viên RFA. 2013-05-24
Nguyễn Phương Uyên và Nguyễn Đình Kha tại phiên tòa sơ thẩm Tòa Án Long An hôm 16/5/2013

Nguyễn Phương Uyên và Nguyễn Đình Kha tại phiên tòa sơ thẩm Tòa Án Long An hôm 16/5/2013

AFP

Trong vụ án Đinh Nguyên Kha – Nguyễn Phương Uyên có một người bị cáo buộc là lãnh đạo, xúi giục và cung cấp tiền bạc vật tư cho hai bạn trẻ này nhằm thực hiện âm mưu lật đổ chế độ.

Người ấy là anh Nguyễn Thiện Thành, sau một thời gian im lặng hôm nay đã dành cho Mặc Lâm cuôc phỏng vấn đặc biệt nhằm làm sáng tỏ các cáo buộc mà tòa Long An đã áp đặt lên Nguyên Kha và Phuơng Uyên.

Mặc Lâm: Vừa qua tòa án Long An đã tuyên xử Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên hai bản án rất nặng nề. Chúng tôi chú ý đến bản cáo trạng có nói rõ anh là nguời đã có đóng góp, huấn luyện, cũng như đại diện cho tổ chức “Tuổi trẻ yêu nước” tham gia vào vụ án này. Anh có điều gì chia sẻ với thính giả về các cáo buộc này?

Nguyễn Thiện Thành: Tuổi trẻ yêu nước không phải là một tổ chức chính trị. Tuổi trẻ yêu nước là nơi quy tụ những thành phần sinh viên, ca nhạc sĩ dùng biểu ngữ tờ rơi và lời ca tiếng hát để nói lên suy nghĩ của mình về quyền con người và sự bất công trong xã hội.

Mọi thành viên trong nhóm Tuổi trẻ yêu nước đều không phân biệt chức vụ như các tổ chức chính trị tại hải ngoại và chúng tôi không bị chi phối bởi bất cứ tổ chức chính trị nào tại hải ngoại.

Mặc Lâm: Theo cáo trạng thì cơ quan đìêu tra đã cho rằng Tuổi trẻ yêu nước đã gửi tiền cho Nguyên Kha và Phương Uyên để mua sắm vật dụng cũng như in ấn truyền đơn… sự thật ra sao?

Nguyễn Thiện Thành: Tôi khẳng định cá nhân tôi và nhóm Tuổi trẻ yêu nước chưa bao giờ gởi tiền về cho Uyên và Kha cũng như gia đình của các bạn ấy. Khi mới bị bắt lúc nào công an họ cũng dùng gia đình, người thân để uy hiếp mình đọc 1 biên bản nhận tội rất ấu trĩ do họ soạn ra như là nhận tiền nước ngoài, ham laptop điện thoại hay bị thế lực thù địch bên ngoài lôi kéo, dụ dỗ.

Mục đích của họ chỉ là tiếp tục bôi nhọ anh em chúng tôi là vì ham tiền mới chống lại họ, bôi xấu người yêu nước để họ dùng những  lời lẽ đó tiếp tục che mắt người dân, đặc biệt là tuổi trẻ ở trong nước.

Lập trường của anh em chúng tôi là không bao giờ chấp nhận một chế độ độc tài, cai trị người dân. Một xã hội đầy rẫy bất công và tham nhũng.

Chúng tôi hiểu được sứ mạng của người thanh niên phải làm gì, để thực hiện ước mơ gớp phần dân chủ hóa Việt Nam, anh em chúng tôi tại quốc nội phải tự học tự làm trong một xã hội bất công để kiếm tiền cho mọi hoạt động của mình.

Chúng tôi hoàn toàn không xin xỏ ai. Hơn ai hết chúng tôi hiểu được chỉ có tự lực mới có được tự chủ

Mặc Lâm: Có lẽ yếu tố không kém phần quan trọng mà tòa cáo buộc cho Phương Uyên và Nguyên Kha là lấy lá cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng cho việc đấu tranh, anh nghĩ sao về việc này?

Nguyễn Thiện Thành: Khi học lịch sử chúng tôi hiểu được màu cờ vàng là màu truyên thống của dân tộc VN trong xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử  và lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ có từ thời vua Thành Thái 1890 một triều đại Kháng Pháp, và vua Thành Thái bị lưu đày.

Chúng tôi sử dụng lá cờ gần nhất trong lịch sử VN để nói lên tinh thần dân tộc bất khuất.

Chúng tôi khẳng định, anh em chúng tôi đấu tranh không phải để khôi phục lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi đấu tranh không phải vì thù hận của thế hệ đi trước, vì chúng tôi không biết chế độ  VNCH xấu hay tốt thế nào.

Chúng tôi sinh ra và lớn lên trong chế độ Cộng Sản, chúng tôi bị tuyên truyền từ nhỏ bởi những câu xảo ngữ xáo rỗng nào là “đảng là cuộc sống của tôi” hay “quang vinh muôn năm” …

Như bao thanh niên khác chúng tôi từng tin đảng, yêu đảng nhưng chính xã hội bất công tham nhũng, quyền con người bị chà đạp đã dạy cho chúng tôi biết công sản là gì.

Chúng tôi đấu tranh chống lại chủ nghĩa ngoại lai cộng sản nêu cao tinh thần dân tộc .

Mặc Lâm: Riêng về cáo buôc nặng nề nhất cho rằng Đinh Nguyên Kha đã mua thuốc nổ và chờ thời cơ để hành động. Anh nghĩ sao về cáo buộc nguy hiểm này?

Nguyễn Thiện Thành: Chúng tôi là những sinh viên, văn nghệ sĩ chỉ biết dùng biểu ngữ, truyền đơn, lời ca tiếng hát để nói lên sự bất công xã hội trong một chế độ độc đảng. Chúng tôi khẳng định là không biết gì về vũ khí, bom đạn.

Cá nhân tôi từng dán truyền đơn lên tượng bán thân ông Hồ chí Minh ở Đồng Tháp và họ đã từng vu khống tôi có âm mưu đặt bom tượng Hồ Chí Minh vào năm 2011.

Đây không phải là lần đầu Cộng sản Việt Nam vu khống những người có tinh thần đấu tranh ôn hòa bằng một tội vô cùng khủng khiếp mà là rất nhiều nhà đấu tranh ôn hòa trong và ngoài nước cũng từng bị như vậy.

Họ cáo buộc tôi đã gởi tài liệu hướng dẫn anh em của tôi là Đinh Nguyên Kha tội để chế tạo thuốc nổ, tôi khẳng định là là sai sự thật

Mặc Lâm: Anh giải thích 2 ký rưỡi hóa chất mà Đinh Nhật Uy giải thích là thuốc pháo đen sự thật tác dụng phá hoại của nó như thế nào?

Nguyễn Thiện Thành: Về 2,5 kg chất hóa học Kha mua ở chợ Kim Biên Sài gòn thì ai cũng biết chợ Kim Biên là chợ mua bán hóa chất dùng trong công nghiệp công khai. Những hóa chất đó hoàn toàn không thể nào chế tạo được thuốc nổ có sức công phá.

Tôi đã nghe anh Đinh Nhật Uy có trình bày đây là thuốc pháo đen dùng để chế pháo xẹt trong dịp sinh nhật, cưới hỏi.

Mục đích của họ có 2 điều: Tìm kiếm sự đồng thuận với quốc tế về  những hành động đàn áp nhân quyền của họ, và ngậm máu phun người, tiếp tục tuyên truyền xảo trá với người dân trong nước chúng tôi là bọn khủng bố.

Mặc Lâm: Cuối cùng anh có tin rằng dưới sức ép của dư luận hiện nay phiên phúc thẩm của hai bạn trẻ Phương Uyên và Nguyên Kha sắp tới sẽ có kết quả khá hơn hay không?

Nguyễn Thiện Thành: Cái điều đó tôi không thể nào đoán đựơc. Họ tuyên án nặng như vậy chứng tỏ sự sợ hãi và nhu nhược của họ.

Trước những bạo quyền bất công xã hội, hèn nhát trước ngoại xâm và đàn áp người dân. Họ sợ sự đồng thuận đứng cạnh bên nhau nó lớn lên thì chế độ của họ sẽ lung lay cho nên họ phải sợ hãi qua bản án này.

Cái tội trong điều 88 tuyên truyền chống phá nhà nước mà họ tuyên án cho những người đấu tranh ôn hòa như vậy càng chứng tỏ họ là chế độ quân phiệt, giống như tội khi quân ở một nước quân chủ.

Mặc Lâm: Xin cám ơn anh Nguyễn Thiện Thành về những thông tin có liên quan đến vụ án này.

Blogger Trương Duy Nhất bị bắt

Blogger Trương Duy NhấtÔng Nhất bị bắt sáng 26/5

Blogger có tiếng Trương Duy Nhất đã bị bắt hôm 26/5 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Báo Thanh Niên đưa tin Bộ Công an bắt ông Nhất vì có “hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo điều 258, Bộ luật Hình sự.”

Ông Nhất nghỉ viết báo và chuyển sang viết blog Một góc nhìn khác từ đầu năm 2011.

Blog thẳng thắn chỉ trích đích danh các lãnh đạo Việt Nam đã nhiều lần bị tin tặc tấn công và hiện cũng đang không thể truy cập được.

Tâm sự với độc giả khi chuyển sang viết blog, ông Nhất nói ông đã làm cho báo Công An Quảng Nam Đà Nẵng 8 năm và sau đó có vài năm làm tại báo Đại Đoàn Kết.

Ông Nhất đã nhiều lần bị Bộ Công an Việt Nam gây sức ép về những gì ông viết trên blog.

Blogger này từng chê Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “Bấm hèn hạ” khi không dám nêu đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người bị Bộ Chính trị đề nghị kỷ luật tại Hội nghị Trung ương 6 hồi cuối năm 2012.

Ông Sang gọi người bị đề nghị kỷ luật là “đồng chí X”.

Mới đây ông Nhất kêu gọi ông Nguyễn Bá Thanh từ chức Trưởng ban nội chính trung ương sau khi Ban chấp hành Trung ương bác đề nghị đưa ông vào Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 7 hồi đầu tháng này.

Một loạt các cuộc bắt bớ ở Việt Nam từ đầu năm 2012 được cho là có phần liên quan tới cuộc tranh giành quyền lực đang diễn ra trong đội ngũ cầm quyền cao cấp của Việt Nam.

Tại hai hội nghị trung ương gần đây nhất, Ban chấp hành Trung ương gồm 175 vị đã bác các đề nghị liên quan tới nhân sự của Bộ Chính trị, từ việc kỷ luật ông Nguyễn Tấn Dũng cho tới việc đưa người được xem là đối thủ của ông, Trưởng ban nội chính Nguyễn Bá Thanh, vào Bộ Chính trị.

TS Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực để phản đối hành vi ‘cố ý giết người’ của giám thị trại giam

Danlambao, 25/11/2013

DanlambaoHôm 25/11/2012, luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đã chính thức gửi đơn yêu cầu ‘khẩn trương điều tra’ về việc cán bộ trại giam ‘cố ý hãm hại’ chồng mình là Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ.

Nội dung lá đơn có nhắc lại lời tố cáo trước đó của tiến sỹ Hà Vũ về việc cán bộ trại giam số 5 tên Lê Văn Chiến đã có hành vi ‘cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ’.

Dưới đây là nguyên văn lá đơn của gia đình TS Cù Huy Hà Vũ:

*
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———————————–
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2012
YÊU CẦU KHẨN TRƯƠNG ĐIỀU TRA 
V.V CÁN BỘ TRAI GIAM SỐ 5 CỐ Ý HÃM HẠI ÔNG CÙ HUY HÀ VŨ 
Kính gửi: Giám thị Lường Văn Tuyến, Trại giam số 5 – Bộ Công an.
Tôi, Nguyễn Thị Dương Hà, vợ và là luật sư của ông Cù Huy Hà Vũ bị Tòa án nhân dân tối cao kết án 07 năm tù giam, 03 năm quản chế về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo điểm c, khoản 1, Điều 88 Bộ luật Hình sự – ông Vũ luôn khẳng định bản thân hoàn toàn vô tội – yêu cầu Ông Giám thị như sau:
Ngày 16/11/2012, khi vào thăm ông Cù Huy Hà Vũ tại trại giam tôi đã được ông Cù Huy Hà Vũ cho biết là ông Vũ đã gửi Giám thị “Đơn tố cáo cán bộ trại giam số 5 – Bộ Công an cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ” viết ngày 11/11/2012, có nội dung được tóm lược sau đây.
Cửa buồng giam ông Vũ chỉ cách bệ ông Vũ nằm 30cm nên việc cán bộ trại giam mở toang cửa buồng giam vào buổi sáng tất gây gió xộc thẳng vào đầu ông Vũ và có thể làm ông Vũ chết, nhất là trong khi ông Vũ bị bệnh tim, cao huyết áp, đau nửa đầu mà trời thì đã trở lạnh. Do đó, bản thân ông Vũ và gia đình ngay từ năm 2011 đã yêu cầu Giám thị không cho cán bộ trại giam mở toang cửa buồng giam ông Vũ để tránh gây nguy hiểm đến tính mạng ông Vũ. Thế nhưng, cán bộ trại giam Lê Văn Chiến vẫn liên tục mở toang cửa buồn giam và kết quả là sáng 11/11/2012, ông Vũ đã bị gió lùa, đầu đau nhức, huyết áp vụt tăng cao; ông Nguyễn Đình Dặm, người tù duy nhất ở cùng với ông Vũ phải kêu cấp cứu nhưng suốt buổi sáng hôm đó không có cán bộ nào đến, phải đến tận chiều hôm đó, khi tù nhân đến đưa cơm mới nhắn gọi được bác sĩ. Như vậy, cán bộ trại giam Lê Văn Chiến đã cố ý giết ông Vũ bằng cách mở toang cửa buồng giam để gió lùa xộc thẳng vào người và đầu ông Vũ. Do đó, ông Vũ đã viết đơn tố cáo với Giám thị về hành vi giết người này của cán bộ trại giam Lê Văn Chiến đồng thời yêu cầu Giám thị áp dụng biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn hành vi giết người này.
Cho tới hôm nay, ngày 25/11/2012, hồi 8g10’, ông Cù Huy Hà Vũ sau nhiều lần yêu cầu theo quy định của Luật Thi Hành án mới được gọi điện thoại về nhà cho tôi biết: “dù đã nhận được Đơn tố cáo nhưng Giám thị vẫn cử quản giáo Lê Văn Chiến trực buồng giam ông Vũ, mở, đóng cửa buồng giam ông Vũ, bất chấp pháp luật hình sự là phải cách ly đối tượng bị tố cáo muốn giết người khỏi người tố cáo, điều này có nghĩa Giám thị tạo điều kiện cho Lê Văn Chiến tiếp tục hãm hại ông Vũ”. 
Mặc dù, ngày 16/11/2012, trong khi đưa ông Cù Huy Hà Vũ ra làm việc với tôi với tư cách là luật sư của ông Vũ và thăm gặp tôi, với tư cách là vợ của ông Vũ, Trung tá Bùi Duy Vân đã hứa với tôi trước mặt Trung tá Nguyễn Hiếu Lượng và ông Cù Huy Hà Vũ là sẽ không bao giờ để cho cán bộ quản giáo Lê Văn Chiến trực buồng giam của ông Vũ nữa! Chính vì lẽ đó mà tôi đã tin tưởng Trung tá Bùi Duy Vân để đến tận hôm nay, sau 10 ngày biết chuyện mới viết đơn này.
Căn cứ Điều 71 Hiến pháp (công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm), để bảo vệ tính mạng của ông Cù Huy Hà Vũ, tôi yêu cầu ông Giám thị:
1- Khẩn cấp cách ly cán bộ trại giam Lê Văn Chiến khỏi ông Cù Huy Hà Vũ;
2- Khẩn trương điều tra hành vi cố ý hãm hại ông Cù Huy Hà Vũ của cán bộ Trại giam số 5 Bộ Công an Lê Văn Chiến;
3- Tuyệt đối không để những cán bộ thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu tình người trực buồng giam, đặc biệt là những buồng giam tù chính trị.
Trân trọng,
 NGƯỜI YÊU CẦU
 
 
 
 
 
 
  NGUYỄN THỊ DƯƠNG HÀ
Nơi nhận:
– Như trên;
– Các Luật sư của ông Cù Huy Hà Vũ;
– Ông Cù Huy Hà Vũ;
– Gia đình ông Cù Huy Hà Vũ;
– Lưu.
_________________________________________________

TS Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực để phản đối hành vi ‘cố ý giết người’ của giám thị trại giam

Danlambao – Hôm 27/5/2013, luật sư Nguyễn Thị Dương Hà – vợ tiến sỹ luật Cù Huy Hà Vũ đã phổ biến lá đơn tố cáo khẩn cấp về việc ‘Giám thị trại giam số 5 – Bộ Công An có ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ’.
Trong nội dung tố cáo, bà Dương Hà cho biết: Bắt đầu từ hôm nay, 27/5/2013, tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ sẽ chính thức tuyệt thực để phản đối hành vi vi phạm phát luật của giám thị trại giam.
Hành động phản kháng như trên của TS Vũ có liên quan đến đơn tố cáo trước đó của ông về việc cán bộ trại giam số 5 tên Lê Văn Chiến có hành vi “cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ“.
 
Xin được nhắc lại, TS Cù Huy Hà Vũ hiện đang bị giam giữ tại trại giam số 5 – Bộ Công An (Yên Định, Thanh Hóa) với bản án 7 năm tù. Từ khi bị chuyển đây, viên cán bộ trại giam tên Lê Văn Chiến đã dùng nhiều thủ đoạn nhằm mục đích trả thù TS Vũ.
Hậu quả nghiêm trọng nhất là vào ngày 11/11/2012, tên cán bộ Chiến đã cố ý hãm hại TS Vũ, dẫn đến việc TS Vũ bị lên cơn đau đầu, huyết áp tăng vụt, rất nguy hiểm đến tính mạng.
Sau sự việc này, TS Vũ và gia đình đã gửi đơn tố cáo khẩn cấp về hành vi trên.
Đến nay đã 6 tháng trôi qua, TS Vũ vẫn chưa nhận được văn bản giải quyết về nội dung tố cáo. Thậm chí, viên giám thị đứng đầu trại giam tên Lương Văn Tuyến vẫn tiếp tục chỉ đạo cho tên cán bộ Lê Văn Chiến đến canh gác phòng giam của TS Vũ. Như vậy, mặc dù đã được cảnh báo nhưng giám thị Lương Văn Tuyến đã bao che, tiếp tay cho cán bộ Lê Văn Tuyến tiếp tục thực hiện âm mưu hãm hại, trả thù TS Vũ.
Những hành vi ‘cố ý giết người’ như trên của giám thị trại giam số 5 đã đẩy TS Cù Huy Hà Vũ phải dùng đến biện pháp phản kháng cuối cùng là tuyệt thực để phản đối.
TS Vũ có tiền sử bệnh tim, cao huyết áp, đau nửa đầu… Việc tuyệt thực kéo dài sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng.
Dưới đây là nguyên văn lá đơn tố cáo khẩn cấp do LS Nguyễn Thị Dương Hà – vợ TS Cù Huy Hà Vũ vừa cho phổ biến:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
————————————-
Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2013
ĐƠN TỐ CÁO
GIÁM THỊ TRẠI GIAM SỐ 5 – BỘ CÔNG AN
CỐ Ý GIẾT CÔNG DÂN CÙ HUY HÀ VŨ
Kính gửi:
Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng
– Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình
– Viện trưởng VKS nhân dân tối cao Nguyễn Thanh Bình
– Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang
– Ủy ban thường vụ Quốc Hội
– Ủy ban Tư pháp Quốc Hội
– Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội
Đồng kính gửi: Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
Tôi là Nguyễn Thị Dương Hà, thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nôi, căn cứ Điều 74 Hiến pháp quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và Luật tố cáo, tôi tố cáo với Quý Cơ quan, Quý vị về việc Giám thị Lường Văn Tuyến, Trại giam số 5 – Bộ Công an (Yên Định, Thanh Hóa) cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ như trình bày sau đây.
Chồng tôi, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội, bị Tòa án nhân dân tối cao kết án 07 (bảy) năm tù, 03 năm quản chế là trái quy định “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp” tại khoản 1 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền chính trị và dân sự mà Việt Nam là thành viên từ 1982, trái quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin” tại Điệu 69 Hiến pháp. Thực vậy, ông Cù Huy Hà Vũ bị Nhà nước bỏ tù do đã nêu yêu cầu bỏ Điều 4 của Hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Thế nhưng tại Kỳ họp thứ 5 Quốc Hội khóa 13 đang diễn ra. Quốc Hội đã công nhận những ý kiến yêu cầu bỏ Điều 4 Hiến pháp của công dân góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là quyền của công dân, là hoàn toàn hợp pháp, việc làm này của Quốc Hội tự nó đã chứng minh ông Cù Huy Hà Vũ hoàn toàn không có tội và vì vậy bị bỏ tù oan!
Ngày 11/11/2012, căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 168 (Thẩm quyền, thời hạn và thủ tục giải quyết tố cáo) và Điều 169 (Trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo) Luật thi hành án hình sự, ông Cù Huy Hà Vũ đã gửi giám thị trại giam Lường Văn Tuyến “Đơn tố cáo Lê Văn Chiến, cán bộ trại giam số 5 – Bộ Công an cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ”.
Khoản 2 Điều 168 Luật thi hành án hình sự quy định: “Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể kéo dài hơn nhưng không quá 90 ngày” Điều 169 Luật thi hành án quy định: “Cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra”.
Thế nhưng khi tôi lên thăm chồng tôi vào ngày hôm qua, 26/5/2013, tại trại giam, ông Cù Huy Hà Vũ trước mặt các cán bộ giám sát của trại giam đã thông báo cho tôi biết là ông Vũ không những không nhận được văn bản giải quyết Đơn tố cáo của ông Vũ từ giám thị Lường Văn Tuyến mà ngày 12/5/2013, giám thị Lường Văn Tuyến lại cho cán bộ Lê Văn Chiến vào trực phòng giam ông Cù Huy Hà Vũ và do đó ngày 12/5/2013, sau 180 ngày kể từ khi ông Vũ gửi giám thị Tuyến đơn tố cáo, ông Vũ tiếp tục gửi giám thị Lường Văn Tuyến văn bản yêu cầu giải quyết Đơn tố cáo Lê Văn Chiến, cán bộ trại giam số 5 – Bộ Công an cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ trong đó ghi rõ : “Trong trường hợp giám thị không giải quyết Đơn tố cáo này của tôi – Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ – sẽ tuyệt thực để phản đối hành vi phạm pháp này của giám thị (không giải quyết tố cáo này như Hiến pháp và luật Thi hành án hình sự, Luật tố cáo quy định)”. Thế nhưng đã 2 tuần trôi qua mà giám thị Tuyến vẫn tiếp tục lờ giải quyết Đơn tố cáo của ông Cù Huy Hà Vũ nên ông Vũ tuyên bố cho tôi biết là từ ngày hôm nay, 27/5/2013, ông Vũ tuyệt thực.
Như vậy bằng việc cố ý không giải quyết Đơn ngày 11/11/2012 của ông Cù Huy Hà Vũ tố cáo Lê Văn Chiến, cán bộ trại giam số 5 – Bộ Công an cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ bất chấp cảnh báo tuyệt thực của ông Vũ, giám thị trại giam Lường Văn Tuyến đã cố ý giết chồng tôi – Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, nhất là giám thị Tuyến biết rõ là ông Vũ bị bệnh tim và cao huyết áp.
Ngoài ra, giám thị trại giam Cù Huy Hà Vũ còn xâm phạm nhiều quyền lợi hợp pháp khác của ông Cù Huy Hà Vũ như quyền gặp vợ ở phòng riêng không quá 24 giờ, quy định tại Khoản 1 Điều 46 Luật thi hành án hình sự, nhiều lần xâm phạm quyền gửi thư quy định tại Khoản 1 Điều 47 Luật thi hành án hình sự, không cho nhận một số đồ dùng thiết yếu không thuộc danh mục cấm… Tất cả những xâm phạm quyền lợi hợp pháp này của ông Vũ của giám thị trại giam Lường Văn Tuyến cùng với việc giám thị Tuyến chà đạp quyền tố cáo của ông Vũ như trên vừa chứng minh đã đẩy ông Vũ đến quyết định tuyệt thực để phản đối các hành vi phạm pháp này của giám thị Tuyến bởi không còn đường nào khác để bảo vệ quyền lợi của mình trong điều kiện bị giam tại trại giam số 5 – Bộ Công an.
Bằng tố cáo này, tôi yêu cầu Quý Cơ quan, Quý vị khẩn cấp chặn đứng bàn tay tội ác của giám thị trại giam số 5 – Bộ Công an Lường Văn Tuyến để bảo vệ tính mạng và các quyền lợi hợp pháp khác của chồng tôi – Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, nhất là khi ông Cù Huy Hà Vũ hoàn toàn vô tội và bị bỏ tù trái pháp luật, và qua đó để bảo vệ nhân quyền – quyền công dân khỏi bị chà đạp ở Việt Nam!
Trân trọng,
Người tố cáo
Nguyễn Thị Dương Hà
Nơi gửi:
– Như trên;
– Các Luật sư của ông Vũ;
– Gia đình ông Vũ;
– Lưu.

‘Đảng chưa ra khỏi cái bóng của mình’

Nguyễn Thị Hường. Gửi cho BBCVietnamese.com từ Hoa Kỳ. 24 tháng 5, 2013

Các lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục đi theo một lối cũ

Sau những cuộc “lấy ý kiến nhân dân” rầm rộ, và với những bản báo cáo choáng ngợp như 20 triệu lượt ý kiến của nhân dân, 28,000 hội thảo hội nghị góp ý hiến pháp từ các cấp các ngành, có lẽ Đảng Cộng sản nghĩ đó là đủ để tạo cái vỏ bọc dân chủ cần thiết cho dự thảo Hiến pháp của họ.

Nhưng trong thực tế, những con số đó không thuyết phục được ai về tính dân chủ của cuộc sửa đổi Hiến pháp và cũng chẳng nói lên điều gì về “nguyện vọng của đa số nhân dân”.

Cho đến nay Việt Nam vẫn không có truyền thông độc lập, không có các tổ chức dân sự tự do cũng như các tổ chức đối lập nên không có kiểm soát và phản biện rộng rãi trong quá trình “lấy ý kiến” nhân dân.

Kết quả cuộc thu thập các ý kiến về sửa đổi Hiến pháp do Đảng Cộng sản tiến hành khó có thể được coi là trung thực.

Kiến nghị 72 và khảo sát trên mạng của trang Cùng viết Hiến pháp – những ý kiến và khảo sát độc lập – phản ánh những nguyện vọng trái ngược so với những gì Đảng Cộng sản đang cố níu kéo, đặc biệt là về điều 4, về vai trò của quân đội cũng như về quyền tư hữu đất đai và bản chất của chế độ chính trị.

Tất nhiên, nói về số lượng thì Đảng Cộng sản, với vị thế độc quyền lãnh đạo cả bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, với nguồn ngân sách và nhân lực khổng lồ do nhân dân đóng thuế nuôi, áp đảo những khởi xướng độc lập của những nhóm trí thức ít người và và không có phương tiện cũng như môi trường chính trị tự do để vận động cho quan điểm của họ hay thực hiện những cuộc khảo sát độc lập mang quy mô rộng lớn hơn để rộng đường dư luận.

Chúng ta đang thấy một cuộc cạnh tranh về tư tưởng hiến pháp và chính trị trong đó xã hội đang lép vế trước thiểu số cầm quyền.

Phúc quyết và sửa hệ thống

“Chúng ta có dám “vượt qua cái bóng của chính mình” bằng việc mạnh dạn gỡ bỏ những gì đang làm trì trệ sự phát triển và hoà nhập quốc tế”

Nguyễn Thị Hường

Tôi vẫn cho rằng nếu không có một cuộc phúc quyết hiến pháp minh bạch, dân chủ thì mọi sửa đổi Hiến pháp chỉ là vô nghĩa, tốn tiền bạc của nhân dân một cách vô ích.

Tôi nhấn mạnh yếu tố “minh bạch” và “dân chủ” bởi tôi biết rằng có những người quan ngại rằng một cuộc phúc quyết hiến pháp trong tình trạng không có tự do chính trị như hiện nay có thể củng cố quyền lực và tính chính danh của chế độ thay vì thực sự phản ánh ý nguyện của nhân dân một cách trung thực. Nhưng chúng ta cần phân biệt giữa nguyên tắc và phương thức tiến hành.

Về mặt nguyên tắc, chúng ta cần thống nhất rằng phúc quyết Hiến pháp là điều kiện để Hiến pháp thực sự là khế ước xã hội qua đó nhân dân trao quyền cho nhà nước. Có những Hiến pháp dân chủ mà không quy định phúc quyết hiến pháp, đúng vậy.

Nhưng đó là những quốc gia đã có dân chủ, Quốc hội hay cơ quan lập hiến trong thể chế chính trị của họ do nhân dân bầu ra qua bầu cử tự do, công bằng, đại diện cho quốc dân và chịu trách nhiệm trước quốc dân của họ. Đó là điều Việt Nam chưa có.

Và phúc quyết Hiến pháp là một cơ hội trong thời điểm hiện tại để nhân dân Việt Nam bày tỏ nguyện vọng về những vấn đề chính trị căn bản nhất của quốc gia.

Sau khi thống nhất về nguyên tắc như vậy, việc tổ chức như thế nào để cuộc trưng cầu dân ý được minh bạch, dân chủ, là điều quan trọng cần bàn. Những người lãnh đạo thức thời trong Đảng Cộng sản nên ngồi lại cùng giới trí thức, đảng viên cấp tiến, và cả những tổ chức đối lập, để bàn thảo và thương lượng những điều kiện tiến hành cuộc phúc quyết Hiến pháp.

“Đất nước cần rất nhiều cải cách trên nhiều phương diện, giáo dục, kinh tế, y tế”

Đó là cách khôn ngoan để họ vừa có thể đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, vừa giữ thế chủ động và thể diện để có cơ may bảo đảm vị thế chính trị của họ trong tương lai. Vị thế chính trị của họ trong tương lai chỉ có thể dựa vào sự đồng thuận của nhân dân mà thôi.

Tất nhiên, thay đổi Hiến pháp không phải là tất cả những gì Việt Nam cần. Chẳng ai ngây thơ đặt niềm tin vào những điều kỳ diệu nào đó mà một cơ chế hiến pháp dân chủ sẽ tự động mang lại cho Việt Nam.

Đất nước cần rất nhiều cải cách trên nhiều phương diện, giáo dục, kinh tế, y tế; cần những người có tâm, có tài, có trách nhiệm để thực hiện các cải cách đó một cách khôn ngoan và hữu hiệu. Pháp luật chỉ là một phần của những gì Việt Nam cần mà thôi.

Tuy vậy, đất nước nào cũng cần một hệ thống pháp luật chuẩn mực, một cơ chế nhà nước dân chủ quy định trong bản Hiến pháp để tiến hành những cải cách khác một cách hiệu quả với sự đóng góp của những người hiền tài. Như nhiều người đã nói: vấn đề của Việt Nam là vấn đề cơ chế, là “lỗi hệ thống.” Mà viết lại Hiến pháp chẳng phải là tổ chức lại hệ thống quyền lực nhà nước đó hay sao?

Cơ hội đoàn kết

“Làm ngơ trước những đòi hỏi về Hiến pháp đồng nghĩa với việc làm ngơ trước những đòi hỏi ôn hòa về chính trị”

Sửa đổi hiến pháp còn có thể là cơ hội để những người Việt Nam cả trong lẫn ngoài đảng, cả giới lãnh đạo lẫn đối lập, cả trí thức và người dân thường suy nghĩ sâu sắc về những nguyên tắc và giá trị nền tảng kết nối chúng ta như một xã hội, một cộng đồng, một quốc gia, lên tiếng thể hiện sự đồng thuận về những giá trị và nguyên tắc đó và hiến định chúng.

Nếu vẫn còn sự bất đồng về những hệ giá trị căn bản nhất – chất keo gắn bó chúng ta với tư cách là những thành viên của cùng một cộng đồng, liệu những lời kêu gọi đoàn kết, hòa hợp, phát triển, có thực hiện được hay không?

Điều gắn bó người Việt chúng ta là gì? Là một ý thức hệ ngoại lai hay những giá trị tư tưởng nhân bản, bao dung, như sự tổng hòa tam giáo đồng nguyên là một niềm tự hào và là một ví dụ? Là rập khuôn giáo điều an phận hay tinh thần ham học hỏi và dám “ra biển lớn”?

Là một thể chế chính trị tập quyền áp đặt hay một cơ chế hạn chế quyền lực nhà nước, một xã hội dân sự đầy khí lực và một hệ thống khuyến khích người tài tham gia quản trị quốc gia?

Một số kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992 của nhân sỹ trí thức bị coi là ‘suy thoái đạo đức’.

Chúng ta có dám “vượt qua cái bóng của chính mình” bằng việc mạnh dạn gỡ bỏ những gì đang làm trì trệ sự phát triển và hoà nhập quốc tế của quốc gia, và đặt nền tảng là những nguyên tắc mới, những hệ giá trị cầu thị mới trong bản khế ước xã hội – Hiến pháp?

Chúng ta sẽ làm thế nào để bước cái bước tiến “vượt qua cái bóng của chính mình” đó mà không lặp lại những sai lầm lịch sử gây thêm chia rẽ, thù hận hay nghi kỵ giữa người Việt lẫn nhau? Không một cá nhân hay một nhóm người nào trong xã hội có thể áp đặt câu trả lời cho những câu hỏi quá lớn đó.

Đó phải là một câu trả lời đồng thanh, tập thể, sau một cuộc thảo luận công khai, tự do, bởi toàn thể công dân Việt Nam qua một cuộc trưng cầu ý dân dân chủ và minh bạch.

Hiến pháp không chỉ là một điều luật thông thường.

Có học giả đã nói rằng Hiến pháp là một bộ luật chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam đừng cho rằng họ có thể làm ngơ trước những đòi hỏi về chính trị của người dân Việt Nam thể hiện qua những cuộc thảo luận trên truyền thông xã hội và các kiến nghị về Hiến pháp.

Làm ngơ trước những đòi hỏi về Hiến pháp đồng nghĩa với việc làm ngơ trước những đòi hỏi ôn hòa về chính trị. Mà ý dân là nền tảng của quyền lực chính trị của một chế độ.

Đảng Cộng sản Việt Nam có sự lựa chọn giữa một cải cách ôn hòa và củng cố vị thế chính trị của họ thông qua việc cải tổ hiến pháp, hoặc tiếp tục thách thức sức mạnh tiềm ẩn của nhân dân, vốn chỉ bùng phát khi giới lãnh đạo mà họ từng kỳ vọng không còn lắng nghe họ nữa.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cô Nguyễn Thị Hường, nghiên cứu sinh Luật, Đại học Indiana, Hoa Kỳ.

Nhân quyền ảnh hưởng đến quan hệ Việt-Mỹ

VOA, 24.05.2013

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa công bố bài xã luận phản ánh quan điểm chính thức về vấn đề nhân quyền ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam, Hoa Kỳ.

Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, Tiến sĩ Daniel Baer

Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, Tiến sĩ Daniel Baer

Mới đây, Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, Tiến sĩ Daniel Baer, đã có bài phát biểu nhân ngày Nhân quyền Việt Nam tại thủ đô Washington. Ông nhận định mối quan hệ giữa Hoa Kỳ-Việt Nam là một quan hệ năng động. Tuy nhiên, ông nói người dân Việt Nam không được hưởng những quyền con người và quyền tự do cơ bản được quốc tế công nhận. Ông cho biết quan tâm của Hoa Kỳ đối với vấn đề nhân quyền ở Việt Nam ảnh hưởng đến mọi phương diện trong quan hệ của hai nước.

Tiến sĩ Baer vừa trở về sau khi dẫn đầu một phái đoàn sang Việt Nam để dự Ðối thoại Nhân quyền Mỹ-Việt. Phái đoàn ghi nhận những bước đi tích cực của chính quyền Việt Nam, bao gồm việc kéo dài thời hạn đóng góp ý kiến về bản dự thảo hiến pháp.

Ông Baer nói giờ nhà chức trách Việt Nam có trách nhiệm phải xem xét những ý kiến đó một cách nghiêm túc và công bằng để đưa tiếng nói của người dân bình thường vào bản hiến pháp được sửa đổi.

Ông Baer nói Hoa Kỳ muốn thấy ở Việt Nam một hệ thống mang lại sự bình đẳng cho tất cả mọi người trước luật pháp, cùng với việc thực thi luật pháp một cách công bằng. Mỹ quan ngại về sự gia tăng những vụ sách nhiễu và giam cầm những blogger và những nhà hoạt động. Những chính sách về Internet như ngăn chặn, cho tin tặc tấn công, và theo dõi người sử dụng đã hạn chế luồng thông tin tự do.

Ông Baer cho biết nhiều người trong số hơn 120 tù nhân chính trị của Việt Nam bị cầm tù vì thực hiện quyền tự do biểu đạt của mình.

Hiến pháp Việt Nam cho phép công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo và những quyền căn bản khác. Song, ông Baer nói thực tế lại khác.

Ông Baer nhận xét những sự bất tương xứng như vậy làm suy yếu sự phát triển và kìm hãm tiềm năng của Việt Nam. Ông cũng nêu ra rằng Hoa Kỳ đã thảo luận những vấn đề này và nhiều vấn đề khác nữa với chính quyền Việt Nam.

Ông Baer nói nếu không có tiến bộ về nhân quyền thì Việt Nam sẽ vấp phải những hạn chế ở mức phát triển mà Việt Nam có thể đạt được cũng như mức phát triển trong quan hệ hai nước. Vì thế ông Baer nói Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hối thúc Việt Nam cải thiện bảo vệ nhân quyền vì Hoa Kỳ quan tâm đến những người bị từ chối những quyền này, và vì đó là điều đúng đắn cần phải làm.

* Bài xã luận “Nhân quyền ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam, Hoa Kỳ” phản ánh quan điểm chính thức của chính phủ Hoa Kỳ

Thu hồi đất: Dự thảo hiến pháp lại “thụt lùi sâu sắc”

Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam. 2013-05-23
Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này
_MG_0035-305.jpg

Một khu đất đang quy hoạch ở Nha Trang, ảnh minh họa.

RFA photo

Khi Chủ nhiệm ủy ban pháp luật quốc hội Phan Trung Lý xuất hiện với bộ mặt căng đầy “vẫn thu hồi đất cho các dự án kinh tế xã hội”, người ta lại có thể nhận ra một sự thụt lùi sâu sắc về mặt tư duy, không khác mấy từ ngữ tương tự mà người Mỹ thường dùng để ám chỉ những quốc gia vi phạm nhân quyền một cách tệ hại.

Vỡ làng!

Với tiêu đề hiếm có trên, Nông nghiệp Việt Nam – một tờ báo “lề phải” nhưng đã có nhiều bài phản biện xã hội sắc sảo, trong số ra ngày 22/5/2013 đã chuyển tải những dòng phóng sự quá đỗi đau xót đến người đọc.

Tam Cường (Tam Nông, Phú Thọ) là một điển hình cho sự “vỡ làng” đau đớn ấy. Người già ở đây bảo cuộc cải cách ruộng đất dù đã trôi qua hơn nửa thế kỷ vẫn còn âm ỉ đau khổ thì nay vấn đề ruộng đất lại gây ra cho Tam Cường những đau khổ, day dứt không kém.

Năm 2008, Cty Cổ phần Hóa dầu và Nhiên liệu sinh học dầu khí lấy đất làm nhà máy cồn nhiên liệu sinh học ở địa bàn 3 xã Cổ Tiết, Văn Lương và Tam Cường với tổng diện tích 51 ha, phần nhiều trong đó là đất hai lúa thuộc diện “bờ xôi, ruộng mật”. Dù nhiều người dân của xã Tam Cường kịch liệt phản đối, yêu cầu chuyển dự án lên đồi rừng tránh lấy đất hai lúa của họ nhưng không được đáp ứng. Người dân yêu cầu chủ đầu tư phải thỏa thuận với dân về giá cả nhưng cũng không được chấp nhận mà chỉ áp đền bù ở mức 15 triệu đồng/sào. Gần 100 hộ dân ở khu 3 của thôn Tự Cường kiên quyết phản đối chuyện lấy đất. Dự án vẫn tiếp tục. Nhiều đoàn thể đến từng nhà dân vận động ký vào biên bản “Hỗ trợ bồi thường tái định cư” mà họ gọi là ký đối soát. Việc ký đối soát được thực hiện cả ngày lẫn đêm.

Lão nông Phạm Công Lưu ở Khu 3 bảo: “Chưa bao giờ quê tôi tan nát như thế này. Trước giặc Pháp đóng ở Gành, các vùng khác theo tề, riêng dân Tam Cường mỗi người hai cây tre góp nhau rào làng kháng chiến đến lúc thắng lợi. Tình yêu Tổ quốc nói đâu xa, từ chính tình yêu con sông, cái suối, gốc đa, giếng làng, yêu bà con chòm xóm. Giờ quê tôi ăn cưới chia hai dãy mâm, bên phản đối bán đất, bên nhận tiền đền bù. Lắm đám cỗ cưới ế sưng vì bà con không thèm đến, đám ma vắng lạnh phải huy động cả đoàn thể đi để cho người chết đỡ tủi. Anh em không nhìn mặt nhau, bố con từ nhau cũng chỉ vì người nhận đền bù, người không chịu. Ông trưởng họ đồng ý bán đất, cả họ từ mặt…”.

Quốc hội?

_MG_0432-250.jpg
Một khu vực đang đô thị hóa, vẫn còn gia súc "lang thang" trong thành phố. RFA photo

Cùng với “vỡ làng”, một tan vỡ khác cũng vừa xảy đến, nhưng lần này ứng vào niềm tin đối với những người đại diện cao nhất của Quốc hội.

Trong những ngày đầu của kỳ họp Quốc hội lần thứ 5 khóa XIII vào tháng 5/2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp (DTSĐHP) của cơ quan dân cử cao nhất này bất ngờ tung ra một “phán quyết”: việc thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế – xã hội là cần thiết.

Ngay trước kỳ họp Quốc hội trên, trong bản dự thảo mới nhất của Luật đất đai sửa đổi, Bộ tài nguyên và môi trường vẫn đưa ra hai phương án về vấn đề thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế xã hội. Phương án thứ nhất giữ nguyên quan điểm thu hồi đất cho các dự án kinh tế, xã hội. Phương án thứ 2 không quy định việc thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế, xã hội nhưng lại chia các dự án vào các nhóm được thu hồi đất vì mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phục vụ an ninh, quốc phòng. Theo đó, các dự án như làm khu công nghiệp, khu kinh tế, khu đô thị mới… do Thủ tướng hoặc Chủ tịch UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư … đều được nhà nước thu hồi đất.

Nhưng lại có nhiều ý kiến lo ngại rằng luật mới như vậy vẫn để ngỏ “cửa” cho những cuộc chạy chọt dự án cho các nhà đầu tư sau này.

Trên tờ báo điện tử Dân Trí, ông Đặng Hùng Võ – nguyên thứ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường, đã một lần nữa vạch rõ: Dự án phát triển kinh tế xã hội là một khái niệm không mạch lạc. Đã gọi là dự án xã hội, hoặc kinh tế – xã hội kết hợp thì thường sẽ thấy được mục đích vì lợi ích công cộng.

Theo ông Võ, chỉ cần tách ra nhóm dự án vì mục đích thuần túy kinh tế; và cần loại bỏ hoàn toàn các dự án kinh tế ra khỏi cơ chế Nhà nước thu hồi đất.

Chuyên gia Đặng Hùng Võ nói thẳng: Phần chúng ta cần chống lại, không chấp nhận là cơ chế Nhà nước thu hồi đất cho lợi ích riêng của nhà đầu tư. Việc Nhà nước có quyền rút quyền lợi, tài sản của người này đưa cho người khác thì xã hội đó thực sự không phải là một xã hội văn minh, dân chủ và công bằng; ở đó tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng của quản lý và khiếu kiện của dân.

Kiểu dự án đó không thể được xếp là vì mục đích công cộng. Đó là vì mục đích “kiếm ăn” ở một khu dân cư nào đó, khu đô thị nào đó.

Do giá đất đai trong đô thị rất cao, tiềm năng thu lợi lớn nên nhà đầu tư mong muốn Nhà nước thu hồi đất để giao cho mình. Lợi dụng quyền thu hồi đất của Nhà nước để phục vụ lợi ích kinh tế đơn thuần của nhà đầu tư trong trường hợp này là không đúng.

Song nhiều cuộc tranh luận và lấy ý kiến cử tri về trường hợp “các dự án kinh tế xã hội” như trên dường như đều bị “thu hồi” chính kiến.

Như để tránh cái “không đúng” liên quan đến tình trạng thu hồi đất tràn lan mà ông Đặng Hùng Võ và nhiều cử tri khác bức xúc, Dự thảo hiến pháp lại quy định “Việc thu hồi đất phải có bồi thường, công khai, minh bạch, công bằng theo quy định của pháp luật”.

Thụt lùi sâu sắc!

_MG_0003-250.jpg
Một công trình đang xây dựng dở dang. RFA photo

Từ nhiều năm qua, “theo quy định của pháp luật” vẫn là một cụm từ trừu tượng đến mức luôn có thể làm phát sinh vô số vi phạm hết sức cụ thể ở các địa phương.

Một trong những vi phạm điển hình đã được đưa lên bản đồ nhân quyền thế giới là vụ cưỡng chế trái phép đất của gia đình “Người nông dân nổi dậy” Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, gây nên một chấn động đủ lớn và cũng đủ làm nên một dấu mốc về phản ứng của nông dân đối với chính quyền, tính từ sau cuộc “cách mạng” Thái Bình năm 1997.

Chỉ sau vụ việc Đoàn Văn Vươn, các nhà lập pháp và cả hành pháp mới bắt buộc phải xem xét đến khả năng điều chỉnh Luật đất đai theo hướng sở hữu cá nhân, thay cho điều được gọi là “sở hữu toàn dân” luôn bị khép chặt.

Thực ra, đã có một hy vọng cho dân chúng và đặc biệt cho tầng lớp nông dân áo mộc khi Luật đất đai được hứa hẹn đổi khác theo hướng đa sở hữu tích cực, cũng như đem lại sắc thái công bằng hơn và dĩ nhiên làm giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước trong việc giải quyết làn sóng khiếu tố đất đai – vốn đang mỗi lúc một dâng cao và quyết liệt hơn.

Tuy nhiên, bầu không khí công dân – đang manh nha hơi hướng tự do, bỗng trở nên hụt hẫng vào những ngày gần diễn ra kỳ họp quốc hội tháng 5/2013, khi những lời hứa hẹn vụt trở nên thâm trầm đến mức khó hiểu.

Không còn mấy quan chức nhắc đến câu chuyện “đa sở hữu”.

Thay vào đó, khi chủ nhiệm ủy ban pháp luật của Quốc hội – ông Phan Trung Lý – xuất hiện với bộ mặt căng đầy cùng phát ngôn “vẫn thu hồi đất cho các dự án kinh tế xã hội”, người ta lại có thể nhận ra một sự thụt lùi sâu sắc về mặt tư duy, không khác mấy từ ngữ tương tự mà người Mỹ thường dùng để ám chỉ những quốc gia vi phạm nhân quyền một cách tệ hại.

Không có một cải cách xứng đáng nào được đưa ra liên quan đến Luật đất đai. Trái ngược với mong mỏi của người dân về quyền sở hữu đất cần được quy định trong luật, Dự thảo hiến pháp vẫn cho rằng: vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên không đặt vấn đề trưng mua vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu.

Xem ra, Đoàn Văn Vươn và những người thân của mình đã phải đi tù một cách uổng phí. Cũng sau hình ảnh không thể quên của người nông dân này, hình như các cơ quan hữu trách vẫn chưa rút ra được một bài học nào về trách nhiệm trong hành xử với giai tầng nông dân trong cái xã hội đầy tiềm ẩn động loạn này.

Chỉ có một sự kiện dường như mang tính ngẫu nhiên và có thể an ủi phần nào cho dư luận: trước kỳ họp Quốc hội 3 ngày, Chính phủ phát đi một văn bản về hoàn thiện 7 nhóm vấn đề của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong đó, rất đáng chú ý là một đề xuất của cơ quan hành pháp này: “Việc thu hồi đất chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân vì lý do “các dự án phát triển kinh tế xã hội””.

Tất nhiên, khi các đại biểu quốc hội chưa bấm nút thông qua, bất kỳ một đề nghị nào, dù của Chính phủ hay từ phía Ủy ban DTSĐHP, cũng chỉ mang tính số ít.

Nhưng lẽ nào vào lần này, Quốc hội muốn “phản công” Chính phủ?

Hai phe!

_MG_0008-250.jpg
Một góc TP Nha Trang nhìn từ trên cao. RFA photo

Trong khi những người đại diện cho dân chúng vẫn mải mê với cuộc tranh luận thiếu lối ra, câu chuyện bị o ép thu hồi đất đai ở xã Tam Cường ở tỉnh Phú Thọ và những nơi tương tự vẫn không ngừng tái hiện.

“Phản đối ư?” – báo Nông nghiệp Việt Nam đặt câu hỏi.

Rồi tờ báo này cũng tự tìm ra câu trả lời đắng ngắt: những gia đình có công nông bị giữ xe, bảo phải ký vào biên bản đền bù đất mới cho chạy nhưng chạy được mấy hôm lại phạt, phải bán xe. Những cây xăng mi ni đều bị lập biên bản và bắt đình chỉ nếu không ký vào biên bản nhận đền bù. Các giấy tờ liên quan đến chính quyền rất khó được giải quyết.

Như con ông Phạm Công Lưu ở khu 3 đi đăng ký kết hôn không được giải quyết, sau đó phải về cơ quan đăng ký. Như con những nhà xin giấy tờ đi học bị phê thẳng vào hồ sơ gia đình không chấp hành chủ trương đường lối của địa phương. Trong đại hội Hội Người cao tuổi xã có ba đảng viên trên 70 tuổi bị đuổi ra khỏi hội trường vì không ký. Đến ngay cả ông Hoành, ông Lý đi bệnh viện huyện cũng bị bác sĩ hỏi gia đình đã ký bán ruộng chưa. Loa phóng thanh ra rả suốt ngày rằng những người không ký bán ruộng là kẻ xấu, là thoái hóa biến chất, là lầm đường lạc lối…

Do phản đối chính sách lấy đất ruộng 2 đảng viên bị khai trừ, 18 đảng viên bị cảnh cáo (nhiều người 50-60 năm tuổi đảng, bệnh tật), 3 đại biểu hội đồng nhân dân bị bãi nhiệm, 1 trưởng khu bị cách chức, 1 cán bộ khuyến nông bị bãi nhiệm, 1 Chủ tịch Hội Người cao tuổi bị cách chức…, mấy người bị giam trên huyện. Tất cả cũng đều từ lý do phản đối chuyện dự án lấy đất ruộng của mình.

Gia đình anh Hán Văn Thanh ở khu 3 thôn Tự Cường là một điển hình về chia rẽ đến nỗi chia cả bàn thờ, chia cả ngày giỗ cha, giỗ mẹ. Anh bảo: “Nhà tôi có mười anh em giờ chia hai phe, bố tôi, mẹ tôi tôi cúng, bố anh mẹ anh anh cúng. Cùng cha mẹ mà nay ra ngõ không nhìn mặt nhau. Nhớ thời bầm bủ tôi còn sống vẫn thường khuyên con cái rằng: “Củ sắn chia đôi, bắp ngô bẻ nửa, nhà ta anh em đông nhưng no đói phải đùm bọc nhau” mà đau lòng!””.

Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đệ nạp nghị quyết HR 218, đòi đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC

Trà Mi-VOA.  20.05.2013 14:49
Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ nhận xét "tình hình nhân quyền ở Việt Nam vẫn rất tồi tệ” và “thụt lùi”.

Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ nhận xét “tình hình nhân quyền ở Việt Nam vẫn rất tồi tệ” và “thụt lùi”.

 
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ, dân biểu Ed Royce, đề xuất nghị quyết kêu gọi Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách Quốc gia cần Đặc biệt Quan tâm CPC vì các vi phạm trầm trọng của chính phủ Hà Nội trong lĩnh vực tự do tôn giáo.
 
 
Nghị quyết kêu gọi Việt Nam hủy bỏ các cấm đoán-hạn chế trong lĩnh vực tự do tôn giáo, chấm dứt việc tước đoạt tài sản của các giáo hội, thực thi các cải cách pháp lý và chính trị cần thiết để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của công dân.
 
Việt Nam đàn áp gần như mọi quyền con người bao gồm quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, và tự do tôn giáo…
Dân biểu Ed Royce.

Nêu bật tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, nghị quyết thúc giục Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thể hiện rõ ràng rằng việc mở rộng quan hệ song phương Việt-Mỹ phụ thuộc vào thành tích cải thiện của Việt Nam về tự do tôn giáo và các nhân quyền liên hệ.

Thông cáo đăng trên trang web của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ trích phát biểu của Chủ tịch Ed Royce nhận xét “tình hình nhân quyền ở Việt Nam vẫn rất tồi tệ” và “thụt lùi”.

Ông Royce dẫn phúc trình 2013 của tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch rằng “Việt Nam đàn áp gần như mọi quyền con người bao gồm quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, và tự do tôn giáo.”

Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đòi đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC

Chủ tịch Ed Royce nhấn mạnh tại Việt Nam hiện nay không có quyền tự do tôn giáo mà chỉ thấy các trường hợp đánh đập của công an, của côn đồ thuê mướn, và của lực lượng an ninh tôn giáo.Nghị quyết HR 218 dẫn ra trường hợp của các tôn giáo bị Hà Nội sách nhiễu, bắt bớ, tịch thu tài sản trong đó có Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tin lành, Công giáo, và Pháp Luân Công.

Người đứng đầu Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ nói thêm rằng chỉ trong 6 tuần đầu của năm nay, Việt Nam đã kết án ít nhất 40 nhà bất đồng chính kiến, như vậy chỉ trong vòng hai tháng, số người bị tù đày vì thể hiện quan điểm trái với nhà nước đã vượt tổng số của cả năm ngoái. Vẫn theo lời ông Ed Royce, bất chấp thái độ hành xử đó, Việt Nam vẫn tích cực theo đuổi một ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc.

Dân biểu Ed Royce nhấn mạnh: “Đã đến lúc phải phơi bày các vi phạm nhân quyền đó. Nếu chúng ta tiếp tục làm ngơ trước sự đàn áp khủng khiếp của Hà Nội, chúng ta đang góp thêm sự đau khổ cho nhân dân Việt Nam.”

Ký giả Trương Minh Ðức từng bị 5 năm tù về tội danh 'lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước'.
Ký giả Trương Minh Ðức từng bị 5 năm tù về tội danh ‘lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước’.

Quan điểm này được ký giả Trương Minh Đức, một ngòi bút đấu tranh dân chủ tại Việt Nam từng bị 5 năm tù về tội danh “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước”, ủng hộ:

Ký giả Trương Minh Đức phát biểu với VOA Việt ngữ:

“Nếu những người yêu chuộng dân chủ mà cứ dung dưỡng cho một chế độ độc tài như cộng sản Việt Nam, trên thế giới này nếu những nước như Việt Nam mà ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, thì tôi cho là một hiện tượng xấu đi cho Liên hiệp quốc.”

Trên thế giới này nếu những nước như Việt Nam mà ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, thì tôi cho là một hiện tượng xấu đi cho Liên hiệp quốc…
Ký giả Trương Minh Ðức.

Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, Ed Royce, là nhà đồng bảo trợ Luật Nhân quyền Việt Nam 2013 mang số hiệu HR 1897 nhằm phát huy tự do dân chủ tại Việt Nam. Luật vừa được Tiểu ban Nhân quyền Hạ viện Hoa Kỳ biểu quyết thông qua hôm 15/5/2013.

Việt Nam bị Bộ Ngoại giao Mỹ liệt kê vào danh sách Các nước cần Đặc biệt Quan tâm về Tự do Tôn giáo (CPC) vào năm 2004.

Đến năm 2006, Việt Nam được bỏ tên ra khỏi danh sách này vì các giới chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng Hà Nội có các cải thiện đáng kể về mặt thăng tiến quyền tự do tôn giáo và đạt tiến bộ lớn trong các lĩnh vực bị lưu tâm.

Phúc trình thường niên về tự do tôn giáo trên toàn thế giới do Ủy ban của Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc Tế (USCIRF) công bố cuối tháng 4/2013 một lần nữa đề nghị đưa tên Việt Nam vào lại danh sách CPC.

Ủy ban USCIRF nói Việt Nam đáng bị trở lại danh sách này vì thành tích nhân quyền ngày càng xuống dốc rõ rệt.

 http://youtu.be/SlQWUft4gGQ

Paulus Lê Sơn ‘ăn năn hối hận’ nên được giảm án?

Phiên phúc thẩm diễn ra một ngày tại Vinh, Nghệ An

Bốn người trong tám thanh niên Công giáo bị y án trong phiên xử phúc thẩm một ngày tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Đáng chú ý, ông Paulus Lê Sơn được giảm từ 13 năm tù còn 4 năm tù, với tường thuật từ truyền thông nhà nước rằng ông “khai nhận toàn bộ hành vi sai phạm”.

Ba bị cáo còn lại cũng được giảm án trong vụ xử bị các tổ chức nhân quyền quốc tế lên án.

Công an Việt Nam nói tám người này đều là thành viên của đảng Việt Tân ở Mỹ, thực hiện kế hoạch nhằm “nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao nói ông Hồ Đức Hòa, sinh năm 1974 và bị gọi là “kẻ cầm đầu”, đã cùng những người khác gia nhập Việt Tân.

Hoạt động “lật đổ” của họ được cáo trạng thừa nhận là theo hình thức “bất bạo động”.

Một thông cáo của đảng Việt Tân nói trong nhóm này, “một vài người đã tham dự khóa học Vận Động Xã Hội Bằng Phương Thức Bất Bạo Động do Đảng Việt Tân tổ chức”.

Tổ chức này nói “những cáo buộc cực kỳ phi lý và chỉ nhằm che đậy ý đồ ngăn cản người dân tìm biết các cách thay đổi xã hội hiệu quả, ôn hòa, và tiến bộ của nhân loại”.

Tòa phúc thẩm hôm 23/5 giữ nguyên mức án 13 năm tù với ông Hồ Đức Hòa, 4 năm tù với ba ông Nguyễn Đình Cương, Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung.

Trong một phán quyết gây ngạc nhiên, ông Paulus Lê Sơn được giảm từ 13 xuống còn 4 năm tù.

Truyền thông nhà nước nói ông Sơn, tại phiên tòa phúc thẩm đã “khai nhận toàn bộ hành vi sai phạm của bản thân và đồng phạm; thực sự ăn năn hối hận về hành vi sai phạm của mình”.

Ông Nguyễn Văn Duyệt được giảm từ 4 năm tù giảm còn 3 năm 6 tháng tù; Nguyễn Xuân Anh từ 3 năm tù còn 2 năm tù và Hồ Văn Oanh từ 3 năm tù còn 2 năm 6 tháng tù.

Phê phán

Trước phiên phúc thẩm, bốn tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế ra kiến nghị yêu cầu trả tự do cho các nhà hoạt động theo Công giáo.

Bản kiến nghị được đại diện của bốn tổ chức bảo vệ nhân quyền và tự do ngôn luận ở Hoa Kỳ gồm Article 19, Electronic Frontier Foundation, Front Line Defenders, Medial Legal Defence Initiative ký tên và gửi đến Chính phủ Việt nam vào ngày 22/5.

Tám nhà hoạt động trẻ này nằm trong số 14 người Công giáo bị xử tù hồi tháng 1/2013 vì tội ‘Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự.

Những người này bị khép án từ 3 đến 13 năm tù giam trong phiên tòa sơ thẩm kéo dài hai ngày 8/1 và 9/1.

“Chúng tôi đặt nghi vấn về tính chính danh của phiên tòa sắp tới này, đồng thời lên án cách đối xử bị cho là ngược đãi những nhà hoạt động kể từ khi họ bị bắt,” kiến nghị của các NGO viết.

“Bản án dành cho các nhà hoạt động này là một phần của các cuộc đàn áp ngày càng tệ hơn những công dân đang thể hiện quyền tự do biểu đạt của mình ở Việt Nam.”

Tổ chức nhân quyền yêu cầu VN phóng thích các nhà hoạt động

Trà Mi-VOA. 22.05.2013
Những người trẻ trong nhóm 17 nhà tranh đấu nhân quyền bị bắt giam từ cuối tháng 7 năm 2011 vì bị cáo buộc vi phạm điều 79 và 88 Bộ Luật Hình sự.

Những người trẻ trong nhóm 17 nhà tranh đấu nhân quyền bị bắt giam từ cuối tháng 7 năm 2011 vì bị cáo buộc vi phạm điều 79 và 88 Bộ Luật Hình sự.

Những bản án này cùng với việc bắt giữ các blogger khác là một phần trong xu hướng nhân quyền hết sức đáng quan ngại của Việt Nam, khơi dậy những nghi vấn nghiêm túc về các cam kết của Hà Nội với Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị và với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
Victoria Nuland

Bốn tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế gửi thư cho giới lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam đề nghị trả tự do cho các nhà hoạt động Công giáo trẻ trước phiên xử phúc thẩm vào ngày 23/5.

Kháng cáo của 8 trong số 14 thanh niên Công giáo bị tuyên án lên tới 13 năm tù giam hồi đầu năm nay về tội danh ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ theo điều 79 Bộ Luật Hình sẽ được xem xét tại trụ sở Tòa án Nhân dân Tỉnh Nghệ An sau nhiều lần trì hoãn.

Các tổ chức phi chính phủ gồm Article 19, EFF, Media Legal Defense Initiative và Front Line Defenders bày tỏ quan ngại sâu sắc trước phiên tòa của các nhà hoạt động bao gồm Hồ Đức Hòa, Paulus Lê Sơn, Nguyễn Văn Duyệt, Hồ Văn Oanh, Nguyễn Đình Cương, Nguyễn Xuân Anh, Thái Văn Dung và Trần Minh Nhật.

Trong thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề ngày 22/5, 4 tổ chức vừa kể nêu nghi vấn về tính chính danh của phiên tòa sắp tới và lên án tình trạng các bị can bị ngược đãi kể từ khi bị bắt giữ.

Bấm vào đây để nghe bài tường thuật

Thư nêu rõ các bản án Hà Nội dành cho 14 nhà hoạt động Công giáo xem chừng là một phần trong xu hướng đàn áp đang tiếp diễn và đáng quan ngại của nhà cầm quyền Việt Nam đối với các công dân thực thi quyền tự do ngôn luận.

4 NGOs này cùng hàng chục tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế khác từng nhiều lần lên tiếng và gửi thư ngỏ cho giới lãnh đạo Việt Nam về vụ án của các nhà hoạt động Công giáo, tuy nhiên Hà Nội không một lần hồi đáp.

Luật sư Nani Jansen, cố vấn luật cao cấp của tổ chức Media Legal Defense Initiative, nói với VOA Việt ngữ:

“Thật đáng buồn là chính phủ Việt Nam chưa chính thức hồi đáp kêu gọi của chúng tôi về các bản án này. Chúng tôi thấy rất cần thiết để tiếp tục nêu vấn đề cũng là để đảm bảo là Hà Nội hiểu rằng các trường hợp này đang bị cộng đồng quốc tế theo dõi và lưu tâm, rằng quốc tế xem đây là vấn đề hết sức nghiêm trọng, mong muốn nhà cầm quyền Việt Nam phải có biện pháp sửa chữa.”

Bà Jansen cũng cho biết thêm rằng nếu Hà Nội tiếp tục phớt lờ sự quan tâm của quốc tế, Media Legal Defense Initiative sẽ cùng các tổ chức bảo vệ nhân quyền chắc chắn sẽ có những bước kế tiếp để bảo vệ những nhà cổ xúy dân chủ-nhân quyền tại Việt Nam. Bà Jansen cho biết:

“Có nhiều cơ quan khác trong Liên hiệp quốc để có thể nêu lên các trường hợp vi phạm nhân quyền như thế này. Và đây chắc chắn sẽ là điều được chúng tôi cân nhắc nếu phiên xử phúc thẩm của các nhà hoạt động Công giáo không tuân theo các tiêu chuẩn nhân quyền của quốc tế mà Việt Nam đã ký tên cam kết.”

Nhóm các nhà hoạt động trẻ đa số thuộc Dòng Chúa Cứu thế bị bắt vì các hoạt động bao gồm viết blog thể hiện quan điểm chỉ trích nhà nước, phổ biến lên mạng, tham gia và kêu gọi phản kháng ôn hòa.

Các tổ chức nhân quyền nói các hoạt động này là những gì Việt Nam đã cam kết bảo vệ và phát huy với tư cách là nước thành viên của Công ước Quốc tế về quyền chính trị và dân sự của công dân, vì vậy, Hà Nội không thể xem đó là các tội hình sự để trừng phạt.

Ngay sau phiên sơ thẩm hôm 9/1 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng bày tỏ quan ngại sâu sắc trước các bản án tổng cộng hơn 80 năm tù của 14 nhà hoạt động này vì họ đã thực thi quyền tự do bày tỏ quan điểm của công dân.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Mỹ Victoria Nuland nói:

“Những bản án này cùng với việc bắt giữ các blogger khác là một phần trong xu hướng nhân quyền hết sức đáng quan ngại của Việt Nam, khơi dậy những nghi vấn nghiêm túc về các cam kết của Hà Nội với Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị và với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.”

4 tổ chức đồng ký tên trong thư ngày 22/5 kêu gọi chính phủ Việt Nam phóng thích ngay lập tức và hủy án cho tất cả 14 thanh niên đang bị giam cầm.

Ngoài ra, họ cũng đề nghị Hà Nội không ngược đãi các bị can trong lao tù, đảm bảo thủ tục xét xử công bằng, điều tra và truy cứu trách nhiệm những ai đã sách nhiễu và đe dọa các nhà hoạt động này.

Tường thuật phiên tòa Phúc thẩm xử các Thanh niên Công giáo và Tin Lành tại Nghệ An

Theo tin từ các Blogger và FB, tà quyền việt cộng huy động từ 1600 đến 3 ngàn côn an, dân phòng, an ninh, mật vụ bao vây và ngăn chặn trước tòa án, chưa kể các vận động viên đến từng nhà để thuyết phục, năn nỉ những người thân nên ở nhà trong ngày xử án (sic).

Một số tên đày tớ nhân dân như tên an ninh chuyên đàn áp dân Dương Nội ở Hoàn Kiếm cũng được chúng điều vào tận Thành Vinh để bắt người.

Trong số các người phụ nữ bịt mặt xông vào xô đẩy giằng co với bà Hóa (mẹ của anh Nguyễn Đình Cương , bà Hóa đã từng hô lớn “Các con đừng sợ” trong phiên tòa sơ thẩm), có 1 bàn tay người phụ nữ thứ hai (từ phải) đã dùng 1 vật gì đó đâm lén vào bụng bà Hóa !!!
Tiệm Báo: Bà con xem kỹ tay Con CA cái nảy có cầm gì chích vào người của Mẹ Nguyễn Đình Cương, nếu sau này Bà có mệnh hệ nào xin giữ hình này làm bằng chứng và truy nã cho được Kẻ sát nhân
Hình:”Bà Nguyễn Thị Hóa, mẹ của Nguyễn Đình Cương bị một nhóm phụ nữ lạ mặt cưỡng chế ra ngoài”

Kết quả phiên tòa:

Theo VOA

Luật sư Sơn: Kết quả có 4 người được sửa án, 4 người bị giữ nguyên án. Lê Sơn (giảm từ 13 năm tù, 5 năm quản chế) còn 4 năm tù, 4 năm quản chế. Nguyễn Văn Duyệt (giảm từ 4 năm tù) còn 3 năm rưỡi tù, 4 năm quản chế. Nguyễn Xuân Anh (giảm từ 3 năm tù) còn 2 năm tù, không quản chế. Hồ Văn Oanh (giảm từ 3 năm tù) còn 2 năm rưỡi tù, không quản chế.

Bốn người bị y án gồm Hồ Đức Hòa (13 năm tù, 5 năm quản chế), Nguyễn Đình Cương (4 năm tù, 3 năm quản chế), Trần Minh Nhật (4 năm tù, 3 năm quản chế), và Thái Văn Dung (4 năm tù, 3 năm quản chế).

Các thanh niên công giáo bị tuyên án. Ảnh: thanhnienconggiao

Anh Hồ Đức Hòa: vẫn bị y án 13 năm tù như bản án  trước

Anh Thái Văn Dung: vẫn bị y án 4 năm tù như bản án trước

Anh Trần Minh Nhật: vẫn bị y án 4 năm tù như bản án trước

Anh Nguyễn Đình Cương: vẫn bị y án 4 năm tù như bản án trước

Anh Paulus Lê Sơn:  bị án 4 năm tù (so với bản án 13 năm trước đây)

Anh Nguyễn Xuân Anh: bị án 2 năm tù (so với bản án 3 năm trước đây)

Anh Hồ Văn Oanh:  bị án 2 năm 6 tháng tù (so với bản án 3 năm trước đây)

Anh Nguyễn Văn Duyệt:  bị án 3 năm 6 tháng tù (so với bản án 4 năm trước đây)

VOA: “Nhận tội”, nhận “hành vi phạm tội” cho dù là đúng hay không thì được giảm án. Còn không, vẫn bị giữ y án. Điều này có thông điệp thế nào và nên được hiểu như thế nào về mặt pháp lý ở Việt Nam?

Luật sư Sơn: Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, người ta quy định việc xét xử ai có tội hay không, hoặc lượng hình phạt thì căn cứ vào hành vi chứ không căn cứ vào nhận thức hay ý thức của bị cáo. Thế nhưng thực tế xét xử ở Việt Nam, chủ yếu người ta căn cứ vào lời khai ở cơ quan điều tra là chính chứ người ta cũng không mấy khi căn cứ vào lời khai tại tòa. Đó là những điều chưa phù hợp với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam.

***

Chị Thuy Nga với vết thương côn an đánh sáng nay. Chị lúc nào trên tay cũng bế đứa con nhỏ
anh vet thuong cong an danh sang nay

***

Media Defense Khu vực Đông Nam Á cử hai quan sát viên đến Vinh, nhưng bị lực lượng công an không cho vào tòa. Gia Minh phỏng vấn ông Asep Komaruddin thuộc tổ chức này vào tối ngày 23 tháng 5 khi ông này về lại ở Hà Nội.

Xem trong RFA Link.

***

GÔNG XIỀNG HÔM NAY CHO TỰ DO NGÀY MAI, HAY TỰ DO HÔM NAY CHO GÔNG XIỀNG NGÀY MAI?
Không biết cái từ phiên tòa ô nhục có từ bao giờ trong từ điển dân gian Việt Nam? Tôi đồ rằng nó bắt đầu được công khai sử dụng đến, từ phiên tòa xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Cho đến nay, mật độ của những phiên tòa như thế mỗi lúc một nhiều hơn, đa dạng hơn và mức độ ngang nhiên thì trắng trợn hơn.Lịch sử pháp đình Việt Nam có lẽ chưa bao giờ đen tối như thời kỳ này (không kể đến việc những người bị bắt không được vinh hạnh đưa ra chốn pháp đình). Giờ đây, nhà cầm quyền dường như chả buồn che dấu sự dối trá của mình, khi ngoài miệng nói xử công khai, nhưng bên ngoài lại tìm mọi cách để ngăn chặn mọi sự quan tâm của dư luận xã hội đến phiên tòa.Theo cách suy luận thông thường nhất, một hành động mặc dù vấp phải sự phản đối quyết liệt của người dân, sự phẫn uất, ghê tởm của dư luận trong và ngoài nước mà vẫn cứ lặp đi lặp lại, thì nó thể hiện sự cùng quẫn, bế tắc, hoàn toàn mụ mị trong đầu những kẻ thực thi nó.Tôi hỏi một người bình thường nhất:- Nếu con chị bị bắt và đưa ra tòa xử, chị có đi dự không?- Nếu chị nghĩ con chị vô tội, mà chính quyền cứ bảo con chị có tội, thì chị có lên tiếng bênh vực nó không?Xét cả về bản năng và logic thì câu trả lời sẽ là có. Vậy mà ở Việt Nam, điều đó lại không được phép xảy ra, mặc dù nó không được ghi trong bất cứ một điều khoản nào của “Luật”.Cho dù ai đó không quan tâm đến chuyện ngoài xã hội, nhưng nếu họ nhìn và nghe thấy những gì diễn ra quanh các phiên tòa gần đây, tôi chắc chắn một điều họ sẽ cảm thấy bất bình, nếu không muốn nói là ghê tởm.

Nhiều người già hẳn còn nhớ, vụ án xử ông Tạ Đình Đề hàng chục năm về trước. Người dân đến tham dự phiên tòa chật kín phòng xử án, chật kín khuôn viên của tòa và tràn ra cả lòng đường. Để phục vụ công chúng, tòa cho bắc cả loa ra ngoài đường. Dư luận trước phiên tòa cho thấy, người dân rất yêu mến ông Tạ Đình Đề, vậy mà chính quyền ngày đó đâu có sợ sệt gì? Khi tòa tuyên bố tha bổng, hàng nghìn người đã reo hò vang dội, nhà tòa cũng mát mặt vì đã xử công minh. Chợt nghĩ về câu hết thịnh lại suy, mới thấy thương dân Việt, chưa được hưởng thịnh ngày nào mà đã chịu chuỗi ngày suy…Ngay cả những vụ cứ tưởng là công minh lắm như Năm Cam, Khánh trắng, PMU18 cũng do nội bộ đánh nhau mà ra. Nếu không, có lý do gì mà nó có thể tác oai tác quái ngần ấy năm trời?

Cứ đà này, chắc chắn sẽ còn nhiều vụ án nữa. Gông xiềng tù ngục hay cả cái chết cũng không ngăn được khát vọng tự do của con người. Gông xiềng hôm nay cho tự do ngày mai, hay là tự do hôm nay cho gông xiềng ngày mai? Các vị cứ nhắm mắt làm bừa đi!

Hình ảnh từ Nữ Vương Công Lý

https://i0.wp.com/www.nuvuongcongly.net/wp-content/uploads/2013/05/Ngoaitoa-6.jpg

https://i0.wp.com/www.nuvuongcongly.net/wp-content/uploads/2013/05/Ngoaitoa-7.jpg

Hình ảnh từ FB- Bùi Thị Minh Hằng

BỌN CÔN ĐỒ MẬT VỤ VINH ĐÃ XÔNG ÀO CƯỚP HẾT BĂNG RÔN VÀ KHỦNG BỐ BÀ CON…hãy báo động và truyền thông tin đi toàn thể giới, mong mọi người hãy Share những hình ảnh ô nhục này.

*************

You Tube: Hình ảnh trước khi Chị Bùi Hằng bị bắt.

Hình ảnh từ FB – Nghiêm Việt Anh – FB – Nguyễn Lân Thắng

Ân xá Quốc tế: VN tiếp tục vi phạm nhân quyền trong năm 2012

VOA,  23.05.2013
Tổ chức Ân xá Quốc tế nói rằng trong năm qua, Việt Nam mạnh tay hơn với những người chỉ trích chính phủ và các nhà hoạt động, qua việc bắt giam nhiều blogger và nhạc sĩ thể hiện chính kiến một cách ôn hòa.

Nhân quyền của nhiều nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo cũng bị vi phạm nghiêm trọng. Ngoài ra Việt Nam còn kết án tử hình ít nhất 86 người, và 500 tử tù còn đang chờ thi hành án.

Báo cáo của Tổ chức Ân xá Quốc tế công bố hôm 23/5 nói rằng, về quyền tự do ngôn luận, Việt Nam tiếp tục đàn áp những tiếng nói bất đồng và những người  biểu tình một cách ôn hòa.

Điển hình là vào tháng 6 năm ngoái, 30 nông dân bị bắt sau khi biểu tình phản đối 3 ngày trước cơ quan chính phủ vì bị cưỡng chế thu hồi đất.

Báo cáo nói câu chữ mơ hồ trong những điều khoản của Bộ luật Hình sự được sử dụng làm cái cớ để bắt giam những nhà hoạt động chính trị, xã hội, và tôn giáo, trong đó có sinh viên Nguyễn Phương Uyên, 20 tuổi, bị tuyên án tù 6 năm vì rải truyền đơn chống nhà nước.

Về tù nhân lương tâm, báo cáo cho biết Việt Nam vẫn giam cầm ít nhất 27 tù nhân lương tâm, nổi bật là linh mục Nguyễn Văn Lý đang thụ án tù 8 năm vì cổ vũ cho nhân quyền, tự do ngôn luận và cải cách chính trị.

Các blogger bị bắt giam cũng được báo cáo đề cập chi tiết. Báo cáo nói những blogger bị gán cho tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”. Họ bị giam giữ không theo quy định của pháp luật Việt Nam. Những phiên tòa xét xử họ không đáp ứng được những tiêu chuẩn quốc tế. Người thân của bị can bị cản trở và làm khó dễ.

Trong năm qua có những vụ xét xử những blogger nổi tiếng như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, AnhBaSaigon. Tất cả đều nhận án tù từ 4 cho đến 12 năm. Nhà hoạt động môi trường Đinh Đăng Định lãnh án tù 6 năm vì kiến nghị chống khai thác bauxite ở Tây Nguyên

Đối với các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo, báo cáo của Tổ chức Ân xá Quốc tế nói rằng các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo nào bị cho là chống đối chính quyền vẫn còn đối mật với nhiều rủi ro bì làm khó dễ, bắt bớ và giam cầm.

Các trường hợp cụ thể được nêu ra trong báo cáo gồm có Hòa thượng Thích Quảng Độ, 85 tuổi, vẫn còn bị quản chế, 14 blogger và nhà hoạt động Công giáo ở Nghệ An vẫn còn bị giam để chờ ngày xử.

Mục sư Nguyễn Công Chính bị cáo buộc xúi dục người thiểu số sắc tộc, 12 người Hmong bị cáo buộc “âm mưu lật đổ chính quyền”, 3 thanh niên Công giáo bị tù về tội biểu tình chống Trung Quốc và ký kiến nghị chống lại bản án của Luật gia Cù Huy Hà Vũ.

Báo cáo năm 2012 của Tổ chức Ân xá Quốc tế bao gồm 155 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Trong phần kết luận, báo cáo nói rằng đòi hỏi về nhân quyền tiếp tục vang vọng trên khắp thế giới.

Sưc kháng cự chống áp bức, bất công và đàn áp là những hành vi rất dũng cảm và đòi hỏi nhiều quyết tâm nơi những người phải đối mặt với vô số trở ngại.

Nguồn: Amnesty.org, AFP

Tiểu sử người “kỳ diệu nhất hành tinh” qua ảnh

Chỉ còn 2 ngày nữa là chàng trai không chân không tay Nick Vujicic sẽ đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin và nghị lực sống. Nhân dịp này, mời độc giả đón đọc loạt bài về thời thơ ấu, những câu nói đi vào lòng người và tình yêu đẹp như cổ tích của chàng trai tuyệt vời Nick Vujicic
Một chặng đường đầy nghị lực mà người “không chân không tay” đã trải qua như để chứng minh anh là “chàng trai kỳ diệu nhất hành tinh”. 
Nick Vujicic sinh ngày 4/12/1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Nhưng họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
kt-cdm20513-nick5
Gương mặt Nick khi còn nhỏ luôn tràn đầy hạnh phúc, vì cậu không biết mình khác biệt với mọi người và những trở ngại mà cậu phải đối mặt trong tương lai.
kt-cdm20513-nick4
Mặc dù bị khuyết tứ chi nhưng ngay từ bé Nick đã rất khéo léo trong việc giải quyết các hoạt động thường ngày
kt-cdm20513-nick3
Nick khi mới 6 tháng tuổi đang chơi đồ chơi rất thành thục.
 
kt-cdm20513-nick7
kt-cdm20513-nick11
Ngay từ lúc 18 tháng tuổi, Nick đã được bố cho xuống bể bơi và cố gắng dạy con trai học bơi, rồi sau đó là chơi gôn, lướt sóng…
kt-cdm20513-nick10
Đến năm anh 6 tuổi, bố dạy anh cách dùng chân để đánh máy và mẹ đã chế tạo một dụng cụ bằng nhựa để giúp anh có thể cầm bút chì. Cũng có lúc anh cảm thấy chán chường và không muốn tiếp tục sống. Đó là lúc anh 8 tuổi, anh đã sợ hãi khi nghĩ rằng một ngày nào đó không có bố mẹ bên cạnh để chăm sóc. Nhưng với sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè anh đã vượt qua tất cả trở ngại đó
kt-cdm20513-nick2
Bức ảnh chụp Nick ở trường khi cậu được 10 tuổi. Bố mẹ Nick quyết định gửi anh vào học tại một trường học bình thường thay vì một trường dành cho những người khuyết tật. Nick cho rằng, đó là quyết định tuyệt vời nhất mà bố mẹ anh đã làm.
kt-cdm20513-nick6
 kt-cdm20513-nick9
Nick kể trên blog của mình: “Ở trường tôi luôn bị bạn bè bắt nạt, miệt thị và tẩy chay trong nhiều năm. Tôi tổn thương trầm trọng và sụp đổ đến mức không muốn tồn tại nữa. Nhưng mẹ đã đưa cho tôi xem một bài báo về người đàn ông tật nguyền, khát khao được sống khỏe để tiếp tục giúp đỡ cho cộng đồng. Hình ảnh ấy đã thay đổi tôi hoàn toàn và tôi bắt đầu tìm lại sự tự tin, niềm ham sống và khát khao thể hiện mình”
kt-cdm20513-nick12
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: “Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hY vọng. Hãy tin tôi đi, mất hY vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay”, Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới.
kt-cdm20513-nick13
 Những bài diễn thuyết của anh truyền nghị lực sống cho người nghe.
kt-cdm21513-camphuc5
Bàn chân trái tí xíu chỉ có 2 ngón – Nick hay gọi đùa là “chiếc đùi gà nhỏ” – đã trở thành bàn tay, giúp anh rất nhiều trong sinh hoạt hằng ngày. Nick hăng hái hòa nhập cuộc sống qua các hoạt động thể thao, gây kinh ngạc nhất là bơi lội và nhảy cầu.
kt-cdm21513-camphuc4
kt-cdm21513-camphuc1
 Lướt ván điêu luyện.
kt-cdm21513-camphuc3
kt-cdm21513-camphuc7
Thậm chí chơi golf…
kt-cdm20513-nick14
…và bóng đá.
kt-cdm20513-nick15
kt-cdm20513-nick1
Tháng 2/2012, anh đã kết hôn và đứa con trai đầu lòng, bé Kiyoshi James Vujicic, đã chào đời ngày 13/2/2013.
kienthuc-congdong-mang-NickVujicic2
Trong một hành trình mới, Nick Vujicic sẽ tới Việt Nam từ ngày 22 đến 26/5 và sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18h30 – 21h30 ngày 23/5 và trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất (TP.HCM) từ 18h – 21h ngày 25/5.
Xem clip Nick Vujicic làm việc thường ngày:
 
NGHỊ LỰC

Có người cụt cả chân tay
Làm cho giới trẻ ngày nay cúi mình.
Sinh ra khiếm khuyết thể hình
Vượt lên số phận, cái nhìn lạc quan
Vẫn đi, vẫn đứng đàng hoàng
Đánh răng, chải tóc gọn gàng như ai
Bơi lội, viết sách…. lắm tài
Chu du diễn thuyết, miệt mài vươn lên
Cuộc đời tưởng đã bỏ quên
Bất tài, vô dụng chẳng nên việc gì !
Không nhụt chí, vẫn bước đi
Giúp người vô vọng, hoài nghi, chán chường.
Voi-ơ-chích * thật phi thường
Sống bằng nghị lực, tấm gương sáng ngời
Trong lúc bao kẻ ăn chơi
Tay chân lành lặn, phí đời, đáng chê !

BAT – 5/2013
LM NgXQuang

(*Voi-ơ-chích : Nick Vujicic)

****************************

NICK VUJICIC – MỘT NGƯỜI CỤT CẢ CHÂN TAY NHƯNG GIÚP ĐƯỢC HÀNG TRIỆU NGƯỜI


Nicholas Vujicic (đọc là Voi-ơ- chích) sinh năm 1982 ở Melbourne, Úc Châu trước sự thất vọng kinh hoàng của cha mẹ là Mục Sư Borris Vujicic và bà Dushka Vujicic, nữ y tá: cậu bé trai khi sinh ra đã không có hai tay và hai chân, ngoài một cái “chân” nhỏ xíu! Ông bà tự hỏi: “Làm sao đứa bé lớn lên và đối diện với mọi người trên thế giới này? Nó làm gì để kiếm sống và tự sinh tồn đây?” Nhưng họ không thể ngờ được đứa bé kháu khỉnh không tay chân này trong tương lai lại có thể có ảnh hưởng sâu xa trên hàng triệu trên thế giới.

Trong suốt thời niên thiếu, Nick phải đương đầu không chỉ với những thách thức, chế giễu, bắt nạt điển hình tại trường học, mà còn phải đối phó với mặc cảm thấp hèn của mình, lẫn sự cô độc, và tự hỏi tại sao mình sinh ra không giống các trẻ khác có đủ chân tay! Qua nhiều sự thất bại và tuyệt vọng trong việc thử dùng các chân tay giả một cách khó nhọc và vô hiệu quả, Nick tự hỏi, việc mình được sinh ra với sự thiếu kém trầm trọng như vậy có phải vì một mục đích cao cả nào không và không tìm được câu trả lời thích đáng.

Nhưng rồi bằng lòng nhiệt thành với cuộc sống, với lòng tin vô biên, với sự khuyến khích của gia đình và các người có lòng xung quanh mình, cuối cùng, Nick đã tìm được cách thích ứng với tình trạng của mình. Dần dà, anh ta tìm đủ mọi cách để làm được những việc mà các trẻ khác chỉ làm được với tay chân bình thường như đánh răng, chải đầu, đánh máy vi tính, bơi lội, chơi thể thao, và nhiều việc khác…. chỉ nhờ một cái “bàn chân” nhỏ xíu mà anh gọi là “chân gà”! Theo thời gian, Nick lần lần làm được những việc quan trọng hơn. Vào cấp 7 ở trường, Nick được bầu làm đại diện hội học sinh và đã tham gia trong nhiều sinh họat gây quỹ từ thiện và tàn tật. Vào năm 2005, Nick được chọn là “Thiếu Niên Úc của Năm”, là một vinh dự lớn ở Úc, xác nhận sự xuất sắc và tinh thần phục vụ của người trẻ trong cộng đồng và xứ sở, cũng như những thành tựu của cá nhân.

Từ lúc xuất hiện trước công chúng để thuyết trình cổ động tinh thần vào năm 19 tuổi, Nick đã du lịch khắp nơi trên thế giới, chia sẻ câu chuyện thật của đời mình với hàng triệu người đủ mọi thành phần như sinh viên, giáo chức, thanh thiếu niên, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, và các đòan thể lớn nhỏ trong nhà thờ. Nick cũng xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn có truyền hình khắp thế giới. Chỉ trong năm nay, Nick đã có lịch trình nói chuyện ở trên 20 quốc gia.

Qua chính kinh nghiệm cuộc sống của mình, Nick chứng minh là chìa khóa để hoàn thành nguyện vọng lớn nhất trong đời là kiên trì và chọn chuyển hóa thất bại thành kinh nghiệm học hỏi, thay vì để cho mặc cảm và sợ hãi của thất bại làm tê liệt ý chí của mình.
Người ta hỏi tôi: “Sao ông có thể luôn luôn vui vẻ như vậy?” anh ta nói. “Rồi họ nhận ra rằng còn có một thứ gì đó kỳ diệu trong cuộc đời họ hơn là cái nhìn cho đẹp mắt, nếu một gã cụt cả chân tay lại có thể sống một cuộc sống hoàn mỹ hơn là chính họ.”

Việt Nam giảm án cho 4 nhà hoạt động Công giáo

  Trà Mi-VOA. 23.05.2013
Phân nửa số bị can được giảm án trong phiên phúc thẩm xét kháng cáo của tám nhà hoạt động trẻ diễn ra tại trụ sở Tòa án Nhân dân Tỉnh Nghệ An hôm 23/5.

Các bị can thuộc nhóm 14 thanh niên Công giáo thuộc Dòng Chúa Cứu Thế bị tuyên án từ 3 đến 13 năm tù hồi đầu năm về tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 Bộ Luật Hình Sự vì các hoạt động bao gồm viết blog, bày tỏ quan điểm chỉ trích nhà nước, cổ xúy dân chủ-nhân quyền-đa đảng, tham gia và kêu gọi phản kháng ôn hòa. Một số người trong nhóm bị cáo buộc đã dự khóa huấn luyện đấu tranh bất bạo động của đảng Việt Tân ở hải ngoại.

Tám người kháng cáo tại tòa hôm nay gồm Hồ Đức Hòa, Paulus Lê Sơn, Nguyễn Văn Duyệt, Hồ Văn Oanh, Nguyễn Đình Cương, Nguyễn Xuân Anh, Thái Văn Dung và Trần Minh Nhật.

Ngay sau phiên xử, luật sư Hà Huy Sơn, đại diện pháp lý cho Lê Sơn, Oanh, Đình Cương, và Minh Nhật, thuật lại với VOA Việt ngữ về diễn tiến và kết quả phiên tòa.

Luật sư Sơn: Kết quả có 4 người được sửa án, 4 người bị giữ nguyên án. Lê Sơn (giảm từ 13 năm tù, 5 năm quản chế) còn 4 năm tù, 4 năm quản chế. Nguyễn Văn Duyệt (giảm từ 4 năm tù) còn 3 năm rưỡi tù, 4 năm quản chế. Nguyễn Xuân Anh (giảm từ 3 năm tù) còn 2 năm tù, không quản chế. Hồ Văn Oanh (giảm từ 3 năm tù) còn 2 năm rưỡi tù, không quản chế.

Bốn người bị y án gồm Hồ Đức Hòa (13 năm tù, 5 năm quản chế), Nguyễn Đình Cương (4 năm tù, 3 năm quản chế), Trần Minh Nhật (4 năm tù, 3 năm quản chế), và Thái Văn Dung (4 năm tù, 3 năm quản chế).

Paulus Lê Sơn được giảm án từ 13 năm tù, 5 năm quản chế còn 4 năm tù và 4 năm quản chế.Paulus Lê Sơn được giảm án từ 13 năm tù, 5 năm quản chế còn 4 năm tù và 4 năm quản chế.

VOA: Như vậy mức án được giảm cao nhất hôm nay là 9 năm tù của Lê Sơn. Xin hỏi những tình tiết nào giúp giảm án tới mức còn 1/3 bản án ban đầu, thưa luật sư?

Luật sư Sơn: Tình tiết đối với Lê Sơn là cơ bản anh ta có thừa nhận tham gia đảng Việt Tân thì được giảm.

VOA: Còn các trường hợp được giảm án khác thì sao?

Luật sư Sơn: Nhờ họ thể hiện sự hợp tác với tòa. Họ nói họ đều không có mục đích chống chính quyền nhân dân.

VOA: Chung quát, các tình tiết được xét tới trong các bản án được giảm hôm nay chủ yếu là có thái độ hợp tác với cơ quan điều tra và với tòa án?

Luật sư Sơn: Vâng, theo như lời vị thẩm phán của Hội đồng xét xử, quan điểm của tòa dựa vào thái độ và ý thức là chính.

VOA: Nhận xét của ông về kết quả phiên xử hôm nay thế nào, thưa luật sư?

Luật sư Sơn: Tại tòa, tôi đề nghị với tòa các thân chủ của tôi là vô tội. Kết quả phiên tòa hôm nay tôi cũng không hài lòng, nhưng tôi cũng ghi nhận là phiên tòa hôm nay đã có những tiến bộ hơn so với trước.

VOA: Những chi tiết, yếu tố nào được ông đánh giá là “tiến bộ hơn so với trước”?

Luật sư Sơn: Tiến bộ ở chỗ người ta cũng đã lắng nghe các quan điểm của luật sư để giảm án cho các bị cáo.

VOA: Về diễn biến phiên tòa, theo luật sư, có những điều gì đáng chú ý hay bất ngờ hơn so với các phiên xử trước đây hay không?

Luật sư Sơn: Tôi cũng không thấy có điều gì bất ngờ hơn. Còn điểm đáng chú ý thì, vẫn như trước đây, quan điểm của Hội đồng xét xử vẫn cho rằng đòi hỏi đa nguyên-đa đảng là một tội, rằng tổ chức Việt Tân là “tổ chức phản động”, rằng các hành vi đấu tranh bất bạo động vẫn là một tội. Tuy nhiên, có điều đáng chú ý so với phiên sơ thẩm là người ta không nhắc tới các hành vi phản đối Trung Quốc xâm lược là một tội nữa. Đó là điều cá nhân tôi thấy có khác biệt đáng chú ý so với trước.

VOA: Một bản án từ sơ thẩm qua phúc thẩm chỉ còn 1/3. Đó là điều khó xảy ra trong các phiên phúc thẩm trước nay ở Việt Nam, nhất là các phiên tòa xử về điều 88 “tuyên truyền chống nhà nước” hay 79 “âm mưu lật đổ chính quyền”. Kết quả phiên xử hôm nay có là một bất ngờ đối với luật sư?

Luật sư Sơn: Không bất ngờ lắm đối với tôi vì có thêm yếu tố Lê Sơn tại phiên phúc thẩm thừa nhận tham gia Việt Tân. Theo kinh nghiệm của tôi, quan điểm xét xử của tòa Việt Nam chủ yếu căn cứ vào thái độ (của bị can) là chính.

VOA: “Nhận tội”, nhận “hành vi phạm tội” cho dù là đúng hay không thì được giảm án. Còn không, vẫn bị giữ y án. Điều này có thông điệp thế nào và nên được hiểu như thế nào về mặt pháp lý ở Việt Nam?

Luật sư Sơn: Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, người ta quy định việc xét xử ai có tội hay không, hoặc lượng hình phạt thì căn cứ vào hành vi chứ không căn cứ vào nhận thức hay ý thức của bị cáo. Thế nhưng thực tế xét xử ở Việt Nam, chủ yếu người ta căn cứ vào lời khai ở cơ quan điều tra là chính chứ người ta cũng không mấy khi căn cứ vào lời khai tại tòa. Đó là những điều chưa phù hợp với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam.

Bấm vào đây nghe cuộc phỏng vấn với luật sư Hà Huy Sơn

Gia đình các bị can cho biết công an được bố trí dày đặc xung quanh khu vực tòa án trong suốt thời gian phiên xử diễn ra. Các quán nước lân cận không được phép mở cửa. Băng rôn, biểu ngữ kêu gọi công lý cho các bị can đều bị lực lượng an ninh công khai giật xé.

Công an được bố trí dày đặc xung quanh khu vực Tòa án trong thời gian phiên xử diễn ra. (Ảnh: Nuvuongcongly)C
ông an được bố trí dày đặc xung quanh khu vực Tòa án trong thời gian phiên xử diễn ra. (Ảnh: Nuvuongcongly)

Phiên phúc thẩm diễn ra sau nhiều lần trì hoãn được gọi là “phiên tòa công khai”, nhưng nhiều người thân của các bị can và những người quan tâm muốn đến tòa theo dõi phiên xử đã bị lực lượng an ninh cản trở.

Tòa chỉ cho phép mỗi gia đình bị can ba người vào tham dự phiên xử. Công an đã dùng võ lực khống chế, áp giải một số người trong đám đông tụ tập bên ngoài theo dõi “phiên xử công khai” về đồn giam giữ và chỉ thả họ ra sau khi phiên xử kết thúc.

Trong số những người bị bắt có blogger Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Hóa, thân mẫu bị can Nguyễn Đình Cương.

Bà Hóa cho VOA Việt ngữ biết:

“Họ giữ tôi từ 9 giờ đến 12 giờ. Họ đưa tôi về đồn công an thành phố. Bên ngoài tòa án, công an đầy dãy, không cho một người nào mở miệng nói gì hết, cũng không cho giơ máy điện thoại ra chụp ảnh. Coi như họ làm đủ kiểu. Cứ mở miệng là bị bắt. Họ bắt 5, 7 người. Kết quả phiên tòa hôm nay, coi như mình không làm được gì, vì mình nhỏ bé quá mà họ thì đông. Mình cũng không thể phản đối được. Bản án dành cho con tôi là quá nặng nề. Con tôi có làm gì đến nỗi mà các ông bắt con tôi, bắt lén lút, rồi giam con tôi đến 4 năm?”

Những thanh niên này bị giam cầm chỉ vì những hoạt động được nhiều công ước quốc tế bảo vệ mà Việt Nam có tham gia ký kết, trong đó có Công ước Quốc tế về Quyền dân sự và chính trị của công dân
Ông Phil Robertson, HRW.

Phản ứng về kết quả phiên phúc thẩm của 8 thanh niên Công giáo hôm nay, Phó giám đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch, ông Phil Robertson, nói:

“Đáng ra không phải bị cầm tù. Những thanh niên này bị giam cầm chỉ vì những hoạt động được nhiều công ước quốc tế bảo vệ mà Việt Nam có tham gia ký kết, trong đó có Công ước Quốc tế về Quyền dân sự và chính trị của công dân. Những bản án được giảm hôm nay là vì các bị can đồng ý ‘nhận tội’ theo yêu cầu của nhà cầm quyền chứ không phải vì chiếu theo các tiêu chuẩn xét xử công bằng và các chuẩn mực được quốc tế công nhận. Các bản án hôm nay cho thấy chẳng có thay đổi gì đáng kể trong kế hoạch của Hà Nội đàn áp các quyền tự do chính trị của công dân. Chúng ta thấy các hoạt động chính trị ôn hòa và thể hiện quan điểm ôn hòa vẫn bị Việt Nam hình sự hóa thành tội và Hà Nội vẫn tiếp tục vi phạm các cam kết với quốc tế về tôn trọng nhân quyền.”

Một ngày trước khi phiên phúc thẩm diễn ra, 4 tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế đã gửi thư cho giới lãnh đạo Việt Nam yêu cầu trả tự do cho các nhà hoạt động Công giáo trẻ.

Các tổ chức phi chính phủ gồm gồm Article 19, EFF, Media Legal Defense Initiative và Front Line Defenders nêu nghi vấn về tính chính danh của phiên tòa và lên án tình trạng các bị can bị ngược đãi kể từ khi bị bắt giữ.

Trong thư, các tổ chức này tố cáo những bản án Hà Nội dành cho các thanh niên Công giáo là một phần trong xu hướng đàn áp tiếp diễn đáng quan ngại của nhà cầm quyền Việt Nam đối với các công dân thực thi quyền tự do ngôn luận.

Trong cuộc trao đổi với VOA Việt ngữ, luật sư Nani Jansen, cố vấn luật cao cấp của tổ chức Media Legal Defense Initiative, khẳng định các tổ chức nhân quyền này sẽ có những bước kế tiếp giúp bảo vệ những nhà cổ xúy dân chủ-nhân quyền tại Việt Nam nếu Hà Nội tiếp tục phớt lờ sự quan tâm của quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền.


Có những con đường nào đi tới?

Tiến sĩ Jonathan London. Viết từ Hong Kong. 20 tháng 5, 2013

Ngày 16 tháng 5, tôi đã lấy làm vinh dự khi ban tiếng Việt của đài BBC đăng lại bài viết mới nhất của tôi.

Khổ thay, bài đó tầm thường và đôi khi hơi dở, với một số ngôn từ dùng chưa được đắt cho lắm, có phần thiếu tế nhị, và nhiều lúc thậm chí còn lập luận chưa chặt chẽ. Nhìn chung, tôi nghĩ bài đó có một số ý tưởng quan trọng nhưng còn vài chỗ đáng bàn.

Hôm đó là một ngày dài. Mà tôi lại chọn một ngày lạ lùng và xét về nhiều mặt không phù hợp để bàn chuyện quốc kỳ ở Việt Nam. Tùy theo góc nhìn của mỗi người, đó là ngày tệ nhất hay tốt nhất trong nhiều năm để bàn chuyện quốc kỳ. Tôi sẽ bàn thêm về ý này ở phần dưới. Suy cho cùng tại sao lại bàn chuyện dễ bị ném đá này nhỉ?

Từ khi tôi lập blog, rất nhiều người trên các diễn đàn mạng xã hội đã muốn kết nối với tôi, và nhiều người (thực ra là một tỉ lệ nhỏ) trưng lá cờ cũ của Việt Nam, vốn đã là / đang là cờ vàng ba sọc đỏ. Đây là lá cờ có từ những năm cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn và về sau được Việt Nam Cộng Hòa sử dụng làm quốc kỳ. Cờ vàng ba sọc đỏ vẫn còn hãnh diện tung bay ở nhiều cộng đồng người Việt trên khắp thế giới, đặc biệt trong những người Việt đã rời bỏ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn, và vẫn kịch liệt chống đối chế độ cai trị kéo dài của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), vốn đã thành lập trong thập niên 1920, cầm quyền ở miền bắc Việt Nam kể từ thập niên 1940 và 1950 và cả nước kể từ 1975. Lá cờ do ĐCSVN chọn, cờ đỏ sao vàng, là có liên hệ đến sự cai trị của Đảng.

Nhiều người ở Việt Nam, trong lẫn ngoài Đảng, có quan điểm, mà tôi ủng hộ cả hai tay, cho rằng Việt Nam cần có cải cách thật sự về các thể chế xã hội của mình, đặc biệt là về các thể chế chính trị, nhưng không chỉ riêng về các thể chế chính trị. Cũng có thể khi nói ra điều này tôi sẽ không còn được hoan nghênh ở Việt Nam. Nếu vậy thì thật đáng tiếc, vì tôi đã và tiếp tục hết lòng mong muốn bàn luận một số vấn đề chủ chốt mà Việt Nam đang đương đầu, đặc biệt về các thể chế phúc lợi, trong đó có giáo dục, y tế, và bảo vệ xã hội. Tôi cũng muốn nói qua kinh nghiệm của mình tôi quen biết rất nhiều người thông minh, tận tụy có những mối quan hệ lâu đời với đảng hoặc vẫn còn đứng trong hàng ngũ đảng. Họ cũng là con người có những khát vọng và bao nỗi lo toan như tất cả chúng ta, nhưng họ bị trói mình trong các thể chế còn khiếm khuyết. Hẳn như chúng ta nghĩ, nhiều người trong số họ cũng có tình cảm sâu đậm với các lá cờ.

Cờ, bất kể thế nào, là những biểu tượng chính trị mạnh mẽ. Luận điểm khiêm tốn, nếu không muốn nói là có phần diễn đạt vụng về, của tôi là cờ cũng có thể trở thành chướng ngại vật.

“Bất chấp diễn biến đáng tiếc không chối cãi được của ngày 16/5, và không muốn đưa những tiên đoán ngớ ngẩn, tôi thật tình tin rằng về mặt chính trị Việt Nam sắp chứng kiến một biến chuyển quan trọng và có tính lịch sử.”

Bài viết của tôi đề nghị người Việt nên quên chuyện vẫy những lá cờ đối nghịch nhau để cùng tiến tới, đừng tiếp tục bị lịch sử cầm tù, và tiến hành đẩy mạnh những cải cách thực sự. Tôi nghĩ có giả định ngầm rằng tất cả người Việt có vai trò trong tiến trình này và rằng các giới trong lẫn ngoài hàng ngũ đảng có thể gây áp lực (có lợi cho các cải cách) lên giới lãnh đạo đảng. Đây không phải là quan điểm chỉ của riêng tôi. Chỉ trong vài tháng qua, một liên minh cải cách hùng mạnh đã tập hợp xung quanh lời kêu gọi có những cải cách căn bản. Tôi phần nào (có lẽ hơi ngây thơ) có quan điểm rằng tất cả người Việt (nếu có lẽ không phải tất cả những ai định cư ở nước ngoài) có thể đóng một vai trò mang tính xây dựng, mặc dù hiện nay cơ hội tạo ra áp lực mang tính xây dựng đó rất nhỏ nhoi.

Tuy nhiên, đúng vào hôm tôi chọn để gợi ý rằng Việt Nam cần tiến tới chứ đừng dừng lại ở chỗ vẫy cờ gì, tòa án Việt Nam đã kết án hai thanh niên với án tù khá lâu vì tội, chắc bạn đã đoán được, trưng cờ vàng.

Rõ ràng, ngày 16/5 là một bước thụt lùi khá xa cho Việt Nam. Tuy nhiên xét trong bối cảnh những thay đổi đáng kể về văn hóa chính trị (nếu không nói là các thể chế chính thức) của đất nước, tôi đã bắt đầu bài tiếng Việt bằng cách nhắc lại chuyện chỉ mới vài ngày trước tôi đã viết (trong một bài khác đăng trên tờ South China Morning Post) rằng người ta “mới cảm nhận được” rằng sự thay đổi chính trị thực sự ở Việt Nam có thể diễn ra trong vòng 5 năm tới. Tôi kết thúc bài viết hôm 16/5 với nhận định rằng, tuy những án tù đưa ra quá nặng, các kinh nghiệm lịch sử cho thấy cũng có lúc chuyện buồn biến thành nguồn cảm hứng. Nỗi đau sau khi cụ Phan Chu Trinh mất năm 1926 là một ví dụ đặc biệt nổi bật.

Thực vậy, bất chấp diễn biến đáng tiếc không chối cãi được của ngày 16/5, và không muốn đưa những tiên đoán ngớ ngẩn, tôi thật sự tin rằng về mặt chính trị, Việt Nam đang chứng kiến một sự dịch chuyển quan trọng và có tính lịch sử vì những áp lực từ bên trọng và ngoài bộ máy đảng – nhà nước. Trong bài tiếng Việt, có lẽ, hay thậm chí có thể chắc chắn, tôi đã đưa ra một số phát biểu thiếu tế nhị, thậm chí ngu ngốc. Như nhận xét có phần ngớ ngẩn rằng lá cờ hiện tại là đủ ‘đẹp’ [pretty] (tôi không định nói là đẹp về thẩm mỹ [beautiful]) và đơn giản rồi, thế là tôi nhận được những phản ứng đúng y như tôi đã nghĩ.

“Bài viết của tôi đề nghị người Việt nên quên chuyện vẫy những lá cờ đối nghịch nhau để cùng tiến tới, đừng tiếp tục bị lịch sử cầm tù, và tiến hành đẩy mạnh những cải cách thực sự. “

Vậy thì, xin nói với tất cả những người (đặc biệt là những ai yêu mến cờ vàng ba sọc đỏ) điên tiết với tôi vì đã nói giờ đây hãy quên đi chuyện lá cờ, đương nhiên tôi nghe rõ ý các bạn rồi! Và tôi thực sự hối tiếc đã xúc phạm các bạn. Tôi xin nói rõ tôi không phải là con rối, tôi có tiếng nói riêng của mình, cảm ơn các bạn. Và nếu tôi có sai lầm trong các lập luận của mình, tôi chấp nhận điều đó. Cảm ơn các bạn về những lời bình luận tử tế và không tử tế cho lắm. Tôi đã rút ra được những bài học quan trọng từ một số nếu không nói là tất cả những ý kiến đó. Ít nhất tôi cũng đã hiểu được rằng tầm hiểu biết của tôi về “Bên Kia” quả thực còn hạn chế. Điều này cũng chẳng đáng ngạc nhiên vì tôi đã dành nhiều thời gian làm việc với nhiều cơ quan nhà nước ở Việt Nam và gần như chẳng bao nhiêu thời gian nghiên cứu các cộng đồng người Việt hải ngoại.

Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ có một lá cờ mà tất cả mọi người cùng chấp nhận. Khổ nỗi cái ngày đó chưa đến. Phần lớn người Việt, ngay cả nhiều người trong đảng, có thể đồng ý rằng sau năm 1975, đảng cầm quyền của Việt Nam đã không làm tròn công việc tạo điều kiện thuận lợi cho hòa giải dân tộc. Muốn tìm bằng chứng cho điều này chỉ cần nhìn hai thanh niên bị tống vào tù hôm 16/5 hay cuộc khẩu chiến ác liệt trên blog tiếng Việt của tôi. Vẫn còn những vết thương sâu mà xét về nhiều mặt chưa lành hẳn. Đó là điều đáng tiếc nhưng khách quan mà nói đúng là như vậy.

Việt Nam có triển vọng đầy hứa hẹn. Đất nước càng sớm giải quyết được những thiếu sót về thể chế thì triển vọng đó càng nhanh trở thành hiện thực. Tôi thực sự tin rằng điều đó có thể diễn ra nhanh hơn nếu người Việt tập trung vào các thể chế trước rồi hẵng lo đến lá cờ.

Tôi hy vọng rằng trong những năm sắp tới cách hành xử của bộ máy nhà nước sẽ có những thay đổi rõ rệt. Hàn Quốc là một mô hình đáng ngưỡng mộ. Tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa tìm ra được Kim Dae Jung của mình, để có thể có một tấm gương tạo nguồn cảm hứng nhiều hơn cái mà tôi đã nêu trong bài viết blog đang bàn. Dĩ nhiên những người như vậy rất quan trọng. Nhưng Việt Nam không nên chờ đợi một sự mơ mộng. Những sự thay đổi cần thiết mà dân Việt Nam đang chờ đợi có thể diễn ra nếu nhiều bộ phận trong xã hội Việt Nam quan tâm đến chính trị. Và bối cảnh này, hãy tạm để các lá cờ sang một bên. Ngây thơ? Có thể. Gần đây tôi bị cáo buộc nhiều thứ còn tệ hơn nhiều.

Tôi xin hết với một vài câu sau cùng. Tôi cảm nhận bài tôi đã viết có một số thiếu sót nghiêm trọng và nội dung bài viết đã gây buồn lòng và làm tổn thương nhiều người. Xin đề nghị coi đây là một bài không phản ánh bản chất tôi. Tôi chẳng muốn trở thành một kẻ gây bất hoà, dù nghịch lý là bài đó đã có chính tác động đối với không ít người. Tôi sẽ rút kinh nghiệm từ bài này và sau một thời gian chúng ta sẽ biết kêt quả là như nào.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một nhà kinh tế chính trị học, chuyên về Việt Nam đang dạy ở Đại học Thành Phố Hong Kong. Bài đã đăng ở Bấm blog của tác giả.

Đàn Cá trong Ao Bác Hồ và Những Con Chó của Pavlov

Lê Diễn Đức

Kể về bản thân là chuyện nên kỵ. Nói về cái dở thì không sao, nhưng nói cái hay, dễ bị coi là khoe mẽ. Vì thế, tôi thỉnh cầu trước một sự châm chước.

Tôi có ý định lấy chính mình làm điểm xuất phát để bàn về một chuyện khác. Về những cay đắng của một con người. Như một ví dụ. Chẳng phải để dạy dỗ ai (làm gì dám cho mình ghê thế!). Cũng chẳng khoác cái áo “dân chủ, nhân quyền” gì ráo trọi. Càng không nhân danh trí thức. Đơn giản chỉ là những nghĩ suy. Một kinh nghiệm.

Khi mới ở tuổi lên mười, tôi đã đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Năm 1967 tôi được Hồ Chí Minh trao phần thưởng cho kết quả học tập xuất sắc với tất cả 14 môn học đạt điểm cao nhất. Đó là một cuốn sổ tay kích thước khoảng 20 x 15cm, giấy trắng tinh, bìa cứng láng bóng, màu xanh dương, có in hình Hồ Chí Minh chụp thẳng và dòng chữ phía dưới “Giải thưởng của Hồ Chủ Tịch”. Với tôi, gia đình, trường học và chính quyền địa phương, giải thưởng này là một vinh dự, vì không phải tỉnh, thành phố nào cũng có thưởng, và nếu có thì chỉ có một hoặc hai người. Buổi trao giải thưởng được tổ chức hào hứng trên sân kho của hợp tác xã, dưới ánh trăng (vì lúc bấy giờ máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc dữ dội, học sinh đi sơ tán ở thôn quê, ban đêm không dám nổi lửa, thắp đèn). Bà con làng xóm tụ hội rất đông. Ba tôi cảm động đến phát khóc. Tôi nâng niu cuốn sổ tay đến mức không dám xài, lâu lâu lấy ra ngắm nghía ! Tuy nhiên cũng chưa tức cười thảm hại bằng thằng bạn. Năm 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thăm trường, tặng cho mỗi đứa được cử đi gặp một cục kẹo Hải Châu (thứ cao cấp, hiếm hoi, xa xỉ với lũ học sinh nghèo trong những ngày chiến tranh). Thằng bạn thèm rỏ dãi nhưng trân trọng quá, không dám ăn, để dành làm kỷ niệm. Trời nóng, chỉ vài hôm, cục kẹo chảy nhão nhoẹt dính bê bết với giấy bọc, phải vứt đi. Hắn đi Đông Đức, về nước giảng dạy ở Bách khoa Hà Nội, cho đến giờ. Tôi tin chắc hắn không quên chuyện này!

Tôi sang Ba Lan năm 1969. Cả đoàn du học sinh chúng tôi phải vào nằm viện để bác sĩ khám, tẩy giun sán trước khi được sống chung với người ta tại Trung tâm học tiếng Ba Lan dành cho người nước ngoài. Trong bệnh viện, được báo tin Hồ Chí Minh từ trần, chúng tôi khóc thảm thiết ! Mấy cô y tá Ba Lan ngơ ngác, lúng túng chẳng biết chuyện gì xảy ra !

Chúng tôi đã yêu Đảng, yêu Bác Hồ đến thế ! Đã một thời ngây thơ, ngây ngô như thế !

Đến năm 1994, Kim Nhật Thành chết, xem TV thấy dân Bắc Triều Tiên đứng đông nghẹt hai bên đường ôm nhau gào khóc. Lúc này thì tôi đã bật cười ! Cười cả chính mình ! Tôi cũng đã y chang vậy ngày nào, bị ngu hoá, bị lừa gạt mà không biết.

Phải công nhận các chế độ cộng sản đạt mức siêu đẳng về chuyện nuôi trồng con người theo ý đồ của mình.

Thế hệ tôi và cả xã hội miền Bắc, mỗi một con người được nhào nặn, rèn luyện, nhồi nhét tư tưởng vào trí não, để không còn là mình nữa, chỉ biết suy nghĩ và hành động theo những lời dạy dỗ của Đảng và Bác, đi theo con đường mà Bác và Đảng vạch ra, như con rối, như cái máy. Cái bóng Đảng, Bác…bao trùm lên đời sống.

Phản ứng của chúng tôi chẳng khác gì những con cá trong ao của ông Hồ ở Phủ Chủ Tịch. Không hơn, không kém.

Vào năm 1958, theo yêu cầu của ông Hồ, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã thiết kế cho ông ngôi nhà sàn theo kiểu của người miền núi, cùng với vườn cây, ao cá.

Ngôi nhà sàn có hai tầng, tầng trên ông Hồ dùng làm phòng ngủ và phòng làm việc trong mùa đông, tầng dưới là nơi ông làm việc vào mùa hè, họp Bộ Chính trị. Ngôi nhà sàn xây dựng xong vào ngày 1/5/1958, bằng gỗ loại bình thường, chiếu theo căn dặn của ông – báo chí viết như thế.

Tuy nhiên, trong thực tế, mãi sau này tôi mới biết, gỗ được sử dụng để làm ngôi nhà sàn “giản dị” thuộc loại tốt. Ngoài ra, sự giản dị này cũng đáng bàn… Bởi vì, ngôi nhà tọa lạc giữa phong cảnh hữu tình, đầy cây cỏ, hoa lá xanh tươi, chim bay, cá lượn bốn mùa. Bác ngồi thư giãn, hút thuốc lá 555 hay xì-gà của Fidel Castro gửi tặng thì còn gì bằng ! Đấy là chưa nói đến chuyện có các nàng tới hầu hạ (như cô Nông Thị Xuân chẳng hạn)! Ngay giữa thủ đô chật hẹp, ồn ào, bụi bặm mà hưởng thụ một dinh cơ tao nhã, thanh bạch như vầy, thì khác gì cuộc sống của Tiên ông dưới trần, quả là chưa có tiền lệ.

Vào thời buổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lắm đại gia tư bản đỏ “chơi độc” theo gương ông Hồ, cũng xây những dinh thự to rầm theo kiểu nhà sàn bằng toàn gỗ quý, vườn tược được trồng nhiều loại cây kiểng mà một chậu trị giá hàng chục ngàn đôla. Cũng ngay trong lòng Hà Nội.

Hồi nhỏ tôi được nghe nhiều huyền thoại về ông Hồ. Với chúng tôi, tên Hồ Chí Minh đồng nghĩa với đấng siêu nhân, thánh thiện và lòng tôn kính. Ở Nghệ An, có bài đồng giao xem ông Hồ, Tướng Giáp sinh ra như là tất yếu của Trời Đất: “Đụn Sơn phân dái / Hòn Đái thất thanh / Nam Đàn sinh Thánh / Đông Thành sinh Tướng”

Mỗi lần nghe ai kể về đời sống của Bác, nói đến đàn cá trong ao của Bác, lũ trẻ chúng tôi xuýt xoa, phục lăn. Số là đàn cá đông đúc được ông Hồ luyện công phu. Sau một thời gian nhử mồi cám dỗ, ông đã thành công. Khi cho cá ăn, ông chỉ cầm cái que gõ gõ vào cái hộp đựng mồi hay thành bờ ao gì đó.. là cả đàn lúc nhúc bơi lại.

Khi lên cấp 2, bắt đầu học vật lý, tôi không còn phục cao kiến luyện cá của ông Hồ nữa, mà chỉ phục ông ở tính kiên nhẫn. Tôi cúc cục mãi mới tập gọi được đàn gà. Còn dạy cá đâu phải giỡn ! Té ra ông Hồ chỉ thực hành lý thuyết từ xửa xưa của nhà khoa học người Nga Ivan Pavlov, Giải thưởng Nobel Y học năm 1904.

Ivan Pavlov nổi danh từ việc thí nghiệm phản ứng tiêu hoá trên cơ thể chó. Qua nghiên cứu sinh lý học của nước bọt, ông khẳng định rằng, nước bọt không chỉ tiết ra lúc ăn, mà cả trong phản ứng trước bữa ăn. Thức ăn gây chảy nước bọt được gọi là “kích thích ban đầu”, còn tiếng chuông gõ hoặc ánh sáng của cái đèn xuất hiện trước bữa ăn, gọi là loại “thức ăn phụ trợ”. Kích thích chó liên tục một thời gian dài bằng “thức ăn phụ trợ”, cùng lúc với “kích thích ban đầu” để tạo thói quen, ông đã làm chó tiết nước bọt chỉ còn qua sự kích thích thứ cấp. Hiện tượng này được gọi là phản xạ có điều kiện của Pavlov, trái ngược với sự chảy nước bọt bẩm sinh, là phản xạ vô điều kiện.

Thì ra, những con cá của ông Hồ chỉ là một phiên bản nhỏ từ con chó của Pavlov.

Phiên bản lớn mới thật hãi hùng.

Người ta nói Việt Nam là một nhà tù lớn, hay cả quốc gia đang bị nhốt trong cái cũi.

Trong cái cũi này, giống như đàn cá trong ao, ông Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng muôn vàn “thức ăn phụ trợ” để “trồng người” vì “hạnh phúc trăm năm” của… Đảng.

Bằng quản lý trong tay sổ hộ khẩu, sổ gạo, sổ dầu, phiếu thực phẩm, phiếu vải, học đại học; nay thêm sổ đỏ, chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy chủ quyền xe, v.v… – ông Hồ và Đảng từ lúc cầm quyền đến nay đã biến đất nước thành một phòng thực nghiệm vĩ đại của “phản xạ có điều kiện”, biến dân tộc thành một bầy đàn ngoan ngoãn. Hàng chục triệu người Việt đã, đang và tiếp tục trở thành những con cá trong ao hay là những con chó của Pavlov.

Ngoài ra, còn một “thức ăn phụ trợ” khác công hiệu. Đó là bộ máy tuyên truyền khổng lồ, chằng chịt từ trung ương xuống thôn xã, bản làng, liên tục đập vào não trạng con người ngay từ thưở thiếu thời. Bất kỳ nguồn thông tin nào bất lợi cho sự độc quyền cai trị của Đảng đều bị ngăn chặn. Những mầm mống phản kháng ngay lập tức bị đè bẹp, đời sống của gia đình, người thân bị phong toả đến bần cùng…

Cho nên, lúc còn là học sinh, tay còn vương mực tím, khi ông Hồ chết, tôi và các bạn tôi cùng thời đã chảy dài nước mắt, cũng không có gì là lạ. Đúng ra, chúng tôi nên được chia sẻ, được thương hại, tội nghiệp.

Nhưng nhờ Trời, ngay trong năm thứ nhất học đại học, tôi đã nhanh chóng nhận ra lẽ thường phải có ở đời, sự bất công và bất nhân của chế độ cộng sản. Nó tước đi của con người đời sống riêng tư, cá tính và những quyền tự do tối thiểu nhất. Chúng tôi bị Toà đại sứ Việt Nam tại Ba Lan cấm không được yêu đương, không được mặc quần jeans ra ngoài đường, không được khiêu vũ, không được đến thăm nhà người bản xứ, không được đi lao động kiếm thêm tiền trong dịp nghỉ Hè, v.v… Một ngàn lẻ một thứ cấm ! Hàng tuần họp chi đoàn, viết bản tự kiểm. Lơ mơ là bị trục xuất về nước !

Và tôi lơ mơ, xé rào nên bị trục xuất thật. Vừa đặt chân tới ga xe lửa Hàng Cỏ, Hà Nội, chưa kịp xuống tàu, hai công an đã xông lên chỗ ngồi và áp tải tôi vào trại giam, sau đó lãnh án tù hai năm về tội yêu và trốn ở lại nước ngoài. Ra tù, lận đận mãi tôi mới xoay được việc làm và quay lại Ba Lan năm 1989, đúng lúc chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ. Làm nhân chứng của 20 năm xây dựng thể chế dân chủ ở Ba Lan với muôn vàn khó khăn nhưng thành quả phát triển giành được thấy rõ qua từng năm tháng, nhãn quan chính trị của tôi thay đổi hoàn toàn. Tôi được tỉnh ngộ qua liệu pháp điện áp của thực tế một xã hội từ chế độ cộng sản chuyển sang dân chủ tự do, cho mình cơ hội nhìn nhận, phân biệt Ác và Thiện. Quy trình tiến hoá bình thường của tôi được tái hiện, từ “con cá của Bác Hồ”, “con chó của Pavlov” lên làm người. Tôi lột xác cùng với những thăng trầm của tiến trình dân chủ hoá ở Ba Lan và Đông Âu.

Ba Lan tự do đã đưa sự thật lịch sử ra ánh sáng và công lý. Quá khứ đã chứng minh không thể chối cãi rằng, chế độ cộng sản tồn tại thực chất nhờ dối trá và bạo lực. Những người cộng sản không thèm nghe ai khi thấy phương hại đến độc quyền lãnh đạo của họ, cho dù những lời khuyên đó có mang lại lợi ích cho đất nước đến đâu. Chỉ khi bị áp lực tranh đấu mạnh mẽ của quần chúng, bị thất bại, bị dồn vào thế cùng, họ mới làm ra vẻ hướng thiện hoặc nhượng bộ. Nhưng khi có sức mạnh và nhất là lúc thành công, họ tự mãn, cao ngạo, và độc ác gấp bội. Bản chất lưu manh, cướp giật của họ, theo thời gian càng ngày càng lộ liễu. Họ biến thù thành bạn, biến bạn thành thù tuỳ theo tình huống có lợi cho sự bảo đảm quyền lực. Họ là bậc thầy của sự tráo trở, lật lọng và bội bạc. Quan điểm phải hợp tác với cộng sản để cải tạo cộng sản, có cách nói cho cộng sản nghe, đã chứng tỏ tính chất xuẩn ngốc của nó qua hậu quả việc làm của rất nhiều người từ hàng chục năm nay. Chưa có vị “quân sư” nào làm cộng sản thay đổi được bản chất, ngược lại, họ thường bị phản phé, ngược đãi và chịu chung một bi kịch giống nhau. Rốt cuộc họ chỉ là những kẻ bị phấn khích hoặc có tâm thức bất bình thường, thích đi theo vết xe đổ.

Thiếu tự do và thông tin với bên ngoài, con người không thể nào có đủ kiến thức để nhìn nhận, so sánh các mô hình sinh hoạt xã hội khác, cho nên đại bộ phận người Việt trong chế độ cộng sản, nhất là nông dân, cứ tưởng rằng, cái ao, cái cũi mà trong đó mình đang được Đảng ban phát là “đỉnh cao chói lọi” rồi.

Mẹ kiếp! Nhốt người ta lại, bưng tai, bịt mắt, chỉ mở cho nhìn, cho nghe những gì mình muốn áp đặt, cùng với sự đe doạ mạng sống thường trực – rồi bảo “dân trí thấp”, “dân tộc chưa trưởng thành”. Nói thế có khác gì trói chân, buộc tay thằng bé, cho ăn uống nhỏ giọt, cách ly với sông nước, rồi phán nó chậm lớn, không có khả năng biết bơi. Đểu giả, mất dạy cỡ này là cùng!

Vậy mà, lạ lùng thay, có những người không sinh ra trong chế độ ấy, đầu đã hai thứ tóc, mà giờ đây bắt đầu muốn yêu Bác Hồ như thế hệ chúng tôi mấy chục năm trước đây !

Lạ lùng nữa, vì những người ấy đã tháo thân chạy khỏi chế độ cộng sản và được lớn lên, ăn học, trở thành kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ ở các quốc gia dân chủ, tự do.

Lạ lùng hơn, vì những người ấy, được gọi là trí thức, không thể không biết đến tội ác mà chủ nghĩa cộng sản toàn trị đã gây ra cho nhân loại nói chung và đối với dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ.

Lạ lùng đến kinh ngạc, vì những bi kịch Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại Chống Đảng, Thảm sát Tết Mậu Thân Huế 1968, Cải tạo Tư bản, Tư thương miền Nam sau 1975, Chiến dịch bán bãi thu vàng, các vụ án Minh Phụng-Epco, Năm Cam, PMU 18, PCI, vân vân và vân vân… – chẳng mang đến cho họ một chút ý thức gì về dã tâm khủng khiếp và ghê tởm của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.

 Không biết bị ám bởi phản xạ có điều kiện nào qua “thức ăn phụ trợ” của thời “đổi mới”, “tăng trưởng”, “phát triển”, “vươn ra biển lớn”, mà giữa lòng Hà Nội xuất hiện một sự đảo ngược tiến trình tiến hoá của loài người. Cả ngàn con người đang no cơm ấm cật, xiêm áo chỉnh tề, bỗng dưng biến thành đàn cá Bác Hồ, bầy chó của Pavlov, “hân hoan”, “hồn nhiên” hát bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Và rồi sau khi kết thúc thắng lợi ra về, cùng nhau đồng ca điệp khúc: “dân trí Việt Nam còn thấp”, “dân tộc ta chưa trưởng thành” nên chưa thể vươn tới tiến trình dân chủ hoá.

Bệnh này coi bộ hết phương cứu chữa !

Lê Diễn Đức
Warsaw, Ba Lan 20/12/2009

Việt Nam đối mặt với áp lực phải cải thiện nhân quyền, tự do tôn giáo

VOA, 21.05.2013

Giáo dân Giáo phận Vinh thắp nến cầu nguyện cho công lý, hòa bình. (Ảnh: Thanhnienconggiao)

Giáo dân Giáo phận Vinh thắp nến cầu nguyện cho công lý, hòa bình. (Ảnh: Thanhnienconggiao)

 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho công bố phúc trình về tự do tôn giáo trên thế giới năm 2012. Trong phần liên quan tới Việt Nam, phúc trình của Bộ Ngoại giao Mỹ nói rằng mặc dù Hiến Pháp và luật pháp cũng như các chính sách của nhà nước Việt Nam đều có những điều khoản về quyền tự do tôn giáo, nhưng trên thực tế, nhà nước Việt Nam quản lý và trong một số trường hợp, hạn chế quyền tự do tôn giáo.

Phúc trình này nhận định rằng chiều hướng đó không thay đổi đáng kể trong năm 2012, và đề cập tới những bản tin tường trình về những hành động vi phạm tự do tôn giáo, kể cả nhiều trường hợp bắt bớ, giam cầm và kết án.

Phúc trình này nêu lên một số vấn đề đặc biệt tại cấp tỉnh và làng xã, nơi một số nhóm tôn giáo bị khước từ, không cho đăng ký hoạt động.

Phúc trình về tự do tôn giáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhắc lại một số trường hợp về các hành động ngược đãi và kỳ thị dựa trên tôn giáo, tín ngưỡng và hành đạo tại Việt Nam. Trong số những trường hợp được đề cập, có trường hợp nhà chức trách ở tỉnh An Giang và Đồng Tháp tiếp tục sách nhiễu các tín đồ của Giáo Hội Phật giáo Hòa Hảo, các vụ đàn áp nhóm của Mục sư Nguyễn Công Chính, Giáo Hội Lutheran, Đạo Cao Đài, Giáo xứ Cồn Dầu vv.. đồng thời nêu tên tuổi của một số người bị bắt giữ và tống giam chỉ vì đã hành sử quyền tự do tôn giáo.

Một số nhóm Ky tô giáo báo cáo các hành vi sách nhiễu hoặc cản trở khi họ tìm cách tổ chức thánh lễ.

Tuy vậy, phúc trình về tự do tôn giáo của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng ghi nhận một số dấu hiệu tiến bộ, như cho phép một số giáo hội được đăng ký, các hoạt động từ thiện được nới rộng, và cho phép tổ chức những cuộc tụ họp tôn giáo lớn với hơn 100,000 người tham dự.

Bộ Ngoại giao Mỹ nói rằng đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội và lãnh sự quán tại Thành phố HCM vẫn duy trì đối thoại thường xuyên với các giới chức cấp cao và các giới chức khác của chính phủ để cổ vũ cho việc nới rộng quyền tự do tôn giáo.

Bộ Ngoại giao Mỹ cũng duy trì liên lạc thường xuyên với giới lãnh đạo tôn giáo, kể cả các nhà hoạt động tôn giáo đang bị nhà nước giám sát.

Phúc trình này còn cho biết là Bộ trưởng Ngoại giao, đại diện đặc trách tự do tôn giáo quốc tế và các giới chức cao cấp khác của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã nêu lên những quan ngại về tự do tôn giáo với các giới chức chính phủ Việt Nam và kêu gọi cải thiện quyền tự do tôn giáo.

Trong khi đó, một bài báo của Epoch Times số hôm qua với sự đóng góp của ký giả của hãng tin AP, cũng nhắc lại Ngày Nhân quyền Việt Nam vừa được tổ chức tại quốc hội Hoa Kỳ hôm 9 tháng Năm.

Bài báo nhận định rằng gần hai thập niên sau khi Tổng Thống Bill Clinton tuyên bố ngày 11 tháng Năm hàng năm là Ngày Nhân Quyền Việt Nam với hy vọng sẽ có thể giảm bớt chính sách đàn áp chính trị, quyền dân sự và tự do tôn giáo ở Việt Nam, bức tranh về nhân quyền của Việt Nam vẫn u ám, khiến nhiều nhà lập pháp Mỹ và các tổ chức bênh vực nhân quyền phải tăng sức ép với Việt Nam.

Theo Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch, con số những vụ bắt bớ và kết án những người bất đồng chính kiến, kể cả các lãnh đạo tôn giáo, các blogger và các công dân hoạt động chính trị đã tăng hàng năm liên tiếp trong 4 năm qua, bất chấp sự phát triển của nền kinh tế nội địa.

Bài báo nói với sự phát triển của các trang mạng xã hội, nhà chức trách Việt Nam đã đặc biệt nhắm mục tiêu vào giới blogger và nhà báo.

Hội Ân xá Quốc Tế tường trình về vụ bắt giữ 14 nhà hoạt động cổ vũ cho dân chủ về tội âm mưu lật đổ chính quyền, trong số này có 5 blogger đã tải những bài viết về quyền tự do ngôn luận.

Nguồn: Vietnam 2012 International Religious Freedom Report, Epoch Times

Blogger Người Buôn Gió từ trời Tây nghĩ về Việt Nam

Trà Mi, VOA,  12.05.2013
Blogger Người Buôn Gió và Thị trưởng thành phố Weimar.

Blogger Người Buôn Gió và Thị trưởng thành phố Weimar.

Hôm nay tôi ở đây, tôi không phải chú ý xóa những gì mình viết trên máy tính, không phải lo ngày mai mình có thể bị bắt hay bị triệu tập vì chuyện viết blog. Đó là điểm khác biệt rất lớn. Những người viết blog trong nước ngày đêm mong ước có được điều khác biệt ấy để viết lên các tác phẩm đủ độ chính chắn. Tôi mong rằng những người viết báo tự do như tôi sẽ có môi trường tốt về báo chí về tự do để thỏa sức sáng tác.

Trà Mi kính chào quý vị và các bạn đến với Tạp chí Thanh Niên của đài VOA.

Vài mẫu chuyện ngắn thuật lại những ngày tháng bị giam giữ trong đồn công an vì các bài viết bị xem là “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến lợi ích nhà nước và an ninh quốc gia” đã đưa một blogger tại Việt Nam sang tham quan và khám phá môi trường tự do báo chí, tự do thông tin ở tận trời Tây theo lời mời của Thị trưởng thành phố Weimar (Đức).
Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Thanh niên VOA hôm nay, anh Bùi Thanh Hiếu, tức blogger Người Buôn Gió, sẽ kể cho chúng ta nghe những điều thú vị xung quanh chuyến đi 3 tháng được tài trợ toàn phần này và những gì ghi nhận được dưới 1 ngòi bút Việt Nam được mời sang tác nghiệp tại môi trường tự do báo chí Tây phương.

Bấm vào đây để nghe toàn bộ cuộc trao đổi với Blogger Người Buôn Gió
Blogger Người Buôn Gió: Học bổng mời tôi sang đây tham quan, tìm hiểu về thành phố này và sáng tác một tác phẩm nhỏ để kỷ niệm với thành phố.

Trà Mi: Vì sao bút danh Người Buôn Gió ở tận Việt Nam được người đứng đầu một thành phố ở tận trời Âu biết và để ý tới?

Blogger Người Buôn Gió, các tác phẩm điêu khắc trong hình là của nghệ sĩ Giắc (Sachs)
Blogger Người Buôn Gió, các tác phẩm điêu khắc trong hình là của nghệ sĩ Giắc (Sachs)

Blogger Người Buôn Gió: Cuối năm 2010, tôi sang Berlin dự giao lưu văn hóa Việt-Đức. Tôi được một tổ chức văn hóa mời sang cùng nhà thơ Bùi Chát và nhà văn Võ Thị Hảo. Hôm đó, mỗi người đọc một tác phẩm của mình và tác phẩm của tôi được một người Việt sống lâu năm ở Đức thích và dịch sang tiếng Đức. Câu chuyện đấy đến tai một nghệ sĩ điêu khắc lớn của thành phố tên là Giắc, người có nhiều tác phẩm lớn đặt ở các nơi công cộng ở thành phố Weimar. Sau khi đọc chuyện của tôi, ông ấy mời tôi sang đây. Ông Giắc và ông thị trưởng có quan hệ với nhau thường xuyên nên ông ấy nhờ ông thị trưởng Weimar mời tôi. Sang đến đây rồi tôi mới biết sở dĩ ông Giắc mời tôi vì ông ở Đông Đức này trước đây sống trong chế độ cộng sản cũng đã va chạm nhiều với an ninh như tôi. Câu chuyện tôi viết về việc tôi bị công an bắt vì viết blog. Tôi chỉ kể về những ngày tôi bị giam trong nhà tù. Ông Giắc đọc xong và đồng cảm, muốn gặp tôi và giúp đỡ tôi một cách nào đó.

Trà Mi: Một người đã từng trải muốn gặp gỡ người đang nếm trải những kinh nghiệm mà ông đã qua trước đây tại Đông Đức. Được biết đây là lời mời thứ nhì của thị trưởng thành phố Weimar sau lần đầu bất thành vì một lệnh cấm xuất cảnh của Việt Nam đối với anh. Khi gặp anh, ông thị trưởng có giải thích về sự kiên nhẫn của ông chăng?

Blogger Người Buôn Gió: Có, ông có giải thích rằng lần trước tôi bị cấm xuất cảnh, ông có báo lại ông Giắc. Sau đó, ông Giắc có trình bày với thị trưởng tôi là người thế nào và cho ông xem tác phẩm nhỏ của tôi. Sau khi xem xong, ông thị trưởng nói cần phải cố gắng giúp tôi bằng mọi cách. Thế là ông lại tiếp tục mời.

Trà Mi: Nghĩa là họ rất ấn tượng với tác phẩm của anh và những gì anh đã trải nghiệm tại Việt Nam.

Blogger Người Buôn Gió: Nói tác phẩm thì cao xa quá. Đó chỉ là một câu chuyện có thật và có sự đồng cảm với người đã trải qua như ông Giắc. Ngay người dịch câu chuyện này ra tiếng Đức, một Việt kiều, cũng đã từng bị tù ở Việt Nam và giờ định cư tại Đức. Anh ấy đọc câu chuyện đấy cũng đồng cảm và sửng sốt vì sự thật.

Blogger Người Buôn Gió và thị trưởng thành phố Weimar trong Tòa Thị chính
Blogger Người Buôn Gió và thị trưởng thành phố Weimar trong Tòa Thị chính

Trà Mi:  Ba tháng tại Đức, họ tạo điều kiện cho anh sáng tác và tìm hiểu thêm về những khó khăn của một ngòi bút Việt Nam. Trong thời gian ở đây anh sẽ tham gia một khóa học nào chăng? Mọi chi phí trang trải họ có lo liệu cho anh?

Blogger Người Buôn Gió: Họ đối xử với tôi rất tốt. Tôi rất cảm động. Một dân tộc với những con người tốt như thế này mà trước kia từng xâm lược và tiêu diệt người Do Thái. Tôi ngẫm nghĩ rằng vẫn là con người đấy thôi nhưng cái tư tưởng, chủ nghĩa họ theo đuổi sẽ biến họ thành con người tồi tệ hay tốt đẹp. Đó là điều tôi cảm thấy rất sâu sắc. Ở đây, họ cấp cho tôi căn hộ riêng đầy đủ tiện nghi từ máy tính đến điện thọai. Họ mua bảo hiểm sức khỏe cho tôi và cả bảo hiểm cho tôi nếu tôi ra đường làm hỏng gì của ai thì bảo hiểm sẽ đền cho tôi. Họ chu đáo đến độ như vậy.

Trà Mi: Họ có cho anh tham dự khóa học nào để rèn luyện thêm?

Blogger Người Buôn Gió: Họ đang tìm cho tôi một khóa học như vậy vì thời gian tôi sang trễ. Họ mời đầu tháng tư nhưng đến cuối tháng tôi mới đi được cho nên đã bị lỡ một khóa học đã dự trù. Họ đang tìm cho tôi một khóa học tiếng Đức cơ bản.

Trà Mi: Trên Facebook, anh có chia sẻ rằng đến Đức rồi anh được nhận thêm một lời mời nữa có thể thay đổi cuộc đời của anh. Anh có thể cho biết một chút về đề nghị đó?

Blogger Người Buôn Gió: Ông thị trưởng nói tôi sẽ ở đây 6 tháng chứ không phải 3 tháng. Ông nói sau 6 tháng đó, có thể chúng ta sẽ gặp lại và bàn chuyện tiếp tục.

Trà Mi: Anh có suy nghĩ gì về lời đề nghị đó?

Blogger Người Buôn Gió: Tôi không bao giờ có dự định gì quá 10 ngày. Tôi cũng không trông mong một điều tốt đẹp đến với tôi trong tương lai và cũng không bất ngờ khi một ngày nào đó tự dưng mình bị bắt tù. Cho nên, lời của ông thị trưởng và tương lai sau 6 tháng ở đây đối với tôi hiện giờ còn quá xa xôi.

Trà Mi: Thế nhưng nếu họ đề nghị anh ở lại lâu hơn, liệu anh sẽ chấp nhận lời mời đó?

Blogger Người Buôn Gió: Tôi sẽ cân nhắc nhưng tôi nghĩ tôi đi vài tháng rồi trở về vì còn vợ con, mẹ già, anh em bạn bè ở nhà. Tôi vẫn muốn về hơn.

Trà Mi: Sang Đức theo một chương trình có nội dung về báo chí-văn học, anh quan sát ghi nhận thế nào về môi trường thông tin báo chí, môi trường ngôn luận tại đất khách?

Blogger Người Buôn Gió: Ông thị trưởng nói với tôi rằng ở đây tôi yên tâm có thể viết bất cứ điều gì tôi muốn, kể cả tôi viết rằng ông ta là một thằng khốn nạn hoặc chính sách của đất nước này là tồi tệ. Ông nói tôi cứ viết thoải mái, không ai làm khó khăn hay bắt bớ tôi vì chuyện đấy cả. Đến đây, vừa ngồi vào máy tính tôi cũng định thao tác vượt tường lửa, nhưng chợt nghĩ lại thấy buồn cười vì tôi đang ở một đất nước làm gì có tường lửa để mà vượt. Nó đã trở thành bản năng khi tôi ngồi vào máy. Lời nói của người lãnh đạo cao cấp nhất thành phố này và thực tế khi tôi ngồi vào máy tính ở đây không phải vựơt tường lửa đã nói lên tất cả về tự do ngôn luận, tự do thông tin ở đây.

Trà Mi: Quá trình lịch sử chính trị Đông Đức từng có sự hiện diện của chế độ cộng sản tương tự như Việt Nam. Vậy Đức ngày nay thế nào so với thời trước khi còn theo chế độ cộng sản? Anh có cơ hội tìm hiểu, hỏi han người dân tại đó?

Blogger Người Buôn Gió: Từ khi sang đây, tôi chưa nhìn thấy bóng cảnh sát hay tổ trưởng dân phố hay dân phòng nào đến cả. Còn ở bên Việt Nam, ngay trước cửa nhà tôi người ta dựng lên trạm dân phòng để quan sát và bắt khai báo. Ở đây người ta không có chuyện đấy.

Trà Mi: Có thể vì đối với Việt Nam, anh là “đối tượng đáng chú ý” chăng?

Blogger Người Buôn Gió: Không phải, bình thường ở khu phố nào cũng có một trạm như thế. Có điều là tình cờ ở khu phố tôi, họ đặt trước cửa nhà tôi thôi.

Trà Mi: Trong ánh mắt của anh, qua ngòi bút của blogger Người Buôn Gió, một nước Đức đã giã từ chế độ cộng sản và một nước Việt Nam duy trì cộng sản có những điểm nào khác biệt đáng chú ý, những ưu-nhược điểm mà anh muốn chia sẻ với các độc giả ở Việt Nam?

Blogger Người Buôn Gió: Có rất nhiều khác biệt khó trả lời hết được bây giờ. Có lẽ tôi phải viết thành truyện.

Trà Mi: Một vài đặc điểm đơn cử qua cái nhìn hằng ngày của anh đối với đời sống ở hai nơi chẳng hạn?

Blogger Người Buôn Gió: Đi trên đường, nhìn gương mặt của người Đức và người Việt Nam khác nhau rất nhiều. Gương mặt người dân ở đây thoát lên sự thanh thản, không lo âu, toan tính hay nhọc nhằn, rất yên bình, vui vẻ. Họ không phải lo lắng, lo sợ hay sợ hãi. Còn ở Việt Nam, gương mặt người dân toát lên những lo âu, trằn trọc, trăn trở, những khó khăn. Tôi không nói về mặt vật chất vì khác biệt rất rõ ràng ai cũng thấy. Đời sống vật chất các thứ ở đây hơn hẳn đất nước Việt Nam đến bao nhiêu lần. Tôi nghĩ những gương mặt đó nói lên tất cả về đời sống, chính trị, kinh tế.

Trà Mi: Anh dự định sẽ ứng dụng những gì học hỏi được sau chuyến đi này khi trở về Việt Nam như thế nào?

Blogger Người Buôn Gió: Tôi nghĩ rất là khó ứng dụng tư duy và đời sống ở đây vào Việt Nam vì đất nước chúng ta là một đất nước kỳ quặc như trong tác phẩm tâm huyết nhất của tôi Đại Vệ Chí Dị đã viết, kỳ quặc, kỳ quái, một đất nước kỳ quái, không thể nào áp dụng một lối sống ở nơi văn minh vào đấy được. Nó có những luật lệ và ngoắc ngoéo, thông lệ ước ngầm riêng, hoàn toàn khác. Tôi sang đây, tôi thấy biểu tình mà không hề thấy bóng cảnh sát hay dân phòng. Ở Việt Nam, chúng tôi vừa chớm căng băng rôn thì lập tức công an đến hốt cổ về tội ‘gây rối trật tự công cộng. Tôi từng bị như thế. Ở đây, tôi thấy các quan chức nhà nước rất dễ dàng và thân thiện. Ở Việt Nam, dân không dễ dàng vào thăm trụ sở hội đồng nhân dân phường. Còn ở đây, tôi vào xem tòa nhà quốc hội dễ dàng. Họ rất thân thiện.

Trà Mi: Anh không thấy có sự ngăn cách giữa chính quyền với người dân?

Blogger Người Buôn Gió: Tôi chẳng thấy điều đó. Có hôm tôi gặp ông thị trưởng đi bộ trên phố, ông đến bắt tay, vỗ vai tôi rồi hòa vào dòng người đi bộ. Ở Việt Nam mấy khi nhìn thấy một ông quận trưởng. Chủ tịch một quận thôi thì cũng phải xe con đưa rước rồi.

Trà Mi: Liệu độc giả Việt Nam có thể mong chờ một Đại Vệ Chí Dị tập tiếp hay một Tây Du Ký từ blogger Người Buôn Gió sau chuyến đi này?

Blogger Người Buôn Gió: Có thể tôi sẽ viết những câu chuyện nhỏ khi về nước, viết về những cảm nghĩ của tôi trước những gì tôi nhìn thấy ở đây. Có thể đó sẽ là những câu chuyện hay với một số người, nhưng một số người khác lại cho rằng đó là những câu chuyện ‘tuyên truyền, bôi nhọ chế độ Việt Nam’. Họ nghĩ thế nào tôi cũng chịu thôi.

Trà Mi: Một ngòi bút Việt Nam được mời sang tác nghiệp tại một môi trường tự do báo chí Tây phương, anh chia sẻ điều gì với các bạn đồng nghiệp của mình ở Việt Nam và với người dân trong nước?

Blogger Người Buôn Gió: Tôi có một chia sẻ thế này. Hôm nay tôi ở đây, tôi không phải chú ý xóa những gì mình viết trên máy tính, không phải lo ngày mai mình có thể bị bắt hay bị triệu tập vì chuyện viết blog. Đó là điểm khác biệt rất lớn. Những người viết blog trong nước ngày đêm mong ước có được điều khác biệt ấy để viết lên các tác phẩm đủ độ chính chắn. Tôi mong rằng những người viết báo tự do như tôi sẽ có môi trường tốt về báo chí về tự do để thỏa sức sáng tác.

Trà Mi: Xin cảm ơn anh và chúc anh thành công trong chuyến đi. Hy vọng độc giả sẽ được đón nhận những tác phẩm hay từ Người Buôn Gío sau chuyến đi nảy.
Blogger Người Buôn Gió: Cảm ơn chị. Xin gửi lời chào đến thính giả đài VOA.

Trà Mi: Tạp chí Thanh Niên vừa gửi đến quý vị câu chuyện của blogger Người Buôn Gío về suất học bổng của anh theo lời mời của thị trưởng thành phố Weimar, Đức. Trà Mi hẹn mang đến quý vị một câu chuyện mới vào trong buổi phát thanh trực tiếp lúc 10 giờ tối thứ sáu và chủ nhật tuần sau trên trang web voatiengviet.com. Mong quý vị nhớ đón nghe.

Đi theo Tàu là mất nước, mất đảng

Trưởng Biên Tập on Mon, 05/20/2013 – 22:18

Ngô Minh

Mấy hôm nay tôi vô cùng bức xúc với việc, ngày 13-5, 32 tàu cá Trung Quốc đã kéo đến vùng biển phía tây nam quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đoàn tàu “đánh cá” của bọn Đại Hán này hoàn toàn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Ấy thế mà Việt Nam không một lời lên tiếng*. Nghĩa là Trung ương đã để mặc lãnh hải cho bọn Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Uất quá, buộc phải lên tiếng.

Trong lịch sử Việt Nam, nước ta bị giặc Tàu đô hộ ngàn năm, nhưng từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn , không có triều đại nào đi theo Tàu, bán đất nước cho Tàu. Nhiều triều đại còn xưng “ĐẾ” ngang với Thiên Triều. Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư-“Đế”, con trời do Sách Trời định , ngang hàng với Đế Tàu, chứ không phải vua do Tàu phong…. Hay như Nguyễn Huệ tự xưng là Hoàng đế Quang Trung.

Bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc  ôm chân giặc Tàu để mong chúng giúp giành ngôi để làm tôi mọi cho Tàu, bị lịch sử lên án ngàn đời. Lịch sử Việt Nam thời cận đại có ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn, đối nghịch lăm le tiêu diệt lẫn nhau, gây cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn hàng thế kỷ, tuy nhiên có điều là cả ba cùng một ý nguyện tìm cách đòi lại phần đất bị mất bởi Trung Quốc, đòi lại 10 châu thuộc phủ An Tây, Hưng Hóa, là địa phận tỉnh Điện Biên, Lai Châu hiện nay . Ðại Nam Nhất Thống Chí xác nhận rằng 6 châu bị mất vào nhà Thanh gồm : Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm. Riêng 4 châu còn lại thì đời đầu Nguyễn thuộc phủ An Tây, đến thời Thiệu Trị trích lấy đất lập Châu Lai, tiền thân của tỉnh Lai Châu, năm Tự Ðức thứ 4 [1851] trích lấy châu Quỳnh Nhai và châu Luân cho lập phủ Ðiện Biên, tiền thân của tỉnh Ðiện Biên ngày nay. Đó mới là người Việt Nam

Đau đớn thay, từ giữa thế kỷ XX đến nay, nước ta dưới thời CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, với khẩu hiệu “Bốn phương vô sản đều là anh em”, ngây thơ “đi theo” Trung Quốc đã bị mất đất, mất người nhiều lần. Chúng lấm chiếm biên giới lấy mất Mục Nam Quan, lấy mất 2/3 Thác Bản Dốc. Theo nhà báo Huy Đức trong tác phẩm ”Bên thắng cuộc”, thì Trung Quốc đã dừng mọi thủ đoạn để lấn chiếm 50.000 m2 Việt Nam dọc biên giới. Năm 1974, giặc Tàu chiếm Quần đảo Hoàng Sa, 1988, chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa của Việt Nam. Các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam là đội quân thiện chiến vừa mới thắng Mỹ, nhưng “lệnh trên” để “giữ tình hữu nghị”, không được bắn trả, chỉ ôm lá cờ chịu chết , chịu mất đảo . Đau đớn thay. Việt Nam chiến tranh 20 năm, trên 5 triệu người cả hai miền Nam-Bắc bi chết, để thực hiện âm mưu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Hiện nay, sâu trong lãnh thổ Việt Nam, hàng ngàn lính Tàu gian manh đã đứng chân trên đất Tây Nguyên với kế hoạch khai thác boxite ký kết giữa Tổng Bí thư 2 đảng. Boxite là thứ rẻ độn, mua đâu cũng có hàng tỷ tấn, tại sao chúng đòi cho bằng được Tây Nguyên? Vì ai chiếm được Tây Nguyên thì kẻ đó chiếm được Đông Dương. Quân tàu cũng đang chiếm cứ 300.000 ha rừng đầu nguồn phía Bắc, do bọn quan tỉnh tham lam bán đất cho chúng. Nếu chiến tranh xẩy ra thì đất ấy là hậu cứ của Tàu.

Ở trên là nói về đất. Bây giờ xin nới về người. Ngoài việc hàng triệu người hy sinh trong “chiến tranh lạnh” để bảo vệ Trung Quốc và “phe XHCN”, 74 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng hòa hy sinh ở Hoàng Sa, 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam hy sinh ở Gạc Ma, còn một kiểu “mất người” tàn bạo khác do đi theo Tàu. Đó là thảm họa Cải cách ruộng đất theo mô hình thổ địa cải cách của Mao Trạch Đông , cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự chỉ huy trực tiếp của cố vấn Trung Quốc với phương châm: “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Kết quả từ 1953- 1956 đã phá nát hệ thống thiết chế văn hóa nông thôn Việt Nam, làm cho nông thôn tan nát. Theo thông kế chưa đầy đủ, cả nước , Đội CCRĐ đã bắt tù đày đọa 5% nông dân, nghĩa là gần 500.000 người bị bắt tù, bị đấu tố, nhục mạ. Đội CCRĐ đã giết 15 vạn địa chủ, thực ra là những người có tài kinh doanh, biết sử dụng ruộng đất hiệu quả, nên đời sống cao hơn người khác và cả những chí sĩ yêu nước bị ghép vào tội “Quốc dân đảng”, bị quy địa chủ bị bắt tù rồi chết oan trong tù như Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm ở Hà Tĩnh.

Sau CCRĐ là Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc năm 1956 và ở miền Nam sau năm 1975, cũng là cách làm theo Mao Trạch Đông và Stalin, đã phá nát nền công nghiệp non trẻ của Việt nam, đẩy các chủ doanh nghiệp tài giỏi đến cùng quẫn phải đi bán hàng rong hoặc vượt biên, làm mồi cho cá trên đại đương.

Về văn hóa, chính trị, 2 lần làm theo lệnh Trung Quốc, làm cho hàng ngàn vạn trí thức lớn Việt Nam bị bắt bớ, tù đày, bị quản thúc. Đó là vụ Nhân Văn-Giai phẩm và vụ Chống xét lại. Vụ Nhân Văn Giai phẩm bắt đầu diễn ra đấu tố năm 1958. Hàng trăm văn nghệ sĩ , trí thức lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Văn Cao, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang… và những người liên quan vị bắt tù, bị treo bút hoặc mất việc. Có người như ông Nguyễn Hữu Đang- nhà văn hóa lớn, Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên ngôn Độc lập Quảng Trường Ba Đình 2-9 1945, bị tù ở nhà tù heo hút ở sát biên giới Trung Quốc, dài đến mức ông không biết có một cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc do không quân Mỹ tiến hành. Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) sau này đã có chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, đã nhận định: VỤ NHÂN VĂN–GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH MẠNG VĂN HỌC KHÔNG THÀNH. Ông Thái Kế Toại cho rằng, NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo”. Vụ án đã tiệt tiêu một thế hệ văn nghệ vàng của Việt Nam.

Vụ án Xét lại hiện đại cũng xuất phát từ việc đi theo và làm theo Trung Quốc. Vụ này có hai giai đoạn : giai đoạn đầu , bắt đầu từ đầu những năm 1960, đối tượng đấu tố là các văn nghệ sĩ có các tác phẩm yêu đương, buồn rất người, theo cách của các tác phẩm Khi đàn sếu bay qua, Người thứ 41.v.v.. ở Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ 2, như : Mở hầm của Nguyễn Dậu, Mùa hoa dẻ của Văn Linh.v.v..Các văn nghệ sĩ và các giáo viên dạy văn cấp 3 bị quy là xét lại phải kiểm điểm. Có người mất việc trong cơ quan nhà nước. Vụ án xét lại lớn thứ hai được gọi là Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo, là vụ bắt giam lâu năm không xét xử nhiều nhân vật quan trọng trong nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền tại miền bắc Việt Nam từ năm 1967, với cáo buộc là đi theo Chủ nghĩa Xét lại. Vụ án bắt đầu từ việc, tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchyov TBT Đảng CS Liên Xô đã đọc báo cáo về Tệ sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản (“Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”). Đường lối của Khrushchyov bị Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là “Chủ nghĩa Xét lại”. Việt Nam đi theo Mao nên cũng triển khai bắt giam và giết hại “bọn xét lại trong nước”. Ước lượng trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30 nhân vật cao cấp. Đây là thế hệ trí thức, cán bộ cấp cao có trình độ nhất Việt Nam thời bấy giờ. Có nhà phân tích cho rằng, vụ án xét lại này cũng là do Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp. Dù phân tích theo hướng nào thì những vụ án như thế cũng là do Trung Quốc chỉ đạo nhằm tiêu diệt giới trí thức hàng đầu Việt Nam.

Trung Quốc là quốc gia do bọn bành trướng Đại Hán thống trị. Chúng không bao giờ là “anh em hòa hảo” với ai mà coi các nước lân bang là miếng mồi để chiếm đất. Chúng đã chiếm Tây Tạng, gây hấn với Mông Cổ, Liên Xô , Ấn Độ, Việt Nam …Theo tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một trong số ít người Việt nam hiểu Trung Quốc nhất, thì chúng không bao giờ có truyền thống văn hóa với Việt Nam, không chung ý thức hệ với Việt Nam (Lãnh đạo Trung Quốc đã từ lâu rời bỏ ý thức hệ Mác-Lê Nin, để trở thành một tập đoàn Hán tộc tham lam, muốn đầu độc cả thế giới bằng hàng hóa độc hại và chiến tranh, lấn đất, lấn biển). Cho nên đi theo Tàu là chết !

o0o

Chỉ có 2 lần lãnh đạo Việt Nam không nghe theo Trung Quốc và đã giành thắng lợi vang dội : Đó là Chiến dịch Điện biên Phủ ( 1954) và Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và Chiến dịch Hổ chí Minh năm 1975. Trong Chiến dịch Điên Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã không nghe theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Quốc, dù kế hoạch của cố vấn đã được Bộ chỉ huy chiến trường phê duyệt, đã thay đổi cách đánh từ “Đánh nhanh tiến nhanh” của Trung Quốc thành “Đánh chắc, tiến chắc” của Việt Nam . Nên kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra. Kết quả là Võ Nguyên Giáp đã đúng. Việt Nam đã thắng Pháp và thắng cả mưu mô của Trung Quốc. Còn thời đánh Mỹ, TBT Lê Duẩn đã không nghe theo Mao Trạch Đông “Đánh Mỹ đến người Việt nam cuối cùng”, nên đã tổ chức các cuộc tấn công năm 1968, 1972, 1975 và đã giành thắng lợi. Việt Nam đã thắng Mỹ và thắng cả mưu mô thâm hiểm của Trung Quốc.

Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức hiểu rất rõ bản chất thâm hậu của bọn Tàu. Nhưng đáng buồn thay , một số lãnh đạo Đảng CS Việt Nam lại mơ hồ ( hay giả vờ mơ hồ ?) về người bạn “16 chữ vàng”, “4 tốt “ lừa mị, để hướng đất nước theo chúng. Một số học giả chính trị của Quân Đội nhân dân Việt Nam mà tiêu biểu là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng, người đã đăng đàn bảo vệ quan điểm “đi theo Trung Quốc” để “bảo vệ cái sổ hưu”. Họ cho rằng: “Trung Quốc có đánh ta, nhưng là ân nhân của nước ta”. Thậm chí họ còn vạch chiến lược huấn luyện tác chiến của Quân đội Việt Nam với đối tượng tác chiến là Quân Mỹ chứ không phải quân Trung Quốc. Tôi cho rằng, đó là nhận định sai lầm, có nguy cơ dẫn đến mất nước và mất cả đảng ( đối với những người cộng sản chân chính). Vì ta đánh Mỹ là bảo vệ Trung Quốc và phe XHCN, không có nợ nần gì chúng. Nếu có chút nợ nần thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam mà Trung Quốc phát động tháng 2- 1979 và cuộc chiến Gạc Ma 1988, hàng chục vạn người Việt Nam dọc biên giới đã bị giết hại, không những xóa sạch nợ nần, mà chúng còn gây nợ máu đối với nhân dân Việt Nam rất lớn. Thế thì làm sao gọi là “ân nhân” hỡi ông Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú ” bảo vệ cái sổ hưu”?

Cả ngàn năm Bắc thuộc, đất nước ta nghèo, không biết gì thế giới bên ngoài, mà các triều đại tuyệt đối không theo Trung Quốc, không bị Trung Quốc đồng hóa. Ngày nay Việt Nam có thế lực và tiềm năng rất lớn để giữ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước bọn bành trướng Đại Hán, vì chúng ta có Nhân Dân cực kỳ yêu nước, Quân đội nhân dân thiện chiến, có điểm tựa là khối ASAEN với 10 nước liền kề, lại còn có các nước bè bạn khắp năm châu như Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…Nếu chúng ta biết khai thác những lợi thế đó thì bọn Đại Hán không làm gì được ta.

Trung Quốc là nước láng giềng. Chúng ta phải tôn trọng và ứng xử hữu hảo theo luật lệ thế giới. Nước Việt Nam là nước độc lập có chủ quyền, nếu Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông hay biên giới, nhân dân Việt Nam biểu tình phản đối sao lại “bắt tù “ nhân dân ? Phải ngay lập tức triệu đại sứ Trung Quốc tới, trao công hàm, nói với họ rằng, nếu các ông sống hữu hảo, đừng xâm phạm lãnh hải Việt Nam thì nhân dân Việt Nam sẽ không biểu tình chống Trung Quốc. Sao không nói với họ như thế, lại đi đàn áp nhân dân mình ? Nước có chủ quyền gì mà lạ thế !

Có người bảo:” Đi với Trung Quốc thì mất nước, nhưng còn đảng” . “Đi với Mỹ thì mất đảng, nhưng còn nước”. Nên các vị lãnh đạo ĐCS Việt Nam đã chọn con đường đi theo Trung Quốc, vậy còn đất nước và nhân dân thì sao ? Đây là một thực tế rõ ràng, 86 triệu dân Việt Nam ai cũng biết, chứ không phải là luận điệu của “bọn thù địch”. Người viết bài này là một người từng đi đánh Mỹ, vào Đảng nhân dân Cách mạng miền Nam, là nhà văn sống bằng lương tâm và lao động của mình, không bao giờ bị bọn thù địch nào mua chuộc nổi .

Vì thế tôi cầu mong các vị hãy tỉnh trí lại , và khắc sâu vào tâm can : Đi với Trung Quốc, nghe theo Trung Quốc sẽ mất nước và mất cả đảng !

 

Nguồn: Bauxite Vietnam

Mỹ không đưa VN vào ‘CPC sổ đen tôn giáo’

Ngoại trưởng John Kerry từng tham chiến tại Việt Nam.

Hoa Kỳ ra phúc trình nói Việt Nam có tiến bộ về tự do tôn giáo và không đưa Hà Nội vào danh sách Các nước gây quan ngại đặc biệt (CPC) thường niên 2012.

Trung Quốc, Bắc Hàn và Ảrập Saudi vẫn bị Hoa Kỳ giữ trong danh sách này.

Phúc trình về Tự do Tôn giáo Quốc tế là khảo sát của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đối với gần 200 nước, được ra lần đầu tiên cách đây 15 năm .

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry, được dẫn lời nói “Báo cáo này là thước đo rõ ràng và khách quan về thực trạng tự do tôn giáo trên toàn thế giới.”

“Và khi cần thiết, báo cáo này có thể nêu tên một số nước bạn của Hoa Kỳ; cũng như một số quốc gia mà chúng tôi đang tìm cách tăng cường quan hệ mạnh hơn.”

“Khi cần thiết, báo cáo này có thể nêu tên một số nước bạn của Hoa Kỳ; cũng như một số quốc gia mà chúng tôi đang tìm cách tăng cường quan hệ mạnh hơn”

John Kerry, Ngoại trưởng Hoa Kỳ

Đại sứ chuyên trách về chủ đề tự do tôn giáo Sausan Johnson Cook được dẫn lời cho biết có tiến bộ tại Việt Nam nơi chính phủ đã bắt đầu cho phép các cuộc tụ họp tôn giáo lớn với số 100.000 người trở lên.

Tuy nhiên một dân biểu của Đảng Cộng hòa nói Hoa Kỳ đáng ra phải đánh giá Việt Nam nghiêm khắc hơn.

Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ, cho biết “Việt Nam vẫn đàn áp tự do tôn giáo.”

Trong một tuyên bố đưa ra ngay sau khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra báo cáo này, ông nói “Chính phủ Cộng sản Việt Nam không cho người dân được hưởng các quyền tự do cơ bản nhất.”

Ông Royce đã đưa ra dự luật kêu gọi Bộ Ngoại giao khôi phục lại tình trạng bất lợi cho Việt Nam một lần nữa bằng cách tái liệt kê Hà Nội vào danh sách quốc gia cần quan ngại đặc biệt.

Phúc trình của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói Trung Quốc có chiến dịch qui mô trấn áp tự do tôn giáo bằng việc giam giữ, theo dõi và các kỹ thuật đàn áp khác.

Và báo cáo cho biết trong năm 2012 Bắc Hàn “xử lý mạnh tay với tất cả các đối tượng đối lập” và không khuyến khích các hoạt động tôn giáo có tổ chức.

‘Quan ngại tầm chiến lược’

Chính khách Hoa Kỳ đã có các cuộc tiếp xúc với giới bất đồng chính kiến tại Việt Nam.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cho biết chính phủ các nước đàn áp tôn giáo không chỉ gây bất ổn cho chính họ mà còn tạo rủi ro cho các nước khác.

Tấn công tự do tôn giáo là “quan ngại cả về đạo đức lẫn an ninh quốc gia tầm chiến lược đối với Hoa Kỳ,” ông Kerry nói.

Vào tháng Ba năm nay, chính quyền ông Obama đã bày tỏ quan ngại về tình trạng “sa sút” của Việt Nam về nhân quyền và khẳng định rằng việc tiến tới tự do cá nhân là “nội dung then chốt” trong chính sách của Hoa Kỳ tại Á châu.

Năm 2012, không hài lòng về việc Việt Nam không cải thiện tình hình nhân quyền, Hoa Kỳ đã hoãn cuộc đối thoại nhân quyền thường niên.

“Các bản án này phần nào cho thấy một xu hướng đáng lo ngại là nhà chức trách Việt Nam sử dụng các tội danh trong các luật về an ninh quốc gia để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ vì họ bày tỏ quan điểm một cách ôn hoà”

Thông cáo của Mỹ về vụ xử tù hai sinh viên

Tổ chức Human Rights Watch tiếp tục đánh giá Việt Nam có nhiều vi phạm “thô bạo” và “nghiêm trọng” về nhân quyền, trong đó nhấn mạnh việc chính quyền tiếp tục “đàn áp, bắt bớ có hệ thống” các nhà hoạt động ủng hộ nhân quyền, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, các bloggers, cũng như giới bất đồng chính kiến ôn hòa.

Gần đây, sau vụ kết án nặng với blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) và bloggers khác cùng vụ án, chính quyền cũng bị chỉ trích là “nhắm mục tiêu” vào nhà hoạt động vì nhân quyền, luật sư Lê Quốc Quân thông qua việc bắt bớ đối với bản thân ông và một số người thân trong gia đình.

Vào ngày 17/05, Đại sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội ra Bấm thông cáo bày tỏ “quan ngại về việc một toà án Việt Nam đã kết án Đinh Nguyên Kha 8 năm tù giam và Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù giam với các tội danh chống chính quyền”.

“Các bản án này phần nào cho thấy một xu hướng đáng lo ngại là các nhà chức trách Việt Nam sử dụng các tội danh trong các luật về an ninh quốc gia để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ vì họ bày tỏ quan điểm một cách ôn hoà.

Bấm Bản thông cáo cũng “kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho những tù nhân lương tâm và cho phép tất cả người dân Việt Nam được bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách ôn hoà”.

‘Lợi ích cá nhân có thể chi phối lá phiếu’

Quốc hội Việt NamQuốc hội Việt Nam có rất nhiều bỡ ngỡ trong việc lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm

Trong lúc Quốc hội Việt Nam sắp sửa có đợt đánh giá tín nhiệm các chức danh lãnh đạo cấp cao của đất nước, một vị dân biểu nói với BBC ông ‘rất lo lắng cho kết quả cuối cùng’.

Nói với BBC từ Hà Nội, nơi ông đang tham dự phiên khai mạc kỳ họp thứ Năm Quốc hội khóa 13 hôm thứ Hai ngày 20/5, nhà sử học Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai, nói các quan hệ có dính đến lợi ích có thể ‘chi phối phần nào lá phiếu.

Trong kỳ họp kéo dài hơn một tháng này, Quốc hội sẽ xem xét nhiều vấn đề quan trọng của đất nước, trong đó Dự thảo Hiến pháp sửa đổi và tiến hành đánh giá mức độ tín nhiệm của các chức danh do Quốc hội bầu.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chính trị Việt Nam các lãnh đạo chóp bu như chủ tịch nước, thủ tướng, các phó thủ tướng, các vị bộ trưởng bị đưa ra cho Quốc hội đánh giá.

Lo ngại

“Băn khoăn của tôi cũng như dư luận xã hội là làm sao cho kết quả cuối cùng chính xác đúng lòng dân và đúng thực tế,” ông nói.

“Nếu hiệu ứng cuối cùng không tác động đến dư luận xã hội và người dân không đồng thuận thì đó là thử thách lớn nhất của Quốc hội,” ông nói thêm.

Ông đưa ra dẫn chứng là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng lấy ý kiến tín nhiệm nhưng kết quả cuối cùng là ‘hòa cả làng chả giải quyết được gì cả’.

Khi được hỏi về lo lắng của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng qua những phát biểu mới đây về sự ‘công tâm, khách quan’ của các đại biểu Quốc hội qua lá phiếu tín nhiệm của mình, đại biểu Quốc cho rằng quan ngại này là ‘có cơ sở’.

“Quan hệ xã hội là hiện thực xã hội mà chúng ta không thể không thừa nhậ̣n. Tập tính con người Việt Nam là cả nể lẫn nhau, cảm tính là chủ yếu,” ông giải thích một số yếu tố có thể làm kết quả lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm bị sai lệch.

Dương Trung QuốcĐại biểu Dương Trung Quốc bày tỏ quan ngại về kết quả lấy phiếu tín nhiệm sắp tới

“Ngay cả những quan hệ xã hội gắn liền với lợi ích cũng sẽ chi phối phần nào (lá phiếu),” ông nói thêm và cho biết Quốc hội cũng đã có tính đến việc ‘chạy phiếu’.

Trong buổi tiếp xúc với cử tri Hà Nội hôm 13/5 ngay sau khi Trung ương Đảng vừa bầu bổ sung Bộ Chính trị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cảnh báo: “Có khi người tốt bị loại, anh cơ hội lại có phiếu cao. Trong thời buổi kinh tế thị trường này, điều đó cần hết sức quan tâm để làm sao thực hiện lấy phiếu cho chính xác.”

Ngay sau đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng bày tỏ quan ngại các đại biểu Quốc hội có thực sự ‘công tâm, khách quan’ với lá phiếu của mình hay không.

‘Thiếu giám sát của dân’

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên, theo ông Dương Trung Quốc, là trong cơ chế hiện nay các đại biểu Quốc hội ‘không chịu sự giám sát trực tiếp của cử tri bầu ra mình’.

Đại biểu Quốc đề xuất ‘phải công khai ai bầu cho ai thì người dân mới biết đại biểu mình bầu ra có làm hợp với ý mình hay không’.

“Nếu chỉ nhấn nút trong hệ thống điện tử thì tính công khai rất bị hạn chế,” ông nói.

Ông giải thích rằng mặc dù việc bỏ phiếu kín có thể đảm bảo khách quan khi đối tượng bị bỏ phiếu không biết ai đã bất tín nhiệm mình nhưng điều bất lợi là người dân không giám sát được hành vi bỏ phiếu của vị đại biểu đại diện cho họ.

Ông cho biết đến giờ các đại biểu Quốc hội đã nhận được văn bản từ các chức danh sẽ được đưa ra đánh giá tín nhiệm. Tuy nhiên, chỉ với thông tin như thế sẽ ‘không hoàn toàn đầy đủ’, ông nói.

“Qua cảm tính cũng không chính xác,” ông nói thêm.

“Đánh giá một con người cũng không phải đơn giản. Anh phải có đầy đủ thông tin và có quan điểm cá nhân.”

Thống đốc Nguyễn Văn BìnhThống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình bị nhiều người chỉ trích

“Lần đầu tiên nếu hiệu ứng cuối cùng không tác động đến dư luận xã hội, nếu người dân không đồng thuận thì đó là thử thách lớn nhất của Quốc hội chứ không phải ở các vị bị lấy phiếu,” ông nói.

Lấy phiếu và bỏ phiếu

Theo trình tự đánh giá tín nhiệm đã được Quốc hội thông qua thì công việc này sẽ trải qua hai giai đoạn là ‘lấy phiếu tín nhiệm’ và ‘bỏ phiếu tín nhiệm’.

Lấy phiếu tín nhiệm là đưa ra bàn cân để xem một vị nào đó được tín nhiệm cao hay thấp, còn bỏ phiếu tín nhiệm là quyết định vị đó có còn được tín nhiệm để tiếp tục tại vị hay không.

Khi lấy phiếu tín nhiệm, nếu một vị nào đó bị hơn 2/3 hoặc hơn một nửa số đại biểu Quốc hội đánh giá ‘tín nhiệm thấp’ hai lần liên tiếp, thì vị đó sẽ được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm tại kỳ họp tiếp theo.

Tuy nhiên Quốc hội cũng dự trù người bị lấy phiếu tín nhiệm có mức tín nhiệm quá thấp thì có thể xin từ chức ngay không phải đợi đến bỏ phiếu tín nhiệm.

Quốc hội cũng đã tính đến việc chuẩn bị phương án nhân sự thay thế một khi một chức danh nào đó được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm.

Việc bỏ phiếu tín nhiệm dường như sẽ cho Quốc hội lần đầu tiên có quyền quyết định vấn đề nhân sự lãnh đạo của đất nước vốn lâu nay thuộc quyền quyết định của Đảng mà Quốc hội chỉ có việc gật đầu phê chuẩn.

Trong dư luận rộng rãi có nhiều ý kiến bất mãn với thành tích điều hành kinh tế xã hội của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hoặc của một số nhân vật trong nội các của ông như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình.

Tuy vậy, giới quan sát tin rằng vị thế của Thủ tướng Việt Nam đã vững mạnh hơn sau Hội nghị Trung ương 7 của Đảng Cộng sản hồi đầu tháng.

Một thế giới hậu Hoa Kỳ

Fareed Zakaria – Một thế giới hậu Hoa Kỳ

X-Cafe, 04/17/2010, Lê Quốc Tuấn, X-Cafe chuyển ngữ

http://en.wikipedia.org/wiki/The_Post-American_World

ZakariaFareed-PostAmericanWorld

Lời mở đầu cho ấn bản bìa mềm:

Chiếc xe đua chạy nhanh nhất thế giới

Thời hoàng kim nào cũng đến lúc chung cuộc. Càng hào nhoáng chừng nào, kết cục càng cháy bỏng chừng nấy. Cuộc đổ vỡ năm 2008 là sự xụp đổ tồi tệ nhất của thế giới kể từ năm 1929 và đã dẫn đến sự đình trệ kinh tế thê thảm nhất kể từ cuộc Đại suy thoái đến nay. Tất cả mọi biến chuyển trong năm qua đều không từng có thể tiên liệu được: sự hủy hoại của gần 50 trillion mỹ kim trong các tài sản kinh tế toàn cầu; việc quốc hữu hóa những công ty cho vay nợ nhà lớn nhất Hoa Kỳ; vụ khai phá sản lớn nhất lịch sử (Lehman Brothers); sự biến mất của các ngân hàng đầu tư; những gói kích thích và cứu chuộc quanh thế giới lên đến nhiều trillion dollars. Chúng ta đang sống qua thời đại chắc chhắn sẽ được nhớ lại để nghiên cứu trong nhiều thế hệ sau.

Làm thế nào chúng ta đã đến mức này ? Mỉa mai thay, tôi đã phải rút ra kết luận rằng nguyên nhân chính của cuộc đổ xụp này chính là – sự thành công. Môt phần tư thế kỷ qua đã là một sự tăng trưởng ngoạn mục. Cứ mỗi một thập niên hay tương tự, kích thước kinh tế toàn cầu tăng gấp đôi, từ 32 trillion mỹ kim trong năm 1999 lên đến 62 trillion vào năm 2008, lạm phát liên tục nằm ở mức thấp một cách đáng ngạc nhiên. Sự tăng trưởng kinh tế đã đến tận những khu vực mới. Trong khi các gia đình ở phương Tây dọn vào các ngôi nhà to hơn, mua sắm laptop và điện thoại di động, thì những nông dân đủ ăn ở Á Châu và châu Mỹ La tinh tìm được công ăn việc làm mới trong các thành phố phát triển nhanh. Ngay cả ở Phi châu, dân chúng cũng nhảy vào được thị trường toàn cầu để mua bán sản phẩm của mình. Ở mọi nơi chốn, giá cả hàng hóa đi xuống, trong khi sự thịnh vượng trong các hình thức đầu tư chứng khoán và địa ốc nhảy vọt. Những biểu thị kinh tế vĩ mô sẽ lập tức cho thấy tất cả câu chuyện. Trong năm 2006 và 2007, những năm đánh dấu cao trào của thời hoàng kim, 124 quốc gia – khoảng 2/3 tổng số các nước trên thế giới- đã nhanh chóng phát triển hơn 4 phần trăm hàng năm.

Nguyên nhân gì tạo nên thời đại phát triển toàn cầu ? Như tôi sẽ trình bày chi tiết trong tập sách này, đó chính là sự kết hợp của chính trị, kinh tế và sức mạnh của khoa học kỹ thuật.

Chính trị:

Cái chết của Liên bang xô viết đã dẫn đến một thế hệ tương đối ổn định về chính trị. Trong thời chiến tranh lạnh, đã từng xảy ra hàng chục cuộc chiến tranh dân sự, bạo loạn và các nhóm phiến loạn vũ trang được Liên Xô bảo trợ – và trong hầu hết các trường hợp này, Tây phương cũng đã tài trợ cho các đối tác của mình. Không có cạnh tranh về quyền lực, chiến tranh ít xảy ra hơn và nếu có xảy ra cũng chỉ ở bình diện nhỏ. Cũng có những ngoại lệ, như vụ đụng chạm đẫm máu ở Congo trong những năm 1990 và, dĩ nhiên, chủ nghĩa khủng bố như đã từng gây nên bởi Al Qaeda, nhưng trên tổng thể, thế giới đã tận hưởng được sự ổn định và hòa bình hơn là đã từng có trong suốt thế kỷ. Con số thương vong gây nên bởi các bạo hành chính trị tiếp tục suy giảm.

Kinh tế:

Sự xụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đã khiến thị trường tự do tư bản chủ nghĩa trở thành lối thoát sinh tử duy nhất đề vận hành một nền kinh tế, khiến tạo khích lệ cho các chính phủ ở mọi nơi trở nên một bộ phận của hệ thống kinh tế quốc tế. Các thỏa hiệp mới và các cơ quan như WTO đã hoạt động để giảm bớt các rào cản nhằm hợp nhất thế giới. Các chính phủ từ Việt Nam đến Cam Bốt đều đã nhận thức được rằng họ không thể bỏ lỡ cuộc chạy đua đến thịnh vượng của cả toàn cầu. Các chính phủ này đã theo đuổi các chính sách hợp lý, giảm mức nợ nần và loại bỏ những trợ cấp nâng đỡ phi lý- không phải vì những con người như Bob Rubin hay Hank Paulson cưỡng ép họ phải hành động như thế, mà chính bởi vì họ có thể nhìn ra được những lợi điểm của việc di chuyển vào trong phương hướng ấy (và cái giá phải trả nếu không hành động như thế). Những cải tổ ấy khuyến khích đầu tư quốc tế và tạo nên các công ăn việc làm mới.

Ðồng thời, các ngân hàng trung ương đã học được cách điều khiển và làm dịu nhẹ chu kỳ thương mại, ngăn ngừa được những thay đổi giá cả bất nhất khiến có thể tổn hại đến công ăn việc làm, tài sản tiết kiệm , dẫn đến các bất ổn và cách mạng. Lấy Hoa Kỳ làm một thí dụ: Giữa những năm 1854 và 1919, cứ bốn năm lại xảy ra một lần suy thoái và mỗi lần như thế, sự suy thoái kéo dài đến hai năm tròn. Hai thập niên qua, Hoa Kỳ trải qua được tám năm tăng trưởng liên tục không hề bị gián đoạn bởi các suy thoái, và sự suy sụp, khi suy thoái xảy đến chỉ kéo dài có tám tháng. Thời kỳ ổn định này là thắng lợi của cuộc tấn công dài nhiều thế hệ vào nạn lạm phát. Khởi đầu với Paul Volcker vào những năm đầu 1980,các ngân hàng trung ương phát động cuộc chiến tranh chống lạm phát, xử dụng những công cụ cùn mẻ của chính sách tiền tệ để giữ cho giá cả hàng hóa được ổn định tương đối. Những chiến thuật được mài dũa trong cuộc chiến đấu ấy đã trở thành một trong những món hàng xuất khẩu thành công nhất của Hoa Kỳ. Vào năm 2007, chỉ có hai mươi ba quốc gia có mức lạm phát cao hơn 10 phần trăm, và chỉ một quốc gia – Zimbabwe – phải chịu khốn khổ vì lạm phát siêu.
Kỹ thuật.

Cuộc cách mạng tin học gia tốc thêm cho sự xuất hiện của một nền kinh tế toàn cầu đơn thể. Các chi phí về truyền thông xuống thấp, thông tin có thể truy cập được ở mọi nơi và sự kết hợp trở nên dể dàng hơn. Ðột nhiên, một cửa hàng bán những món hàng thể thao ở Nebraskan có thể có nguồn từ Trung Quốc, bán sang Âu châu, để rồi có sổ sách được thực hiện bởi các kế toán viên ở Bangalore.

Nhưng ảnh hưởng chính của tất cả những thành công này – lạm phát thấp, tăng trưởng toàn cầu, tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật – lại chính là sự ngạo mạn, hay nói một cách kỹ thuật hơn, là cái chết của sự rủi ro. Trong những năm 1990 và 2000 này, những người làm thương mại đã không còn lo lắng về các rủi ro chính trị – các hiểm nguy đến tăng trưởng kinh tế bởi các cú đảo chính, tấn công của khủng bố và các rối loạn xã hội. Tuy nhiên ít có các rủi ro về chính trị. Một sự táo bạo đã đơn giản mang lại một thể chế mới vẫn phải đối diện với các gò bó cũng như các cơ hội của một nền kinh tế toàn cầu. Sự ổn định căn bản của thế giới thời kỳ hậu chiến tranh lạnh đã kéo dài, bất chấp chủ nghĩa khủng bố cùng đôi lúc tai họa.

Chính những người làm thuơng mại ấy đã ít chú ý đến một vấn nạn rất quen thuộc ở cận kề hơn trong nước : rủi ro về kinh tế. Như Alan Greenspan, họ cho rằng sự phát triển của các sản phẩm tài chính phức tạp đã thực sự giảm thiểu được rủi ro bằng cách phân tán ra rộng rãi. Họ đã tin rằng các mức nợ từng có lúc được xem là nguy hiểm hiện đã có thể kiểm soát được căn cứ vào những gì họ tưởng đã thay đổi được các tình huống mãi mãi. Kết quả là, các nhà đầu tư đã dồn tài sản vào loại vốn thông thường được xem là những loại đầu tư nguy hiểm, tất cả cho những hứa hẹn ít ỏi. Trải rộng tín dụng ra- sự khác biệt lợi tức giữa trái phiếu của ngân khố Hoa Kỳ, thường được coi như một loại đầu tư an toàn nhất thế giới, với trái phiếu của những công ty có thành tích giới hạn – đã ở mức thấp kỷ lục. Những quốc gia bất ổn như Ecuador và các công ty bấp bênh như Chrysler có thể vay mượn được rẻ gần như ngang với chính phủ Hoa kỳ (Dĩ nhiên là vào năm 2009, Ecuador đã không trả được nợ và Chrysler đã ngăn ngừa được sự khánh tận chỉ nhờ vào sự cứu chuộc phút chót của chính phủ). Và bởi vì nợ rẻ, những người cho vay nợ và giới chủ nhà đã xử dụng quá đà, tiêu xài vượt ra ngoài khả năng của họ. Các ngân hàng và những nhà đầu tư vốn cung cấp tất cả các đồng nợ rẻ mạt ấy đã được bảo đảm bởi những két bạc to đùng của những tập đoàn- với các lợi nhuận tăng vọt gấp đôi trong suốt liên tục mười tám quý liền giữa 2002 và 2006- và tỉ lệ khai phá sản xuống thấp dưới mức trung bình. Những ngày nắng đẹp tưởng như không bao giờ có thể chấm dứt.

Kinh tế thế giới đã trở thành tương tự như một chiếc xe đua đắt tiền, ngoại hạng, với khả năng đua ở tốc độ chóng mặt. Vì mọi người đã lái chiếc xe đua này trong thập niên vừa qua và đã cảm nhận được các cao độ cùng tốc độ cuồng loạn như có chích thuốc kích thích adrenaline. Chỉ có một vấn đề duy nhất: đó là hóa ra không một ai biết cách lái một chiếc xe đua như thế này. Trải qua mười năm vừa qua, kinh tế toàn cầu đã trở nên một thứ chưa ai từng nhìn thấy – một hệ thống nối kết của khoảng 125 quốc gia, tất cả đều tham dự và tất cả đều chạy với những tốc độ chưa từng biết đến. Thật như thể là chiếc xe đua ấy được lái bởi 125 tay đua khác nhau- và không một ai kịp nhớ nghĩ đến việc mua các bộ phận giảm shock.

Vấn nạn của Nợ nần

Có những người muốn mua các bộ giảm shock. Họ được xem như những người bi quan tiêu cực trong những năm tháng phát triển. Họ đã đặt câu hỏi tại sao những bộ nợ nhà dưới chuẩn lại có thể được đánh lãi xuất cao như những trái phiếu của hãng General Electric. Nhưng cứ mỗi năm thành công lại chấm dứt với một báo cáo lợi nhuận nổ tung con mắt khác hay ngày lãnh lương bạc tỉ của các nhà quản trị các quỹ đối trọng (hedge funds) cùng những hứa hẹn sửa chữa không được hiện thực hóa khiến những người bi quan tiêu cực trở nên yên lặng hơn. Có một loại đảo ngược lối chọn lọc tự nhiên xảy ra ở Wall Street. Như Boykin Curry, vị giám đốc điều hành ở Eagle Capital đã từng phát biểu, trải qua hai mươi năm qua, “tế bào DNA của gần như tất cả các cơ quan tài chính đã bị biến ảnh (morph) một cách nguy hiểm. Mỗi khi có một ai hối hả tăng thêm lực bẩy tài chính và rủi ro, chỉ vài năm sau đó thực tế lại chứng minh là họ hành động “đúng”. Những con người này được khuyến khích để táo bạo hơn, được thăng chức, và được chi phối đến nhiều tiền bạc hơn. Trong khi ấy, bất cứ ai có quyền mà do dự, hoặc tranh cãi để cẩn thận hơn, đều bị xem là “sai lầm”. Các thành phần cẩn trọng càng tăng phần xấu hổ, phải làm ngơ đi để được tăng thưởng. Họ đã mất đi ảnh hưởng của mình”.
Warren Buffett đã giải thích là trọng tâm của vấn nạn chính ở việc cứ tăng mãi cái lực bẩy tài chính – từ chữ hoa mỹ của Wall Street dùng cho chữ “nợ”. Đó chính là “cách duy nhất khiến một người khôn ngoan phải đi đến phá sản”, Buffett đã nói ” bạn hành động những điều khôn ngoan, hẳn nhiên bạn sẽ giàu có. Nhưng nếu bạn hành xử khôn ngoan và dùng đến loại đòn bẩy tài chính và bạn cứ hành động sai lầm như thế, đòn bẩy tài chính này sẽ triệt tiêu bạn, bởi vì bất cứ điều gì nhân với con số không chỉ là số không. Thế nhưng điều này lại được củng cố vững chắc thêm bởi vì chung quanh bạn ai cũng đang thành công, bạn cũng đang hành động thành công, và giống như là cô lọ lem Cinderella ở buổi yến tiệc. Nhìn chàng lúc nào cũng mê mẫn, tiếng nhạc càng hay hơn, càng lúc càng vui hơn, bạn nghĩ “Việc quái gì mà ta phải ra về lúc 12 giờ kém 15 ? ta sẽ về lúc 12 giờ kém hai phút” Thế nhưng khổ nỗi, không hề có cái đồng hồ nào trên tường cả. Và ai cũng nghĩ là mình sẽ ra về vào lúc 12 giờ kém 2 phút “. Một cách tóm tắt, đấy chính là câu chuyện vì sao chúng ta đã đi đến tai họa của năm 2008.

Ở một vài mức độ, nợ nần chính là trọng tâm của tất cả mọi việc. Kể từ những năm 1980, người Mỹ đã tiêu thụ nhiều hơn mức họ làm ra và đã bù vào sự thiếu hụt bằng cách đi vay nợ. Điều này xảy ra trong mọi giai tầng của xã hội. Loại nợ gia đình (household debts) đã tăng nhanh từ 680 tỉ vào năm 1974 đến mức 14 nghìn tỉ vào năm 2008. Gấp đôi chỉ trong vòng 7 năm qua. Hiện nay,một gia đình trung bình có mười ba thẻ tín dụng và $120000 tiền nợ nhà. Tuy nhiên, căn cứ trên một số tiêu chuẩn, các hộ gia đình chính là những đỉnh cao của sự tằn tiện. Các chính trị gia ở mức nhà nước và địa phương bbắt đầu vay mượn vào tương lai để hăm hở mang lại cho cử tri của mình những sân vận động chơi bóng rổ mới và các đường cao tốc mười hai đường chạy mà không phải tăng thuế. Họ ban hành các trái phiếu để chi trả cho các công trình yêu quý của mình, các trái phiếu vốn chỉ dựa vào tiền đánh thuế trong tương lai và tiền trúng xổ số. Thế nhưng ngay các chính khách ấy cũng còn phải xấu hổ vì chính phủ liên bang, ông vua của nợ nần. Vào năm 1990, nợ quốc gia ở mức 3 nghìn tỉ. Đến cuối năm 2008, món nợ này đã lên được cõi mười một con số,vượt quá 10 nghìn tỉ.(Vào lúc tôi viết những dòng này, con số ấy đã đến 11 nghìn tỉ). Chiếc đồng hồ ghi nợ quốc gia nổi tiếng ở thành phố Nữu Ước không còn chỗ để hiển thị tất cả các con số. Chủ nhân của chiếc đồng hồ này sẽ phải lắp đặt một cái đồng hồ mới, to rộng hơn vào năm nay.

Nói một cách khác, Hoa Kỳ đã trở thành một đất nước của những con nợ. Không có gì là sai trái với nợ nần – nếu xử dụng khôn ngoan, các khoản nợ và đòn bẩy tài chính sẽ là những nhịp tim của một nền kinh tế hiện đại – nhưng xử dụng quá mức như thế, nợ nần trở nên kẻ sát nhân. Và cả hai về của phương trình phải đưọc cân bằng – Hoa Kỳ đã không bao giờ có thể đến được vị trí như thế nếu không có những quốc gia sẵn lòng cho vay nợ. Đó là nơi mà – “Cuộc vươn dậy của những kẻ khác” như tôi đặt tên – nhập cuộc, và điều này được biểu tượng tốt nhất từ cuộc vươn dậy của Trung Quốc.

Dù trải qua những năm tháng phát triển mạnh, các hộ gia đình ở Trung Quốc và các tập đoàn đã có khuynh hướng cẩn trọng. Họ bỏ vào ngân hàng một nửa lợi tức kiếm được của mình, luôn luôn sẵn sàng cho một ngày khó khăn. Tính cần kiệm cao độ kết hợp với mức tăng trưởng cao đã đưa đến sự tích lũy của Trung Quốc về những nguồn vốn lớn lao. Nhưng đây không phải chỉ có nguyên nhân từ các đặc điểm của loại văn hoá đức Khổng tử. Chính phủ Trung Quốc đã không hề khuyến khích việc tiêu dùng và cổ vũ cho sự tiết kiệm, một phần là phương cách để giữ mức lạm phát và tiền tệ của họ ở mức thấp – điều đã khiến cho hàng hóa Trung Quốc được rẻ và thu hút giới tiêu thụ Tây phương, các quốc gia như Trung Quốc đã được lên men bởi cơn khủng hoảng Á châu năm 1997, khi các nền kinh tế Á châu thất bại, các ngân hàng Tây phương đến tiếp cứu bằng những điều kiện vay phiền hà. Sau khi hồi sinh, các chính phủ Á châu – và cả các chính phủ khác ngoài Á Châu nữa- quyết định tích lũy trữ lượng của chính mình, để khi xảy ra khó khăn, họ sẽ không phải lệ thuộc vào lòng tốt của người lạ nữa.

Do đó, thay vì mang đồng tiền tiết kiệm tăng nhanh của mình tái đầu tư vào kinh tế nội địa, chính quyền Trung Quốc đã dấu nhẹm đi. Nhưng làm sao chính phủ tích trữ được tiền bạc của mình ? Chính bằng cách mua vào – và vẫn còn tiếp tục mua đến hiện nay – những thứ mà khi ấy được coi là những loại đầu tư an toàn nhất thế giới: các trái phiếu của Ngân khố Hoa kỳ. Thông qua việc tích lũy các khối lượng không lồ của nợ Hoa kỳ, người Trung Quốc đi đến chỗ phụ giúp cho lối tiêu thụ Mỹ – là chính cái tính cách đã gây ra nợ nần. Họ đã tài trợ cho cuộc chè chén chi tiêu của chúng ta và xây dựng lên một kho tích trữ vĩ đại của đồng nợ mỹ kim. Người Trung Quốc đã tiết kiệm quá nhiều, người Mỹ đã tiêu thụ quá tay. Hệ thống như thể được cân đối rồi.

Và không phải chỉ có Trung Quốc mà thôi. Tám thị trường hội nhập quốc gia khác đã tích lũy được một ngân quỹ chiến tranh trị giá hơn 100 tỉ, đa phần là tiền Mỹ kim. Nhưng chỉ riêng Trung Quốc có trong tay hơn 2 trillion dự trữ, hầu hết là tiền Mỹ kim. Tháng 9 vừa qua, Trung Quốc trở thành chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Hoa Kỳ, qua mặt cả Nhật bản, một đất nước lâu nay đã không còn mua vàng bạc của Hoa kỳ ở khối lượng lớn nữa. (Với sở hữu 10 phần trăm của tất cả những trái phiếu kho bạc Mỹ chưa đáo hạn, Trung Quốc gần như một chủ nợ lớn nhất, thế thôi, nhưng Ngân khố hoa kỳ không tính đến giới cho vay trong nước). Trung Quốc hiện nay đang sở hữu các biên lai nợ lớn nhất thế giới, và các biên lai nợ này đều có chữ ký của chú Sam.
Sự tiết kiệm quá mức trên bình diện toàn cầu đã cho thấy cũng là một vấn nạn như sự tiêu dùng quá tay. Nhà kinh tế học Dani Rodrick ở Havard đã ước đoán rằng việc chuyển gởi quá nhiều tiền ra ngoại quốc thay vì đầu tư một cách sinh lợi đã tốn kém Trung Quốc khoảng một phần trăm GDP một năm, hoặc hơn 40 tỉ hàng năm. Việc cho vay của Trung Quốc chính cũng đã là một chương trình kích thích vĩ đại cho Hoa Kỳ. Khiến giữ được mức lãi xuất thấp, khuyến khích người có nhà mượn lại thêm vào nợ nhà, các nhà quản trị quỹ đối trọng nén chặt thêm các loại đòn bẩy tài chính và các ngân hàng đầu tư mầy mò chọc được những bản cân đối kết toán của mình. Nhà bỉnh bút Martin Wolf của tờ Thời báo tài chính đã nói lối cho vay của Trung Quốc tạo ra đồng tiền rẻ mạt và “đồng tiền rẻ tạo nên các cuộc truy hoan trác táng của những sáng tạo tài chính, vay mượn và chi xài”.

“Sẽ không có đường quay về lối làm ăn như trước nữa” Wolf đã viết như thế. Nhưng trong ngắn hạn, dường như chúng ta đi đến hơn cả nguyên trạng ấy. Không lâu trước khi nhậm chức, Tổng thống Barack Obama đã cảnh báo về viển cảnh của “các khoản nợ hàng trillion mỹ kim cho những năm sắp đến” khi chính phủ của ông tăng thêm tất cả các chi tiêu vào mọi thứ, từ kỹ nghệ xanh đến chăm sóc y tế nhằm thổi nền kinh tế lún sâu của chúng ta lên. Hầu hết các khoản tiền chi dùng ấy đều vay mượn từ Trung Quốc. Người Trung Quốc cũng có những khó khăn kinh tế của chính họ để mà phải vượt qua, và họ đã phải chi 600 tỉ Mỹ kim – một con số vĩ đại tương đương với 15 phần trăm GDP của họ- để chiến đấu với các khó khăn ấy. Kết quả là, chúng ta đang yêu cầu Trung Quốc phải đồng thời tài trợ cho cả hai cuộc bành trướng tiền tệ lớn nhất trong lịch sử con người: của chính họ và của chúng ta. Và quốc gia có tất cả các sáng kiến để tiếp tục tiêu xài lu bù các trái phiếu kho bạc của mình. Không thế thì các xuất khẩu của Trung Hoa sẽ khốn đốn, và các tỉ số gia tăng cao ngạo của họ sẽ tụt xuống đất đen.

Tuy nhiên, người Trung Quốc có các lựa chọn. Kinh tế gia từng đoạt giải Nobel Joseph Stigliz đã giải thích rằng “Họ chắc chắn sẽ giữ cho giới tiêu thụ ở Hoa kỳ tiếp tục như thế, nhưng nếu rõ ràng là điều ấy không mang lại kết quả, họ sẽ có kế hoạch B”. Kế hoạch B sẽ là sự tập chú vào việc thúc đẩy tiêu thụ ở Trung Hoa thông qua các chi dùng của chính phủ và tăng thêm tín dụng cho nhân dân mình. Như sử gia Niall Ferguson đã viết ” câu hỏi lớn nhất của ngày hôm nay là phải chăng Hoa-Mỹ (Trung Quốc và Mỹ) đi chung đường với nhau hay chia ra hai ngả riêng vì cơn khủng hoảng này. Nếu đi chung đường, chúng ta sẽ tìm ra được một lối mòn đi ra khỏi cánh rừng. Nếu họ chia tay, chúng ta sẽ phải chào tạm biệt với toàn cầu hóa”.

Kịch bản tốt nhất sẽ là Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng hợp tác với nhau để từ từ tháo gỡ cái kết ước cùng tự sát của họ. Trung Quốc sẽ hưởng lợi được từ việc có thêm nhiều tiền để tái đầu tư vào kinh tế nội địa của họ. Hoa Kỳ sẽ hưởng lợi được từ sự bắt buộc phải tiến hành những quyết định mạnh mẽ hơn để cuối cùng sẽ trở nên khá hơn. Tối thiểu từ những năm 1980, người Mỹ đã từng nhận ra rằng mình có thể tiêu xài buông thả, cứ khất lần việc trả nợ cho đến vô hạn. Điều này đã không tốt đẹp gì cho chính sách đối ngoại và đối nội của họ. Điều ấy đã khiến cho Hoa Thịnh Đốn trở nên ngạo mạn, lười biếng và cẩu thả. Nhưng những chuyến tàu miễn phí đang đi đến kết thúc rồi.

Chạy đua đến một Thế giới Hậu-Hoa Kỳ

Mặc dù kích thước của cuộc khủng hoảng tài chính này vượt khỏi bất cứ điều gì trong ký ức gần đây nhưng không phải là nó chưa từng xảy ra. Lịch sử của chủ nghĩa tư bản đầy ắp những ảo tưởng, hoảng loạn, các cơ chế tài chính đổ vỡ và các suy thoái. Người Đức đã từng mất trí vì hoa tulip vào những năm 1600, chứng điên loạn đường sắt đã tấn công Đế quốc Anh vào những năm 1840. Ngay chỉ mới gần đây vài thập niên, đã từng có những thảm hoạ về tài chính ở Mexico, Argentina, Brazil và hầu như ở mọi thành phố của các quốc gia châu Mỹ Latinh. Nga và các nước vệ tinh của họ trước đây đã bị khánh tận vào những năm 1990 và con bệnh đã lây lan đến các nước Á châu cho đến cuối thập kỷ ấy. Cú đổ xụp năm 1998 của Long-Term Capital management, một trong những quỹ đối trọng lớn nhất thế giới, đã quá muộn phiền đến mức Quỹ dự trữ liên bang đã phải tổ chức một cuộc cứu chuộc (bailout) để giữ cho hệ thống tài chính không bị sụp đổ.

Cơn khủng hoảng của năm 2008 thì khác chính xác ở chỗ nó không bắt nguồn từ một số vũng tù ở các nước đang phát triển; nó đã xuất hiện ngay từ Hoa Kỳ, tâm điểm của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, và tiến triển qua các huyết mạch của nền tài chính quốc tế. Bất chấp ý kiến của một số bậc uyên thâm, cuộc khủng hoảng này đã không hề báo hiệu chung cuộc cho chủ nghĩa tư bản. Nhưng chắc chắn nó đã là sự kết thúc của một số loại thống trị kinh tế toàn cầu đối với Hoa kỳ. Cuộc đột biến kinh tế hiện nay sẽ chỉ thúc đẩy sự chuyển dịch đến một thế giới Hậu-Hoa kỳ. Nếu cuộc chiến tranh ở Iraq và chính sách ngoại giao của George W. Bush có được hậu quả vô hiệu hoá tính hợp pháp của sức mạnh chính trị quân sự của Hoa kỳ trong cái nhìn của thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính có được hậu quả của sự vô hiệu hóa sức mạnh kinh tế của Mỹ.

Bất kể ai nghĩ gì về chính sách ngoại giao của Hoa kỳ, tất cả đều phải đồng ý rằng Hoa Kỳ là một nền kinh tế có hiệu quả, khôn ngoan và hiện đại nhất thế giới- với những thị trường vốn đầu tư tiến bộ nhất. Kết quả là, Hoa kỳ giữ được quyền bá chủ không chỉ bằng sức mạnh quân sự mà còn trong cõi lớn của các ý tưởng. Các chủ ngân hàng trung ương và các viên chức tài chính trên khắp thế giới đều đã học hỏi những căn bản cho nghề nghiệp của họ từ các trường sở của Mỹ. Các chính khách phát triển kinh tế của họ từ việc bắt chước theo các lời khuyên vốn được dẫn giải trong Đồng thuận Washington (Wasington Consensus). Những sáng kiến ở thung lũng Silicon từng là niềm ganh tỵ của cả thế giới. Các thị trường sâu sắc, sinh lợi của Nữu Ước đã được tán thưởng và bắt chước trên khắp các châu lục chỉ trừ châu băng đảo.

Như Brad Setser, một thành viên của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại đã nhận xét, cuộc toàn cầu hóa sau Đệ nhị thế chiến gần như đồng nghĩa với cuộc Mỹ hóa. Ông viết “Những người ngoại quốc đi vay tìm cách gây quỹ có khuynh hướng phát hành các trái phiếu có tên gọi bằng Mỹ kim, xử dụng luật lệ của New York, và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của Uỷ Hội Trao đổi chứng khóan (Securities and Exchange Commission) để công báo”. Các định chế và mẫu mực của Mỹ đã được thu hút hơn chính từ thành công về kinh tế của quốc gia.

Sự xụp đổ của Wall Street sẽ ăn mòn đáng kể vào di sản thành công ấy. Kinh tế Mỹ sẽ teo lại hoặc đình trệ trong năm 2009, và sẽ phát triển một cách có tiềm năng chầm chậm trong những năm sau đó, nặng nề bởi nợ nần. Hầu hết Âu châu cũng sẽ ở trong tình trạng tương tự. Hoạt động kinh tế ở mọi nơi, một cách tự nhiên, sẽ bị ảnh hưởng bởi cuộc xụp đổ của thế giới thượng hạng này.Thị trường chứng khoán khắp nơi sẽ xụp đổ và tài chính sẽ trở nên hoàn toàn toàn cầu hóa. Nhưng các nền kinh tế căn bản của những thị trường lớn – Trung Hoa, Ấn độ và Ba tây – hiện đủ lớn để có thể có được hoạt động kinh tế của chính mình (nhu cầu nội địa) khiến không phải lệ thuộc vào các xuất khẩu qua Tây phương. Kết quả là, Quỹ Tiền tệ quóc tế ước lượng 100 phần trăm phát triển của toàn cầu trong năm 2009 sẽ đến từ các thị trường mới nổi. Trong khi các thị trường tài chính của những đất nước này bị buộc chặt với các thị trường tài chính của Hoa Kỳ, các nền kinh tế thực sự của họ, lần đầu tiên trong lịch sử, đang đạt được những độc lập tính từ những thị trường này. Goldman Sachs thoạt tiên đã dự án là GDP gộp lại của 4 nước BRIC – Ba Tây, Nga, Ấn độ, Trung quốc – có thể vượt khỏi tổng số GDP gộp lại của các nước G7 vào năm 2035. Vào những ngày này, họ cho rằng điều ấy có thể xảy ra vào năm 2027. Cuộc suy thoái toàn cầu hiện nay làm tạo thêm nhiều niềm tự tin chứ không ít đi.
Nói cho cùng, quyền lực toàn cầu vượt khỏi các ý tưởng, các chương trình làm việc và các khuôn mẫu. Sự phát hiện mà từ đó phần lớn các chương trình đổi mới đã xảy ra trong thập kỷ qua đã tạo nên một loại nhà giấy (house of cards) ăn mòn quyền lực Mỹ. Kể từ nay, rao bán các ý tưởng Mỹ đến các phần còn lại của thế giới sẽ phải cần đến nhiều nỗ lực hơn. Các nước đang phát triển sẽ lựa chọn những chính sách kinh tế nào khiến phát triển được lòng tin và thích hợp với mình nhất. “Hệ thống kinh tế Hoa Kỳ được xem như một mẫu mực và chúng tôi cố gắng hết sức mình để bắt chước bất cứ phần nào chúng tôi có thể bắt chước được” Yu Yongding, một cựu tham vấn cho ngân hàng trung ương Trung Quốc đã phát biểu như thế vào cuối tháng 9 năm 2008. “Đột nhiên, chúng tôi nhận thấy người thầy của chúng tôi không phải là xuất sắc như thế nữa, cho nên lần sau khi thiết kế hệ thống tài chính của mình chúng tôi sẽ xử dụng đến trí tuệ của chính chúng tôi nhiều hơn”.

Sự vùng dậy của phần còn lại, ở trọng tâm là một hiện tượng kinh tế nhưng sự chuyển dịch chúng ta đang chứng kiến không phải chỉ là các vấn đề thuộc tiền tệ. Chuyển dịch này có cả các hậu quả của chính trị, quân sự và văn hóa nữa. Khi các quốc gia trở nên giàu và mạnh hơn, và khi Hoa Kỳ phải đấu tranh để dành lại niềm tin của cả thế giới, ắt chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều thử thách và những quyết đoán lớn lao hơn từ những quốc gia đang vươn dậy. Trong một tháng mùa hè vừa qua, Ấn độ đã sẵn lòng thách thức trực diện Hoa kỳ ở các cuộc đàm phán thương mại tại Doha, Nga tấn công và chiếm đóng một số phần lãnh thổ của Georgia và Trung quốc đã tổ chức Olympic với một chương trình biể diễn ngoạn mục hoành tráng nhất lịch sử (với chi phí hơn 40 tỉ). Mười năm trước, không một quốc gia nào trong số ba nước này có đủ sức mạnh và niềm tự tin để hành động như họ đã làm. Cho dù tỉ số tăng trưởng của họ xuống thấp và chắc chắn sẽ phải xuống thấp như thế, những quốc gia này cũng sẽ không buông bỏ những vai trò mới của họ trong hệ thống toàn cầu.
Hãy thử xem xét một số ví dụ. Trải qua thập kỷ vừa rồi, Hoa kỳ đã bành trướng ảnh hưởng của mình vào khu vực từng là của Nga trong nhiều thế kỷ. Sự thống trị của Hoa Kỳ trong thời đại hậu-chiến tranh lạnh, Moscow đã đồng ý. Họ cần tiền và hậu thuẫn của Washington. Nhưng vào năm 2008 Nga đã là một quyền lực được tái sinh. Giữa tháng hai năm 2009, nước cộng hòa Kyrgyz hoàn tất quyết định của họ để đóng cửa căn cứ hàng không Manas, một căn cứ được Hoa kỳ cung cấp để đem lại các hỗ trợ hàng không chủ yếu cho các chiến dịch của họ tại Afghanistan, vốn đã trở nên đặc biệt quan trọng sau khi đóng cửa một căn cứ hàng không khác ở Uzbekistan vào năm 2005. Động cơ thúc đẩy chính là đồng tiền. Hoa kỳ đã chi 55 triệu mỹ kim mỗi năm để thuê căn cứ này và cho thấy ý định sẵn sàng trả đến 100 triệu/năm. Chính phủ Nga chống lại một cách không thân thiện ý tưởng của một căn cứ quân sự Mỹ bán thường trực hiện diện trong sân sau nhà của mình, đã chào mời một kế hoạch viện trợ trị giá 2.3 tỉ mỹ kim khiến làm rúm ró hỗ trợ tài chính của Mỹ , bao gồm cả 180 triệu mỹ kim tiền xóa nợ, 150 triệu tiền viện trợ và 2 tỉ tiền nợ để hoàn tất công trình xây dựng trạm thủy điện. Công trình năng lượng là một công trình liên doanh và sẽ nâng công suất điện lực của Cộng Hoà Kyrgyz lên 40 phần trăm, có thể nâng khả năng xuất khẩu năng lượng của quốc gia này đến mức tối đa. Cho dù giá dầu có xuống đến 40 mỹ kim một thùng, Nga vẫn ở trong vị trí có thể theo đuổi một chính sách ngoại giao độc lập hơn.

Ngay cả đồng minh mới của Mỹ là Ấn độ cũng duy trì tính độc lập của mình với Hoa Kỳ. Thủ đô Tân Đề ly cảm kích Washington về các hỗ trợ của họ trong việc hợp pháp hoá Ấn độ như là một đất nước có năng lực nguyên tử bình thường, nhưng Ấn độ vẫn chống lại các vấn đề về an ninh. Mặc cho sức ép của Hoa Kỳ, Ấn độ cứ đơn giản không xem Iran như một mối đe dọa như Hoa Kỳ quan niệm. Ấn độ đã một lần đồng ý ủng hộ Hoa kỳ tại Ủy ban Quốc Tế về Năng lượng Nguyên tử nhưng vẫn tiếp tục có những quan hệ tăng cường với Iran, kể cả việc cùng tham gia tập trận trên vùng biển. Ấn độ xem Iran như một đối tác thương mại mới và từ chối việc cô lập Iran trong bất cứ hình thức nào. Vào tháng Tư 2008, các phi công của Tổng thống Mahmoud Ahmadinejad yêu cầu được dừng lại ở thủ đô Tân Đề Li để tiếp nhiên liệu khi lãnh tụ Iran trở về nước sau chuyến viếng thăm Tích Lan. Ngay lập tức, chính phủ Ấn độ đã đề xuất một lời mời chính thức và biến chuyến tạm dừng 6 giờ đồng hồ này trở thành một cuộc thăm viếng cấp quốc gia.

Tình trạng hiện tại của IMF và Ngân hàng thế giới cũng đem lại một bài học hữu ích. Các cơ quan chức năng này, thống trị bởi tiền bạc vàý tưởng của Mỹ, lâu nay từng được xem như những công cụ chuyên chở ảnh hưởng Mỹ. Ngày nay, Setser đã viết rằng “các nền kinh tế mới nổi lên như Trung quốc, Nga, Ấn độ, Saudi Arabia, Korea và ngay cả Brazil cũng không cần đến IMF; họ còn không ngừng trở thành một vai trò cạnh tranh với IMF. Saudi Arabia đã là hậu ứng cho Lebanon. Venezuela đã giúp Argentina trả lại nợ cho IMF. Trung quốc đã phát triển tài chính như một lựa chọn khác thay vì vay mượn ở Ngân hàng thế giới”.

Để có được một thí dụ rõ ràng hơn chỉ riêng về việc các thay đổi đã liên kết sâu sắc như thế nào với sự nổi dậy của phần còn lại, hãy đọc lại các tin tức báo chí về Hội nghị G20 ở Washington DC. tháng 11 năm 2008, tất cả các cuộc khủng hoảng tài chính trước đây đã từng được giải quyết bởi Ngân hàng thế giới hay khối G7 (và sau đó là khối G8). Trong những cuộc khủng hoảng trước đây, phương Tây đóng phần vai người thầy nghiêm nghị quở trách một lớp học ương ngạnh. Những bài học họ truyền đạt giờ đây dường như không còn giá trị. Hãy nhớ lại rằng trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính ở Á châu, Hoa kỳ và các nước Tây phương khác đã đòi hỏi Á châu phải thực hiện ba bước – phải để những ngân hàng tồi thất bại, phải giữ các chi tiêu trong kế hoạch và phải giữ lãi suất tiền lời cao. Trong cuộc khủng hoảng của chính mình, Tây phương đã thực hiện đúng chiều ngược lại của cả ba mặt ấy.

Trong bất cứ biến chuyển nào, cuộc khủng hoảng này là một loại mà phương Tây đã không thể tự mình giải quyết được. Để đạt được giải pháp có hiệu quả trong một nền kinh tế toàn cầu liên kết chặt chẽ, tất cả các tay chơi chủ yếu của thế giới – bao gồm cả những nền kinh tế nổi bật nhất – cần phải tham dự. Để cung ứng tiền mặt, những quốc gia như Trung quốc và Saudi Arabia rất quan trọng. Còn đối với sự chính danh, các câu lạc bộ Âu châu xưa cũ đã già cỗi, là những thánh tích của một thế giới đã qua và đã không còn chào bán được một giải pháp toàn cầu nào cho chính mình. Khi cuộc khủng hoảng trở nên rõ nét, ngay cả Hoa Kỳ cũng không còn có thể hành động độc lập. Do đó, lần đầu tiên một cuộc họp của tất cả đầu não các nước G20 – nghĩa là các nước G8 cộng với các quốc gia chính yếu vừa nổi dậy – đã được triệu tập.
Dĩ nhiên không phải mọithứ đều thay đổi cả. Hội nghị G20 vẫn phải được tổ chức ở Washington, và tổng thống George W. Bush vẫn đóng vai trò chính trong việc khai triển chương trình làm việc. Đó là một thế giới mới nhưng không cần thiết phải là một thế giới mà Mỹ phải bị loại trừ.Thực tế, Mỹ vẫn còn là quốc gia quan trọng bậc nhất trên toàn cầu, một quốc gia có khả năng thi hành ảnh hưởng trong tất cả các cõi và trên tất cả các lục địa trong phương cách mà không một thế lực nào khác có thể làm được. Mỹ vẫn còn là “siêu quyền lực mặc nhiên”, trong ngôn từ của nhà văn Đức Josef Joffe. Nhưng hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mà hành động chung không phải chỉ là một ước muốn mà chính là vì sự sống còn.

Tất cả cùng liên kết lại với nhau

Hợp tác quốc tế là một con vật lắt léo. Dù có quyết tâm cũng chẳng có được một lối đi rõ ràng. Afghanistan là mẫu mực cho một loại chương trình hợp tác quốc tế thành công – tối thiểu là trên lý thuyết. Cuộc xâm chiếm ban đầu có được sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế. Nỗ lực quân sự, hiện nay đã trải qua hơn 7 năm, bao gồm Anh quốc, Canada, Poland – ngay cả Pháp quốc. Ngân hàng thế giới, USAID và các chính phủ quốc tê đã đóng góp nhiều tỉ mỹ kim để tái thiết cấu trúc hạ tầng. Thế nhưng cuộc chiến ở đấy vẫn gần như thất bại. Chính phủ Hamid Karzai chỉ điều khiển được ít hơn một phần ba đất nước. Bên ngoài Kabul, các lãnh chúa là những cội nguồn thế lực chính. Dù đã suy yếu nhưng Taliban vẫn còn đó khả năng phục hồi đáng lo ngại. Nha phiến trở thành nguồn xuất khẩu chính của đất nước. và hầu hết các quốc gia – từ các biên giới lân cận như Pakistan đến các đối tác Tây phương như Đức quốc – đang nôn nóng muốn rút lại những hứa hẹn của họ hơn là hoàn tất chúng. Chủ nghĩa quốc gia thu hẹp lấn át chủ nghĩa quốc tế sáng suốt quá đỗi thường xuyên.

Nhưng bài học từ Afghanistan cho thấy rằng chủ nghĩa đa phương không phải lúc nào cũng dễ dàng và có hiệu quả. Nhưng nỗ lực ở Afghanistan đã khốn đốn vì sự thiếu lưu tâm – chính quyền của Bush đã quá bận rộn việc chào bán và gây chiến ở Iraq – và vẫn có thể cứu chữa được. Bên cạnh đó, các vấn nạn của ngày nay đòi hỏi một giải pháp đa phương dù một giải pháp như thế hết sức khó để mà đạt đến. Thử xem xét đến hầu như bất cứ vấn nạn trầm kha nào ngày nay chúng ta đang phải đối đầu; đa phần đều cho thấy vấn nạn ấy có liên quan đến nhiều hơn là một quốc gia. Chủ nghĩa khủng bố, lây nhiễm tài chính, bệnh tật, năng lượng, an ninh – tất cả đều thử thách đến các giải pháp hợp tác, và trong một số trường hợp cần đến các định chế để thực hiện.

Đơn cử thí dụ như một cơn bệnh lây nhiễm chẳng hạn. Ngày nay, một khi bệnh bùng phát ra, chắc chắn sẽ lây lan nhanh và rộng khắp. Có nghĩa là tất cả chúng ta đều có một thúc đẩy phải xác định được bản chất của căn bệnh càng nhanh càng tốt, cô lập các nạn nhân lại và hành động để tìm ra cách chữa trị. Lý tưởng là, Tổ chức Y Tế quốc tế nhập cuộc, yêu cầu gởi ngay đến họ các mẫu virus, thực hiện các phân tích rõ ràng và đề ra các biện pháp để tuân thủ. Không may thay, Tổ chức y Tế Quốc tế thì thiếu hụt ngân sách và nhân lực, lại không đủ thẩm quyền để có thể làm ra các luật lệ để mọi người phải tuân thủ. Trung Quốc đã từng dấu kín cơn bệnh cúm gia cầm trong lãnh thổ của mình nhiều tuần lễ trước khi thế giới phát hiện ra. Có lúc, Indonesia từng thoái thác không giao nộp các mẫu bệnh cúm vì họ lo lắng rằng các mẫu ấy sẽ được dùng để chế tạo ra các loại chủng ngừa đắt tiền khiến đất nước này không kham nổi.

Đây là loại thế giới đang đối đầu với tổng thống Barack Obama: một thế giới bát nháo và hay sinh sự với rất ít câu trả lời dể dàng. Nhưng dù cho tất cả những vấn nạn này, thế giới này vẫn là một thế giới rõ ràng yên bình. Xảy ra chiến tranh giữa những quyền lực lớn là không thể nghĩ đến được. Căn cứ vào một số yếu tố, chẳng hạn như số dân sự thương vong, chúng ta quả đang sống trong những ngày tháng hòa bình chưa từng có. Và Al Qaeda, mối đe dọa đầu tiên của thế kỷ hai mươi mốt, đã rụng hết răng và chuyển vào thế phòng thủ trong khi người Hồi giáo trên thế giới đã bị đánh bại bởi sự tuyên dương cho bạo lực và sẵn sàng giết hại thường dân, ngay cả khi những thường dân ấy là người Hồi giáo của họ. Việc bầu cho Barak Obama, một người Mỹ đa chủng, từng đi khắp thế giới, có cha là người theo Hồi giáo, mang tên lót là Hussein, đã thực khiến cho những nhóm khủng bố phải kinh ngạc.Trong một đoạn phim video gần đây, các lãnh tụ của chúng đã phải dùng đến phương sách công kích cá nhân một cách vô tích sự vào vị tân tổng thống, gọi ông là một “tên mọi đen giữ nhà”. Mối lo ngại của chúng có thể hiểu được: Việc bầu Obama làm tổng thống là biểu trưng của niềm hy vọng cho thế giới và là một đe dọa đến loại tư tưởng gieo hận thù của Al Qaeda.

Dĩ nhiên, cũng có loại mối lo xưa cũ rằng trong giai đoạn chuyển biến, nền hòa bình có thể bị đổ xụp. Kể từ khi Thucydides đã từng nhận định rằng cuộc chuyển quyền từ Sparta đến Athens là nguyên nhân chính yếu của chiến tranh Pelopnnesan, các học giả đã chứng kiến những thời điểm ấy với sự am hiểu. Nhưng lần này, nếu được sắp đặt một cách đúng đắn, cuộc nổi dậy của phần còn lại không cần phải làm cho mất ổn định. Mỹ sẽ không chìm đắm nhanh, sẽ không phải được thay thế bằng một quốc gia khác. Trong một ý nghĩa sâu sắc, mọi người đang ở cùng nhau trong cuộc khủng hoảng này. Các quốc gia khác có thể đóng các vai trò ổn định chính yếu. Và không phải chỉ ở lãnh vực kinh tế. Trong cuộc xung đột giữa Nga và Georgia, chính tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy thân hành đến Moscow chứ không phải Bush. Khi Israel và Syria bước vào bàn thương thảo trong mùa hè vừa qua, chính Turkey đã là người môi giới hòa bình chứ không phải Washington. Và khi các bè phái người Lebanon lại xông vào nhau bằng súng đạn vào bạo lực, người duy nhất có thể mang họ trở lại bàn thương thảo là Shiekh của Qatar. Không một trường hợp nào trong số này có mặt Hoa Kỳ. Điều này không thể nghĩ đến được trong mười năm trước. Ngày nay điều ấy là phổ biến. Dù cho một thế giới tích cực hơn cũng có nghĩa là nhiều đối kháng và mị dân hơn, thế giới ấy cũng có nghĩa là nhiều nhà thương thuyết và các lãnh tụ khu vực hơn với một nguyên tắc để giữ gìn nền hoà bình. Nếu niềm thôi thúc ấy có thể tổ chức và khuyến khích được, thế giới sẽ là một nơi chốn tốt đẹp hơn cho niềm thôi thúc ấy.

Hầu hết các thế lực chính cùng chia xẻ chung với Hoa kỳ những lý tưởng và quyền lợi căn bản. Những khích lệ từ chia xẻ ấy giữ cho thế giới di chuyển trong chiều hướng đi đến ổn định hơn và thịnh vượng hơn. Những hiểm nguy thực sự vẫn còn đó khi Washington đi những quân bài thấp, khiến tạo ra bất ổn và hỗn loạn, hoặc ra bài quá tay, đưa các quốc gia khác đến sự oán giận và đi theo con đường riêng của mình. Sự khôn khéo của sức mạnh quân sự và chính trị của Hoa Kỳ vẫn duy trì một nhiệm vụ duy nhất hết sức quan trọng cho ổn định của toàn cầu. Hoa Kỳ phải mang lại được các luật chơi, các định chế và dịch vụ nhằm giúp giải quyết các vấn nạn chính của thế giới, trong khi trao cho các nước khác-chủ yếu là những quyền lực mới nổi- một vai trò trong hệ thống.

Trong những thập niên gần đây, Hoa Kỳ đã không mang lại lối lãnh đạo này. Tuy nhiên ngay cả Paris, London, Moscow, Beijing hay New Delhi cũng không. Âu châu đã từng do dự khi chuyển nhượng quyền lực cho IMF và các hội nghị khác, và nhiều quốc gia có thị trường mới nổi đã canh giữ chủ quyền của mình một cách ganh tỵ như thể Hoa Kỳ, có khi còn ganh tỵ hơn cả Hoa kỳ nữa. Ai là đối tượng để chê trách, trừ khi chúng ta tìm ra các phương cách để mở rộng và tăng cường các lề luật và định chế cho sự hợp tác toàn cầu – về kinh tế, năng lượng, thay đổi khí hậu, bệnh tật, ma túy, nhập cư và hàng loạt các vấn đề khác – thế giới sẽ phải trải qua nhiều khủng hoảng và các giải pháp của chính phủ sẽ là khinh suất và đặc biệt sẽ : quá ít, quá trễ. Chúng ta không thể ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện tại với sức lực thực sự trừ khi các quốc gia chính trên thế giới cùng hợp tác với nhau trên một bình diện vĩ đại và bền bỉ.

Mặt khác, nếu chúng ta cùng đến với nhau và làm việc cho những vấn nạn chung của nhân loại, hãy tưởng tượng đến các cơ hội mở ra cho bao người. Thử tưởng tượng nếu chúng ta tạo nên các luật chơi mới, mở ra được một con đường cho phép tiến trình toàn cầu hóa tuyệt vời này phát triển bền bỉ và tỏa rộng đến mọi tầng lớp của xã hội, nâng cao các chuẩn mực của đời sống và sức khỏe cho kẻ nghèo khó nhất trong những người nghèo, cho phép nhiều người và nhiều người nữa phát triển được tiềm năng của mình.

Nếu chúng ta thực sự cộng tác với nhau và bỏ cuộc khủng hoảng này vào quá khứ, các cơ hội sẽ là vô tận. Kinh tế thế giới mang đến được lời hứa hẹn một đời sống tử tế cho mọi người ở mọi nơi chốn. Truyền thông cho phép chúng ta biết đến và học hỏi được ở lẫn nhau như chưa từng bao giờ có đưọc trong quá khứ. Các phối hợp chính trị sẽ có thể thuần hóa được những ngọn lửa cạnh tranh của các quyền lực lớn. Hàng ngày, con người đang thực hiện những điều tuyệt diệu ở mọi nơi chốn trên thế giới. Bây giờ, đã đến lúc để các chính phủ của họ phải đáp ứng điều phi thường này của nhân loại bằng những phát kiến của mình để tạo nên được những hình thái mới của sự hợp tác. Thử thách lớn nhất của Barack Obama và thế hệ lãnh đạo này là sáng tạo được một hệ thống quan hệ quốc tế mới, một hệ thống có thể mang lại sự hợp tác toàn cầu xác thực và có hiệu quả về những vấn đề chung lớn lao đang muộn phiền tất cả chúng ta. Đây là kế hoạch lớn nhất của thế kỷ hai mươi mốt : Một kiến trúc mới bảo đảm được hòa bình, phát triển và tự do cho toàn thế giới.

Phỏng vấn TS. Vũ Tường về nhân sự mới ở Bộ chính trị

Kính Hòa, phóng viên RFA, 2013-05-20

 Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ In trang này05202013-nhansubochinhtri-kinhhoa.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
000_Hkg8602373-305.jpg

Thành phần lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trước khai mạc kỳ họp Quốc Hội tại Hà Nội ngày 20 tháng 5 năm 2013. AFP photo

Bộ chính trị đảng cộng sản Việt nam có nhân sự mới sau hội nghị trung ương lần thứ 7. Kính Hòa phỏng vấn Tiến sĩ Vũ Tường, Khoa chính trị học, Đại học Oregan, Hoa Kỳ.

Kính Hòa: Chào Tiến sĩ Vũ Tường, nhân có sự thay đổi của Bộ chính trị của Đảng Cộng sản Việt nam, Tiến sĩ có nhận định gì về sự thay đổi này hay không?

Tiến sĩ Vũ Tường: Tôi không có nhận định gì nhiều, tin tức vẫn ít ỏi. Theo tôi thì cũng không có gì quan trọng. Có vẻ phe ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng muốn đưa hai người của họ vào Bộ chính trị là ông Nguyễn Bá Thanh và ông Vương Đình Huệ, nhưng không được, thì coi như là họ thất bại trong việc tăng cường sự kiểm sóat của Đảng đối với chính phủ, đặc biệt là phe ông Nguyễn Tấn Dũng.

Kính Hòa: Theo một nhà quan sát từ Australia là ông Carl Thayer thì nhân vật mới là ông Nguyễn Thiện Nhân được đưa vào để nói chuyện với phương tây dễ dàng hơn.

Tiến sĩ Vũ Tường: Ngày trước khi ông ấy lên làm Phó Thủ tướng hay là khi ông Nguyễn Tấn Dũng lên làm Thủ Tướng, người ta cũng nói thế. Nhưng thực tế chính trị Việt nam nó không như vậy. Ông Nhân thì đúng là có học ở Mỹ, khả năng giao tiếp tốt hơn nhiều, nhưng điều đó không có nghĩa là quan hệ với phương tây sẽ tốt hơn.

Kính Hòa: Thế còn vai trò của bà Nguyễn Thị Kim Ngân, một phụ nữ từ miền nam?

Tiến sĩ Vũ Tường: Bà Ngân là một ẩn số lớn hơn ông Nhân. Cho tới giờ này vẫn không thấy bà ấy có một sự ủng hộ chính trị đặc biệt nào ở các cơ cấu quyền lực của Việt Nam ví như các địa phương, các bộ, quân đội, công an hay các ban đảng. Tôi nghĩ bà ấy có thể thay đổi tình thế trong một cương vị mới ví như ban bí thư chẳng hạn, nhưng chúng ta cần chờ xem.

Kính Hòa: Cũng có ý kiến cho rằng vì bà Ngân từng nắm bộ Thương binh xã hội, nên có quan hệ tốt với các cựu chiến binh, và do đó cần vai trò của bà chăng?

Tiến sĩ Vũ Tường: Tôi thì không nghĩ như vậy, vì bộ đó lớn lắm mà lại không quan trọng, bà chỉ nắm trong thời gian ngắn và cũng chẳng có chính sách gì đặc biệt. Còn cái tôi nói về vai trò của ông Nhân khó thể thay đổi quan hệ với phương tây là vì chúng ta phải chờ xem ông làm chức vụ gì trong thời gian từ đây đến đại hội đảng, Bộ Ngọai giao thì do con ông Nguyễn Cơ Thạch nắm, khó có thể đẩy đi, do đó ông không thể đóng vai trò như ông Phạm Gia Khiêm trước đây được, vừa là phó thủ tướng vừa là bộ trưởng Ngoại giao. Mà ông cũng không có tham vọng, lẫn cơ sở chính trị trong đảng để  nhận một chức vụ quá lớn như Thủ Tướng. Có tin đồn là có thể ông trở lại TP HCM làm bí thư để ông Lê Thanh Hải ra trung ương, nhưng đó chỉ là tin đồn.

Kính Hòa: Bộ ngọai giao quan trọng như vậy nhưng vị bộ trưởng lại không phải ủy viên bộ chính trị.

Tiến sĩ Vũ Tường: Đó là đặc biệt ở Việt Nam, các chính sách ngọai giao lớn đều do Bộ chính trị và ban bí thư quyết định, ngay từ thời ông Lê Duẩn đã vậy. Chỉ có ông Nguyễn Cơ Thạch vào thời kỳ bắt đầu đổi mới thì ông làm nổi lên được Bộ ngọai giao, còn lại thì những nhân vật nắm đường lối ngọai giao là Tổng bí thư hay là trưởng ban đối ngọai trung ương.

Bản án dành cho Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, nếu nhìn cho kỹ, suy cho sâu, chính là bản án dành cho chế độ.
-Nhà báo Vũ Đông Hà

Kính Hòa: Trở lại ý kiến ban đầu là với sự việc ông Nguyễn Bá Thanh không được vào Bộ chính trị, cho nên sự kiểm sóat của đảng đối với chính phủ sẽ yếu đi thì đó là tốt hơn?

Tiến sĩ Vũ Tường: Ông Nguyễn Bá Thanh không vào bộ chính trị thì sự kiểm sóat của đảng đối với bên chính phủ sẽ yếu đi. Tôi cho đó là sự tự nhiên từ khi đổi mới đến giờ, bên chính phủ kiểm sóat nguồn tiền bạc, chi phí và bên đảng ngày càng yếu đi.

Kính Hòa: Câu hỏi cuối là gần đây GS Đòan Viết Họat có nói rằng nếu trong thời gian ba năm tới đảng cộng sản còn muốn tiếp tục lãnh đạo thì họ phải cho phép dân chủ, ít nhất là về mặt hình thức?

Tiến sĩ Vũ Tường: Tôi nghĩ là Đảng cộng sản Việt Nam chưa cho phép dân chủ xảy ra. Điều đó nó nằm ngòai những gì mà chúng ta biết về họ, về lịch sử của họ, và do đó họ sẽ làm mọi cách để không cho điều đó xảy ra.

Kính Hòa: Xin cám ơn anh và chúc anh dồi dào sức khỏe.

‘Lo cho kết quả bỏ phiếu tín nhiệm’

bbc, 20 tháng 5, 2013

Media Player

Trao đổi với BBC trong ngày khai mạc kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa 13 hôm thứ Hai ngày 20/5, ông Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội của tỉnh Đồng Nai nói ông ‘rất lo lắng’ về việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu sẽ được thực hiện trong kỳ họp này.

“Băn khoăn của tôi cũng như dư luận xã hội là làm sao cho kết quả cuối cùng chính xác đúng lòng dân và đúng thực tế,” ông nói, “Nếu hiệu ứng cuối cùng không tác động đến dư luận xã hội và người dân không đồng thuận thì đó là thử thách lớn nhất của Quốc hội.”

Ông đưa ra dẫn chứng là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng lấy ý kiến tín nhiệm nhưng kết quả cuối cùng là ‘hòa cả làng chả giải quyết được gì cả’.

“Quan hệ xã hội là hiện thực xã hội mà chúng ta không thể không thừa nhậ̣n. Tập tính con người Việt Nam là cả nể lẫn nhau, cảm tính là chủ yếu,” ông giải thích một số yếu tố có thể làm kết quả lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm bị sai lệch.

“Ngay cả những quan hệ xã hội gắn liền với lợi ích cũng sẽ chi phối phần nào (lá phiếu),” ông nói thêm và cho biết Quốc hội cũng đã có tính đến việc ‘chạy phiếu’.

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên, theo ông Quốc, là trong cơ chế hiện nay các đại biêủ Quốc hội ‘không chịu sự giám sát trực tiếp của cử tri bầu ra mình’.

Đại biểu Quốc đề xuất ‘phải công khai ai bầu cho ai thì người dân mới biết đại biểu mình bầu ra có làm hợp với ý mình hay không’.

“Nếu chỉ nhấn nút trong hệ thống điện tử thì tính công khai rất bị hạn chế,” ông nói.

Lời Kêu Gọi trả tự do cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha

Lời Kêu Gọi Trả Tự Do cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha

d3f84-nguyenphuonguyen-dinhnguyenkha05-danlambao

Tiếp theo kiến nghị đề ngày 30-10-2012 gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang yêu cầu chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm trả tự do cho Nguyễn Phương Uyên khi mới bị bắt và Lời kêu gọi thực thi quyền con người ngày 25-12-2012, chúng tôi những người ký tên dưới đây rất phẫn nộ trước bản án mà phiên tòa mở ngày 16-5-2013 tại tỉnh Long An đã tuyên đối với Nguyễn Phương Uyên (6 năm tù, 3 năm quản thúc) và Đinh Nguyên Kha (8 năm tù, 3 năm quản thúc). Hai thanh niên yêu nước này bị kết án vì đã chống mưu đồ và hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền nước ta, chống bọn tham nhũng đang phá hoại đất nước, mặc dù họ chỉ dùng những biện pháp ôn hòa phù hợp với điều 69 của Hiến pháp Việt Nam và với Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc mà Việt Nam đã ký tham gia. Thái độ và lời phát biểu của hai thanh niên đó trước tòa biểu thị trí tuệ và khí phách của thế hệ trẻ nặng lòng vì nước, không khuất phục trước cường quyền. Vậy mà bằng cách bắt giữ, xét xử không theo đúng quy định tố tụng hình sự và lợi dụng điều luật mập mờ – điều gọi là “tuyên truyền chống Nhà nước” mà chúng tôi đã đòi xóa bỏ – nhà cầm quyền đã đưa ra một bản án phi đạo lý, trái Hiến pháp, chà đạp quyền con người đối với hai thanh niên yêu nước. Bản án này khiến dư luận xã hội bất bình, toàn thế giới lên án; chỉ làm hài lòng những kẻ có mưu đồ bành trướng xâm hại ViệtNam.

Cùng với các nhóm và rất nhiều người khác đã lên tiếng phản đối vụ án này, chúng tôi kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước ký tên vào lời kêu gọi này. Chúng tôi, những người ký tên lời kêu gọi này, đòi nhà cầm quyền trả tự do cho Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha và cho những người yêu nước có hành động biểu thị chính kiến một cách ôn hòa đã bị kết án và bị tù đày trong thời gian qua.

Ngày 19-5-2013

Những người ký tên ban đầu

  1. Đào Xuân Sâm, nguyên Chủ nhiệm Khoa Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
  2. Hoàng Tụy, GS TS, nguyên Viện trưởng Viện Toán học, nguyên chủ tịch Hội đồng Viện IDS, Hà Nội
  3. Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
  4. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
  5. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, đại biểu Quốc hội khóa 6. TP HCM
  6. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh TP HCM, nguyên Phó Giám đốc Tổng Công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
  7. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch UB MTTQ Việt Nam TP HCM, đại biểu HĐND TP. HCM khóa 4, 5, TP HCM
  8. Lê Đăng Doanh, TS, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
  9.  Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên IDS, Hội An
  10.  Nguyễn Quang A, nguyên viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
  11.  Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
  12.  Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên IDS, TP HCM
  13.  André Menras – Hồ Cương Quyết, Chủ tịch Hiệp hội Trao đổi Sư phạm Pháp – Việt (ADEP), Pháp
  14.  Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
  15.  Nguyễn Trung, cựu Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
  16.  Vũ Minh Khương, TS, Hải Phòng
  17.  Hoàng Xuân Phú, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
  18.  Nguyễn Ngọc Giao, Giảng viên ĐH Pháp, đã về hưu
  19.  Phùng Liên Đoàn, TS, chuyên gia điện nguyên tử, Hoa Kỳ
  20.  Nguyễn Đăng Hưng, TSKH, Giáo sư Danh dự Trường Đại học Liège, Bỉ
  21.  Phạm Xuân Yêm, GS TS, nguyên Giám đốc Nghiên cứu Vật lý, CNRS và Đại học Paris VI, Pháp
  22.  Đỗ Đăng Giu, GS TS, nguyên Giám đốc Nghiên cứu CNRS, Đại học Paris Sud, Pháp
  23.  Nguyễn Xuân Diện, TS, Viện Hán Nôm, Hà Nội
  24.  Đặng Đình Thi, Đại học Bristol, Anh Quốc
  25.  Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên thành viên IDS, TP HCM
  26.  Hà Dương Tường, GS, nguyên Giáo sư Đại học Compiègne, Pháp
  27.  Nguyễn Văn Tuấn, GS TS, Garvan Institute of Medical Research St Vincent’sHospital,Australia
  28.  Trần Hữu Dũng, GS TS,WrightStateUniversity, Hoa Kỳ
  29.  Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông tin, Pháp
  30.  Phạm Quang Tuấn, PGS TS, Đại họcNew South Wales,Australia
  31.  Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
  32.  Trần Văn Thọ, GS TS, Đại học Waseda, Nhật Bản
  33.  Hoàng Dũng, PGS TS, Đại học Sư phạm TP. HCM
  34.  Ngô Vĩnh Long, GS TS, Đại học bangMaine, Hoa Kỳ
  35.  Nguyễn Đức Hiệp, TS, chuyên gia khoa học khí quyển,Australia
  36.  Pierre Darriulat, GS TS, Viện Vật lý, Hà Nội
  37.  Nguyễn Đôn Phước, dịch giả, TP. HCM
  38.  Nguyễn Đình Nguyên, TS, Garvan Institute of Medical Research St Vincent’sHospital,Australia
  39.  Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
  40.  Nguyễn Hữu Vinh, doanh nhân, Hà Nội
  41.  Vũ Quang Việt, TS, nguyên Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ
  42.  Phạm Duy Hiển, GS TS, nguyên Giám đốc Viện Hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên IDS, Hà Nội
  43.  Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, lão thành cách mạng, 97 tuổi đời, 74 tuổi Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa 3, Hà Nội
  44.  Thái Văn Cầu, chuyên gia khoa học không gian, Hoa Kỳ
  45.  Trần Thanh Vân, KTS, Hà Nội
  46.  Tô Văn Trường, TS, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miềnNam, TP HCM
  47.  Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
  48.  Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Thụy Sĩ
  49.  Hoàng Hưng, làm thơ, viết báo tự do, TP HCM
  50.  Đào Tiến Thi, Ths, nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học ViệtNam, Hà Nội
  51.  Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận trung ương, Hà Nội
  52.  Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, nguyên Phó ban Ban Văn học Cổ cận đại, Viện Văn học, Hà Nội
  53.  Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó ban Ban Văn học Cổ cận đại, Viện Văn học, Hà Nội
  54.  Trần Đức Quế, chuyên viên vận tải Bộ Giao thông Vận tải, hưu trí, Hà Nội
  55.  Vũ Thuần, lão thành cách mạng, hưu trí, Hà Nội
  56.  Đặng Tiến, nhà phê bình văn học, nguyên Giarng viên Đại họcParis7, Pháp
  57.  Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, nguyên Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Huế
  58.  Nguyễn Văn Chương, Directeur des Finances et de l’Administration, đã về hưu, Bỉ
  59.  Quan Vinh, chuyên viên tin học, Italia
  60.  Hà Sĩ Phu, TS sinh học, Đà Lạt
  61.  Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt
  62.  Huỳnh Nhật Hải, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Đà Lạt
  63.  Huỳnh Nhật Tấn, nguyên Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt
  64.  Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ Công đoàn hưu trí, blogger, nhạc sĩ phong trào du ca Tiếng hát những người đi tới, Đà Lạt (1970-1975), Đà Lạt
  65.  Mai Thái Lĩnh, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân TP Đà Lạt
  66.  Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt
  67.  Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
  68.  Trần Minh Thảo, TP Bảo Lộc, Lâm Đồng
  69.  Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM
  70.  Viễn Kính, nhà báo, TP HCM
  71.  Phan Văn Thuận, Giám đốc Công ty TNHH Phú An Khang, TP HCM
  72.  Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên Tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
  73.  Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
  74.  Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
  75.  Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
  76.  G.B Huỳnh Công Minh, Linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
  77.  Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
  78.  Giuse Maria Lê Quốc Thăng, Linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
  79.  Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
  80.  Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM
  81.  Phạm Khiêm Ích, Ủy viên UBTƯMTTQVN, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội
  82.  Nguyễn Duy, nhà thơ, TP HCM
  83.  Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
  84.  Nguyễn Thị Từ Huy, TS, TP HCM
  85.  Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo trước 1975, TP HCM
  86.  Phạm Chí Dũng, nhà báo tự do, TP HCM
  87.  Nguyễn Thị Ngọc Toản, GS BS, Đại tá, cựu chiến binh, Hà Nội
  88.  Nguyễn Thị Ngọc Trai, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn ViệtNam, Hà Nội
  89.  Nguyễn Trọng Huấn, kiến trúc sư, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Kiến trúc và Đời sống, TP HCM
  90.  Phạm Văn Đỉnh, TSKH, Pháp, TP HCM
  91.  Nguyễn Kiến Phước, nguyên Đại diện báo Nhân dân ở phíaNam, TP HCM
  92.  Trần Tố Nga, cựu tù chính trị trước 1975, nhà giáo, Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh do chính phủ Pháp trao tặng, Pháp
  93.  Đào Duy Chữ, TS, nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, TP HCM
  94. Lê Xuân Khoa, nguyên Phó viện trưởng Đại họcSaigon(trước 1975), nguyên Giáo sư Đại học Johns Hopkins, Washington, DC
  95.  Đoàn Hòa, Cộng hòa Czech
  96.  Trần Hữu Khánh, TP HCM
  97.  Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật ViệtNam, TP HCM
  98.  Lê Phú Khải, nguyên phóng viên Đài Tiếng nói ViệtNam, TP HCM
  99.  Bùi Tiến An, nguyên Chủ tịch Lực lượng thanh niên phụng sự lao động trước năm 1975, nguyên cựu tù chính trị Côn Đảo 7,5 năm, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP HCM
  100. Trần Hải Hạc, TS, nguyên PGS trường đại họcParis13, Pháp
  101. Lương Cần Nhân, BS, Institut Mutualiste Montsouris, Pháp
  102. Hà Thúc Huy, PGS TS, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,  TP HCM
  103. Phạm Tư Thanh Thiện, nguyên Phó ban Việt ngữ đài RFI, Paris, Pháp
  104. Genie Nguyễn Thị Ngọc Giao, Hoa Kỳ
  105. Tran  N. Vien, Bỉ
  106. Phạm Cường, Đạo diễn phim, CHLB Đức
  107. Võ Tá Hân, nguyên Thành viên HĐQT Viện Đại học Quản LýSingapore
  108. Tạ Văn Tài, luật sư, Hoa Kỳ
  109. Hoàng Kháng, TS, Viện Đại học North Dakota State, Hoa Kỳ; nguyên Giảng viên đại học ở Việt Nam
  110. Nguyễn Thị Hường, nghiên cứu sinh Luật, Đại họcIndiana, Hoa Kỳ
  111. Phạm Phan Long, KS, Viet Ecology Foundation, Hoa Kỳ
  112. Ngô Đức Thế, TS,Singapore
  113. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
  114.  Huy Đức, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh
  115. Ly Hoàng Ly, nghệ sỹ thị giác, TP. Hồ Chí Minh

Bấm vào đây để ký tên vào Lời Kêu Gọi này

Lãnh đạo Việt Nam nhìn nhận nguy cơ bất ổn định kinh tế

rfi, Thanh Phương, 20/5/13

Chậm trễ giải quyết nợ xấu kìm hãm tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Chậm trễ giải quyết nợ xấu kìm hãm tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Reuters

Tại phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội Việt Nam hôm nay, 20/05/2013, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhìn nhận là “tiềm ẩn bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn lớn”, do mức tăng tín dụng thấp hơn so với chỉ tiêu đề ra và việc các ngân hàng phải nỗ lực cắt giảm nợ xấu đang gây tác hại cho mức tăng trưởng. Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu tăng 12% tín dụng trong năm nay, nhưng các doanh nghiệp trong nước hiện vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn.

Chính phủ Hà Nội vào tuần trước cho biết là trong bốn tháng đầu năm nay, lượng tín dụng chỉ tăng được 2%. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cắt giảm các lãi suất chỉ đạo, nhưng những nỗ lực này đã không góp phần thúc đẩy tăng trưởng do sự chậm trễ trong việc giải quyết vấn đề nợ xấu ngân hàng.

Trong bài phát biểu trước Quốc hội, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn thừa nhận là “ sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn ”, số doanh nghiệp giải thể, phá sản còn rất lớn, trong khi số đăng ký mới thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng ghi nhận là “ tái cấu trúc ngân hàng và việc giải quyết nợ xấu còn chậm ”.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm ngoái chỉ đạt 5,03%, mức thấp nhất kể từ năm 1999 . Vào tháng trước, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đã hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2013 từ 5,8% xuống còn 5,2%.

Dự thảo Hiến pháp ‘giữ nguyên ý chính’

Ủy ban Dự thảo Hiến pháp 1992 đã công bố trước Quốc hội Việt Nam nội dung văn bản sau thời gian dài rầm rộ lấy ý kiến người dân.

Dự thảo mới nhất đề nghị giữ nguyên tên nước như hiện nay, giữ điều 4 về chế độ chính trị,và yêu cầu quân đội trung thành với Đảng Cộng sản.

Giới quan sát cho rằng văn bản này, so với dự thảo công bố ban đầu, đã giữ nguyên những vấn đề căn bản nhất mặc dù đã có tranh luận về Hiến pháp.

Báo cáo về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân” do ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và người phát ngôn Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình bày trong ngày họp đầu tiên của kỳ họp Quốc hội khóa V.

Theo báo Thanh Niên dẫn lời ông Phan Trung Lý phát biểu hôm 20/05/2013, việc giữ nguyên tên nước đảm bảo tính ổn định, “tránh những thế lực lợi dụng xuyên tạc, khẳng định hướng đi chính trị, đồng thời không tạo ra xáo trộn về quốc huy, văn bản hiện nay”.

“Tên gọi này cũng đã sử dụng ổn định từ năm 1976 và quen thuộc với nhân dân ta và quốc tế,” vì vậy Ủy ban soạn thảo đề nghị vẫn giữ nguyên tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và không trình phương án đổi tên nước.

Trước đó đã có ý kiến đưa ra một số tên gọi khác, trong đó có lấy lại tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì được chính thức ghi nhận trong Bản Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 và cũng được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, theo Tuổi Trẻ đăng.

Ủy ban soạn thảo cũng đề nghị giữ Điều 4, chương I về chế độ chính trị trong Hiến pháp 1992, về Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Vai trò của nhân dân đối với việc xây dựng Hiến pháp được đề nghị “do Quốc hội quyết định” vì quy định này không trái với nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, và là để kết hợp giữa thẩm quyền của Quốc hội và quyền của nhân dân trong xây dựng Hiến pháp.

‘Trung thành với Đảng’

“Chủ tịch nước có thể đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ.”

Đề nghị của Ủy ban dự thảo Hiến pháp 1992

Văn bản mới nhất chờ Quốc hội thông qua, ghi: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân…”

Đồng thời dự thảo cũng ghi rõ, lực lượng này có nhiệm vụ “bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Ngoài ra Ủy ban đề nghị Quốc hội việc Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

Theo đề nghị trên, việc phong chức, thăng chức hay giáng chức, tước quân hàm cấp tướng trong lực lượng vũ trang nhân dân, cấp chuẩn đô đốc, phó đô đốc và đô đốc hải quân; cùng với bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng do Chủ tịch nước quyết định.

Bên cạnh đó là các thẩm quyền như đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm phó chủ tịch nước, thủ tướng và các thành viên khác của chính phủ, chánh và phó chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, thẩm phán các tòa án khác viện trưởng và viện phó Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao.

Theo truyền thông trong nước, buổi thảo luận tiếp theo về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 sẽ diễn ra vào ngày 27/05 và Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về dự thảo này trong hai ngày 03 và 04/06.

Trong diễn văn khai mạc kỳ họp Quốc hội ngày 20/05/2013, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói việc lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp là một trong bốn ưu tiên của kỳ họp, và gọi đây là “sinh hoạt chính trị-pháp lý sâu rộng trong toàn dân, bảo đảm tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, được tổ chức dưới nhiều hình thức thích hợp”.

Nhục!

Hồ Ngọc Nhuận

Tòa án của chế độ ngày 16/5/2013 đã đưa hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha ra xử. Trong phiên tòa một ngày, tại Long An. Sau khi giam giữ hai bị cáo hơn nửa năm. Thuật ngữ dùng cho các cuộc xử, cả bình thường cả bất bình thường, gọi đó là kiểu “làm gọn”, có khi chỉ cần “một cái rụp”… là xong. Kiểu “xử gọn” như vậy có đáng gọi là một việc làm đàng hoàng không? Và ai làm một việc không đàng hoàng có phải là nhục không?

Mà về tội gì? Theo tờ Tuổi trẻ, tức phải là tờ báo của tuổi hai bị cáo, thì là “về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ViệtNam”. Tin viết là “theo hồ sơ”, nhưng tờ báo không cho biết “theo hồ sơ” là do được “tiếp cận hồ sơ”, theo đúng tác phong, chức năng nghề báo. Hay được nghe đọc lúc xử. Hay là không đọc, cũng không nghe, mà chỉ quen tay viết vậy… Vì toàn bộ bản tin về vụ án chỉ vỏn vẹn được gói gọn không quá 250 chữ, nằm lọt giữa trang 2. Cho một bản án tổng cộng 14 năm tù, cộng 2, và 6 năm quản chế. Tin về một bản án nặng nề, với một tội danh không nhẹ là “chống phá Nhà nước”, lại được đem nhét giữa trang 2. Thua cả môt tin xe đụng… Báo chí cho tuổi trẻ muốn cho tuổi trẻ thấy gì? Và nhất là tờ báo tự cảm thấy gì? Mà về một bản án được mọi người ViệtNam trong ngoài nước quan tâm, lại đi loan tin theo kiểu phải vạch mãi để tìm mới lòi ra để đọc?

Về phiên tòa, thân phụ Phương Uyên cho biết ông và các thân nhân khác không được cho vào dự khán, chỉ có bà mẹ Phương Uyên được vào. Lại bị bao vây che chắn bởi một đám thân nhân lạ hoắc, không ai khác hơn là công an mật thám trá hình. Có người đến ngóng tin bên ngoài tòa án đã bị công an thường phục hốt về đồn. Xử án, ở đâu cũng vậy, thông thường là để làm gương, chớ không phải để trả thù. Để làm gương nên có khi còn chọn một pháp đình thật rộng, khi pháp đình quen thuộc không đủ chỗ cho mọi người. Còn ở đây là để làm gì? Mà lại lén lén, lút lút… như đem giấu?

Về cái cách chế độ nầy đã bắt Phương Uyên cũng vậy, cũng thật đáng xấu hổ. Bắt như bắt cóc. Bắt đi mất tích rồi chối quanh hơn cả chục ngày mới chịu thừa nhận. Để đưa ra một lô chứng cứ tội phạm và lời thú tội có là công an cũng không thể tin là đứng đắn. Không thể nghĩ một chế độ tự nhận là Nhà nước pháp quyền mà lại đi hành xử pháp quyền như… vậy.

Còn lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nữa? Trước một loạt đối xử không đàng hoàng đối với một thành viên Ban chấp hành Đoàn thuộc cấp mà vẫn ngậm miệng nín khe là làm sao? Để làm gì và đang làm gì? Hay là đang sợ đoàn viên, đang sợ thanh niên cả nước theo gương Phương Uyên và Nguyên Kha, không thể tiếp tục nhẫn nhục và chịu nhục trước họa mất nước?

Nhắc lại chuyện này, từ khâu bắt người cho tới khi xử, cho tới nay, trong ngoài nước, ai cũng thấy không thể chịu nổi những việc làm đáng xấu hổ của không ít người của chế độ.

Tôi cũng không thể chịu nổi, nhất là trước những hành động quá ác đối với tuổi trẻ, nên đã cùng với hơn 150 người khác đứng tên trong kiến nghị gởi Chủ tịch Nước đề ngày 30/10/2012 yêu cầu can thiệp trả tự do cho Phương Uyên.

Cho tới nay, ông Chủ tịch Nước vẫn cứ nín khe.

Nhưng tôi và các bạn tôi đã được tưởng thưởng.

Hãy nghe chàng trai 24 tuổi Đinh Nguyên Kha nói: “Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội”.

Hãy nghe Nguyễn Phương Uyên 21 tuổi nói: “Việc tôi làm thì tôi chịu. Xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi l

Đừng xuyên tạc lịch sử để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp sửa đổi

Nguyễn Trung

Toàn bộ quá trình đưa Dự thảo Hiến pháp sửa đổi ra thảo luận trong cả  nước cho đến nay vẫn thiếu vắng hẳn những cuộc thảo luận công khai, xây dựng theo tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc mọi ý kiến khác nhau của các tầng lớp nhân dân. Thay vào đó là cách làm rất hình thức, phô trương, vô cùng tốn kém.

Trên mọi phương tiện truyền thông của “lề phải” và trong không biết bao nhiêu cuộc nói chuyện ở cấp cơ sở khắp cả nước, các dư luận viên liên tiếp một chiều các bài nói, bài viết, các phát ngôn…, nội dung cùng một giọng điệu gần giống như được gỡ ra hoặc được “tua” lại từ các băng ghi âm – nghĩa là giáo điều, không lý lẽ, áp đặt, không có sức sống, na ná giống nhau…

Tham gia mặt trận độc thoại này của những dư luận viên có không ít cây lý luận của các trường Đảng và cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng… Trong những người này có các vị mang học hàm giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ…, đôi ba người có cả quân hàm đại tá… Không cần phân tích, họ lớn tiếng phê phán những ý kiến khác, những người nói khác với Dự thảo. Không thiếu trường hợp ngôn ngữ của các dư luận viên này thật ra là sự đả kích như mạt sát. Họ thẳng thừng quy kết những người nói khác là “thoái hóa về đạo đức chính trị, tư tưởng”, xếp những người nói khác như thế vào loại “các thế lực thù địch chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa và chống phá Đảng…

Để làm chỗ dựa cho những lời phê phán kiểu độc thoại như thế, một số cây lý luận đã viện dẫn lịch sử, đại ý:

Các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu cũ sở dĩ sụp đổ là vì đã phạm phải 3 sai lầm chết người: (1) phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin, (2) xóa vai trò lãnh đạo của Đảng, (3) phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang…

Lập luận như thế trong thảo luận xây dựng hiến pháp mới, thật chẳng khác vừa cảnh cáo, vừa hù dọa.

Vậy sự thật là thế nào?

Nói khái quát, sự thật là chủ nghĩa Mác – Lênin, diễn đạt đầy đủ hơn là mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước LXĐÂ cũ, đã bắt đầu khủng hoảng mang tính hệ thống từ những năm 1960. Vào lúc nổ ra phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan trong những năm của thập kỷ 1980, tất cả các nước LXĐÂ đã đi vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cao điểm của thời kỳ khủng hoảng này xảy ra vào cuối thập kỷ 1980 và đã dẫn tới sụp đổ của toàn hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa LXĐÂ, trong đó Liên Xô là nước sụp đổ sau cùng (ngày 25-12-1991).

Nhìn lại, lịch sử khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa LXĐÂ thật ra bắt đầu sớm hơn nhiều. Sớm nhất là cuộc nổi dậy của công nhân xây dựng ở ĐôngBerlin, rồi lan ra toàn Cộng Hòa Dân Chủ Đức tháng 6-1953. Lãnh đạo Cộng Hòa Dân Chủ Đức hồi ấy phải nhờ quân đội Liên Xô đập tan.

Kế tiếp là cuộc nổi dậy đẫm máu ở Hungari tháng 10-1956, bắt đầu từ phong trào sinh viên chống lại nhà nước stalinist, sau đó là sự tham gia của nhân dân cả nước. Quân đội Liên Xô phải trực tiếp can thiệp, đến tháng 1-1957 mới dập tắt được.

Mùa xuân Praha 1968” là cuộc nổi dậy tiếp theo ở Tiệp Khắc, lập ra chính quyền chống lại mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, tồn tại được 8 tháng (từ tháng 1 đến tháng 8-1968), quân đội khối Varsovie do quân Liên Xô là chủ lực phải kéo vào dẹp bỏ.

Phong trào Công đoàn đoàn kết” ở Ba Lan (tên đầy đủ:  Phong trào Công đoàn Độc lập Tự trị “Đoàn kết”), bắt đầu từ tháng 8-1980. Với mọi bước đi thăng trầm quyết liệt, phong trào này giành được thắng lợi quyết định trong cuộc bầu cử ngày 04-06-1989, kết thúc mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa tại đây. Từ tháng 12-1990 Balan đi vào thể chế dân chủ hiện nay.

Nguyên nhân sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ không phải là các đảng cộng sản cầm quyền ở những quốc gia này đã phạm phải 3 sai lầm chết người như đã được giảng giải trên mọi diễn đàn “lề phải”.

Có thể đánh giá các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước LXĐÂ cũ hồi ấy đã làm tất cả để đối phó với khủng hoảng, nhưng không chống đỡ nổi sự sụp đổ. Đơn giản là họ bị các lực lượng dân chủ của nhân dân nước mình đánh bại; mặc dù vào thời điểm sụp đổ, hiến pháp và điều lệ các đảng cộng sản cầm quyền ở những nước này vẫn còn quyên vẹn. Giả thử các đảng này lúc ấy được ai cố vấn và muốn cố thực hiện “3 sai lầm chết người” này để cứu vãn tình hình – như các  cây lý luận của mặt trận dư luận viên biện bạch, chắc cũng không kịp. Đơn giản là hệ thống chế độ chính trị cũ của những nước này cuối cùng đã bị phong trào dân chủ của nhân dân nước họ thay thế nhanh quá, bằng những biện pháp hòa bình.

Riêng tại Rumani, chế độ độc đảng toàn trị diễn ra khắc nghiệt nhất so với các nước LXĐÂ khác. Tổng bí thư Nicolae Ceausescu sớm theo đuổi đường lối thân phương Tây và Trung Quốc, chống Liên Xô, ngay giữa lúc phe xã hội chủ nghĩa còn đang mạnh. Ông ta cũng là người trực tiếp chỉ huy quân đội. Nhưng tại đây chế độ chính trị của ông ta đã bị thay thế bằng bạo lực, quân đội lại là người trực tiếp kết liễu vợ chồng ông ta.

Nói thêm về Liên Xô

Khói súng của Chiến hạm Rạng Đông chưa tắt, nước Nga của Cách mạng tháng Mười đã sớm rơi vào cuộc nội chiến khắc nghiệt và đẫm máu (1917-1922). Nói khái quát, giữa một bên là cách mạng và một bên là phản cách mạng.

Chẳng những thế, từ năm 1918 đến năm 1920, trên đất nước Liên Xô còn xảy ra cuộc chiến tranh can thiệp của các nước tư bản, đi đầu là các cường quốc Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật. Những nước này cùng với các lực lượng phản cách mạng ở LX quyết tâm tiêu diệt bằng được nhà nước cộng sản đầu tiên trên thế giới.

Cuối cùng Liên Xô đã đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp này và dập tắt nội chiến. Chẳng những thế, Liên Xô sau này còn là lực lượng chủ chốt nhất đánh bại phát xít Đức và phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới II, góp phần quyết định tạo ra sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa làm chủ 1/3 địa cầu, sau đó kiềm chế phe đế quốc ngót nửa thế kỷ (xin được dùng khái niệm “phe” theo ngôn ngữ thời ấy – N.T.).

Đáng lưu ý: Ngày nay, dưới chính thể mới của Liên bang Nga, quân đội Liên bang Nga vẫn kế tục truyền thống hào hùng của Hồng quân Liên Xô, mặc dù quân đội đã hoàn toàn đứng ngoài cuộc chính biến 1990-1991 xóa bỏ nhà nước xô-viết.

Hiển nhiên không thể không đặt ra câu hỏi: Tại sao Liên Xô sụp đổ ở lúc đạt đỉnh cao mọi mặt của chính quyền và sức mạnh xô-viết? Sụp đổ không nội chiến, không có lấy một phát súng can thiệp từ bên ngoài? Sụp đổ nhanh tới mức toàn bộ thế giới phương Tây ngỡ ngàng, toàn bộ mạng lưới tình báo phương Tây chết khựng vì bất ngờ! Sụp đổ ở đỉnh cao của một cường quốc và trong nguyên vẹn sự tồn tại của Đảng Cộng Sản Liên Xô và Hồng quân Liên Xô!?…

Chỉ xin điểm lại một số sự việc có liên quan đến hiến pháp:

Toàn bộ lịch sử Liên Xô có 4 hiến pháp. Hiến pháp năm 1977 (còn gọi là Hiến pháp Brejnev) là hiến pháp đầu tiên có riêng một điều nói cao hơn rất nhiều so với cả 3 hiến pháp trước đó (các Hiến pháp năm 1918, 1924 và 1936) về ĐCSLX và về chế độ xô-viết – đấy là điều 6. Hiến pháp Brejnev là hiến pháp cuối cùng khi Liên Xô sụp đổ.

Thời Brejnev là thời kỳ Liên Xô lâm vào đình đốn và trì trệ toàn diện. Để cứu vãn tình hình này, khi được bầu làm Tổng bí thư ĐCSLX, ông Gorbachov đề xướng đổi mới kinh tế và dân chủ hóa hệ thống nhà nước, cũng giống như những công việc đổi mới được đề xướng ở nước ta bây giờ. Nhưng ông ta  thất bại.

Tuy nhiên không thấy Gorbachov đề ra việc sửa đổi hiến pháp. Hay là ông ta chưa kịp làm việc này? Chỉ biết rằng tháng 1-1991 ông ta vẫn còn vận dụng Hiến pháp xô-viết 1977 (Hiến pháp Brejnev) chống lại việc ly khai của nước Cộng hòa Lít-va… Không lâu trước khi thất sủng, Gorbachov muốn đưa ĐCSLX đi theo con đường xã hội dân chủ. Nhưng ông ta chưa kịp làm gì, thì ĐCSLX tan rã. Vì đảng đã bị tổng thống Yeltsin thông qua Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga đặt ra ngoài vòng pháp luật…

Nhìn thẳng vào sự thật

Tới đây mọi người có thể thấy: Không có chuyện xảy ra “3 sai lầm chết người” trong việc sửa đổi hiến pháp tại các nước LXĐÂ với hệ quả dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở những quốc gia này. Thậm chí tại những nước xã hội chủ nghĩa  này không có cả việc sửa đổi hiến pháp trong những thập niên cuối cùng trước khi sụp đổ.

Cũng không có chuyện các đảng cộng sản cầm quyền ở đấy đã phạm phải 3 sai lầm chết người này trong những nỗ lực cứu vãn tình hình, có lẽ đơn giản vì họ không đủ thời giờ để kịp đề ra và thực hiện 3 sai lầm này. Song có sự thật rành rành là các đảng này đã bị các lực lượng dân chủ trong nhân dân nước mình đánh bại.

Ngoài ra còn có một sự thật nữa rất quan trọng: Vô luận hiến pháp và điều lệ đảng đang có hiệu lực hồi đó ở những nước này được viết như thế nào, quân đội của những nước này đi với nhân dân và chỉ trung thành với tổ quốc. Nhờ vậy đã không xảy ra tắm máu khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị chính thể dân chủ thay thế.

Vậy phải đi tìm những  nguyên nhân thực đã dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở các nước LXĐÂ, song đấy không phải là mục đích của bài viết này.

Bài này chỉ lưu ý: Dư luận viên không biết lấy ở đâu ra, hay là tự đặt ra những điều không có thật như thế để tác động vào nhân dân trong bàn thảo về sửa đổi hiến pháp lần này là việc làm với dụng ý sai trái. Làm như thế, chỉ tự bộc lộ cái dở, cái yếu của đội ngũ dư luận viên và chế độ, chỉ là tự phơi bầy cái thấp kém của đảng cầm quyền. Đấy lại càng không thể là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ, củng cố sự tồn tại của chế độ.

Nếu sự sụp đổ của các nước LXĐÂ có điều gì khác nữa đáng liên hệ với nước ta, phải chăng đó là: Quyền lực dù hà khắc đến đâu, dù được bảo hộ bằng cách nào, nhưng một khi đã mất dân thì mất tất cả.

Đứng trước những mối nguy và thách thức mất còn đang hiện hữu của đất nước, với tính cách là một lực lượng chính trị lớn nhất và mạnh nhất trong cả nước, tại sao ĐCSVN không coi việc sửa đổi hiến pháp lần này là một cơ hội giương cao ngọn cờ dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc để phát huy sức mạnh cả nước, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước? Một sự nghiệp như thế không đáng để cho ĐCSVN dấn thân cùng với toàn thể dân tộc thực hiện? Lợi ích nào, hay yếu kém nào khiến ĐCSVN không lựa chọn như thế?…

Có nghĩa vụ và trách nhiệm ràng buộc đối với đất nước cũng như đối với sự tồn vong của chính mình, ĐCSVN phải đặt ra cho mình những câu hỏi nêu trên. Những gì đã và đang diễn ra trong những hoạt động vận động dư luận về sửa đổi hiến pháp hiện nay chỉ cho thấy: Đảng đang tìm mọi cách khư khư nắm giữ quyền lực của mình. Thật ra Đảng đang tự vứt bỏ vai trò lãnh đạo của mình, chẳng thế lực diễn biến hòa bình nào bên ngoài Đảng có thể làm nổi việc này.

Nếu tự hỏi mình được như thế, ĐCSVN sẽ tự trả lời được cho mình Làm gì? Làm như thế nào?

Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị của đất nước là mặt yếu nhất của ĐCSVN, yếu đến mức hầu như là Đảng không thể! Cầm quyền đã 38 năm rồi mà vẫn không làm nổi, hoặc không có ý thức để làm!… Thậm chí Đảng đang muốn làm ngược lại!?…

Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị chẳng những là đòi hỏi phát triển của đất nước, mà còn là con đường dẫn Đảng đi với dân tộc, đi với đất nước, sau khi đất nước đã giành được độc lập thống nhất. Đó là con đường tránh được cho đất nước thảm họa nồi da xáo thịt ở phía trước.

Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị theo hướng dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc, ViệtNam sẽ trở thành một nước phát triển, sẽ không phải hổ thẹn với chính mình, và sẽ chiếm được trái tim của cả thế giới tiến bộ. Đã đến lúc toàn thể dân tộc ta phải vượt lên mọi yếu kém của chính mình, quyết khép lại quá khứ, để cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu đáng sống này!

Sửa đổi hiến pháp lần này đang mang lại cho đất nước một cơ hội như thế. Đây là cơ hội chiến lược thứ tư cho phép đổi đời đất nước kể từ khi giành được độc lập thống nhất. Vẫn còn thời gian, chỉ cần có cách làm đúng, để có thể xây dựng được một hiến pháp nước ta phải có, làm nền tảng cho nhân dân ta phấn đấu vì tự do hạnh phúc của chính mình và thay đổi được thân phận của đất nước trong thế giới ngày nay.

Ba cơ hội chiến lược trước đó của đất nước ĐCSVN đã để vuột mất./.

Võng Thị, ngày 16-05-2013

N. T.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Kinh tế Việt Nam phụ thuộc hàng Trung Quốc

Người Việt, Sunday, May 19, 2013 3:49:44 PM

HÀ NỘI 19-5 (NV) – Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường, bóp chết nhiều doanh nghiệp Việt Nam, không đáng ngại bằng kinh tế Việt Nam càng ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào hàng Trung Quốc.

Giới buôn lậu chờ lúc thuận lợi để đưa hàng Trung Quốc vượt biên vào Việt Nam. Tình trạng này kéo dài đã hàng chục năm nhưng nhà cầm quyền Hà Nội vẫn không thể ngăn chặn việc buôn lậu đủ mọi loại hàng hóa từ Trung Quốc. (Hình: VietNamNet)

Đó là nhận định chung của khá nhiều chuyên gia kinh tế. Những nhận định này vừa được báo điện tử VietNamNet tổng hợp và giới thiệu.

Trong bốn tháng đầu năm nay, Việt Nam chi $40.2 tỷ cho việc nhập cảng. Trong đó có $10 tỷ để nhập cảng nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, hàng hóa của Trung Quốc. Cùng thời gian này, giá trị hàng hóa của Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc chỉ khoảng $3.9 tỷ.

Một viên chức tên là Đào Ngọc Chương, Vụ phó Vụ Châu Á – Thái Bình Dương của Bộ Công Thương CSVN chỉ ra nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Chỉ trong vòng bốn tháng, Việt Nam nhập siêu khoảng $6 tỷ hàng hóa từ Trung Quốc là vì Việt Nam cần nhiều loại vật liệu cho sản xuất công nghiệp và nguyên liệu, phụ liệu cho gia công xuất khẩu. Ngoài ra còn vì doanh nghiệp Trung Quốc đang giữ vai trò nhà thầu của nhiều dự án lớn tại Việt Nam.

Thực trạng nêu trên khiến ông Võ Trí Thành, một chuyên gia kinh tế lo ngại. Theo ông, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam càng ngày càng phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu, phụ liêu của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc ngừng xuất cảng, sẽ có hàng loạt doanh nghiệp hấp hối vì không kịp ứng phó. Ông Thành than rằng, cả khả năng cạnh tranh lẫn công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam quá yếu, vì vậy Việt Nam phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc cả về hàng trung gian lẫn hàng tiêu dùng cuối cùng.

Các chuyên gia khuyên, muốn chống đỡ làn sóng hàng Trung Quốc, Việt Nam phải đầu tư nhiều hơn cho công nghiệp hỗ trợ. Trong đó chú trọng thu hút các tập đoàn đa quốc gia mở cơ sở sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, phát triển các ngành sản xuất phục vụ xuất cảng, quản lý nhập cảng qua đường biên giới tốt hơn.

Ngoài đường chính ngạch, hàng hóa Trung Quốc còn ồ ạt tràn vào Việt Nam bằng đường tiểu ngạch và buôn lậu. Do người tiêu dung Việt Nam đã biết sợ sự độc hại của nhiều loại hàng hóa do Trung Quốc sản xuất. Hàng hóa Trung Quốc mang nhãn mác Việt Nam để lừa người tiêu dùng Việt Nam đã trở thành trào lưu. Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội doanh nghiệp hàng Việt Nam Chất lượng cao, xác nhận, dạng “hàng hóa ngụy trang” này đã “cắm rễ” khá sâu.

Có cách nào để ngăn chặn việc buôn lậu hàng hóa Trung Quốc? Một viên chức lãnh đạo lực lượng Quản lý thị trường ở Sài Gòn, lắc đầu. Ông ta thắc mắc, tại sao không thắt chặt ngay từ gốc là các cửa khẩu. Khi hàng hóa Trung Quốc tràn lan và liên tục đổ vào ồ ạt như thế này thì làm sao chúng tôi có thể chống chọi?

Sau khi nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu Trung Quốc đã cột chặt các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và sau khi đủ loại hàng hóa của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường Việt Nam, bây giờ tới lượt nông sản, thủy sản của Trung Quốc xâm chiếm các chợ Việt Nam. Doanh nghiệp, công nhân Việt Nam đã ngắc ngoải và cứ đà này, sẽ tới lượt nông dân Việt Nam hấp hối. (G.Đ.)

Từ chống Cộng đến chống toàn trị

Trong lịch sử loài người, thời nào cũng có xung đột. Nhưng xung đột ở thế kỷ 20 và 21 khác các thế kỷ trước ở nhiều điểm.

Thứ nhất, chúng có tính chất toàn cầu. Trước đó, một số đế quốc mang quân đi chinh phạt nhiều quốc gia thuộc nhiều lục địa khác nhau, nhưng xung đột vẫn giới hạn giữa hai quốc gia chính: đế quốc và thuộc địa. Đã có một số liên minh được thành lập để chống lại một nước nào đó, nhưng tất cả các liên minh ấy đều tạm thời và cũng chỉ giới hạn trong một khu vực nhất định. Bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, ngược lại, với hai cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai cũng như cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, quy mô của xung đột mới thực sự có tính toàn cầu: Không có nơi nào thoát khỏi ảnh hưởng của chúng.

Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử, thông tin, và cùng với nó, tuyên truyền, trở thành một thứ vũ khí chủ đạo. Trong thông tin và tuyên truyền, có hai yếu tố đóng vai trò chủ yếu: hình ảnh và ngôn ngữ. Trong hai yếu tố ấy, hình ảnh là một yếu tố mới, gắn liền với các kỹ thuật truyền thông hiện đại, đặc biệt báo chí và truyền hình. Còn ngôn ngữ thì đã có từ lâu. Nó chỉ thay đổi ở mức độ và cách thức được sử dụng. Có thể nói chưa bao giờ ngôn ngữ bị chính trị hóa một cách sâu sắc đến như vậy.

Thứ ba, như là hệ quả của điểm trên, chỉ từ thế kỷ 20 trở đi, các cuộc xung đột mới mang màu sắc văn hóa rõ nét. Hậu quả là, bên cạnh mặt trận quân sự và chính trị vốn hiện hữu từ lâu, người ta có thêm một thứ mặt trận mới: mặt trận văn hóa. Mục tiêu chính của mặt trận văn hóa là chinh phục tình cảm và tư tưởng của con người. Có khi chính mặt trận văn hóa này quyết định cục diện của cuộc chiến đấu, phân định kẻ thắng và người thua, một cách tạm thời cũng như trong dài hạn. Theo Samuel P. Huntington, trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order (1996), xung đột chính trên phạm vi toàn thế giới sau thời kỳ chiến tranh lạnh không còn xuất phát từ ý thức hệ như trước mà chủ yếu xuất phát từ văn hóa, trong đó yếu tố quan trọng nhất là tôn giáo. Tình hình chính trị thế giới sau biến cố 11/9/2001, châu tuần chung quanh cuộc chiến chống khủng bố vốn gắn liền với các phần tử Hồi giáo cực đoan, dường như củng cố một phần các luận điểm của Huntington.

Trong mặt trận văn hóa và với vai trò của thông tin cũng như tuyên truyền, việc định danh (hay gọi tên) là một trọng tâm trong chính sách của mọi phía.

Trên nguyên tắc, sự khác biệt căn bản giữa các nước Cộng sản (từ 1917 đến 1991) và các quốc gia Tây phương là ở bình diện kinh tế, hoặc nói theo thuật ngữ của các nhà Mác-xít, ở phương thức sản xuất: Đó là sự khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, để ý mà xem, trên hầu hết các khẩu hiệu được sử dụng ở các nước Cộng sản ấy, từ Liên Xô đến Trung Quốc và cả Việt Nam nữa, khẩu hiệu trung tâm và phổ biến nhất, là chống chủ nghĩa đế quốc (hoặc gọn hơn, như ở Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, “phản đế”, anti-imperialism) chứ không phải là chống chủ nghĩa tư bản (anti-capitalism).

Khi đưa việc chống chủ nghĩa đế quốc thành nội dung chính trong chính sách tuyên truyền, Lenin đã thay đổi một luận điểm căn bản của Karl Marx: Với Marx, được trình bày trong cuốn Tư bản luận, chủ nghĩa đế quốc là thời tiền sử – hoặc sơ kỳ – của chủ nghĩa tư bản; với Lenin, nó là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản; http://www.marx2mao.com/Lenin/IMP16.html với Marx, nó đã hoặc sắp thuộc về quá khứ, với Lenin, nó đang ở thì hiện tại và có thể, trong tương lai. Biểu hiện rõ nhất của chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa thực dân (colonialism).

Có điều, sau thập niên 1950, chủ nghĩa thực dân hầu như tan rã khắp nơi: Hầu hết các nước thuộc địa, bằng chiến tranh hoặc bằng biện pháp hòa bình, lần lượt giành được độc lập. Các nhà tuyên truyền Cộng sản phải tạo nên một khái niệm mới: chủ nghĩa thực dân mới (neo-colonialism). Nếu, nói như Lenin, chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn phát triển cao nhất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân mới được xem là giai đoạn phát triển cao nhất, thậm chí, là giai đoạn cuối cùng, của chủ nghĩa đế quốc.

Cả chủ nghĩa thực dân cũ lẫn chủ nghĩa thực dân mới đều nhắm đến một mục tiêu giống nhau: kiểm soát các thuộc địa. Chỉ khác ở cách thức và phương tiện: Với chủ nghĩa thực dân cũ, đó là quân sự và việc xâm chiếm lãnh thổ; với chủ nghĩa thực dân mới, đó là kinh tế và âm mưu thực dân hóa tâm hồn con người bằng một thứ “văn hóa đồi trụy”; với chủ nghĩa thực dân cũ, cái lợi chủ yếu nằm ở tài nguyên và sức lao động, với chủ nghĩa thực dân mới, cái lợi chủ yếu nằm ở thị trường và các ảnh hưởng chính trị trên bàn cờ quốc tế.

Có thể nói một cách tóm tắt, sự phát triển của phong trào Cộng sản thế giới từ cuối thế kỷ 19 cho đến lúc sụp đổ vào cuối thế kỷ 20 đã trải qua ba giai đoạn với ba khẩu hiệu chính: Thoạt đầu, với Marx và Engels, đó là chống chủ nghĩa tư bản; với Lenin và Stalin, là chống chủ nghĩa đế quốc; với các nhà lãnh đạo sau Stalin, là chống chủ nghĩa thực dân mới. Về phương diện tuyên truyền, hai giai đoạn sau tinh tế hơn: Nó chuyển mục tiêu từ kinh tế sang chính trị; và ở chính trị, biến một ý thức hệ trừu tượng và mơ hồ thành một ác quỷ mang mặt người với súng đạn và tiền bạc, với những bàn tay đầy máu me. Tất cả đều được sử dụng như những con ngoáo ộp để dọa dẫm người khác. Bên cạnh những con ngoáo ộp ấy, mọi quốc gia thân thiện với Mỹ đều bị gắn nhãn là tay sai hoặc là bù nhìn. Chưa hết, vì cả hai đều là những giai đoạn “phát triển cuối cùng” nên sau đó chỉ là “vực thẳm”! Hình ảnh để quốc đứng trên bờ vực thẳm là một sáo ngữ được lặp đi lặp lại khắp nơi.

Về phía Tây phương, để chống lại sự phát triển và những đe dọa từ chủ nghĩa Cộng sản, kể từ sau năm 1917, người ta đã tung ra những chiến dịch chống Cộng rầm rộ dưới nhiều hình thức và bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ quân sự đến chính trị và văn hóa. Trong lãnh vực văn hóa, người ta nhắm đến việc chứng minh lý thuyết của Marx và Lenin, đặc biệt chủ nghĩa duy vật lịch sử, là sai: Với Marx, lịch sử phát triển theo con đường tuyến tính, sau chủ nghĩa phong kiến là chủ nghĩa tư bản và sau chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản; với những người chống Cộng, diễn trình ấy chỉ là một ngộ nhận và cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản như một thứ thiên đường hạ giới chỉ là một không tưởng.

Tuy nhiên, khi biến việc chống Cộng thành một khẩu hiệu chính như vậy, người ta lại vấp phải khá nhiều sai lầm trong việc thu hút sự chú ý và sự đồng tình của quần chúng, đặc biệt của giới trí thức.

Thứ nhất, nó biến một xung đột chính trị, thậm chí, xung đột vũ trang thành một thứ xung đột về phương diện lý thuyết. Thay vì chống lại những đội quân hùng hậu đang cầm súng bắn vào họ hoặc bắn vào nhân dân của nước họ, người ta lại tập trung vào việc chống lại ông Marx và ông Engels cũng như các tác phẩm triết học và kinh tế học dày cộm của hai ông ấy – những tác phẩm mà, oái oăm thay, ngay chính các lãnh tụ cao cấp nhất của các đảng Cộng sản cũng chưa chắc đã đọc!

Thứ hai, chống lại chủ nghĩa Cộng sản không khác gì chống lại một tôn giáo. Cả chủ nghĩa Cộng sản lẫn tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, đều giống nhau ở chỗ: cả hai đều nhắm đến những lý tưởng cao đẹp và cao cả, nhằm giải phóng và cứu rỗi con người. Người ta không thể chống lại những lý tưởng như thế. Hơn nữa, ngay cả khi người ta có thể chứng minh những lý tưởng ấy chỉ là những sự không tưởng, người ta cũng rất khó thuyết phục được người khác. Có hai lý do chính. Một, với lý tưởng, người ta sử dụng niềm tin hơn lý trí. Mà niềm tin lại có thể bất chấp lý trí. Hai, nhân danh những lý tưởng ấy, người ta có thể biện hộ cho các sai lầm trong hiện thực: lý tưởng đúng, chỉ có chính sách là sai. Mà chính sách thì có thể thay đổi được. Nếu không thay đổi được thì cũng có thể… thông cảm được.

Lý do thứ hai kể trên là thái độ chung của rất nhiều trí thức Tây phương trong suốt thế kỷ 20. Không phải người ta không biết Cộng sản độc tài và tàn bạo; không phải người ta không biết Stalin và Mao Trạch Đông đã giết chết cả hàng chục triệu người. Nhưng người ta vẫn cho đó chỉ là những giải pháp tình thế trong giai đoạn chuyển tiếp của cách mạng. Với họ, đó là những cái giá phải trả và cần trả cho một tương lai tốt đẹp hơn của nhân loại.

Đó là chưa kể việc nhân danh chiêu bài chống Cộng, một số chính trị gia đã trở thành những kẻ hung hãn, khắc nghiệt, thậm chí độc tài đến độ bóp nghẹt cả tự do và dân chủ, biến thành những cơn ác mộng hãi hùng trong xã hội. Tiêu biểu nhất là trường hợp Thượng nghị sĩ Joseph MacCarthy (1908-1957) ở Mỹ. Chống Cộng một cách cuồng nhiệt, McCarthy liên tục chụp mũ hết người này đến người khác là Cộng sản hoặc là gián điệp của Cộng sản và yêu cầu Quốc hội phải điều tra để làm sáng tỏ “tội phạm” của họ. Ông nhắm mũi dùi tấn công vào cả văn phòng Tổng thống Harry Truman (có khi ngay chính bản thân Tổng thống Truman!), Quân đội Mỹ và đặc biệt, đài Tiếng nói Hoa kỳ (VOA). Do yêu cầu của ông, từ năm 1949 đến 1954, Quốc hội Mỹ đã mở trên 100 cuộc điều tra lớn. Nhiều công chức cao cấp, kể cả nhân viên đài VOA bị mang ra Quốc hội trả lời các cuộc điều tra của ông (có người không chịu nổi sức ép và sự nhục nhã đã tự tử ngay trong quá trình điều tra để chứng minh mình vô tội!) Chưa hết. Ông còn lùng sục vào các thư viện, tố cáo hết cuốn này là của Cộng sản đến cuốn khác là thân Cộng và yêu cầu phải dẹp bỏ; cuối cùng, có đến 30.000 cuốn sách bị loại ra khỏi các kệ sách trong thư viện. Nhiều trí thức và văn nghệ sĩ nổi tiếng, như Richard Wright, James Baldwin, Lester Cole… không chịu nổi cảnh ấy, đã bỏ sang Âu châu sinh sống.

McCarthy và chủ nghĩa McCarthy (McCarthyism) đã gây kinh hoàng cho đa số dân chúng Mỹ và trở thành một hình ảnh xấu trong chính trường Mỹ. Nhiều nhà bình luận chính trị cho chủ nghĩa McCarthy là một món quà quý báu nhất mà người Mỹ đã tặng cho Stalin. Nói cách khác, không ai có “công” đối với Cộng sản cho bằng chủ nghĩa McCarthy. Một mặt, nó làm việc “chống Cộng” trở thành đồng nghĩa với một cái gì cực đoan và thô bạo. Nó gợi lên những ấn tượng thật xấu, một “bad name”, thậm chí, một “từ bẩn thỉu” (“dirty word”). Mặt khác, nó làm nản lòng những người chống Cộng thực sự. Trước, những người chống Cộng nhất là những người có tinh thần tự do; sau, là những người bảo thủ, lại là thứ bảo thủ hẹp hòi. Những người có tinh thần tự do, ngược lại, một mặt, không thích Cộng sản, mặt khác, lại dị ứng với việc chống Cộng.

Hai sự kiện trên dẫn đến hai hiện tượng đáng tiếc.

Thứ nhất, nó làm nảy nở phong trào chống-chống Cộng (anti-anti-communist) ở Tây phương, ngay tại Mỹ, trong suốt thập niên 1960 và 1970. Chính trong khí quyển tinh thần như thế, Jean-Paul Sartre đã nói một câu đầy tai tiếng: “Các tên chống Cộng đều là chó.”

Thứ hai, nó khiến người ta quên bẵng đi chủ nghĩa phát xít hoặc xem những người chống Cộng như là đồng minh của chủ nghĩa phát xít, trong khi, trên thực tế, ai cũng biết, như Susan Sontag tuyên bố trong một bài diễn văn tại New York năm 1982: “Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa phát xít, một thứ chủ nghĩa phát xít thành công.” (Communism is Fascism – successful Fascism)

Xin lưu ý là: Mặc dù xem chủ nghĩa Cộng sản là một thứ chủ nghĩa phát xít, Susan Sontag cũng không thích những người chống Cộng dù bà không hề phản đối những người chống lại chủ nghĩa phát xít. Trong chiến tranh Việt Nam, bà từng ủng hộ Hà Nội và từng đi Hà Nội, sau đó, viết nguyên cả cuốn sách về chuyến đi ấy dưới nhan đề Trip to Hanoi (1969).

Ở đây, chúng ta thấy một nghịch lý của rất nhiều trí thức Tây phương: Người ta vừa không thích chủ nghĩa Cộng sản vừa không thích những người chống lại Cộng sản. Có điều, những người Cộng sản thì ở xa, trong khi đó, những người chống Cộng lại ở gần, rất gần. Cộng sản tồn tại như một ý niệm trừu tượng, thuộc một thế giới khác, trong khi những người chống Cộng lại cụ thể, hiện diện ngay trước mắt, và không ngừng quấy nhiễu họ. Chính vì vậy, có lúc phong trào chống-Chống cộng mạnh hơn cả các phong trào chống Cộng. Hơn nữa, cũng cần lưu ý, những trí thức khuynh tả mang tinh thần chống-chống Cộng như vậy, một thời gian dài, có rất nhiều ảnh hưởng trong hệ thống giáo dục ở Tây phương. Do đó, ấn tượng xấu về các phong trào chống Cộng càng lúc càng lan rộng và còn lại lâu dài. Không chừng đến tận bây giờ. (Những ai có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức Tây phương có thể thấy rõ điều này.)

Nhận ra được điều đó, ngay từ thập niên 1960, một số nhà chiến lược và trí thức đề nghị chuyển đổi mục tiêu và tiêu ngữ: thay vì giương cao ngọn cờ chống Cộng (anti-communism), người ta lại hô hào chống toàn trị (anti-totalitarianism).

Có bốn nguyên nhân chính của việc chuyển đổi từ chống Cộng đến chống toàn trị:

Thứ nhất, nhờ các công trình nghiên cứu của Hannah Arendt, đặc biệt cuốn The Origins of Totalitarianism, được xuất bản lần đầu năm 1950, nghĩa là trước bài phát biểu nhắc ở trên của Susan Sontag trên 30 năm, người ta nhận thấy chủ nghĩa Cộng sản rất gần chủ nghĩa phát xít: cả hai đều độc tài và toàn trị; cả hai đều là những tội ác khủng khiếp. Nếu người ta chống lại chủ nghĩa phát xít thì người ta cũng cần chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Vì cả hai là một. Bằng cách đó, công cuộc chống Cộng huy động được một lực lượng cực kỳ đông đảo ở Tây phương: những người chống lại chủ nghĩa phát xít, trong đó, có cả hàng chục triệu người vốn là nạn nhân hoặc là thân nhân của các nạn nhân của chủ nghĩa phát xít.

Thứ hai, tập trung vào khía cạnh độc tài và toàn trị, một mặt, người ta né tránh được khía cạnh lý thuyết và chỉ nhắm vào khía cạnh thực tiễn; mặt khác, người ta cũng tránh được những ấn tượng xấu do chủ nghĩa McCarthy để lại trong dư luận quần chúng. Bằng cách đó, người ta vừa hạn chế được mặt yếu của mình (sự hoành hành của phong trào chống Cộng cực đoan) vừa khai thác được mặt yếu của đối phương (thực tế độc tài và nghèo đói, sự hiện diện của các trại tù và trại tập trung cải tạo từng giết chết cả hàng triệu người).

Thứ ba, với chiêu bài chống toàn trị, người ta sử dụng một bảng giá trị và những lý tưởng khác ngoài chủ nghĩa tư bản: Người ta chống lại toàn trị không phải để bảo vệ chủ nghĩa tư bản, vốn dù cố gắng đến mấy, vẫn còn đầy những bất toàn, mà là để bảo vệ những lý tưởng cao cả nhất của nhân loại: tự do, bình đẳng và nhân quyền. Bằng cách đó, nó huy động được sự ủng hộ của nhiều người hơn, đặc biệt các trí thức khuynh tả, những người vốn cấp tiến và yêu chuộng tự do.

Thứ tư, như là hệ quả của ba điểm trên, với nội dung chống toàn trị, cuộc đấu tranh chống lại Cộng sản có một nội dung cụ thể. Nói chung, bất cứ một phong trào nào bắt đầu bằng chữ “chống” cũng đều có một nội dung tiêu cực: Nó nhằm phủ nhận. Nó không hứa hẹn một sự thay thế nào cả. Nhưng khi xem việc phủ nhận là mục tiêu chính của việc tranh đấu, người ta cũng lại tự tạo thành những khoảng trống ngay dưới chân mình. Hậu quả là người ta chỉ chiến đấu một cách chơi vơi, từ đó, không có sức mạnh gì đáng kể. “Chống toàn trị”, ngược lại, hầu như là một ngoại lệ. Nó không đơn thuần là một sự phủ định. Mà còn là một sự xây dựng. Lý do chính là “toàn trị” chỉ có một mặt đối lập: Dân chủ. Chống toàn trị bao hàm ý nghĩa là bênh vực và xây dựng dân chủ. Không thể có cách hiểu nào khác.

Với bốn lý do nêu trên, từ nửa sau thập niên 1970, việc chống chủ nghĩa toàn trị đã trở thành tâm điểm trong ý thức hệ chống Cộng thời Chiến tranh lạnh. Việc chọn lựa tâm điểm này làm cho cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản trở thành cụ thể và có sức thuyết phục hơn: Người ta chống lại Cộng sản không phải vì nó là Cộng sản mà vì nó độc tài. Sự độc tài chỉ có thể có hiệu lực khi Cộng sản nắm chính quyền một cách độc tôn. Nếu đảng Cộng sản chỉ tồn tại như bao nhiêu đảng phái chính trị khác, nó hoàn toàn vô hại. Hơn nữa, sự có mặt của nó còn chứng minh tính chất tự do của một chế độ dân chủ. Nhớ đến điều này chúng ta hiểu tại sao trong thời chiến tranh lạnh, ở phần lớn các quốc gia Tây phương, một mặt người ta chủ trương chống Cộng, mặt khác, người ta vẫn cho phép các đảng Cộng sản được hoạt động một cách công khai (thật ra, một số quốc gia, trong đó có Úc, từng có kế hoạch loại đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, nhưng nghị quyết của đảng cầm quyền bị Tòa án Tối cao bác bỏ với lý do nó vi phạm nguyên tắc về tự do tư tưởng và chính trị đã được ghi trong Hiến pháp).

Có thể nói, chiến thắng của Tây phương trong cuộc Chiến tranh lạnh vào cuối thế kỷ 20 thực chất là chiến thắng của cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa toàn trị.

Chiến thắng ấy bắt đầu từ một thay đổi mang tính chiến lược: Từ chống Cộng sản đến chống toàn trị.

Xin lưu ý chữ “tính chiến lược” ở trên.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.

Lần đầu tiên bỏ phiếu tín nhiệm tại VN

Vũ Hoàng, phóng viên RFA. 2013-05-16

ImageHandler.ashx-305.jpg

Các đại biểu quốc hội nhấn nút bỏ phiếu trong một kỳ họp quốc hội.

Photo courtesy of nld.com.vn

Trong kỳ họp Quốc hội (QH) sắp tới, một hoạt động lần đầu tiên được thực hiện là việc bỏ phiếu tín nhiệm 49 chức danh do QH bầu hoặc phê chuẩn.

Vũ Hoàng phỏng vấn ông Lê Văn Cuông, nguyên phó Trưởng đoàn Đại biểu QH tỉnh Thanh Hóa. Theo ông, những người bị bỏ phiếu tín nhiệm thấp thì nên từ chức ngay hoặc Việt Nam cần có chế tài bỏ phiếu ngay trong năm đó, không nên chờ đến năm sau mới lấy phiếu.

Văn hóa từ chức

Vũ Hoàng: Thưa ông Lê Văn Cuông, trước hết cám ơn ông đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn với đài ACTD. Thưa ông, trong kỳ họp QH khai mạc vào 20/5 tới, tại đây sẽ diễn ra hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm 49 chức danh, ông có thể giải thích rõ hơn hoạt động này được không ạ?

Ông Lê Văn Cuông: Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Quốc hội (QH) bỏ phiếu tín nhiệm những người do Quốc hội bầu và phê chuẩn, thế nhưng quy định này nhiều năm qua chưa được thực thi. Vừa qua, theo Nghị quyết của Trung Ương, Quốc hội đã xúc tiến triển khai các văn bản, quy phạm pháp luật để tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, cụ thể là có 49 chức danh.

Quy định của luật pháp Việt Nam là bỏ phiếu, nhưng Ủy ban thường vụ QH (UBTVQH) cũng như QH thống nhất phân chia thành 2 bước: bước lấy phiếu và bước bỏ phiếu, nghĩa là nếu 2 lần có tín nhiệm thấp thì đưa ra bỏ phiếu. Cho nên vấn đề này gây ra băn khoăn cho dư luận như thế có kéo dài thời gian nhiệm kỳ 5 năm mà hai lần lấy phiếu tỷ lệ thấp thì mới bỏ phiếu năm thứ ba, thì cũng gần hết nhiệm kỳ rồi. Cho nên bây giờ có những ý kiến đề nghị nếu như lấy phiếu lần đầu mà tỷ lệ quá thấp thì cần phải có một cơ chế tự nguyện xin từ chức, còn nếu đối tượng không tự nguyện từ chức thì phải có một chế tài bỏ phiếu ngay trong năm đó, chứ không phải chờ đến năm sau mới lấy phiếu, nếu vậy hiệu lực không cao, thời gian phân tán, kéo dài quá sẽ ảnh hưởng đến mục đích của việc bỏ phiếu.

Vấn đề này cũng là lần đầu tiên QH Việt Nam thực hiện, trước đây chưa có tiền lệ nên mọi việc cũng đang được chuẩn bị rất chu đáo vì nó liên quan đến vai trò cá nhân, danh dự, uy tín và đó cũng là việc nhạy cảm. Chắc chắn thời gian tới, QH sẽ có nhiều việc làm rút kinh nghiệm để cho việc bỏ phiếu sẽ đạt được những kết quả như mong đợi.

Vũ Hoàng: Vâng, như ông vừa nhắc tới chuyện từ chức, vậy ông đánh giá sao về văn hóa từ chức tại Việt Nam, nhất là trong giai đoạn gần đây khi có khá nhiều những cán bộ cấp cao không thực hiện tròn vẹn trách nhiệm của mình?

Ông Lê Văn Cuông: Đối với các nước, việc từ chức diễn ra một cách rất bình thường, nhưng ở Việt Nam chưa có tiền lệ và rất nặng nề bởi mọi người hướng tới sự thăng tiến chứ việc bị từ chức, cách chức hay kỷ luật là một vấn đề khá nặng nề.

Cho nên để làm thay đổi nhận thức, trở thành văn hóa từ chức như một việc làm bình thường thì được xã hội cũng đang quan tâm, chính trên Nghị trường Quốc hội cũng như dư luận cũng mong rằng trong điều kiện Việt Nam hòa nhập với quốc tế, Việt Nam nên xúc tiến xây dựng văn hóa từ chức để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, chứ nếu một người không hoàn thành nhiệm vụ, không có uy tín mà không tự nguyện từ chức, không bị cách chức mà phải chờ đến khi về hưu hoặc hết nhiệm kỳ thì mới luân chuyển hoặc thay đổi vị trí thì sẽ làm sự phát triển của đất nước bị chậm lại, thứ hai, nó cũng tạo ra sức ỳ sẽ làm cho các đối tượng đương chức không quan tâm phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ của mình, trì trệ, bình chân như vại, an bài, đây cũng là vấn đề rất ảnh hưởng đến sự phát triển chung.

Vì thế Việt Nam cũng đang tiến tới xây dựng văn hóa từ chức để khi bản thân không đảm đương được nhiệm vụ hoặc khi dư luận chê trách nhiều hoặc có sai phạm thì nên từ chức để người khác lên đảm nhận vị trí của mình. Văn hóa từ chức của Việt Nam chưa hình thành, vấn đề từ chức nặng nề cho nên đó là bức xúc trong xã hội và chính quy định lấy phiếu và bỏ phiếu của Quốc hội sắp tới sẽ là bước “vạn sự khởi đầu nan” cho nền văn hóa từ chức của các quan chức VN sẽ được hình thành và trở thành điều bình thường như các nước trong tương lai tới.

Hiệu quả tới đâu

Vũ Hoàng: Cám ơn ông, thưa ông vì đây là lần đầu tiên hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm diễn ra, ông đánh giá về mức độ hiệu quả của lần đầu tiên này ra sao?

Ông Lê Văn Cuông: Như tôi nói, Việt Nam chưa có tiền lệ lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm, bây giờ là lần đầu tiên, cho nên sẽ không tránh khỏi những lúng túng hay những vấn đề trong suy nghĩ và việc làm của các cơ quan chức năng cũng như của Đại biểu QH. Cử tri và nhân dân Việt Nam đang mong đợi QH sẽ thể hiện được vai trò của mình, đại diện cho cử tri, có được kết quả lấy phiếu và bỏ phiếu thực sự khách quan, công bằng, thể hiện được sự chuẩn xác trong đánh giá, nhìn nhận về quá trình thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng do QH bầu và phê chuẩn.

Tuy nhiên, tình hình hiện nay của Việt Nam rất phức tạp, lợi ích nhóm hình thành và phát triển ngày càng sâu rộng ở nhiều nơi, rồi một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất, sa sút về phẩm chất đạo đức và hạn chế của đại biểu QH về nắm bắt thông tin, cũng như mối quan hệ ngang dọc cũng như sức ép bên ngoài, cho nên dư luận lo lắng về chất lượng lá phiếu.

Như chúng tôi hoạt động trong Nghị trường, chúng tôi cũng thấy rằng mặc dù những khách quan và chủ quan có hạn chế, nhưng các đại biểu QHVN khóa tới sẽ thể hiện được trọng trách của mình thông qua việc lấy phiếu và bỏ phiếu để góp phần xây dựng thiết chế về lâu về dài cho Việt Nam trong việc xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh thật sự tiêu biểu, xứng đáng với lòng mong mỏi của cử tri để nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trọng trách mà QH và nhân dân giao cho, để đưa Việt Nam đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh.

Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông rất nhiều.

Theo quy định, 49 chức danh thuộc diện lấy phiếu tín nhiệm gồm: Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước; chủ tịch QH, phó chủ tịch QH, chủ tịch Hội đồng Dân tộc, chủ nhiệm các Ủy ban của QH, các thành viên khác của UBTVQH; Thủ tướng, phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước. Dự kiến vào ngày 13/6, lần đầu tiên QH sẽ chính thức lấy phiếu tín nhiệm, kiểm phiếu và công bố kết quả kiểm phiếu ngay trong ngày.

Tin, bài liên quan

Cần phải lên tiếng báo động về tình hình đất nước

Kết quả Hội nghị trung ương 7 đã chứng tỏ:

Cần phải lên tiếng báo động về tình hình đất nước và vững tin đi theo con đường của chúng ta: Dân chủ Đa nguyên!

Democracy

Âu Dương Thệ

dep bo cncs

Hội nghị Trung ương 7 vừa bế mạc ngày 11.5 sau 10 ngày họp. Kết quả đã cho thấy, về vấn đề nhân sự ở cấp cao nhất Nguyễn Phú Trọng đã hoàn toàn thất bại. Chính ông đã phải gián tiếp nhìn nhận thất bại này trong cuộc tiếp xúc mới đây với cử tri Hà nội. Vì hai người chính ông muốn đưa vào Bộ chính trị là Trưởng ban Nội chính Trung ương và Phó trưởng ban chỉ đạo trung ương phòng chống tham nhũng Nguyễn Bá Thanh và Trưởng ban Kinh tế trung ương Vương Đình Huệ đã không được bầu bổ túc vào Bộ chính trị. Trong khi đó, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tuy đã thất bại trong chính sách giáo dục, không phải người của phe ông Trọng, đã được tới gần 90% số phiếu của 175 Ủy viên chính thức trong Trung ương. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân không tạo được một thành tích tốt nào trong nhiều chức vụ suốt hơn thập niên qua nhưng vẫn đã được phe nhóm lợi ích bầu vào Bộ chính trị với số phiếu rất cao 70%!

Tình hình này chứng tỏ: Nguyễn Phú Trọng lại thảm bại lần nữa trong việc cô lập và kiềm chế Nguyễn Tấn Dũng. Trong Hội nghị Trung ương 5 (10.12) mặc dù nhân danh Bộ chính trị, nhưng ông Trọng đã không thuyết phục được Trung ương đảng đẩy Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi chức vụ Thủ tướng. Trái lại, từ đó đến nay ông Dũng tiếp tục chặn và chặt các đòn của phe ông Trọng.

Hiện nay cả trong Đảng và ngoài xã hội đều biết rõ mưu đồ và dụng tâm của hai người này. Trong khi Nguyễn Phú Trọng, một người cực kì bảo thủ, chỉ muốn duy trì chế độ toàn trị bằng cả những biện pháp tồi tệ nhất qua việc đàn áp và chụp mũ các trí thức, thanh niên và cả những đảng viên tiến bộ. Cụ thể mới nhất là những mánh lới và thủ đoạn tồi tệ của ông Trọng liên quan tới việc vận động cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Còn Nguyễn Tấn Dũng từ khi nắm chức Thủ tướng (2006) chỉ lo thu vén tiền bạc cho bản thân, gia đình và bảo vệ nhóm lợi ích chỉ biết tham nhũng, mặc dầu hoàn toàn thất bại trong kinh tế, tài chánh làm cho toàn bộ hệ thống kinh tế-tài chánh của VN đang rơi vào vực thẳm!

Sự tranh giành quyền lực và tiền bạc giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng –một người mơ ngủ chính trị và một người chỉ mơ tiền- vẫn chưa ngã ngũ và sẽ còn diễn ra khốc liệt, tàn bạo trong thời gian tới. Nhưng nó đang dẫn tới những hậu quả tai hại và nguy hiểm không chỉ cho nhân dân về nhiều mặt và cho chính cả Đảng cộng sản:

1. Tệ tham nhũng, phe nhóm, mua chức bán quyền sẽ càng công khai hơn trong các dịp gọi là „bỏ phiếu tín nhiệm“ trong nhiều chức vụ cao ở nhiều lãnh vực trong thời gian tới.

2. Làm tệ liệt các hoạt động kinh tế-tài chánh, kế hoạch tái cơ cấu các Tập đoàn và Tổng công ti Nhà nước sẽ vẫn dẫm chân tại chỗ, trong khi ấy kinh tế tư nhân không có vốn nên tình trạng phá sản cao chưa từng thấy. Tình hình suy đồi này sẽ tạo ra lỗ hổng nợ công càng khủng khiếp hơn.

3. Kinh tế-tài chánh tê liệt và thanh toán lẫn nhau giữa các phe nhóm ở cấp trung ương là cơ hội vàng cho bọn bành trướng Bắc kinh thả cửa thao túng ở biển Đông và lũng đoạn ở ngay cấp cao nhất trong ĐCS VN. Các phe nhóm từ công khai tới ngấm ngầm sẽ cầu cứu Bắc kinh để bảo vệ quyền lợi riêng, bất kể tới quyền lợi lãnh thổ và danh dự tổ quốc.

4. Chính vì thế, nhân dân đã hoàn toàn mất tin tưởng vào nhóm cầm đầu chế độ toàn trị. Nhiều trí thức, nhà báo, thanh niên và cả những đảng viên tiến bộ đã công khai tố cáo sự tham lam quyền-tiền, cúi đầu trước bọn bành trướng Bắc kinh, nhưng lại vô cùng tàn bạo với nhân dân.

Trước tình hình rất đen tối, thay vì biết phục thiện và dựa vào dân, thực hiện dân chủ thực sự thì cả Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, theo những cách riêng của mỗi nhóm, lại huy động bộ máy kìm kẹp để tăng cường đàn áp nhân dân về mọi mặt. Vì thế các tổ chức quốc tế uy tín đã xếp chế độ toàn trị ở VN đứng đội sổ trên thế giới về tham nhũng, vi phạm nhân quyền và đàn áp báo chí!

Việc ngày 16.5 hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên (21 tuổi) và Đinh Nguyên Kha (25) đã bị kết án 6 năm và 8 năm tù chỉ vì việc tố cáo Bắc kinh xâm lấn và những hành động độc tài của chế độ toàn trị đã là bằng chứng nữa của bạo quyền. Nghĩa là chỉ vì lòng yêu nước mà những người trẻ đã phải nhận những bản án rất nặng nề. Rõ ràng qua sự việc này đã cho thấy, những người cầm đầu chế độ toàn trị đang lập lại của những bản án dã man của thời thực dân trước đây chống lại người yêu nước!

Cuộc tranh giành quyền lực giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị trung ương 7 vừa qua là sự tiếp nối tất yếu của việc tranh giành quyền lợi giữa hai người này với cao điểm là Hội nghị trung ương 6 (10.2012). Vì quyền lợi của đất nước, vì cuộc sống của nhân dân và sự toàn vẹn lãnh thổ, nên không một ai trong chúng ta có thể im lặng để hai phe bảo thủ độc tài và nhóm lợi ích tham nhũng lợi dụng quyền-tiền tiếp tục cưỡi đầu bóp cổ nhân dân hòng bảo vệ những lợi ích vị kỉ sai lầm của họ!

Vấn đề cực kì quan trọng này chúng tôi đã có dịp phân tích và dự đoán từ cuối năm 2012 trong bài phân tích về Hội nghị Trung ương 6 (10.2012): „Trọng ngố, Dũng hèn đang đưa đất nước tới vực thẳm và con đường của chúng ta“

(http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2012/hntu6.htm)

Ngày 16.5 nữ sinh viên Phương Uyên đã không biết sợ bạo quyền, trước tòa Uyên đã dám tuyên bố dõng dạc:

“Việc tôi làm thì tôi chịu xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn.“

Tiếng gọi của Phương Uyên, đại diện của những người trẻ VN thời đại, là tiếng nói của lương tâm và ý chí kêu gọi, thúc giục tất cả chúng ta!

Cuộc tranh giành quyền lực và thanh toán lẫn nhau giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng đã đạt tới cao điểm mới rất tàn khốc và tồi tệ, nhưng cũng chính là lúc cơ hội rất tốt cho nhân dân ta đứng lên rũ bỏ độc tài và xây dựng dân chủ. Vì thế chúng tôi trân trọng gởi lại lần nữa bài phân tích về Hội ngị Trung ương 6 (10.2012) để các vị quan tâm ở trong và ngoài nước, kể cả các đảng viên tiến bộ, cùng tham khảo, suy nghĩ sâu thêm, rộng hơn để vạch ra con đường chung tiến lên cho toàn dân tộc ta một cách chắc chắn. Ngoài ra mời xem thêm loạt bài gồm ba phần tổng kết 2 năm làm Tổng bí thư của Nguyễn Phú Trọng (1.2011-1.2013): http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2013/adt1.htm; http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2013/adt2.htm; http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2013/adt3.htm

_________________________________________

Trọng ngố, Dũng hèn đang đưa đất nước tới vực thẳm !

Và con đường của chúng ta

Âu Dương Thệ

„Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị….

Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá.“ Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc HNTU 6 15.10.2012

Đất nước đang phải đối đầu trước cuộc xâm lấn vừa công khai trắng trợn vừa tinh vi xảo quyệt của phương Bắc. Hệ thống chế độ độc tài toàn trị dựa trên chủ thuyết Marx-Lenin cùng với Kinh tế thị trường định hướng XHCN còn dựng lên xã hội tư bản hoang dã, dẫn tới nạn tham nhũng và bè phái cực kì khủng khiếp, nợ công chồng chất, kinh tế kiệt quệ, các tập đoàn kinh tế nhà nước đang phá sản và gây thiệt hại cho công quĩ hàng trăm ngàn tỉ đồng, khiến cho chính Nguyễn Tấn Dũng đã phải công bố trước Quốc hội ngày 22.10 là hoãn quyết định tăng lương liên hệ tới khoảng 20 triệu người ăn lương, hưu trí, trợ cấp và gia đình.[1] Trong khi ấy nông dân bị các đại gia cấu kết với cường hào đỏ tước đoạt đất đai, công nhân bị chủ nhân nước ngoài cấu kết với tư bản đỏ bóc lột! Nạn giáo dục xuống cấp nghiêm trọng, các tệ trạng „chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp“[2]…bùng nổ. Trong khi đó sinh viên ra trường thất nghiệp, chuyên viên trí thức có khả năng và tâm huyết bị gạt sang lề xã hội, nhiều nhân sĩ có tâm huyết và các Bloger bị theo dõi, chụp mũ và giam giữ…

Giữa lúc chủ quyền đang bị đe dọa, các hải đảo bị lấn chiếm, các tệ tạng xã hội bùng phát, kinh tế đang rơi vào phá sản, nhân dân đói rách và những người yêu nước bị theo dõi đàn áp thì nhóm cầm đầu làm gì, tỏ thái độ như thế nào? Họ còn biết tự trọng không, còn ý thức tinh thần trách nhiệm không? Họ thật sự chống nhóm lợi ích, hay mỗi nhóm đang ra sức bảo vệ lợi ích nhóm cho riêng mình, bất kể tới lợi ích chung của nhân dân? Họ còn uy tín, khả năng và đức độ để tiếp tục ngồi lại hay không?

Trọng ngố, Dũng hèn!

Sau một số thủ đoạn vừa ấu trĩ vừa hạ cấp công khai từ bêu xấu lẫn nhau tới chặt vây cánh của nhau giữa hai ông Trọng-Sang một bên và bên kia là ông Dũng kéo dài 21 ngày trong hai tháng 7 và 8.2012 tại các cuộc tự phê bình và phê bình của Bộ chính trị và Ban bí thư, tới các cuộc bắt một số đại gia Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá, Lý Xuân Hải và Dương Chí Dũng [3] vào dịp kỉ niệm Cách mạng Tháng 8 cho tới trước Hội nghị Trung ương 6 (HNTU 6). Nguyễn Tấn Dũng phản pháo lại bằng cách cho Ban cán sự Đảng Chính phủ mà ông ta đứng đầu họp 5 ngày rồi ra thông cáo tự khen tự bốc, phần nói các khuyết điểm thì rất mờ nhạt.[4] Cũng chính vào dịp này Nguyễn Tấn Dũng ra Công văn số 7169 /VPCP-NC (12.9) cấm một số Blog điện tử tố cáo các sai lầm và tội ác của ông Dũng và cấm đảng viên vào đọc[5], đồng thời còn hô hoán vừa để chạy tội và tranh công là chính ông đã „chỉ đạo“ bắt cựu Chủ tịch Vinalines Dương Chí Dũng[6].

Tình hình nội bộ giữa những người cầm đầu càng trở nên rất căng thẳng và bất trắc, nên phe Nguyễn Phú Trọng đã phải đột ngột cho tổ chức HNTU 6 hai tuần sớm hơn thường lệ để tìm cách thanh toán số phận chính trị của Nguyễn Tấn Dũng. Tuy có nhiều vấn đề đưa ra thảo luận trong HNTU 6 là: tình hình kinh tế-xã hội 2012-13, tình hình doanh nghiệp nhà nước, chính sách đất đai, đường lối giáo dục, chuẩn bị nhân sự cấp cao cho nhiệm kì 2016-21, tái lập Ban Kinh tế trung ương. Nhưng đề tài quan trọng nhất trong HNTU 6 là „thảo luận và cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ chính trị,Ban bí thư“ theo Nghị quyết Trung ương 4.[7]

HNTU 6 đã kéo dài suốt 15 ngày từ 1.10 tới 15.10 và được coi là một trong vài HNTU họp dài nhất của ĐCSVN. Trong đó suốt 5 ngày, tức 1/3 thời gian, đã dành cho đề tài „thảo luận và cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ chính trị, Ban bí thư“[8] với mục tiêu hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng. Để thực hiện mục tiêu này phe Nguyễn Phú Trọng còn tiến hành các thủ đoạn tàn tệ, như phổ biến tập hồ sơ vài trăm trang về tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân trong Bộ chính trị, Ban bí thư trong hai tháng 7 và 8, trong đó phần chính liên quan tới Nguyễn Tấn Dũng và gia đình, gởi tới 175 Ủy viên Trung ương chính thức và 25 Ủy viên dự khuyết. Ngoài ra trong suốt hai tuần Hội nghị các Ủy viên Trung ương bị theo dõi nghiêm ngặt và cấm cả liên lạc với bên ngoài, nghĩa là khinh thường các Ủy viên Trung ương. Việc kết hợp các đòn phép từ bắt giữ một số đại gia thuộc vây cánh của Nguyễn Tấn Dũng trước HNTU 6 ít ngày, tới các biện pháp trưng bày tài liệu chống ông Dũng và khủng bố tinh thần các Ủy viên Trung ương thân Nguyễn Tấn Dũng ngay trong 15 ngày Hội nghị được coi là thủ đoạn của Nguyễn Phú Trọng bắt Nguyễn Tấn Dũng phải cởi truồng trước mặt các đồng chí Trung ương. Đây chính là hành động nhằm „ám sát chính trị“ Nguyễn Tấn Dũng! Đấy là chưa kể việc ông Trọng còn động viên tâm lí khi ông khóc nghẹn ngào trong dịp kỉ niệm 110 ngày sinh Lê Hồng Phong tại Thanh hóa ngày 6.9 trong lúc nhắc tới việc Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã phải hi sinh để lại con thơ 2 tuổi để ông muốn ám chỉ tới hiện tại về Nghị quyết của HNTU 4 cần có quyết định với những phần tử ở ngay cấp cao trong Đảng chỉ lo thu vén quyền lợi phe nhóm và gia đình[9]. Khi so sánh như vậy là ông Trọng muốn gợi tình cảm thương tâm trong quá khứ vì đảng quên mình và gia đình để nhắc nhở hiện tại việc ông Thủ tướng chỉ biết thu vén lợi ích gia đình và bè cánh!

Cả trong Thông báo HNTU 6 và diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng ngày 15.10 đều xác nhận tệ trạng tham nhũng bùng nổ rất mạnh dưới thời Nguyễn Tấn Dũng, sự làm ăn thua lỗ và thất thoát tài sản đất nước rất lớn, cũng như cách điều hành và quản trị vô trách nhiệm của các tập đoàn và tổng công ti dưới thời Nguyễn Tấn Dũng, nợ công ngày càng gia tăng, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ và tình hình kinh tế đang rất hiểm nghèo. Tình trạng giáo dục tiếp tục xuống cấp, nạn bằng giả, chạy chức, chạy quyền càng gia tăng. Trong Thông báo kết thúc ngày 15.10, HNTU 6 nhìn nhận các tệ trạng xã hội và tình trạng kinh tế suy đồi hiện nay là do:

„Về khuyết điểm chủ yếu : Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa ngăn chặn, khắc phục được tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt về lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện, vô nguyên tắc. [10]

Đồng thời cũng xác nhận nguyên nhân là do nhiều Ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư đã bất tài, vô đức, chỉ lo thu vén cho gia đình và bè nhóm:

„Việc một số đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn có biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó, đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ, thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực trong công tác cán bộ (như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp…) và đề bạt con một số cán bộ lãnh đạo không dựa trên năng lực, trình độ và quá trình rèn luyện, gây dư luận bức xúc.“ [11]

Vì thế, trong HNTU 6 Nguyễn Phú Trọng và phe cánh muốn ép Trung ương đảng phải ra quyết định kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng để tránh tiếng là chỉ tấn công một mình Nguyễn Tấn Dũng, nên trong đề nghị với Ủy ban Trung ương Nguyễn Phú Trọng và phe cánh đã yêu cầu nên có một hình thức kỉ luật nào đó cả với Bộ chính trị, nhưng đặc biệt cần phải „xem xét kỉ luật đối với một đồng chí Ủy viên Bộ chính trị“. Chủ ý này chính Nguyễn Phú Trọng đã xác nhận:

„Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị.„[12]

Mặc dù không dám nêu tên Ủy viên Bộ chính trị đó là ai, nhưng toàn Đảng toàn dân đều biết đó là Nguyễn Tấn Dũng. Theo lời ông Trọng thì 14 Ủy viên Bộ chính trị, trong đó cả Nguyễn Tấn Dũng, đã yêu cầu các Ủy viên Trung ương ra quyết định kỉ luật chung với Bộ chính trị và đặc biệt riêng với Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng một đa số rất lớn Ủy viên Trung ương đã bỏ phiếu „không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị“:

„Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị „[13]

Khi đọc tới đoạn trên thì đài truyền hình quay cảnh Nguyễn Phú Trọng đã lại „nghẹn ngào“ như muốn khóc. Phải chăng ông Trọng khóc vì đau khổ về sự bất lực và thất bại ê chề của chính mình ?! Trong khi đó Nguyễn Tấn Dũng ngồi ở hàng đầu lại nheo mắt cười mũi.[14] Diễn biến của HNTU 6 đã cho thấy, Nguyễn Tấn Dũng tuy nhìn nhận trong vai trò Thủ tướng đã gây những sai lầm nghiêm trọng trong việc bất lực chống tham nhũng và thất bại hoàn toàn trong việc tổ chức và điều hành các tập đoàn kinh tế nhà nước, nhưng đã hèn không dám nhận trách nhiệm trước các sai lầm cực kì nghiêm trọng này bằng cách từ chức. Chẳng những cố đấm ăn xôi, ông Dũng còn xảo quyệt vận động vây cánh trong các Ủy viên Trung ương chống lại yêu sách của phe Nguyễn Phú Trọng.

Vì chủ quan khinh địch và không đủ bản lĩnh lẫn uy tín nên Nguyễn Phú Trọng đã không thuyết phục được các ủy viên Trung ương đẩy Dũng đi. Cuộc vận động trả đũa của Nguyễn Tấn Dũng ngay trong HNTU 6 đã khiến phe Nguyễn Phú Trọng-Trương Tấn Sang thất bại nhục nhã. Cuộc bỏ phiếu trong Trung ương đảng với đại đa số rất lớn ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục giữ ghế Thủ tướng đã khiến cho Nguyễn Phú Trọng rất tức tối và buồn bực vì đã bị phe Nguyễn Tấn Dũng lột mặt nạ, trở thành Tổng bí thư ngố ngay trong HNTU 6. Có hiểu được hoàn cảnh và tâm trạng này của Nguyễn Phú Trọng mới có thể biết, tại sao trong diễn văn bế mạc Nguyễn Phú Trọng đã có bộ mặt buồn thiu, cử chỉ ngượng ngịu và cuối cùng lại phải sụt sùi muốn khóc khi ông ta nói tới quyết định từ chối của Trung ương đảng và chính vào lúc đó ngồi chỗm chệ ở hàng ghế đầu Nguyễn Tấn Dũng đã tỏ động tác cười thầm qua cử chỉ nhéo mắt và cười mũi!!

Những hậu quả nguy hiểm cho nhân dân và đất nước

1. Nếu mục tiêu chính của HNTU 6 là chỉnh đốn Đảng, thanh lọc những người có trách nhiệm đã để cho tham nhũng bùng nổ, các tập đoàn kinh tế nhà nước làm ăn thua lỗ làm thất thoát hàng trăm nghìn tỉ đồng tài sản của đất nước thì Hội nghị này đã hoàn toàn thất bại. Trách nhiệm thuộc về Bộ chính trị, Ban bí thư; trong đó chịu trách nhiệm cao nhất là Nguyễn Phú Trọng,Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng. Việc sau HNTU 6 Nguyễn Tấn Dũng vẫn ngồi lì ở ghế Thủ tướng và ngày 22.10 lại ra trước Quốc hội tuyên bố chiếu lệ „nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn của người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi trước Quốc hội, trước toàn Đảng, toàn dân“.[15] Rồi sao nữa? Một kẻ phạm tội thì phải bị xét xử, người cầm đầu một công ti làm ăn thất bại thì phải từ chức. Đấy chính là công bằng và tự trọng. Một Thủ tướng đã đi từ sai lầm này tới sai lầm khác và gây thiệt hại rất nghiêm trọng cho đất nước mà chỉ nhận trách nhiệm và xin lỗi xuông rồi vẫn ngồi lì. Vì chính gần hai năm trước, ngày 24.11.2010, Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tuyên bố hùng dũng như vậy trước Quốc hội trong vụ Vinashin, nhưng vẫn ngồi lì lợm ở ghế Thủ tướng để tiếp tục gây ra những sai lầm nghiêm trọng khác.[16] Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng bất lực nhất, tham nhũng nhất và gia đình trị nhất, nhưng vẫn ngồi chỗm trệ trên ghế Thủ tướng trên 6 năm, cả Bộ chính trị lẫn Trung ương đảng không bứng đi được. Điều này chứng tỏ cán cân trong Bộ chính trị, Trung ương đảng đang đứng về phía nào, phía trong sạch hay phía tham nhũng, phía còn biết xấu hổ hay phía đã đánh mất lòng tự trọng! Các sự kiện này chứng minh sự bế tắc cùng cực của chế độ độc tài toàn trị.

2. Không chỉ Nguyễn Tấn Dũng bị mất mặt trước đảng viên và nhân dân vì đã bị phe Nguyễn Phú Trọng-Trương Tấn Sang bắt cởi truồng diễu suốt 15 ngày tại HNTU 6, mà phe Nguyễn Phú Trọng-Trương Tấn Sang cũng bị đòn trả đũa sát ván của phe Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị này khi đại đa số Trung ương đảng đã bác yêu sách đòi Nguyễn Tấn Dũng phải rút lui, lột mặt nạ Nguyễn Phú Trọng là người thiếu uy tín và khả năng. Cho nên hiện nay các phe đang rất cay cú nhau và đang tìm cách tiếp tục trả thù nhau. Cụ thể nhất là chỉ một ngày sau HNTU 6 bế mạc, trong dịp gặp cử tri ở Hà nội Nguyễn Phú Trọng đã cho biết, sự việc „chưa phải là xong“[17]. Rõ ràng và công khai hơn, trong hai ngày tiếp xúc với cử tri ở Sài gòn (17-18.10) Trương Tấn Sang đã tiếp tục nhạo báng gọi Nguyễn Tấn Dũng là „đồng chí X“ (hay đồng chí lạ!) và khuyên Nguyễn Tấn Dũng „không đủ uy tín thì nghỉ, ở làm gì nữa“ [18] và còn công kích kết án ông Dũng “Nếu chúng ta hèn nhát thì làm đơn gửi cho Đảng chúng ta nghỉ, chúng ta rút lui đi để cho những người dũng cảm làm việc”[19]. Nguyễn Tấn Dũng đã trả đũa ngay bằng cách không để báo điện tử Chính phủ đưa tin cuộc nói chuyện của Trương Tấn Sang ngày 18.10 và chỉ đưa tin sai lệch cuộc nói chuyện của ông Sang ngày 17.10.[20] Không những thế, vì quá tức tối nên Nguyễn Tấn Dũng tuy không phải đại biểu Quốc hội ở Sài gòn, nhưng lần này đã nói chuyện với cử tri sinh viên và giáo sư ở Đại học Quốc gia Sài gòn và vẫn không biết ngượng đề cao „lòng tự trọng“[21]. Đặc biệt nữa, trong Báo cáo dài gần 15.000 chữ trước Quốc hội ngày 22.10 Nguyễn Tấn Dũng đã không một lần nhắc tới tên Bộ chính trị[22] , mặc dù có mặt cả Nguyễn Phú Trọng lẫn Trương Tấn Sang…. Như thế ông Dũng muốn cho mọi người biết rằng, đối với ông thì Bộ chính trị đã chết rồi, không còn uy tín gì nữa.

3. Việc đại đa số Ủy viên Trung ương đảng đã bác yêu cầu của Bộ chính trị, đây là lần đầu tiên xẩy ra trong ĐCSVN, chứng minh rõ ràng là, đại đa số các Ủy viên Trung ương – gồm phần lớn là các bộ trưởng, thứ trưởng các bộ quan trọng, BT tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân 63 tỉnh và thành phố – đều đã dính líu sâu vào các vụ tham nhũng, chạy chức, mua quyền. Họ không còn thiết tha tới Đảng và cũng không còn thấy tương lai của chế độ, mà chỉ còn biết thờ tiền-quyền, cấu kết với nhau để bảo vệ lợi ích nhóm. Họ là bầy sâu thì cần giữ kẻ nuôi bầy sâu, cho nên họ đã không truất phế Nguyễn Tấn Dũng! Kết quả HNTU 6 và sự chống đối nhau ngày càng công khai và mãnh liệt giữa một số người chính trong Bộ chính trị đã chứng tỏ sự phân hóa trong Bộ chính trị, Ban bí thư và Trung ương đảng đã tới đỉnh điểm.

4. Nhóm cầm đầu Bắc kinh biết rất rõ và theo dõi rất sát tình hình và những biến động trong nội tình ở cấp chóp bu ĐCSVN. Họ đang tìm cách khai thác triệt để; sẵn sàng che chở cho nhân vật nào ở Hà nội đang bị thất thế. Vì thế trước HNTU 6 ít ngày Nguyễn Tấn Dũng đã được mời sang dự Hội chợ thương mại, đầu tư ASEAN – Trung Quốc lần thứ 9 ở Nam Ninh, Quảng Tây ngày 20.9 (mặc dầu hầu hết các nước Asean chỉ cử cấp thấp sang dự). [23] và đã được Tập Cận Bình, người đứng đầu sắp tới của ĐCS Trung quốc, tiếp ân cần. Hình ảnh cuộc gặp gỡ đã được đài Bắc kinh truyền đi rộng rãi và được các đài và báo VN trân trọng phổ biến. Qua đó Bắc kinh muốn nhắn nhủ ngay cả đồng minh thân thiết của họ là Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên Bộ chính trị lẫn Trung ương đảng CSVN rằng, đừng có ép buộc quá với Nguyễn Tấn Dũng. Cho nên Nguyễn Tấn Dũng vẫn ngồi yên trên ghế Thủ tướng và chính vì thế sự kình chống nhau trong Bộ chính trị, Ban bí thư và Trung ương đảng CSVN tiếp tục gia tăng. Đây chính là sách lược của Bắc kinh muốn cho đối phương chảy máu, kiệt sức, tê liệt để từ đó ra tay thủ lợi. Chính sách chia để trị, sò hến cắn nhau ngư ông biển lợi của nhóm cầm đầu Bắc kinh đối với ĐCSVN đã được thi thố nhiều lần suốt từ thập niên 50 của Thế kỉ trước. Một VN đang rơi vào tình trạng kinh tế phá sản, nợ Trung quốc chồng chất (chỉ tính 8 tháng đầu 2012 số nhập siêu của VN với Trung quốc đã lên tới 10 tỉ USD, gần xấp xỉ với số nhập siêu cả năm 2011)[24], nội bộ đầu não phân hóa và kình chống nhau là cơ hội ngàn vàng để Bắc kinh chiếm đóng các hải đảo và ra các điều kiện để Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng phải chấp nhận.

5. Với tư duy coi việc nước là chuyện riêng, tác phong vô trách nhiệm và lề lối làm việc cà rề cà rịch từ Bộ chính trị, Ban bí thư tới Trung ương đảng khiến cho những khó khăn của đất nước ngày càng gia tăng và nguy cơ xâm lấn của Bắc kinh ngày càng nguy hiểm. Thật vậy, giữa lúc Bắc kinh đang gia tăng ngang ngược chiếm đảo và tài nguyên của VN; trong khi tham nhũng bùng nổ, kinh tế-tài chánh đang rơi vào phá sản, những bức xúc của nông dân, công nhân và công viên chức đang sôi sục thì từ khi Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư đã mở hết hội nghị này tới hội nghị khác, tổng cộng lại tất cả kéo dài trong nhiều tháng. Chỉ tính trong vài tháng gần đây mọi người đều phải giật mình về những cuộc hội họp kéo dài của Bộ chính trị, Ban bí thư, Trung ương đảng và các Ban, các Bộ…Chỉ tính riêng từ tháng 7 tới nay Bộ chính trị, Ban bí thư đã bỏ ra 21 ngày họp cho tự phê bình và phê bình, 15 ngày Bộ chính trị, Ban bí thư,Trung ương đảng họp HNTU 6. Đấy là chưa kể các Ban trung ương, Ban cán sự đảng chính phủ, các bộ, các ngành và các đảng bộ tỉnh và thành phố mở hàng loạt các hội nghị tự phê bình và phê bình kéo dài trung bình 3-5 ngày. Bao nhiêu tiền bạc và thì giờ cho những cuộc họp này. Nhưng kết quả như mọi người thấy, từ 21 ngày họp tự phê bình, phê bình của Bộ chính trị,Ban bí thư, 15 ngày họp HNTU 6 và 5 ngày họp Ban cán sự Đảng Chính phủ chẳng đi đến câu cả, vẫn là chuyện Nguyễn Như Vân, nhưng tốn kém tiền bạc của dân thì rất lớn! Tệ hại nữa là những người cầm đầu chế độ, tuy mở miệng đều nói để dân biết, dàn bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhưng tất cả các hội nghị này họ đều đóng cửa kín, không cho báo chí theo dõi, không thông tin ra ngoài. Mỗi khi họp xong thì ra bản Thông báo toàn những ngôn ngữ dao to búa lớn, tự khen, tự tha bổng cho nhau và những hứa hẹn vô thưởng vô phạt! Họ đã biến việc của đất nước và số phận của gần 90 triệu người thành việc việc riêng tư của vài người!

Nguyên nhân: Sai lầm từ hệ thống

Nhiều lão thành cách mạng, trong đó có cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, những người suốt đời đắp chăn CS cho nên nhìn thấy rất rõ chấy rận trong chế độ này ngày càng sinh sôi nẩy nở. Cả Trương Tấn Sang cũng phải nhìn nhận là “ Một con sâu đã nguy hiểm huống gì một bầy”[25]. Họ đã thấy lỗi từ hệ thống của chế độ độc tài toàn trị. Ngày càng có nhiều chuyên viên đã gột bỏ thái độ tránh né và thẳng thắn công khai nhìn nhận rằng, chính hệ thống tổ chức chế độ độc tài toàn trị, với cơ chế độc đảng, tôn thờ chủ nghĩa Marx-Lenin, ruộng đất thuộc chủ hữu Nhà nước (Đảng) và Kinh tế thị trường định hướng XHCN với các tập đoàn và tổng công ti làm chủ đạo đã là nguyên nhân của mọi nguyên nhân đưa tới các tệ trạng tham nhũng, chạy chức, mua quyền, bất công; cảnh đói nghèo, tụt hậu của VN so với nhiều nước trong khu vực và các nạn đàn áp tước đoạt nhân phẩm của nhân dân chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Và từ đó đưa tới lệ thuộc phương Bắc ngày càng nguy hiểm.

Lỗi hệ thống là như thế nào? Hệ thống (System) là nền tảng, kết cấu để một sự vật được hình thành. Như một căn nhà đứng vững được là nhờ có nền xi măng và tường cột vững chắc, mái nhà có ngói tốt để che mưa nắng…Nếu các cơ cấu này được xây dựng với chất liệu tốt thì căn nhà vững chãi trước các bão tố. Ngược lại, nếu xây dựng với chất lượng xấu thì căn nhà sẽ siêu vẹo, sụp đổ, không bõ công sửa chữa. Hệ thống chính của một chiếc xe hơi là bộ máy, khung xe và các bánh xe. Nếu các bộ phận của hệ thống này tốt thì xe chạy tốt. Nếu xe chỉ hoành tráng bề ngoài nhưng chất lượng dỏm thì chỉ chạy ít ngày sẽ hư và nguy hiểm tới tính mạng !

Trong cơ chế chính trị ở VN hiện nay thì hệ thống của nó bao gồm: chế độ độc đảng, tư tưởng Marx-Lenin, lấy tập trung dân chủ làm guồng máy vận hành chế độ; trước đây dùng doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể để tổ chức kinh tế, nay được thay một phần bằng Kinh tế thị trường định hướng XHCN, với các tập đoàn và tổng công ti độc quyền và nhiều ưu đãi.

Sự tan rã của Liên xô và sự chuyển mình của các nước CS Đông Âu sang dân chủ đa nguyên trước đây hai thập kỉ đã chứng minh không thể chối cãi được là chế độ CS với các hệ thống cơ bản trên đây đã hoàn toàn sai lầm và không tưởng, nó vĩnh viễn thuộc về quá khứ và không còn tương lai. Chính hệ thống chính trị này đã gây ra nạn độc tài, chỉ một vài người suy nghĩ và quyết định cho tất cả, ý kiến và các quyền chính đáng của nhân dân không được tôn trọng, luật pháp chỉ bao che cho kẻ có quyền-tiền. Tình trạng này dẫn tới lạm quyền, tham nhũng, đàn áp, dối trá, kinh tế xuống dốc, nhân dân đói nghèo và đạo đức suy đồi. Từ khi thực hiện Kinh tế thị trường định hướng XHCN còn thúc đẩy sự thỏa hiệp giữa kẻ có quyền và kẻ có tiền làm sống dậy một xã hội tư bản hoang dã trước đây mấy thế kỉ. Đây là những hình ảnh rất đau thương của VN suốt trên 60 năm ngụp lặn trong hệ thống XHCN!

Sự thực rõ ràng như trắng với đen, ngày với đêm như vậy. Nhưng Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu CSVN hiện nay, vừa lú vừa ngố làm như không biết những gì đã xẩy ra ở Liên xô, Đông Âu hay vẫn mù quáng chỉ biết sách vở! Từ khi lên làm Tổng bí thư trong mỗi HNTU ông thường nêu ra một loạt các câu hỏi, làm như ông rất khách quan của người làm công tác khoa học và cũng muốn lắng nghe ý kiến người khác. Ông Trọng đã đặt ra các câu hỏi như, tại sao từ trước tới nay Bộ chính trị từ thời này sang thời khác tổ chức hàng trăm cuộc tự phê bình và phê bình và ban bố không biết bao nhiêu nghị quyết, nhưng các tệ trạng tham nhũng, bán chức mua quyền ngay ở cấp cao ngày càng trầm trọng? Hay tại sao sau trên ¼ thế kỉ gọi là “đổi mới” nhưng đất nước vẫn lạc hậu, giáo dục càng xuống cấp? Trong HNTU 6 ông Trọng đòi phải giải quyết tốt các vụ khiếu kiện của nông dân, nhưng lại vẫn khăng khăng đòi ruộng đất độc quyền của nhà nước và khẳng định „ không phải là quyền sở hữu“ của nhân dân. Như vậy chính Nguyễn Phú Trọng đã phủ nhận quyết định của ĐH 11.[26]

Những gì ông đang hô to nói lớn và những gì ông ta đang làm hoàn toàn mâu thuẫn với nhau, như ngày với đêm. Ai theo dõi các hoạt động của Nguyễn Phú Trọng thì thấy rất rõ là, ông Trọng đang tự cột hai chân của mình bằng chế độ độc đảng và chủ nghĩa Marx-Lenin đã phá sản và không tưởng. Không những thế, ông còn tự cột hai tay vào dây Kinh tế thị trường định hướng XHCN và vào “anh cả phương Bắc”. Thế rồi ông Trọng đấm ngực than trách tại sao bao nhiêu giải pháp và nghị quyết đưa ra chẳng kiến hiệu gì cả, thậm chí tình hình ngày càng nguy khốn! Cụ thế mới nhất là sau 21 ngày tự phê bình và phê bình và 15 ngày thảo luận nhưng kết quả HNTU 6 vừa qua đã trở thành con số không ! Chẳng những thế ông còn bị Nguyễn Tấn Dũng và đa số trong Trung ương lột mặt nạ trở thành ông Tổng ngố ngay trước 200 quan văn võ giường cột của chế độ mà ông từng giáo dục và ca tụng! Rõ ràng Nguyễn Phú Trọng đang tự dẫn mình vào ngõ bí, vì cứ mãi luẩn quẩn với cái hệ thống chính trị đã sai lầm và phá sản, như chính ông đã qui định trong Cương lĩnh Chính trị 2011!

‘Trách nhiệm Thủ tướng chỉ là bước đầu’

Quốc Phương. BBC Việt ngữ, 18 tháng 5, 2013

Thủ tướng Nguyễn Tấn DũngTS Doanh cho rằng không riêng Thủ tướng, ai ra quyết định đều phải chịu trách nhiệm

Một nhà quan sát từ trong nước cho rằng việc xác định trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng chỉ mới là bước đầu và là một bước đi khiêm tốn về xác định trách nhiệm cá nhân của lãnh đạo chính quyền, nhà nước.

Trao đổi với BBC hôm 18/5/2013 từ Hà Nội, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh cho rằng về nguyên tắc bất cứ ai ra quyết định đều phải chịu trách nhiệm cá nhân, từ tài chính cho tới cả hình sự.

Nguyên thành viên Ban tư Vấn của Thủ tướng Chính phủ nói: “Xác định trách nhiệm cá nhân cần phải được xác định cho mỗi một người có liên quan đến quyền lực. Bất cứ một người nào, lớn hay nhỏ, có nhận quyền lực, ông Chủ tịch xã cũng phải chịu trách nhiệm cá nhân…

“Tôi nghĩ rằng việc xác định của ông Thủ tướng mới là bước đầu, và là bước tiến có tính chất khiêm tốn, để tiến tới xác định trách nhiệm cá nhân, nhưng về nguyên tắc, ai có quyền quyết định, người đó phải chịu trách nhiệm.

“Chịu trách nhiệm cá nhân về mặt tài chính, về mặt hành chính và nếu như có sai phạm, thì chịu trách nhiệm cả về mặt hình sự để Tòa án có thể phán xét.”

Cựu Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng đây là những vấn đề mà nền hành chính và thể chế, bộ máy của Việt Nam cần có những quy định kịp thời để xử lý.

“Một nền kinh tế có thể chuyển từ kinh tế nghèo lên kinh tế thu nhập trung bình, rồi lên thu nhập cao, chủ yếu nhờ vào bộ máy thể chế. Bộ máy phải trong sạch, phải có hiệu quả, phải được giám sát”

TS Lê Đăng Doanh

Tiến sỹ Doanh nhấn mạnh yếu tố quyết định để Việt Nam chuyển đổi thành công từ một quốc gia nghèo, thu nhập thấp, sang một quốc gia có thu nhập trung bình và đi tới khá giả phụ thuộc rất lớn vào việc bộ máy chính quyền trong sạch, hiệu quả và được giám sát.

Ông đặt kỳ vọng vào việc giải quyết vấn đề trong dịp Việt Nam sắp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này. Ông nêu câu hỏi:

“Bây giờ việc sửa đổi Hiến pháp có thể hiện được và rút ra để sửa đổi, bổ sung, những vấn đề đang rất thời sự trong việc thể chế của Việt Nam hay không?

“Và chúng ta biết rằng một nền kinh tế có thể chuyển từ một nền kinh tế nghèo lên nền kinh tế thu nhập trung bình, rồi lên thu nhập cao, chủ yếu nhờ vào bộ máy thể chế.

“Bộ máy phải trong sạch, phải có hiệu quả, phải được giám sát và phải tránh hình thành những lợi ích nhóm, lạm dụng chức quyền tham nhũng.”

Nhà phân tích cho rằng đây là những tật bệnh mà Việt Nam vừa qua đã phát hiện và kỳ vọng cuộc sửa đổi Hiến pháp sẽ diễn ra kịp thời để bổ sung, đáp ứng được những yêu cầu thay đổi mà xã hội Việt Nam đang mong đợi.

‘Vì sao cần kiểm soát?’

Một nhà quan sát khác ở trong nước, thuộc thế hệ trẻ hơn, đưa ra gợi ý tham khảo về việc vì sao cần có sự kiểm soát quyền lực nhà nước và chính quyền.

Trả lời BBC từ Sài Gòn, nhà báo Hồng Ngọc, cựu Trưởng Ban Kinh tế của tờ báo Điện tử VietnamNet bình luận:

“Trong các nguyên tắc của chính trị học hiện đại, quyền lực chỉ có thể được kiểm soát bởi quyền lực, trên nguyên tắc độc lập và cân xứng. Với hầu hết các xã hội, ba nhánh quyền lực cơ bản là lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Nó độc lập với nhau và kiểm soát lẫn nhau, dựa trên việc thể chế hóa quy trình hoạt động của từng cơ quan quyền lực.

“Chính phủ, đứng đầu bởi Thủ tướng hoặc đôi khi là Tổng thống, về cơ bản, bị kiểm soát bởi hệ thống tư pháp độc lập trong việc hành pháp đúng khuôn khổ pháp luật. Nếu tham nhũng hay lạm quyền thì sẽ bị tư pháp luận tội.

Tuy nhiên nguyên tắc này chưa được hoặc khó được áp dụng ở Việt Nam, theo cây bút phân tích này, có lý do chính sau:

“Chính phủ cũng bị kiểm soát bởi cơ quan lập pháp độc lập (quốc hội hay nghị viện) trong việc xây dựng chính sách, kế hoạch và chi tiêu ngân sách… Vấn đề đối với Việt Nam hiện tại là cơ quan tư pháp chưa độc lập.

“Quốc hội về nguyên tắc là cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng tình trạng hầu hết đại biểu quốc hội hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm với các chức danh trong chính phủ hoặc chính quyền địa phương, và về nguyên tắc thì không thể trông đợi sự “độc lập” trong các quyết định của các đại biểu quốc hội như vậy.”

‘Giải pháp cụ thể’

“Để tránh chối tội, trốn tội thì lại phải quay về với các phương thức kiểm soát quyền lực cơ bản. Đó là tư pháp độc lập. Quốc hội cũng phải độc lập, với nguyên tắc mọi đại biểu quốc hội – hoặc ít nhất là đa số ¾ – phải là đại biểu chuyên trách, không phải là cấp dưới của Chính phủ”

Hồng Ngọc – cựu Trưởng Ban Kinh tế báo VietnamNet

Khi được hỏi cần có giải pháp nào cụ thể để giải quyết được mối quan hệ giữa xác định trách nhiệm cá nhân lãnh đạo và cơ chế quyền lực lãnh đạo vận hành theo nhiệm kỳ, bên cạnh cơ chế ‘quyết định tập thể’ khá phổ biến ở trong nước lâu nay, Tiến sỹ Doanh nói:

“Việt Nam bây giờ cần phải nhìn vào thực tế để đảm bảo rằng Đảng ra nghị quyết, thì trách nhiệm của Đảng đối với việc đó như thế nào, ai chịu trách nhiệm về nghị quyết đó và nghị quyết đó có hiệu lực pháp lý đến đâu?

“Nếu Quốc hội ra nghị quyết thì Quốc hội chịu trách nhiệm như thế nào và nếu Chính phủ ra nghị quyết và quyết định, thì Chính phủ chịu trách nhiệm đến đâu? Chứ cho đến nay, hiệu lực pháp lý và vị thế của nghị quyết của Đảng là cao nhất, nhưng trách nhiệm thì không rõ. Đấy là vấn đề mà chúng ta cần xem xét.”

Gần đây, nhiều ý kiến trong cộng đồng và các giới trong nước phản ánh Việt Nam vẫn còn tình trạng khá phổ biến các hành vi chối tội, trốn tội, thoái thác trách nhiệm của các quan chức cầm quyền, lãnh đạo ở nhiều cấp trong lúc mối quan hệ giữa trách nhiệm cá nhân của lãnh đạo với cơ chế nhiệm kỳ và lãnh đạo tập thể còn chưa tường minh.

Bình luận về giải pháp xử lý vấn đề này, nhà báo Hồng Ngọc gợi ý:

“Để tránh chối tội, trốn tội thì lại phải quay về với các phương thức kiểm soát quyền lực cơ bản. Đó là tư pháp độc lập. Quốc hội cũng phải độc lập, với nguyên tắc mọi đại biểu quốc hội – hoặc ít nhất là đa số ¾ – phải là đại biểu chuyên trách, không phải là cấp dưới của Chính phủ.

“Nếu Quốc hội có thẩm quyền bầu ra Thủ tướng, và xét duyệt các thành viên Chính phủ, thì Quốc hội cũng phải có quyền bãi miễn Thủ tướng Chính phủ trước thời hạn. Các thành viên chính phủ sẽ chịu trách nhiệm trướ Thủ tướng, còn Thủ tướng chịu trách nhiệm tuyệt đối trước Quốc hội.

‘Báo cáo trước dân’

Hôm 17/5, một quan chức thuộc Bộ Tư pháp của Việt Nam đã trao đổi với truyền thông trong nước tại một cuộc họp báo về kết quả chính quyền lấy ý kiến dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Thủ tướng có trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước nhân dân và các bộ trưởng cũng vậy”

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên

Ông Bấm Hoàng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ này cho biết một trong các nội dung được Quốc hội và chính quyền tiếp thu là kiến nghị nêu trong chương 7 về tổ chức và trách nhiệm của Chính phủ. Về tăng cường trách nhiệm cá nhân các thành viên Nội các, ông Liên được báo chí trong nước trích lời nói:

“Thủ tướng có trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước nhân dân và các bộ trưởng cũng vậy.”

Chủ đề về xác định trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu Chính phủ đã không ít lần được các giới và các Đại biểu Quốc hội đề cập qua các khóa gần đây.

Trong một phiên họp Quốc hội khóa hiện nay, Đại biểu Bấm Dương Trung Quốc đã đưa ra gợi ý với Thủ tướng về văn hóa từ chức khi người lãnh đạo trong bộ máy chính phủ và nội các không hoàn thành trách nhiệm, nhiệm vụ được giao phó, hoặc gây ra các sai phạm nghiêm trọng.

Trước đó, cựu Đại biểu Quốc hội Bấm Nguyễn Minh Thuyết đã từng đề nghị đình chỉ chức vụ lãnh đạo Chính phủ và những ai có trách nhiệm liên đới trong vụ việc Tập đoàn công nghiệp đóng tàu biển của Việt Nam Vinashin bị thua lỗ, thất thoát vốn lớn và rơi vào bờ vực phá sản.

Gần đây, Thủ tướng Việt Nam đã ngỏ lời xin lỗi trước các Đại biểu và nhân dân về các hạn chế, khuyết điểm và bất cập của nội các của ông, nhắc lại việc ông chịu trách nhiệm chính trị trước các quyết định, nhưng không có ý kiến hay động thái gì cho thấy ông sẽ từ chức hoặc tiếp thu, thi hành văn hóa từ chức như được Đại biểu Quốc hội gợi ý.

Trong Hội nghị Trung ương 7 vừa bế mạc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, hai quan chức cao cấp miền Nam đã được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị, một trong hai vị trí là Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, người được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cơ cấu vào nội các của mình ngay từ nhiệm kỳ đầu.

Cốc cốc : Tự kiểm duyệt các nội dung “nhạy cảm”

RFI, Trọng Nghĩa, 18/5/13

(DR)

(DR)

Đúng như lo ngại của nhiều người sử dụng Internet, Cốc Cốc – công cụ tìm kiếm trên mạng bằng tiếng Việt được thành lập với vốn của Nga – đã chấp nhận tự kiểm duyệt để có thể phát triển hoạt động tại Việt Nam.

Theo hãng tin Mỹ AP ngày hôm qua, 17/05/2013, một nhân vật điều hành của Cốc Cốc đã thừa nhận chủ trương của họ là ngăn không cho người sử dụng công cụ tìm kiếm này tiếp cận các trang web nhạy cảm về mặt chính trị. Mục tiêu, theo hãng tin AP, có lẽ là để tránh các phiền phức có thể đến từ phía chính quyền Việt Nam.

Trả lời phỏng vấn của hãng AP bằng tin nhắn, một đại diện của trang Web Cốc Cốc đã xác nhận rằng họ đã quyết định “không đáp ứng mọi tìm kiếm liên quan đến chính trị”.

Nhân vật này giải thích : “Chúng tôi là chuyên viên máy tính, hoàn toàn tách biệt với chính trị mà chỉ quan tâm đến lãnh vực công nghệ mà thôi. Theo nhân vật này, chính trị hoàn toàn không phải là trọng tâm của Cốc Cốc, vì vậy : “Bất cứ khi nào muốn tìm một cái gì đó bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc về chính trị ở Việt Nam, xin bạn vui lòng sử dụng Google.”

Theo hãng AP, hôm 15/05, khi sử dụng công cụ Cốc Cốc để tra từ Việt Tân, tên một đảng chính trị ở hải ngoại bị chính quyền Việt Nam liệt vào diện tổ chức khủng bố, kết quả đưa ra vẫn đầy đủ không khác gì Google, với các trang web của dảng này cả bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt.

Thế nhưng, qua hôm sau, người tìm kiếm từ khóa đó đã rơi ngay vào thông báo « Câu truy vấn của bạn không hợp lệ với công cụ tìm kiếm của chúng tôi » và nhanh chóng được chuyển hướng sang trang Google.

Đối với một công cụ tìm kiếm từng nuôi cao vọng soán ngôi vị số một hiện nay của Google trong tư cách là công cụ tìm kiếm trên mạng, quyết định tự kiểm duyệt, và nhất là “bán cái” cho trang web của Mỹ như kể trên mang một ý nghĩa khá mỉa mai.

Theo hãng AP, cho đến nay, chính vì không muốn phải áp dụng chủ trương kiểm duyệt theo yêu cầu của chính quyền Việt Nam, mà Google không lập văn phòng tại Việt Nam dù điều đó sẽ giúp tập đoàn Mỹ phát triển hoạt động trên một thị trường được cho có tỷ lệ sử dụng Internet tăng nhanh nhất trên thế giới hiện nay.

Quốc phòng : Nga ưu ái Việt Nam và nghi ngại Trung Quốc

Trọng Nghĩa, rfi, 18/5/13

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (Reuters)

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (Reuters)

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vừa kết thúc chuyên công du Liên Bang Nga từ ngày 12 đến 15/05/2013. Nhân dịp này, chính phủ hai nước đã cam kết « hợp tác hơn nữa trong lãnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia ». Trong bối cảnh tân chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng vừa đi thăm Nga vào tháng Ba vừa qua, giới phân tích không khỏi tự hỏi trở lại về trọng lượng của Hà Nội và Bắc Kinh trong chính sách đối ngoại quốc phòng của Nga.

Giáo sư Carl Thayer tại Học Viện Quốc phòng Úc đã ghi nhận rằng dù ảnh hưởng của Việt Nam không thể sánh bằng Trung Quốc, nhưng Việt Nam luôn luôn có một vị trí “đặc biệt” đối với Nga, trong lúc Trung Quốc luôn luôn tạo ra một tâm lý nghi ngờ nơi Mátxcơva.

Trả lời phỏng vấn của RFI, giáo sư Thayer trước hết nêu bật tính chất quan trọng của Việt Nam trong tư cách là đối tác mua vũ khí của Nga

Carl Thayer : Việt Nam là một trong những thị trường vũ khí lớn của Nga. Mối quan hệ này đã đi xa hơn việc bán hàng đơn thuần để bao gồm các lãnh vực đào tạo, bảo trì, sửa chữa và nâng cấp các thiết bị quan trọng hoặc hệ thống vũ khí. Quan hệ này cũng bao hàm việc đồng sản xuất tàu tuần tra và tên lửa. Với việc Việt Nam sẽ tiếp nhận sáu chiếc tàu ngầm lớp Kilo, quan hệ với Nga trong địa hạt quân sự quốc phòng sẽ mở rộng thêm với các cơ sở do Nga xây dựng ở Vịnh Cam Ranh và các dịch vụ giúp vận hành và bảo trì hạm đội tàu ngầm mới của Việt Nam.

Việt Nam sẽ bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp quốc phòng từ Nga trong nhiều thập kỷ tới đây. Yếu tố quyết định cho vấn đề này là tính tương thích của thiết bị Nga với kho thiết bị và vũ khí hiện tại của Việt Nam, cũng như giá cả phải chăng và các điều kiện thanh toán linh hoạt.

Chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vừa rồi là một hoạt động bình thường trong bang giao Nga-Việt, một quan hệ chỉ mới được nâng lên gần đây từ đối tác chiến lược sang quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Chắc chắn là nhân dịp đó, phía Nga đã đưa các đề nghị bán vũ khí tương lai ra để xem xét.

Trong bối cảnh chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng vừa đi thăm Nga vào tháng Ba, giáo sư Thayer đã phân tích thêm về vị trí của Bắc Kinh và Hà Nội trong chính sách đối ngoại của Mátxcơva.

Carl Thayer : Nga bán vũ khí cho cả Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng Trung Quốc bị cho là đã sao chép công nghệ và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Nga. Đây là một vấn đề khó chịu trong quan hệ giữa hai bên.

Trung Quốc hiện được quyền chế tạo một số vũ khí lớn của Nga như máy bay chiến đấu đa chức năng Su-30. Nga cũng có sức ép trên Bắc Kinh thông qua việc bán năng lượng cho Trung Quốc hiện thời và trong tương lai. Nga cũng đã cẩn thận không đưa vào Trung Quốc các loại công nghệ quân sự có khả năng gây mất ổn định cho tình hình an ninh khu vực. Ví dụ như mới đây, các nguồn tin công nghiệp Nga đã bác bỏ thông tin trên các phương tiện truyền thông Nga, cho rằng nước này sẽ bán máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm cho Trung Quốc.

Việt Nam sẽ không bao giờ cạnh tranh được với Trung Quốc về mặt quyền lực và ảnh hưởng trong khu vực. Thế nhưng Việt Nam sẽ luôn luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Nga vì quan hệ kinh tế và quốc phòng song phương, cũng như nhờ một cộng đồng người Việt to lớn ở Nga. Các liên doanh Nga Việt nhằm phát triển các nguồn năng lượng, từ dầu khí đến năng lượng hạt nhân, sẽ phát triển trong tương lai. Việt Nam cũng là một cửa ngõ chính trị hữu ích cho Nga trong quan hệ với ASEAN.

Theo quan điểm của Mátxcơva, các quan hệ với cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều có thể được theo đuổi cùng một lúc mà không cần phải lựa chọn. Trong trường hợp có xung đột, Nga hoàn toàn có khả năng đình chỉ việc cung cấp vũ khí và phụ tùng thay thế.

Sau cùng, cho dù quan hệ Nga Trung có trở thành gần gũi đến đâu chăng nữa, thì sẽ luôn luôn có một mối nghi ngờ dai dẳng của Nga đối với Trung Quốc và và sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Bắc Kinh.

Một thế hệ không cúi đầu

Người Việt, Ngô Nhân Dụng

phuong uyen va nguyen kha

Tìm đọc trên các tờ báo ở trong nước bản tin về phiên tòa xử hai sinh viên Ðinh Nguyên Kha, Nguyễn Phương Uyên, thấy mấy báo này đều không đăng tên họ của các vị quan tòa cũng như tên người biện lý buộc tội. Nhà báo cẩn thận như vậy, chắc vì tội nghiệp cho các viên chức này.

Họ được lệnh của đảng Cộng sản Việt Nam phải kết án hai sinh viên trẻ tuổi, mà có thể trong lòng chính họ cũng nghĩ rằng cả hai thực ra chẳng có tội nào cả. Hoặc các tờ báo được lệnh trên không loan báo tên tuổi quan chánh án, để các vị đồng nghiệp của họ sẽ không tìm cách từ chối khi được cấp trên ra lệnh ngồi xử những vụ tương tự.

Người ta sẽ ngần ngại đóng vai quan tòa bù nhìn xử một bản án rồi mang tiếng xấu suốt đời; mà cũng vì không ai muốn bị lịch sử ghi tên, không ai muốn con cháu mình sau này phải chia sẻ niềm xấu hổ vì cha ông mình đã chủ tọa một phiên tòa ô nhục. Giống như nhiều người Việt còn nhớ tên họ ông Poulet Osier, người ngồi ghế chánh án trong phiên tòa tại Yên Bái xử các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Ðảng vào Tháng Ba năm 1930. Ông Osier đã tuyên bố 29 bản án tử hình và 33 người khổ sai chung thân. Sau đó, tổng thống Pháp ân xá, chỉ còn 13 liệt sĩ bị hành quyết, nhưng người Việt Nam cũng không bao giờ quên tên ông chánh án Tây này. Khi gặp một người Pháp mang tên Osier thì nhiều người Việt bây giờ vẫn có khi thắc mắc không hiểu ông, bà này có phải là con cháu cụ Poulet Osier ngày xưa hay không! Nếu như ông Osier là người Việt Nam thì chắc con cháu ông ta nhiều người sẽ đổi họ.

Thấy Nguyễn Phương Uyên và Ðinh Nguyên Kha tuổi còn trẻ lại nhớ các vị anh hùng Quốc Dân Ðảng năm 1930. Ðinh Nguyên Kha tuổi 25, còn Nguyễn Phương Uyên mới có 21. Các liệt sĩ Yên Bái cũng trẻ như họ. Nguyễn Thái Học khi khởi nghĩa cũng chỉ hơn Ðinh Nguyên Kha bây giờ hai tuổi. Phó Ðức Chính hơn Phương Uyên hai tuổi; khi bị tử hình ông không ký tên xin phúc thẩm, còn nói: “Ðại sự đã không thành! Chống án làm gì vô ích!” Hai phụ nữ tham gia phong trào thời đó, cô Giang và Cô Bắc bắt đầu hoạt động cách mạng từ năm 16, 18 tuổi. Ðời trước hay đời nay, tuổi trẻ nước ta không bao giờ thiếu người hào kiệt.

Nhìn hình ảnh hai bị cáo mặc đồng phục áo trắng, quần xanh như các học sinh, ai cũng cảm phục thái độ bình tĩnh của hai bạn trẻ đứng giữa rừng công an, trong phiên tòa cộng sản. Bà Nguyễn Thị Kim Liên, mẹ của Ðinh Nguyên Kha kể rằng, “Các con rất thoải mái, hiên ngang, ngẩng cao đầu. Hai con ngồi nhìn thẳng lên thẩm phán, không cúi mặt.” Họ đúng là thế hệ thanh niên không cúi đầu, làm đúng như câu thơ của Nguyễn Ðắc Kiên: “Hãy ngẩng mặt!” Bà Liên cho biết Kha thản nhiên “nói nó chống Ðảng thì không phạm tội… bản cáo trạng xem việc chống Ðảng là phạm tội thì nó không biết, vì không có luật nào nói như vậy.”

Bà Nguyễn Thị Nhung kể cô Phương Uyên, con gái bà, tự biện hộ nói rằng, “Tôi là một sinh viên có lòng yêu nước.

Nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì mọi người trẻ sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước!” Bà Nhung cho biết cô con gái đã giải thích, “Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước.” Nhưng cô cũng nói, hành động của cô “xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn.”

Riêng thái độ hiên ngang của hai bạn trẻ trước tòa án cũng đã “giúp cho xã hội tốt đẹp, tươi sáng hơn.” Thanh niên Việt Nam từ nay có thể nhìn thấy tấm gương của họ để tự hỏi chính mình phải làm gì giúp cho xã hội tốt đẹp hơn.

Ðinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên chắc chưa có dịp đọc lịch sử phiên tòa xử các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930. Các vị liệt sĩ đời xưa đã chọn con đường bạo động nhưng trước tòa án thực dân Pháp họ cũng thản nhiên và khẳng khái như vậy. Một người nói: “Tôi chẳng có chân trong hội kín, hội hở nào cả! Tôi chỉ là người Việt Nam! Tôi có bổn phận phải đánh đuổi người Pháp để khôi phục lại nền độc lập cho tổ quốc tôi.” Chẳng khác gì Ðinh Nguyên Kha nói “Tôi không chống dân tộc, tôi chỉ chống Ðảng Cộng sản.” Một đảng viên Quốc Dân Ðảng khác còn nói: “Tôi không được tham dự vào cuộc tấn công đó, vì tôi đau mắt; nếu tôi không bị đau mắt nặng, thì tôi nhất định cũng làm như mọi người khác.” Một bị cáo mới 15 tuổi được gọi ra, đã khai: “Tôi giúp anh tôi làm một điều theo công lý.”

Ngày nay, các bạn trẻ không chọn con đường bạo động, vì phương pháp bất bạo động sẽ có hiệu quả hơn. Những luật sư Nguyễn Văn Ðài, Lê Thị Công Nhân, hay các bạn trẻ Huỳnh Thục Vi, Lê Công Ðịnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Chí Dũng đều chọn con đường tấn công ách chuyên chế bằng lý luận, bằng vận động người chung quanh, và sử dụng ngay hệ thống luật pháp của chế độ để thay đổi chế độ. Các luật sư của Ðinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên đã dùng lý lẽ để bắt buộc ủy viên chính phủ phải rút lại “tội chống Trung Quốc” trong bản buộc tội. Bằng hành động này, người ta đã chứng minh cho cả nước thấy Cộng sản Việt Nam đã coi việc “chống Trung Quốc” tức là “chống Ðảng,” không khác gì họ tự nhận chỉ là một chi nhánh của Ðảng Cộng sản Trung Hoa!

Ðiều đặc biệt là trong phiên tòa ở Long An vừa qua, chính quyền đã không dám trưng ra những “tang vật” dùng để buộc tội hai sinh viên Ðinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên. Tang vật rõ ràng nhất là những bản truyền đơn ngắn mà các sinh viên này đã in ra để phân phát. Chính quyền cộng sản không dám cho đọc trước tòa án những lời kêu gọi của “Tuổi Trẻ Yêu Nước” như các lời sau đây:

“Hỡi đồng bào Việt Nam hãy đứng lên chống lại bạo quyền độc tài Cộng sản Việt Nam… hãy đứng lên vì Tự Do, Nhân Quyền và Chân Lý!… Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!” Và “Trung Quốc đang từng bước thôn tính nước ta, bọn chúng đang chiếm dần biển đảo của ta… Ðảng Cộng sản Việt Nam dâng hiến Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và hàng ngàn cây số vuông đất biên giới cho Trung Quốc… Tổ quốc đang lâm nguy! Toàn dân hãy đứng lên cứu nước!”

Chắc chắn các tờ báo trong nước không dám đăng lại những lời tố cáo và kêu gọi này, dù đó là “tang vật” dùng để kết tội hai sinh viên từ 6 đến 8 năm tù!

Nhưng các người quan sát phiên tòa Long An vừa qua cũng nhận thấy nhiều điều bất thường trong cung cách của những người nắm quyền tại địa phương. Có người nhận thấy “nhà cầm quyền Long An tỏ ra ‘dễ chịu’ hơn các nơi như ở Sài Gòn, Hà Nội…” Thí dụ, “Luật sư có nhiều thời gian hơn, gia đình gặp được người thân bị giam giữ trước khi ra tòa… Lần đầu tiên ở Việt Nam kiểm soát viên chấp nhận đuối lý trước luật sư và rút lại việc truy tố 2 nạn nhận tội ‘chống Trung Quốc’.” Ngoài ra, “dù có bắt bớ một số người dự tính tham dự phiên tòa nhưng lần này có vẻ như là công an Long An không dám tàn độc như công an Sài Gòn hay ở Hà Nội.” Chính những người đang nắm quyền cũng biết chế độ đang “đuối lý;” và mặc dù phải theo lệnh tuyên án nặng nề, họ cũng không muốn mang tiếng nhơ trong lịch sử! Ðây cũng là một dấu hiệu cho thấy chế độ đang dần dần suy sụp ngay từ bên trong. Khi nào chính lực lượng công an cũng từ chối không tham dự các cuộc cướp đất, không đàn áp biểu tình vì yêu nước, thì dấu hiệu càng rõ ràng hơn.

Chúng ta vừa mới có dịp tưởng nhớ những anh hùng tuẫn tiết ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Hồn thiêng Hải quân Ðại tá Ngụy Văn Thà, các vị liệt sĩ bảo vệ Hoàng Sa năm 1974, và các vị Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vĩ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng có thể ngậm cười nơi chín suối khi biết thế hệ thanh niên sinh sau năm 1975 vẫn giữ vững tinh thần yêu nước, yêu tự do, bất khuất và hiên ngang trước bạo quyền. Những liệt sĩ Phó Ðức Chính, Nguyễn Thái Học, Cô Giang và Cô Bắc cũng phải hãnh diện về đám con cháu đời sau vẫn theo gương sáng của tổ tiên. Ðúng như Nguyễn Trãi khẳng định, nước Ðại Việt chúng ta “Dẫu mạnh yếu có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt đời nào cũng có.” Chúng ta có thể vững lòng tin tưởng rằng thế hệ trẻ ngày nay không phải là một “thế hệ cúi đầu” chịu nhục.

© Ngô Nhân Dụng

Nguồn: Người Việt

Mỹ chỉ trích phiên tòa hai sinh viên

Phiên tòa tại Long An diễn ra trong một ngày

Sứ quán Mỹ tại Việt Nam bày tỏ “quan ngại” sau khi một tòa án kết án sinh viên Đinh Nguyên Kha 8 năm tù giam và Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù.

Phiên xử một ngày diễn ra ở Long An hôm 16/5.

Một thông cáo của sứ quá Mỹ một ngày sau đó nói sự việc “phần nào cho thấy một xu hướng đáng lo ngại”.

“Nhà chức trách Việt Nam sử dụng các tội danh trong các luật về an ninh quốc gia để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ vì họ bày tỏ quan điểm một cách ôn hoà,” phía Mỹ nói.

Thông cáo viết: “Những việc làm này trái với quyền tư do ngôn luận và như vậy cũng trái với các nghĩa vụ của Việt Nam trong khuôn khổ Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị cũng như các cam kết thể hiện trọng Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới.”

Phía Mỹ nói họ “kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho những tù nhân lương tâm và cho phép tất cả người dân Việt Nam được bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách ôn hòa”.

Việt Nam chưa đưa ra bình luận trước tuyên bố của Mỹ.

Hai sinh viên bị công an tỉnh Long An khởi tố theo điều 88 Bộ luật hình sự về hành vi “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Hai người cùng bị tòa ra mức án ba năm quản chế sau khi ra tù.

Ngay sau khi Phương Uyên bị bắt hồi tháng 10/2012, các bạn học của sinh viên này cũng đã gửi thư ‘cầu cứu khẩn cấp’ tới ông Trương Tấn Sang nhưng dường như vị chủ tịch nước không có hồi âm gì.

Tổ chức nhân quyền ở Mỹ, Human Rights Watch (HRW), chỉ trích phiên tòa.

“Đưa người dân ra tòa xử chỉ vì phát tán tờ rơi chỉ trích chính phủ là một việc làm lố bịch và biểu hiện sự bất an của chính quyền Việt Nam,” ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của HRW.

Mẹ của Nguyễn Phương Uyên nói bà khuyên con “hãy làm những gì con cho là đúng, bố mẹ luôn đồng hành với con tới cuối con đường”.

Trả lời BBC Tiếng Việt ngay sau khi kết thúc phiên tòa ở Long An, bà Nguyễn Thị Nhung nói bà và gia đình cảm thấy sốc trước bản án dành cho hai bị cáo Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha.

Bà nói: “Khi tranh tụng trước tòa cũng như dựa trên những chứng cứ tòa đưa ra thì hoàn toàn không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.”

“Phương Uyên nói trước tòa rằng ‘Tất cả những gì tôi làm đều nhằm thể hiện lòng yêu nước. Tôi không ngờ là tôi bị bỏ tù vì lòng yêu nước’,” bà Nhung nói.

————————————————————-

Mỹ quan ngại về bản án của Phương Uyên và Nguyên Kha

Trà Mi – VOA

Hoa Kỳ bày tỏ quan ngại về các bản án tù Việt Nam vừa tuyên phạt hai nhà hoạt động trẻ vì các hoạt động chống Trung Quốc, kêu gọi tự do-dân chủ, và phản đối chế độ cai trị độc tài.

Hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha bị tuyên án lần lượt là 6 và 8 năm tù giam hôm 16/5 tại Long An về tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”.

Việt Nam nói Uyên và Kha xuyên tạc chính sách của đảng và nhà nước về vấn đề tôn giáo, đất đai, biên giới-chủ quyền, và kích động dân chúng chống lại đảng và nhà nước.

Tuyên bố đăng trên website của Đại sứ quán Mỹ [xem tại đây – BVN] tại Việt Nam hôm 17/5 nêu rõ các bản án này là một phần trong xu hướng đáng quan ngại của nhà chức trách Việt Nam dùng các tội danh trong luật về an ninh quốc gia để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ chỉ vì họ bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hoà.

Hoa Kỳ nhấn mạnh những việc làm của Hà Nội trái với quyền tự do ngôn luận và trái với các nghĩa vụ của Việt Nam trong khuôn khổ Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị cũng như các cam kết thể hiện trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.

Hoa Kỳ kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho những tù nhân lương tâm như Uyên và Kha và cho phép tất cả người dân Việt Nam được bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách ôn hoà.

Trước đó, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế Human Rights Watch nói bản án Hà Nội trừng phạt Uyên và Kha, những người thực thi quyền tự do ngôn luận, “thật sự gây căm phẫn”.

Ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Phó giám đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc Human Rights Watch:

Bản án này cho thấy sự phá sản của thành tích nhân quyền Hà Nội. Trong khi nhà cầm quyền Việt Nam nói họ hành xử theo luật pháp và tôn trọng nhân quyền thì các bản án này chứng tỏ họ chỉ hành xử theo quyền lợi của đảng cộng sản cầm quyền, bất chấp quyền căn bản của con người bị chà đạp.”

Human Rights Watch cho biết sẽ tiếp tục nêu các bản án này ra trước công luận quốc tế để đánh động sự quan tâm hơn nữa của thế giới về tình hình nhân quyền Việt Nam và có hành động thích ứng giữa lúc Hà Nội đang nỗ lực tìm một ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc.

Bản án này cho thấy sự phá sản của thành tích nhân quyền Hà Nội. Trong khi nhà cầm quyền Việt Nam nói họ hành xử theo luật pháp và tôn trọng nhân quyền thì các bản án này chứng tỏ họ chỉ hành xử theo quyền lợi của đảng cộng sản cầm quyền, bất chấp quyền căn bản của con người bị chà đạp

Phil Robertson

Phản hồi về bản án dành cho Uyên và Kha và phản ứng của công luận trước cách hành xử của nhà cầm quyền Việt Nam, anh trai của Đinh Nguyên Kha, ông Đinh Nhật Uy nói với VOA Việt ngữ:

Gia đình cực lực lên án, phản đối bản án cực kỳ vô lý và quá nặng nề đối với hai sinh viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên. Những sự phản hồi của đồng bào trong và ngoài nước và các cơ quan đại diện như đại sứ quán của Mỹ tại Việt Nam lên án về các bản án sai trái càng cho thấy những việc xử đó càng làm tăng thêm sự căm phẫn của người dân nếu chính quyền cứ tiếp tục xử án vô lý như vậy.”

Người nhà và luật sư của Uyên và Kha cho biết trong lời phản biện tại tòa, hai thanh niên này nói không có mục đích chống nhà nước CHXHCN Việt Nam và khẳng định họ là những người trẻ yêu nước, phẫn uất trước các chính sách của đảng cộng sản Việt Nam và hành động xâm lược của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Anh trai của Nguyên Kha cho biết:

Tại phiên tòa hôm qua, Kha rất chững chạc và rất vững tâm với quan điểm của mình. Kha nói Kha không hề chống phá, nói xấu, hay chống lại dân tộc, đất nước Việt Nam, cho nên Kha không phạm tội ‘tuyên truyền chống phá nhà nước Việt Nam’. Kha chỉ trước tiên là chống Trung Quốc, thứ hai là chống đảng cộng sản. Kha nói trong luật không ghi chống đảng cộng sản là có tội. Bởi vì thế, Kha nói là Kha không có tội. Kha và Uyên tại tòa dõng dạc nói theo suy nghĩ của bản thân mình. Tôi thấy hoàn toàn khác biệt với các đoạn video trước đó mà đài truyền hình của nhà nước Việt Nam đã đăng tải.”

Uyên và Kha bị cáo buộc treo biểu ngữ và rải truyền đơn chống đảng cộng sản Việt Nam và chống Trung Quốc xâm lược.

Đại diện pháp lý của Phương Uyên, luật sư Nguyễn Thanh Lương, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Bến Tre, cho rằng truy tố Uyên và Kha theo điều 88 “tuyên truyền chống nhà nước” vì các hoạt động bị cáo buộc là “phỉ báng đảng cộng sản” và chống Trung Quốc là không thể chấp nhận.

Mẹ Phương Uyên cho biết tại tòa, Uyên khai nhận cô dùng máu viết hai biểu ngữ “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” và “Đi chết đi đảng cộng sản” khi sự căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam lên đến tột cùng.

Bà Nguyễn Thị Nhung, mẹ Phương Uyên:

Lời cuối cùng Uyên nói: ‘Tôi là một sinh viên, là đại diện cho tầng lớp trí thức, sức mạnh của đất nước, tôi mong muốn phiên tòa hôm nay xét xử công bằng để tôi sớm được trở về với cộng đồng, tiếp tục cống hiến cho đất nước và thể hiện lòng yêu nước.’ Uyên chỉ nói vậy thôi chứ không xin xỏ gì hết. Và cháu đã nói lên tất cả những uẩn khúc trong vụ án và thể hiện lòng yêu nước. Phiên tòa hôm nay, bản án hôm nay rõ ràng là bản án dành cho người yêu nước. Trước tòa, Uyên nói dõng dạc: ‘Tôi yêu nước, tôi thể hiện lòng yêu nước. Tôi không ngờ tôi bị bỏ tù vì thể hiện lòng yêu nước.’ Gia đình rất lấy làm vinh dự, vinh hạnh về những việc con mình đã làm.”

Tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88 Bộ Luật Hình Sự có hình phạt tối đa lên tới 20 năm tù giam. Giới bảo vệ nhân quyền nói tội này thường được dùng để đối phó với những người có quan điểm bất đồng với nhà nước tại quốc gia độc tài do một đảng cộng sản cai trị ở ViệtNam. Đảng cộng sản ViệtNam cấm mọi tranh luận về chính trị.

Hàng chục nhà hoạt động đã bị tống giam kể từ cuối năm 2009 khi ViệtNamkhởi sự chiến dịch mới trấn áp quyền tự do ngôn luận.

Chỉ trong năm nay, ít nhất 38 nhà hoạt động mà nhiều người trong số này là các blogger, các nhà báo tự do, đã bị kết án vì các hoạt động bị cho là “chống nhà nước” theo các điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia như 79 “âm mưu lật đổ chính quyền” hay 88 “tuyên truyền chống phá nhà nước”.

T. M.

Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/my-quan-ngai-ve-ban-an-cua-phuong-uyen-va-nguyen-kha/1662947.html

DB Mỹ đáp ứng lời kêu gọi của HT Thích Quảng Độ

Ỷ Lan, thông tín viên RFA. 2013-05-17

Phái đoàn Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới trong lần tiếp xúc và chụp ảnh chung với Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền viện trước đây.

Phái đoàn Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới trong lần tiếp xúc và chụp ảnh chung với Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền viện trước đây. Photo courtesy of USCIRF

Thứ bảy và chủ nhật vừa qua, Thượng tọa Thích Viên Dung, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ, đã làm lễ khánh thành chùa Bảo Phước vừa lạc thành tại thành phố San Jose, miền Bắc California.

Lễ khánh thành ngôi chùa trang nghiêm, hùng vĩ, kết hợp với Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2557, và cuộc Hội luận vai trò người Cư sĩ Phật giáo trước xã hội ngày nay và tiến trình dân chủ hóa Việt Nam với các diễn giả Hòa thượng Thích Viên Lý, Thượng tọa Thích Giác Đẳng, Giáo sư Võ Văn Ái và hai ông Lý Đại Nguyên, Đào Văn Bình.

Nhiều vị Dân biểu liên bang Quốc hội Hoa Kỳ cùng các quan chức thành phố đến tham dự, đã lên máy vi âm hoan nghênh Lời kêu gọi của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ cũng như cam kết hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.

Kêu gọi ủng hộ đấu tranh

Mở đầu cuộc lễ là lời kêu gọi của Đức Tăng Thống bằng Anh ngữ do Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế thu âm mang sang San Jose:

“Thông điệp hôm nay xin được gửi tới chư liệt vị, kêu gọi quý liệt vị giúp đưa tiếng nói chúng tôi ra toàn thế giới. Mỗi ngày, người Việt hướng vọng dân chủ phải đối diện với muôn nghìn nguy khốn để giữ vững tinh thần tự do. Chúng tôi không sợ hãi, nhưng chúng tôi biết rằng chúng tôi không thể đơn thân độc mã đi tới sự toàn thắng. Chúng tôi trông đợi sự hậu thuẫn của cộng đồng thế giới, của các nhà dân chủ vòng quanh địa cầu.

Kêu gọi quý liệt vị giúp đưa tiếng nói chúng tôi ra toàn thế giới. Mỗi ngày, người Việt hướng vọng dân chủ phải đối diện với muôn nghìn nguy khốn để giữ vững tinh thần tự do.
-HT Thích Quảng Độ

Việc chúng tôi mong muốn thật đơn giản: Chúng tôi kêu gọi cho quyền hiện hữu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhât và tất cả các tôn giáo không được thừa nhận, để chúng tôi có thể đóng góp cho phúc lợi của nhân dân. Chúng tôi đòi hỏi quyền phát hành một nhật báo độc lập ở Việt Nam như một diễn đàn cho những cuôc thảo luận dân chủ. Chúng tôi đòi hỏi trả tự do cho những ai bị giam cầm vì lý do chính kiến hay tôn giáo.

Tôi tin rằng những mục tiêu trên đây sẽ được thực hiện. Với sự hậu thuẫn của quý liệt vị, tôi hy vọng năm nay sẽ đánh dấu cho tiến trình dân chủ hóa và đem lại hòa bình, tự do cho nhân dân Việt Nam. Cám ơn quý liệt vị”.

Dân biểu liên bang Zoe Lofgren, đại diện Đơn vị 19 ở California, đồng sáng lập và đồng Chủ tịch Ban lãnh đạo Nhân quyền Việt Nam tại Quốc hội Hoa Kỳ đáp từ:

“Tôi rất hân hạnh được mời đến tham dự lễ khánh thành chùa Bảo Phước. Tôi cùng với những thành viên Quốc hội khác, đã đề cử Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ làm ứng viên Giải Nobel Hòa bình cho sự nghiệp của ngài qua hàng chục năm ôn hòa đối lập chế độ Cộng sản tại Việt Nam.

Thật đáng khâm phục để nghe thông điệp của Đức Tăng Thống kêu gọi và thúc đẩy chúng ta, tất cả chúng ta ở đây sống trong tự do, chớ quên rằng chế độ Cộng sản đang tiếp diễn cuộc đàn áp nhân dân họ, bắt bớ và sách nhiễu những người ôn hòa biện hộ cho dân chủ và những ai mong cầu được sống đạo của mình. Lời động viên của ngài dấy động lòng chúng ta, bó buộc cộng đồng thế giới phải tiến tới và biện hộ cho Việt Nam được hưởng nhân quyền và tự do.

Một thời gian ngắn trước Tháng Tư Đen, tôi rất hân hạnh đã tái đệ nạp tại Quốc hội, một dự luật cắt bỏ những quyền lợi kinh tế và giao thương mà Việt Nam được Hoa Kỳ cho thụ hưởng, nếu Việt Nam không cải thiện tình trạng nhân quyền hiện nay. Tôi cũng là đồng Chủ tịch Ban lãnh đạo Nhân quyền Việt Nam tại Quốc hội, được hình thành với đông đảo các thành viên trong Quốc hội Hoa Kỳ, những thành viên không hề quên rằng mỗi ngày những đồng nhân của họ đang bị chế độ Cộng sản đàn áp tại Việt Nam, khối nhân dân không được quyền lên tiếng, không được thực hành tôn giáo họ theo”.

Hậu thuẫn nhân quyền Việt Nam

bp-305.jpg
Đại lễ Phật Đản tại chùa Bảo Phước hôm 12/05/2013. Photo courtesy of vietnamdaily.

Dân biểu Mike Honda, đại biểu Đơn vị 17 California, Sáng lập viên Ban lãnh đạo Á châu Thái Bình dương Hoa Kỳ tại Hạ viện phát biểu rằng:

“Nam Mô A Di Đà Phật! Tôi đến đây sáng nay tham gia cùng quý Phật tử để thâm nhập Tứ Diệu Đế: Khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổ và bước lên đường Đạo chấm dứt trầm luân đau khổ. Tôi tin rằng mọi người ở đây ai cũng đã biết bốn chặng đường giải thoát ấy. Nhờ vậy mà chúng ta liên đới nhau trong cùng niềm cảm thông.

Tôi xuất thân là nhà giáo, nhưng hôm nay ở đây tôi chỉ là người học trò, để học tập với chư Hòa thượng, Thượng tọa chùa Bảo Phước về giáo lý của đức Thế tôn. Giáo lý của Ngài luôn giúp chúng ta trở thành công dân tốt, trở thành cha tốt mẹ hiền, con cái hiếu thảo, ông bà nội ngoại hiền lương.

Bởi thế tôi muốn ngỏ lời tri ân đến quý vị về nền giáo lý cao siêu, sự kiên trì, và ngôi chùa hùng vĩ này”.

Bà Rose Herrara, thành viên Hội đồng Thành phố, đại biểu Đơn vị 8 nói lên cảm tưởng trong những ngày làm việc với cộng đồng Phật giáo:

“Kính chào quý vị. Nam Mô A Di Đà Phật ! Dù Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ không có mặt tại đây, nhưng chúng ta đã hưởng một đặc ân, là được nghe lời Ngài phát biểu. Tôi đại diện tại một vùng có đông đảo Phật tử, và tôi đã bỏ nhiều thì giờ để chia sẻ với các ngôi chùa Phật giáo tại đây. Nhờ vậy có nhiều cơ hội học hỏi về an lạc và từ bi. Nhưng có một điều đặc biệt mà tôi được thấm nhuần là An lạc và Từ bi không có nghĩa khoanh tay thụ động. Trái lại phải hành động  – phải sinh động trong cộng đồng và ở trong tư thế bảo vệ cho người khác. Vì vậy mà tôi tri ân vai trò mà cộng đồng Phật giáo đóng góp, không chỉ riêng cho địa phương mà còn vươn ra khắp thế giới để đem lại sự an lạc và đổi thay ngày một tốt lành, cũng như dấn thân hậu thuẫn nhân quyền. Xin cám ơn quý vị”.

Ông David Coteze trong Ban Cố vấn tối cao Thành phố Santa Clara thán phục lời Đức Tăng Thống và những giá trị nhân quyền:

Lời động viên của ngài dấy động lòng chúng ta, bó buộc cộng đồng thế giới phải tiến tới và biện hộ cho Việt Nam được hưởng nhân quyền và tự do.
-DB Zoe Lofgren

“Thật kỳ vĩ để được sống trong giây phút kinh ngạc khi nghe lời kêu gọi của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ phát đi từ nơi ngài bị quản chế. Thử tưởng tượng biết bao hiểm nguy để ngài có thể gửi tới đây bức thông điệp để tất cả chúng ta cùng được lắng nghe. Tôi kỳ vọng lời đức Tăng Thống gợi hứng cho chúng ta đang có chức vụ trong chính quyền phải mạnh mẽ đứng dậy đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam. Tôi biết điều này khi làm việc với cộng đồng người Việt ở San Jose, thật không có cộng đồng nào khác có đầy nhiệt tình và tín ngưỡng cho tự do và nhân quyền như thế.

Xin cám ơn quý vị đã nhắc nhở chúng tôi những giá trị trọng yếu này. Chúng tôi kề vai cùng quý vị trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền”.

Còn nhiều lời phát biểu khác hỗ trợ cho nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam. Nhưng lời phát biểu cuối cùng của Ông Jose Asavez, Thị trưởng Thành phố Milpitas mang đầy ý nghĩa:

“Nam Mô A Di Đà Phật! Chúng tôi tôn trọng từ bi, an lạc và hòa điệu cho tất cả mọi người. Thế nhưng Milpitas là thành phố đầu tiên ở miền Bắc California tôn trọng lá cờ Vàng ba sọc đỏ. Chúng tôi là thành phố đầu tiên ở miền Bắc California nói KHÔNG với tất cả mọi quan chức Cộng sản đến từ Việt Nam, không cho họ bước vào thành phố này.

Tôi chào đón Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ cùng tất cả quý vị và vinh danh quý vị trong cuôc đấu tranh kiên trì cho tự do và công lý tại Việt Nam.”

Trong diễn văn khai mạc, Thượng tọa Thích Viên Dung, Viện chủ chùa Bảo Phước, đã nói lên vị trí của ngôi chùa trong lòng người Phật tử Việt Nam:

“Trong hầu hết các lãnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, đạo Phật đã hòa nhập và phát triển tồn tại trong tinh thần hài hòa yêu thương. Chính sự nhập thế của đạo Phật như vậy, nói đến đất nước Việt Nam và văn hóa Việt Nam, người ta liền nghĩ ngay đến ngôi chùa Việt Nam qua câu ca dao:

Chùa là văn hóa quê hương

Là nơi thể hiện tình thương giống nòi”

Ỷ Lan, Phóng viên Đài Á châu Tự do tại San Jose.

 http://youtu.be/vsLGeeBbsAw

‘Thống đốc Bình phải ra đi’

Phạm Chí Dũng. Gửi cho BBC từ Sài Gòn. 14 tháng 5, 2013

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình cần phải bị bãi chức và bị điều tra, theo yêu cầu của nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, trong phần cuối loạt bài về vấn đề điều hành ngân hàng và thị trường tài chính Việt Nam.

Thái độ bất nhất thường trực luôn có thể dẫn đến một hệ quả đảo lộn giá trị về chân đứng chính trị.

Bất nhất lại là một thói quen kinh niên của cơ quan Ngân hàng nhà nước và Thống đốc Nguyễn Văn Bình, khi hành động mang tính hệ thống của họ khó có thể được xem là đồng nhất với thực trạng điêu đứng của nền kinh tế.

Vào cuối tháng 5/2012, lần thứ hai kể từ khi nhậm chức, Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại công bố tỷ lệ nợ xấu lên đến 10% chẵn, so với tỷ lệ chỉ có 3,4% mà ông Bình công bố cũng trước Quốc hội vào tháng 11/2011. Như vậy chỉ trong thời gian 6 tháng, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã tăng gấp ba lần mà không kèm theo một lý do xác đáng nào.

Hơn nửa năm sau, tỷ lệ nợ xấu lại đột ngột bị Thống đốc Nguyễn Văn Bình “rút” xuống còn đúng 6%, cũng không được đính kèm bất cứ một giải thích minh bạch nào.

Nhưng từ tháng 6/2011, một tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập có uy tín của quốc tế là Fitch Ratings đã công bố tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam lên đến 13%, tức gấp 4 lần con số báo cáo của Ngân hàng nhà nước.

Đến đầu năm 2013, ông Trần Đình Thiên – một thành viên của Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia – đã lần đầu tiên thừa nhận về cơn ác mộng khó có lối thoát mà nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam đang chìm trong cơn hôn mê sâu.

Bức tranh mà ông Thiên phác họa thật u ám: mức tăng tín dụng rất thấp và khó có khả năng khôi phục nhanh; số doanh nghiệp đóng cửa quá nhiều và còn tiếp tục tăng nhanh, trong đó con số 15.300 doanh nghiệp đóng cửa trong quý 1/2013 là mức rất cao; nợ xấu khó giải tỏa nhanh; các cơ chế xử lý nợ xấu không thể vận hành sớm; chưa thể phá băng bất động sản, lượng vốn lớn tiếp tục bị chôn, gây tắc nghẽn nguy hiểm; khả năng phá sản một số ngân hàng yếu kém…

Vào lúc này, người ta đang tự hỏi: nền kinh tế Việt Nam sẽ tồn tại và đi lên bằng nội lực sản xuất của nó, hay được quy chiếu bởi các thị trường đầu cơ?

Liên quan và dính líu gần như trực tiếp về trách nhiệm đối với tình trạng siết tín dụng một cách cực đoan, đẩy nhanh tình trạng phá sản của rất nhiều doanh nghiệp khiến nền kinh tế gần như cạn kiệt sức hồi sinh, những gì chưa làm được của Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã trở nên những yếu điểm quá lớn trong khoảng thời gian chưa đầy hai năm, gây tắc nghẽn huyết mạch tín dụng và đe dọa quá nghiêm trọng đến sự tồn vong của nền kinh tế.

Nhưng những yếu điểm trên chỉ thuần túy là tư duy và tư thế yếu kém trong điều hành hay còn bởi nguyên do nào khác?

Nhìn lại dĩ vãng, vào tháng 8/2011, tân Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã được người dân và báo giới đã từng kỳ vọng như một “gương mặt mới”.

Có thể, gương mặt mới đã xuất hiện, nếu không bị lấn chèn bởi những động cơ cũ.

Quá nhiều nghịch lý và khuất tất của Ngân hàng nhà nước và cá nhân lãnh đạo Nguyễn Văn Bình trong một thời gian khá ngắn ngủi đã làm dấy lên sự phản ứng và bức xúc từ rất nhiều chuyên gia và báo giới.

Điều 88

Chính sách với thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước gây tranh cãi

Bất chấp nhiều khuất tất trong quản lý điều hành thị trường vàng, người từng bông đùa “Xin nhận nửa giải Nobel hòa bình” do thành tích “Làm những gì đã hứa” lại đã phản ứng một cách không mấy hòa bình đối với báo chí.

Vào những ngày cuối năm dương lịch năm 2012, trong một cuộc gặp gỡ báo chí, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã lần đầu tiên bày tỏ “chính kiến”: “Trong 100% khó khăn của ngành ngân hàng thì báo chí đã gây ra đến 40-50%”. Ông Bình cũng cho rằng báo chí chạy theo vụ việc đơn lẻ, thổi phồng lên quá đà, tạo dư luận chung trong xã hội không tốt…

Ngay sau phát ngôn trên, chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu đã phản bác: “Trên thực tế, các vụ việc lớn đều bắt nguồn từ những sự việc đơn lẻ và rời rạc. Nếu không có báo chí phanh phui ra tiêu cực, sai phạm của ngân hàng, chỉ ra bất ổn trong điều hành chính sách, phản ánh những khó khăn của doanh nghiệp, kỳ vọng của người dân với chính sách tiền tệ thì ngành ngân hàng khó mà rút ra được bài học gì”.

Nhưng bỏ qua khuyến cáo của những người còn giữ được lòng nhiệt huyết đối với hiện tình và tương lai đất nước, lời phát ngôn xuất thần mang tính quy kết trách nhiệm đối với báo chí của ông Nguyễn Văn Bình lại là một bài học lạnh lẽo trở về quá khứ, đồng thời gợi mở cho một hành động tiếp theo và cứng rắn hơn nhiều: “khởi tố” báo Thanh Niên.

“Cáo trạng” trong văn bản của Ngân hàng nhà nước gửi Tổng cục An ninh II thuộc Bộ Công an về bài viết “Rửa vàng…” trên báo Thanh niên rất có thể làm người ta liên tưởng đến một thực tiễn mà nhiều chính phủ và tổ chức nhân quyền quốc tế cho rằng đã và đang bị lạm dụng ở Việt Nam: hình sự hóa vấn đề dân sự và quy chụp cho những người muốn thể hiện chính kiến bằng việc áp đặt điều 88 của Bộ luật hình sự về “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.

Trong âm điệu và hơi thở của mình, dường như Ngân hàng Nhà nước đang muốn trở thành Bộ Công an thứ hai.

Giờ đây, âm điệu và hơi thở đó còn mang nội hàm trái ngược: phản ứng quyết liệt đối với những ý kiến phản biện và tố cáo.

Hành động bị dư luận chung coi là hoàn toàn thiếu khôn ngoan như trên của Ngân hàng nhà nước và cá nhân ông Nguyễn Văn Bình đang gây tác động tiêu cực lớn đến uy tín của một chính phủ vẫn tuyên bố lấy dân chủ làm trọng và không có “tù nhân lương tâm”.

Ưu ái ai?

“Những công việc được gọi là “điều hành kinh tế linh hoạt và uyển chuyển” trong những năm qua, với sự tham mưu đắc lực của Ngân hàng nhà nước, dường như chỉ mang đến hậu quả quá lớn.”

Được xem là “cánh tay phải” của Chính phủ, chỉ trong chưa đầy hai năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã cống hiến một phần không nhỏ vào trào lưu làm suy thoái nghiêm trọng uy tín của chính phủ và cá nhân thủ tướng trong nhận thức còn lại của người dân.

Những công việc được gọi là “điều hành kinh tế linh hoạt và uyển chuyển” trong những năm qua, với sự tham mưu đắc lực của Ngân hàng nhà nước, dường như chỉ mang đến hậu quả quá lớn về tham nhũng, nợ công, nặng thuế và đời sống ngày càng trở nên khốn khó của đại bộ phận dân chúng, trong đó có cả một bộ phận công chức và viên chức nhà nước.

Số tiền 170.000 tỷ đồng mà Ngân hàng Nhà nước bơm vào thị trường liên ngân hàng trong dịp tết năm 2012 đã cho thấy cơ quan này không hề thiếu tiền, thậm chí thanh khoản còn “dồi dào” như xác nhận sau đó của chính Thống đốc Nguyễn Văn Bình. Số tiền này, vào khoảng 8,5 tỷ USD, còn vượt hơn cả gói kích cầu 8 tỷ USD năm 2009 – một ngân sách mà cho tới nay vẫn chưa có bất kỳ cơ quan nào làm rõ được tính hiệu quả của nó.

Thế nhưng, một nghịch lý quá đáng buồn là tiền lại chỉ được bơm cho hệ thống ngân hàng thương mại, để hệ quả tiếp liền là hệ thống này tràn ứ vốn mà không tiêu thụ được.

Tình hình trên cũng cho thấy Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã quá ưu ái một số ngân hàng thương mại chủ chốt, trong khi bỏ mặc cả một nền quốc kế dân sinh bị đói vốn thảm thiết.

Vì sao lại có sự thiên lệch về quan điểm và tình cảm trong chuyện bơm vốn như thế? Phải chăng những điều dư luận thường đồn đoán về mối quan hệ “ruột rà” giữa Ngân hàng nhà nước với một số ngân hàng thương mại nào đó là có thực?

Sự thật là nếu không quá thiên vị nhóm lợi ích ngân hàng và vốn được bơm đều đặn vào hệ thống kinh tế cùng các doanh nghiệp từ năm 2011 với lãi suất cho vay ưu đãi từ 10-13%, nhiều khả năng nền kinh tế sẽ không chìm trong cơn hôn mê sâu như hiện nay, các doanh nghiệp thoát khỏi cảnh “chết lâm sàng” và còn có khả năng trả nợ cho ngân hàng thương mại, để đến lượt mình, hệ thống ngân hàng cũng không phải đối mặt với nguy cơ đổ vỡ dây chuyền như hiện thời và trong tương lai cận kề.

Tuy nhiên, giả thiết tốt đẹp đó đã bị Ngân hàng nhà nước đảo ngược thành một thứ giá trị hoàn toàn khác.

Yếu kém hay vì lợi ích nhóm?

Yếu kém về năng lực điều hành hay còn bị chi phối bởi nhóm lợi ích – đó là câu hỏi mà dư luận người dân và giới phản biện Việt Nam đang yêu sách một cách khẩn thiết đối với cơ quan Ngân hàng nhà nước và Thống đốc Nguyễn Văn Bình.

Tại Việt Nam, một cuộc thanh tra của Thanh tra chính phủ đối với thị trường vàng và trách nhiệm của Ngân hàng nhà nước đã khởi sự vào tháng 4/2013.

Hiện chưa biết cuộc thanh tra trên có được tiến hành công tâm với kết luận xác đáng hay không, nhưng một trong những phản biện gia là nhà kinh tế Lê Đăng Doanh đã phản hồi đầu tiên:

“Về điều hành của Ngân hàng nhà nước, thanh tra cần làm rõ việc tổ chức đấu thầu vàng để làm gì? Tại sao lại gây ra tình hình độc quyền? Các chính sách pháp luật quản lý thị trường vàng có lợi cho ai?”

Lợi ích nhóm – một trong những chủ đề nóng bỏng không chỉ về xã hội mà còn liên quan đến “sự tồn vong của chế độ” – như điều mà người đứng đầu Đảng cộng sản Việt Nam đã hé lộ, lại đã chưa thể được điềm chỉ, dù dân chúng vẫn quá kinh ngạc về sự hiện diện không cần che giấu của các nhóm lợi ích vàng và ngân hàng.

TPP hay khủng hoảng kinh tế?

“Việc xét lại những “công bộc” có biểu hiện ít nhất là vô trách nhiệm với nhân dân có lẽ là cơ hội và cũng là một lối thoát chính trị khôn ngoan cho những chính khách cao cấp mẫn cảm với thời cuộc.”

Minh bạch theo tiêu chuẩn quốc tế lại là một trong những điều kiện then chốt của Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam đang tha thiết muốn gia nhập.

TPP cũng đang được xem là lối thoát khả dĩ gần như duy nhất cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế suy thoái khó có đường ra, sau những thất bại không thể phủ nhận qua 6 năm tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mà theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, xuất khẩu của Việt Nam – niềm tự hào kinh tế lớn nhất hiện thời – không hơn gì nhiều so với trước

Đã không mấy có ý nghĩa về tính thực chất khi gia nhập WTO, thật khó có thể hy vọng về một lối thoát cho nền kinh tế Việt Nam cho dù có được chấp thuận vào TPP.

Khả năng điều hành kinh tế yếu kém, lồng trong bối cảnh bị xen cài quá nhiều bởi các nhóm lợi ích và “nhóm thân hữu” – một cụm từ thời thượng xuất hiện trong thời gian gần đây trong báo cáo của cơ quan kiểm tra đảng, hố phân cách giàu nghèo ngày càng lớn lao đang khiến xã hội bị đẩy vào một vòng xoáy không ngoi lên được.

Nếu không tự cải tạo về những hình ảnh hoàn toàn mất cân đối trên, kinh tế Việt Nam sẽ không có, dù chỉ một cơ hội nhỏ nhoi, để “thoát đáy”, bất kể những lời khen tặng của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng phát triển Á châu có giá trị ngoại giao hay không.

Từ lời cảnh báo “ruộng khô lúa cháy” của chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành đến hình ảnh “cái chết lâm sàng” của các doanh nghiệp, tất cả đều chung một nội hàm.

Nếu nội hàm đó không được khẩn cấp cải thiện, không những chính phủ Việt Nam không giải quyết được nợ xấu vào năm 2015 mà một cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế, hay còn gọi là “suy thoái kép”, có thể sẽ bùng phát, khởi nguồn từ hiệu ứng domino của giới chủ ngân hàng và tiếp tới dắt dây lan tỏa ra toàn bộ huyết mạch kinh tế.

Không khí xã hội cũng vì thế có nhiều “triển vọng” phát sinh những phản ứng ghê gớm và dễ mất kiểm soát hơn nhiều – một quy luật có thể gây sụp đổ chân đứng của bất kỳ chế độ chính trị nào.

Nếu vào giai đoạn 2014-2015, nền kinh tế thế giới không thể tránh thoát được tương lai khủng hoảng mà Nouriel Roubini – người được mệnh danh là “tiến sỹ tận thế” – đã dự báo, kim ngạch xuất khẩu lẫn doanh số tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam sẽ nhanh chóng rơi về trạng thái chân không, lại càng đẩy xã hội vào một vòng xoáy hỗn loạn với mô men lực đầy tính “quyết tâm”.

Là một quan chức tuy khá kín kẽ và thâm trầm nhưng không tránh khỏi điều tiếng không ít của dư luận về mối liên đới trực tiếp và gián tiếp đến các nhóm lợi ích vàng và ngân hàng, ông Nguyễn Văn Bình cần phải bị bãi chức và bị điều tra ngay lập tức về tài sản cá nhân và trách nhiệm trong điều hành tín dụng, lãi suất và thị trường vàng.

Kỳ họp thứ 5 quốc hội đang đến vào tháng 5/2013, cũng là một sự nhìn nhận lại về công tác nhân sự, tư cách đảng viên và uy tín các lãnh đạo đầu ngành thông qua cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt, lần đầu tiên được đưa ra thực hiện ở Việt Nam.

Cũng đã đến lúc cần và phải có một hồi kết dứt điểm về chỉ số tín nhiệm đối với một quan chức cao cấp – người chỉ trong chưa đầy hai năm từ khi trở thành lãnh đạo đầu bảng của Ngân hàng nhà nước, đã dính líu gần như trực tiếp về trách nhiệm đối với ít nhất hàng trăm ngàn doanh nghiệp phải giải thể và phá sản cùng tình trạng thất nghiệp lan tràn không thể thống kê ở Việt Nam.

Trong một động thái vừa ẩn lắng vừa lộ diện sau Hội nghị trung ương 7, việc xét lại những “công bộc” có biểu hiện ít nhất là vô trách nhiệm với nhân dân có lẽ là cơ hội và cũng là một lối thoát chính trị khôn ngoan cho những chính khách cao cấp mẫn cảm với thời cuộc.

Bài viết phản ánh quan điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà báo tự do ở TP HCM.

Sắp ghế cho dàn nhạc chính trị VN

Giáo sư Carl Thayer. Gửi cho BBCVietnamese.com từ Úc. 17 tháng 5, 2013

Ông Nguyễn Thiện Nhân được đánh giá là ‘người đối thoại tuyệt vời’ với đối tác nước ngoài

Hội nghị Trung ương 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 2 đến 11/05/2013 đã tập trung vào sáu chủ đề lớn, và thảo luận “một số vấn đề quan trọng khác”.

Ban Chấp hành Trung ương nhất trí ba vấn đề và “đồng tình cao” về các vấn đề khác.

Tuy vậy, Trung ương Đảng không đi theo dàn bài soạn sẵn và đã bác bỏ giới thiệu của Bộ Chính trị trong việc bầu chọn tân thành viên cho Bộ Chính trị.

Hội nghị Trung ương 7 là dấu hiệu rằng công tác chuẩn bị cho Đại hội 12 của Đảng vào năm 2016 đã bắt đầu.

Sáu chủ đề chính bao gồm, thứ nhất, tiếp tục nỗ lực cải tổ hệ thống chính trị từ trung ương xuống cơ sở như đã ghi trong Nghị quyết 4. Những kết luận chính là cải tổ hệ thống chính trị phải đi từ từ, dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và phù hợp với phát triển kinh tế của Việt Nam. Nỗ lực cải tổ chính trị sẽ tập trung cho việc giảm chồng chéo trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong ba lĩnh vực – lý luận, dự báo kinh tế và tư vấn chính sách.

Thứ nhì, các lãnh đạo Đảng cũng muốn tăng cường công tác tuyên truyền và dân vận. Đây là chỉ dấu các lãnh đạo ý thức được các căn bệnh lan rộng trong xã hội Việt Nam.

Thứ ba, Hội nghị cũng xem xét quá trình sửa đổi Hiến pháp 1992, gồm cả phần lấy ý kiến công chúng. Quan chức Đảng nói rằng quá trình này, qua hơn 28 nghìn hội nghị hội thảo đã thu nhận được trên 26 triệu ý kiến, là bằng chứng rằng Việt Nam là quốc gia xã hội chủ nghĩa pháp quyền, ‘của dân, do dân và vì dân’.

“Tổng Bí Thư Đảng đã bác bỏ các kiến nghị do nhóm 72 cựu quan chức cao cấp, trí thức, cựu chiến binh và công dân nổi bật gửi đến”

Thế nhưng, trái ngược với điều này, Tổng Bí Thư Đảng, ông Nguyễn Phú Trọng đã bác bỏ các kiến nghị do nhóm 72 cựu quan chức cao cấp, trí thức, cựu chiến binh và công dân nổi bật ký và gửi đến.

Đảng lẽ ra có thể nhân Bản kiến nghị 72, rồi sau đó công bố các lý do vì sao bác bỏ các đề nghị trong đó. Rõ ràng là ở đây sân chơi không bình đẳng, và một số ‘công dân’ lại có quyền ‘bình đẳng’ hơn những người khác.

Cho tới nay không hề có nghị quyết nào được công bố liên quan đến chủ đề này vì trách nhiệm chính của sửa đổi hiến pháp thuộc về Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp và Quốc hội.

Được biết, Quốc hội Việt Nam sẽ xem xét các đề nghị sửa đổi hiến pháp tại kỳ họp tháng 5 và tháng 9 này.

Một chủ đề nữa mà Đảng Cộng sản cam kết làm là thực hiện nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng”.

Nghị quyết này có mục tiêu khắc phục tình trạng suy thoái về ý thức hệ, đạo đức và lối sống của một số đảng viên mà đã gây ra hậu quả là việc thực hiện yếu kém các nguyên tắc “Dân chủ tập trung, Lãnh đạo tập thể và Trách nhiệm cá nhân”.

Trung ương Đảng cũng dùng phê bình và tự phê bình ở mọi cập như cách thức tăng cường kỷ luật của Đảng và “giải quyết các vụ việc phức tạp” gây bức xúc trong dư luận, gồm cả tham nhũng, mạng lưới quan hệ quyền lực ngay cả trong các quan chức cao cấp và lãnh đạo.

Nhưng chính việc bầu chọn nhân sự mới vào Bộ Chính trị – được trình bày trong phần tiếp theo – cho thấy chiến dịch chống tham nhũng đã bị khựng lại.

Tân lãnh đạo tiến lên

Trong kỳ Đại hội Đảng 11 họp vào tháng 1/2011, Bộ Chính trị nhiệm kỳ trước đã đề nghị để Bộ Chính trị nhiệm kỳ này có 17 thành viên. Nhưng khi Trung ương bỏ phiếu thì chỉ có 14 người nhận được số phiếu đủ để vào Bộ Chính trị, tức là 50% cộng một phiếu. Vào lúc đó nhiều nhà quan sát đã cho rằng con số 14 là không ổn định vì nó tạo ra tình trạng đều số phiếu gây bế tắc.

Tin tức nói Hội nghị Trung ương 7 có nhiệm vụ giải quyết ba vị trí trống đó. Nhưng thật bất ngờ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bỏ qua các ứng viên được ưu ái và chỉ đưa hai người mới vào Bộ Chính trị: Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, người cũng là thành viên của Ban Bí thư.

Cả hai người đều gốc miền Nam. Ông Nhân sinh ra ở Trà Vinh và từng làm Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh 2001-06. Bà Ngân quê ở Bến Tre và từng nắm Sở Tài chính tỉnh trước khi thăng tiếng lên làm Bí thư Hải Dương ngoài Bắc.

“Bà Ngân là phụ nữ Việt Nam thứ ba trong lịch sử Đảng Cộng sản được vào Bộ Chính trị kể từ khi cơ quan quyền lực này được lập ra năm 1951. “

Sự loại bỏ các ứng viên được Tổng Bí Thư Đảng ủng hộ, và đưa ông Nhân và bà Ngân lên phản ánh sợ chia rẽ tiếp tục trong giới cầm quyền Việt Nam. Một Bộ Chính trị 16 thành viên

 

cũng sẽ tiếp tục phải đóng vai trò tế nhị là duy trì cân bằng quyền lực và dàn xếp giữa các phe phái.

Cũng cần nhắc lại rằng tại Hội nghị Trung ương 6 tháng 10 năm ngoái, Bộ Chính trị, theo các tin lọt ra, đã bỏ phiếu 9-5 về quyết định kỷ luật Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng sau đó, Ban Chấp hành Trung ương đã bác bỏ yêu cầu của Bộ Chính trị, một dấu hiệu rõ ràng là đa số người trong Trung ương Đảng ủng hộ ông Dũng.

Cũng cần nhắc lại rằng Thủ tướng Dũng đã bổ nhiệm ông Nhân làm Phó Thủ tướng ngay trong nhiệm kỳ đầu của ông.

Ngay trước Hội nghị Trung ương lần này, Bộ Chính trị đã thông qua một nghị quyết quan trọng thúc đẩy hội nhập quốc tế về kinh tế của Việt Nam. Hiện văn bản này vẫn còn được giữ trong bí mật nhưng có vẻ như sự thăng tiến của ông Nhân vào Bộ Chính trị được xắp đặt để thúc đẩy mục tiêu này.

Từng học tại Đức và Hoa Kỳ, ông Nguyễn Thiện Nhân được nước ngoài đánh giá là người đối thoại tuyệt vời khi nói chuyện với các nhà đầu tư hoặc lãnh đạo các nước. Ông cũng được giao nhiệm vụ nắm việc xử lý quan hệ với Trung Quốc và vừa đi Bắc Kinh nhằm cùng chủ trì cuộc họp lần thứ sáu Ủy ban Hỗn hợp Trung – Việt là cơ chế giám sát mọi hoạt động song phương, đặc biệt là về kinh tế.

Cũng có thể đánh giá sự thăng tiến của bà Nguyễn Thị Kim Ngân theo cách tương tự. Sự nghiệp của bà cho thấy có kinh nghiệm nổi bật trong việc giải quyết các chủ đề kinh tế, gồm cả giai đoạn làm Thứ trưởng Bộ Tài chính và Thứ trưởng Bộ Thương mại. Bà cũng từng làm Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội. Bà Ngân có sự ủng hộ từ trong Đảng thể hiện qua lần bổ nhiệm bà vào Ban Bí thư năm 2011.

Bà Ngân là phụ nữ Việt Nam thứ ba trong lịch sử Đảng Cộng sản được vào Bộ Chính trị kể từ khi cơ quan quyền lực này được lập ra năm 1951. Bà cùng bà Tòng Thị Phóng là hai nữ ủy viên Bộ Chính trị nhiệm kỳ này. Trước họ có bà Nguyễn Thị Xuân Mỹ vào Bộ Chính trị năm 1996 ở kỳ Đại hội 8.

“Sự hụt hẫng của hai ông Thanh và Huệ là một cú khựng lại nghiêm trọng cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người mà các nguồn tin nói là đã ủng hộ họ hết mức.”

Ban Chấp hành Trung ương cũng mở rộng Ban Bí thư để nhận vào ông Trần Quốc Vượng, người gốc Thái Bình, hiện phụ trách Văn phòng Trung ương Đảng và từng nắm chức Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Trung ương Đảng đã bác bỏ ứng cử viên Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính, và Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương mới được lập trở lại. Vì không giành được một ghế trong Bộ Chính trị, uy tín của ông Thanh bị giảm sút trong cương vị chỉ đạo công cuộc chống tham nhũng. Dù ông tiếp tục báo cáo trực tiếp lên Tổng Bí thư Đảng nhưng sẽ không có cách nào trực tiếp tác động đến các quyết định chính trị quan trọng nhất.

Sự hụt hẫng của hai ông Thanh và Huệ là một cú khựng lại nghiêm trọng cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người mà các nguồn tin nói là đã ủng hộ họ hết mức.

Các tin đồn ở Hà Nội cũng gợi ý rằng còn có một số nhân vật hàng đầu có hy vọng như Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị của Quân đội Nhân dân Việt Nam, và Bộ trưởng Ngoại giao, ông Phạm Bình Minh.

Trong số 16 ủy viên Bộ Chính trị, 10 người sẽ nghỉ hưu vào kỳ Đại hội Đảng tới nếu quy tắc giữ tuổi về hưu là 65 được áp dụng triệt để. Một biệt lệ có thể được áp dụng với chức Tổng Bí thư. Thường thì hệ thống ở Việt Nam hay giữ các nhân vật nắm ghế Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội và Trưởng Ban Bí thư lại ở nhiệm kỳ Đại hội mới.

Nhưng hiện cũng chưa rõ sẽ có thêm bổ nhiệm vào Bộ Chính trị trong giai đoạn tới không.

Một ứng viên khác được nói đến là ông Hoàng Trung Hải, hiện là một trong số bốn Phó Thủ tướng. Tên ông này có thể sẽ được nêu ra ở một kỳ họp Trung ương sau này.

Nếu không có thêm người vào Bộ Chính trị từ nay tới Đại hội Đảng lần tiếp theo, một trong số hai người mới vào Bộ Chính trị lần này có thể còn thăng tiến lên chức vụ cao hơn vào năm 2016.

Và một lần nữa, hệ thống lãnh đạo già cỗi của Việt Nam sẽ không tạo ra không gian gì cho sự chọn lựa.

Giống như việc sắp xếp ghế cho một dàn nhạc, năm 2016 có vẻ sẽ là dịp cho sáu ứng cử viên để rồi từ đó chọn ra năm vị trí lãnh đạo uy quyền nhất.

Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia chính trị Việt Nam, đã giảng dạy nhiều năm tại Đại học New South Wales, Úc, trước khi nghỉ hưu.

Tư bản thân hữu ở Việt Nam

Nhiều cuộc chiến ngầm đã được tiến hành nhằm vào thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Báo Anh Financial Times ngày 15/5 có đăng tải bài viết về chủ nghĩa tư bản thân hữu tại Việt Nam và những thiệt hại mà nó gây ra cho sự phát triển của nước này.

Bài bình luận của cây bút David Pilling cho rằng, với một đất nước trong thời kỳ có nhiều lợi thế do dân số mang lại, nền kinh tế Việt Nam dường như không tăng trưởng đủ nhanh.

Theo quan sát của Pilling, bao trùm đất nước này là những câu chuyện về các tập đoàn khổng lồ hoạt động kém hiệu quả nhưng lại được sự bảo bọc từ “các nhóm lợi ích đầy quyền lực”, các vụ chiếm đoạt đất đai, những tù nhân lương tâm và sự phẫn uất trước quyền lợi mà con cái những lãnh đạo đảng cầm quyền đang được hưởng.

Giống với Trung Quốc?

“Tất cả những đấu đá chính trị này luôn được cải trang dưới dạng xung đột tư tưởng về tương lai đất nước”

Tác giả bài viết cho rằng đây là những hiện tượng nghe thì khá giống Trung Quốc bởi lẽ Việt Nam cũng là một thể chế độc đảng, nơi mà “nền kinh tế cũng như dư luận đang phải kêu ca vì một hệ thống chính trị cứng nhắc và nhiều lỗ hổng”, dù ông cho rằng người Việt Nam không muốn bị so sánh với Trung Quốc vì thái độ phản kháng lâu năm dành cho người láng giềng phương Bắc.

Dưới góc nhìn của Pilling, Việt Nam và Trung Quốc có quá nhiều điểm tương đồng.

“Dù có sự khác biệt về quy mô và độ phát triển, nhưng những sự so sánh quá sức hấp dẫn để có thể bỏ qua,” ông viết.

Giống với vụ Bạc Hy Lai ở Trung Quốc, tác giả cho rằng bản thân Việt Nam cũng đang trải qua một thời kỳ đấu tranh nội bộ khốc liệt, lộ liễu đến nỗi người dân có thể có được cơ hội hiếm hoi để thấy được những gì đang xảy ra bên trong bộ máy điều hành.

Tiêu biểu trong số này là, theo Pilling, là những động thái chống lại thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người mà ông cho là “nhân vật quyền lực nhất của nước này.”

“Cũng giống như Trung Quốc, những cuộc chiến ở Việt Nam chủ yếu đều là nhằm vào những người đại diện,” trích bài viết.

Bài viết dẫn ra rằng nạn nhân của những trận chiến như vậy tiêu biểu gồm có giám đốc Vinashin (chịu 20 năm tù) – tập đoàn đóng tàu gánh khối nợ 4,4 tỷ đôla mà ông Dũng đứng sau lưng hay như Nguyễn Đức Kiên (Bầu Kiên), người đồng sáng lập Ngân hàng thương mại Á Châu, vốn có nhiều mối quan hệ rộng rãi.

“Tất cả những đấu đá chính trị này luôn được cải trang dưới dạng xung đột tư tưởng về tương lai đất nước, tuy nhiên, nó giống với một cuộc tranh chấp quyền lợi một cách đáng nghi ngờ,” Pilling viết.

Tác giả bài viết nói ở Việt Nam, người dân tin đồng đôla và vàng hơn cả giấy bạc của nước mình

Kết quả của việc này: Thủ tướng Dũng đã phải nhiều phen “lao đao”, và mặc dù “sống sót”, nhưng phải “tỏ ra nhún nhường”, ví dụ như hồi tháng Mười, khi ông này phải xin lỗi trước Quốc hội về sai phạm trong việc sử dụng ngân quỹ quốc gia.

Một điểm tương đồng nữa với Trung Quốc, theo bài viết đó là việc chính phủ có những động thái tỏ vẻ mình đã rút kinh nghiệm, tiêu biểu trong số đó là lời hứa cải tổ khu vực quốc doanh (không phải lần đầu tiên), trưng cầu dân ý về việc thay đổi hiến pháp, sửa đổi luật đất đai cho đến quyền bình đẳng cho người đồng tính.

“Dân chủ và quyền lãnh đạo đảng, không nằm trong số đó,” trích bài viết.

Thiệt hại kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam đang hứng chịu những hậu quả từ sự đấu đá nội bộ, theo tác giả.

“Ở một đất nước mà hiếm việc gì có thể được tiến hành nếu không có sự chấp thuận của những người môi giới quyền lực, cả hệ thống bị tắt nghẽn,” Pilling viết.

Những số liệu mà ông dẫn ra bao gồm chỉ số tăng trưởng chỉ ở mức dưới 5% trong thời điểm hiện tại, so với mức trung bình 8% trong 5 năm trước 2007, lạm phát và thâm hụt tài khoảng vãng lai cũng đã giảm, nhưng chủ yếu do sự suy yếu đối với nhu cầu nội địa thay vì khả năng quản lý vĩ mô tốt của chính phủ.

Theo quan sát của tác giả, những lần mất giá của tiền đồng ở Việt Nam khiến người dân trong nước “tin vào đôla và vàng hơn cả chính giấy bạc của nước mình.”

Bên cạnh đó, khu vực ngân hàng cũng đang ngập nợ xấu bởi tăng trưởng tín dụng nóng và sự sụp đổ của thị trường bất động sản.

“Khó mà nói được lý do nào sẽ khiến những người đã tư lợi quá nhiều từ hệ thống muốn từ bỏ nó”

Tất cả những vấn đề này đang khiến Việt Nam, một nước đang trong thời kỳ “có lợi thế tốt nhất về nhân khẩu, với những người dân đầy nhiệt huyết và máu kinh doanh”, không “phát triển đủ nhanh.”

Tác giả nhận định Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Hoa Kỳ đang đàm phán với các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam, vốn quy định các quy tắc chung đối với các thành viên, từ việc gọi thầu công khai cho đến các doanh nghiệp Nhà nước có thể trên lý thuyết bắt Việt Nam phải cải tổ.

Thế nhưng, theo ông, chỉ chính Đảng Cộng sản mới khả năng cải tổ nền kinh tế bị thống trị bởi doanh nghiệp nhà nước.

“Khó mà nói được lý do nào sẽ khiến những người đã tư lợi quá nhiều từ hệ thống muốn từ bỏ nó,” Pilling viết.

“Tuy nhiên, nếu họ không làm điều đó, tiến trình phát triển kinh tế của Việt Nam sẽ trở nên đáng thất vọng.”

Lần đầu tiên bỏ phiếu tín nhiệm tại VN

Vũ Hoàng, phóng viên RFA. 2013-05-16

 Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này 05162013-bophieu-vuhoang.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

ImageHandler.ashx-305.jpg

Các đại biểu quốc hội nhấn nút bỏ phiếu trong một kỳ họp quốc hội.

Photo courtesy of nld.com.vn

Trong kỳ họp Quốc hội (QH) sắp tới, một hoạt động lần đầu tiên được thực hiện là việc bỏ phiếu tín nhiệm 49 chức danh do QH bầu hoặc phê chuẩn.

Vũ Hoàng phỏng vấn ông Lê Văn Cuông, nguyên phó Trưởng đoàn Đại biểu QH tỉnh Thanh Hóa. Theo ông, những người bị bỏ phiếu tín nhiệm thấp thì nên từ chức ngay hoặc Việt Nam cần có chế tài bỏ phiếu ngay trong năm đó, không nên chờ đến năm sau mới lấy phiếu.

Văn hóa từ chức

Vũ Hoàng: Thưa ông Lê Văn Cuông, trước hết cám ơn ông đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn với đài ACTD. Thưa ông, trong kỳ họp QH khai mạc vào 20/5 tới, tại đây sẽ diễn ra hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm 49 chức danh, ông có thể giải thích rõ hơn hoạt động này được không ạ?

Ông Lê Văn Cuông: Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Quốc hội (QH) bỏ phiếu tín nhiệm những người do Quốc hội bầu và phê chuẩn, thế nhưng quy định này nhiều năm qua chưa được thực thi. Vừa qua, theo Nghị quyết của Trung Ương, Quốc hội đã xúc tiến triển khai các văn bản, quy phạm pháp luật để tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, cụ thể là có 49 chức danh.

Quy định của luật pháp Việt Nam là bỏ phiếu, nhưng Ủy ban thường vụ QH (UBTVQH) cũng như QH thống nhất phân chia thành 2 bước: bước lấy phiếu và bước bỏ phiếu, nghĩa là nếu 2 lần có tín nhiệm thấp thì đưa ra bỏ phiếu. Cho nên vấn đề này gây ra băn khoăn cho dư luận như thế có kéo dài thời gian nhiệm kỳ 5 năm mà hai lần lấy phiếu tỷ lệ thấp thì mới bỏ phiếu năm thứ ba, thì cũng gần hết nhiệm kỳ rồi. Cho nên bây giờ có những ý kiến đề nghị nếu như lấy phiếu lần đầu mà tỷ lệ quá thấp thì cần phải có một cơ chế tự nguyện xin từ chức, còn nếu đối tượng không tự nguyện từ chức thì phải có một chế tài bỏ phiếu ngay trong năm đó, chứ không phải chờ đến năm sau mới lấy phiếu, nếu vậy hiệu lực không cao, thời gian phân tán, kéo dài quá sẽ ảnh hưởng đến mục đích của việc bỏ phiếu.

Vấn đề này cũng là lần đầu tiên QH Việt Nam thực hiện, trước đây chưa có tiền lệ nên mọi việc cũng đang được chuẩn bị rất chu đáo vì nó liên quan đến vai trò cá nhân, danh dự, uy tín và đó cũng là việc nhạy cảm. Chắc chắn thời gian tới, QH sẽ có nhiều việc làm rút kinh nghiệm để cho việc bỏ phiếu sẽ đạt được những kết quả như mong đợi.

Vũ Hoàng: Vâng, như ông vừa nhắc tới chuyện từ chức, vậy ông đánh giá sao về văn hóa từ chức tại Việt Nam, nhất là trong giai đoạn gần đây khi có khá nhiều những cán bộ cấp cao không thực hiện tròn vẹn trách nhiệm của mình?

Ông Lê Văn Cuông: Đối với các nước, việc từ chức diễn ra một cách rất bình thường, nhưng ở Việt Nam chưa có tiền lệ và rất nặng nề bởi mọi người hướng tới sự thăng tiến chứ việc bị từ chức, cách chức hay kỷ luật là một vấn đề khá nặng nề.

Cho nên để làm thay đổi nhận thức, trở thành văn hóa từ chức như một việc làm bình thường thì được xã hội cũng đang quan tâm, chính trên Nghị trường Quốc hội cũng như dư luận cũng mong rằng trong điều kiện Việt Nam hòa nhập với quốc tế, Việt Nam nên xúc tiến xây dựng văn hóa từ chức để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, chứ nếu một người không hoàn thành nhiệm vụ, không có uy tín mà không tự nguyện từ chức, không bị cách chức mà phải chờ đến khi về hưu hoặc hết nhiệm kỳ thì mới luân chuyển hoặc thay đổi vị trí thì sẽ làm sự phát triển của đất nước bị chậm lại, thứ hai, nó cũng tạo ra sức ỳ sẽ làm cho các đối tượng đương chức không quan tâm phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ của mình, trì trệ, bình chân như vại, an bài, đây cũng là vấn đề rất ảnh hưởng đến sự phát triển chung.

Vì thế Việt Nam cũng đang tiến tới xây dựng văn hóa từ chức để khi bản thân không đảm đương được nhiệm vụ hoặc khi dư luận chê trách nhiều hoặc có sai phạm thì nên từ chức để người khác lên đảm nhận vị trí của mình. Văn hóa từ chức của Việt Nam chưa hình thành, vấn đề từ chức nặng nề cho nên đó là bức xúc trong xã hội và chính quy định lấy phiếu và bỏ phiếu của Quốc hội sắp tới sẽ là bước “vạn sự khởi đầu nan” cho nền văn hóa từ chức của các quan chức VN sẽ được hình thành và trở thành điều bình thường như các nước trong tương lai tới.

Hiệu quả tới đâu

Vũ Hoàng: Cám ơn ông, thưa ông vì đây là lần đầu tiên hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm diễn ra, ông đánh giá về mức độ hiệu quả của lần đầu tiên này ra sao?

Ông Lê Văn Cuông: Như tôi nói, Việt Nam chưa có tiền lệ lấy phiếu và bỏ phiếu tín nhiệm, bây giờ là lần đầu tiên, cho nên sẽ không tránh khỏi những lúng túng hay những vấn đề trong suy nghĩ và việc làm của các cơ quan chức năng cũng như của Đại biểu QH. Cử tri và nhân dân Việt Nam đang mong đợi QH sẽ thể hiện được vai trò của mình, đại diện cho cử tri, có được kết quả lấy phiếu và bỏ phiếu thực sự khách quan, công bằng, thể hiện được sự chuẩn xác trong đánh giá, nhìn nhận về quá trình thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng do QH bầu và phê chuẩn.

Tuy nhiên, tình hình hiện nay của Việt Nam rất phức tạp, lợi ích nhóm hình thành và phát triển ngày càng sâu rộng ở nhiều nơi, rồi một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất, sa sút về phẩm chất đạo đức và hạn chế của đại biểu QH về nắm bắt thông tin, cũng như mối quan hệ ngang dọc cũng như sức ép bên ngoài, cho nên dư luận lo lắng về chất lượng lá phiếu.

Như chúng tôi hoạt động trong Nghị trường, chúng tôi cũng thấy rằng mặc dù những khách quan và chủ quan có hạn chế, nhưng các đại biểu QHVN khóa tới sẽ thể hiện được trọng trách của mình thông qua việc lấy phiếu và bỏ phiếu để góp phần xây dựng thiết chế về lâu về dài cho Việt Nam trong việc xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh thật sự tiêu biểu, xứng đáng với lòng mong mỏi của cử tri để nỗ lực thực hiện nhiệm vụ trọng trách mà QH và nhân dân giao cho, để đưa Việt Nam đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh.

Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông rất nhiều.

Theo quy định, 49 chức danh thuộc diện lấy phiếu tín nhiệm gồm: Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước; chủ tịch QH, phó chủ tịch QH, chủ tịch Hội đồng Dân tộc, chủ nhiệm các Ủy ban của QH, các thành viên khác của UBTVQH; Thủ tướng, phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước. Dự kiến vào ngày 13/6, lần đầu tiên QH sẽ chính thức lấy phiếu tín nhiệm, kiểm phiếu và công bố kết quả kiểm phiếu ngay trong ngày.

Tiểu ban Hạ viện Mỹ thông qua Dự luật Nhân quyền Việt Nam 2013

Trà Mi-VOA. 16.05.2013

Dự luật mang số hiệu HR 1897 do Dân biểu Chris Smith đề xướng đề ra các biện pháp giúp thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam.

Dự luật mang số hiệu HR 1897 do Dân biểu Chris Smith đề xướng đề ra các biện pháp giúp thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam.

Tiểu ban nhân quyền Hạ viện Hoa Kỳ ngày 15/5 biểu quyết thông qua Dự luật Nhân quyền cho Việt Nam 2013.

Dự luật mang số hiệu HR 1897 do dân biểu Chris Smith đề xướng đề ra các biện pháp giúp thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam.

Dân biểu Chris Smith phát biểu:

“Dự luật này ngăn cấm viện trợ không vì mục đích nhân đạo cho Việt Nam trừ phi Hà Nội có những tiến bộ nghiêm túc và đáng kể trong lĩnh vực nhân quyền bao gồm tôn trọng tự do tôn giáo, thả tù nhân chính trị, tôn trọng quyền tự do ngôn luận, lập hội, hay tụ tập của công dân, bỏ các điều luật hình sự hóa các tiếng nói bất đồng chính kiến, các hoạt động truyền thông độc lập, hay các cuộc tuần hành ôn hòa, tuân thủ đúng các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền, tôn trọng nhân quyền của các nhóm thiểu số, có các biện pháp thích đáng kể cả truy tố các quan chức nhà nước để chấm dứt tình trạng buôn người có sự đồng lõa của giới hữu trách.”

Nhắc lại buổi điều trần tại Quốc hội Mỹ hôm 11/4 về nạn buôn người, tự do tôn giáo và nhân quyền Việt Nam, dân biểu Smith nhấn mạnh những gì ghi nhận được cho thấy chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền căn bản của công dân, đàn áp chính trị và sắc tộc, và có hiện tượng giới chức chính quyền có hành vi đồng lõa với nạn buôn người.

Dân biểu Chris Smith từng vài lần đề nghị Dự luật Nhân quyền Việt Nam và đã được Hạ Viện Mỹ thông qua, nhưng bị chặn lại khi lên đến Thượng Viện.

Một ngày tổng vận động cho nhân quyền Việt Nam sẽ diễn ra tại Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 4/6 tới đây.

Sự kiện này dự kiến quy tụ sự tham dự của hàng trăm người Mỹ gốc Việt từ khắp nơi kéo về trụ sở Quốc hội để yêu cầu áp lực Hà Nội phải tôn trọng nhân quyền và chấm dứt những sự vi phạm, đàn áp quyền căn bản của công dân.

‘Hai phương án tên nước’ của CSVN chỉ là trò bịp

Friday, May 17, 2013 6:59:29 PM

HÀ NỘI (NV) – Vào kỳ họp Quốc hội khóa đầu năm ngày 20-5-2013, sẽ có 2 tên nước Việt Nam được đưa ra để thảo luận trong dự thảo sửa đổi lại bản hiến pháp 1992 của chế độ Hà Nội.

Giáo dân Công giáo giáo phận Vinh ký kiến nghị ủng hộ Thư Góp Ý sửa Hiến Pháp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. (Hình: Nữ Vương Công Lý)


Ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ nhiệm Văn Phòng Quốc Hội CSVN, loan báo như vậy trong cuộc họp báo hôm Thứ sáu 17/5/2013.

Từ cuối năm ngoái đến nay, CSVN mở chiến dịch đại quy mô “lấy ý kiến nhân dân” để sửa lại bản hiến pháp đã lỗi thời. Tại rất nhiều địa phương, dân chúng được phát cho cả bản dự thảo hiến pháp mới cùng với một xấp giấy để “góp ý kiến”. Người ta có thể khỏi cần đọc mà ký tên ngay hay giữ lại rồi ngày hôm sau có nhân viên nhà cầm quyền địa phương tới lấy lại. Mấy ai đọc và bao nhiêu người hiểu? Đại đa số chọn thái độ ký đại cho đỡ bị phiền phức.

Những gì được nhìn thấy sửa đổi lại bản hiến pháp cũ là những chi tiết râu ria, một số từ ngữ, sắp xếp đảo lộn từ trước ra sau từ sau ra trước một số điều. Nhưng cái cốt lõi là điều 4 dành độc quyền cai trị đất nước cho đảng CSVN thì vẫn không đổi. Quyền tư hữu đất đai vẫn bị đảng CSVN cưỡng đoạt.

Cũng với chiến dịch sửa lại bản hiến pháp, có một số dạo đờn trong hàng ngũ đảng viên là đổi cả tên nước. Bây giờ, một cách chính thức, như cái ông Nguyễn Hạnh Phúc loan báo, sẽ có 2 tên nước sẽ được đưa ra để quốc hội “con dấu cao su” CSVN (rubber stamp – theo cách gọi chê bai của báo chí quốc tế) của chế độ biểu quyết.

Tức là giữ nguyên cái tên nước là “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” hay đổi thành “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Tương kế tựu kế với trò sửa đổi hiến pháp, nhiều trí thức trong nước đã cùng nhau ký tên trên một bản kiến nghị đòi đảng CSVN trả lại quyền tự do cho dân từ tự do ứng cử và bầu cử thay vì đảng cử dân bầu, tam quyền phân lập, đa nguyên đa đảng chứ không do đảng Cộng sản độc quyền, trả quyền tư hữu cho nhân dân thay vì cướp đất của dân như hiện nay.

Đồng thời, ngày 1/3/2013, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng gửi một thư góp ý với nội dung tương tự. Hàng chục ngàn người trên cả nước đã ký tên trên các kiến nghị và thư góp ý vừa nói nhưng chế độ Hà Nội lờ đi như không có. Một phái đoàn 16 người đại diện cho 72 nhân sĩ trí thức đầu tiên ký bản kiến nghị sửa Hiến Pháp đã tới Văn phòng Quốc hội Hà Nội trao cho một chức sắc ở đây, nhưng không ai tin nó sẽ được cân nhắc, nghiên cứu hay coi trọng.

Qua mấy chục năm, từ khi thành lập đảng CSVN đến nay, nó đã đổi tên đảng và tên nước mấy lần để lừa thiên hạ chứ không phải không có tiền lệ.

Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương (gồm 3 nước Việt-Miên-Lào) tuyên bố tự giải tán để che giấu sự liên hệ cộng sản với nhà nước Việt Nam mới thành lập, lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Mọi hoạt động công khai của đảng từ đây đều thông qua Mặt trận Việt Minh (tên tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) tức Đảng Cộng Sản trá hình. Núp dưới tên khác mà thực tế, đảng vẫn hoạt động và cầm đầu cuộc kháng chiến, một mặt đánh thực dân Pháp cũng như  đánh nhau với các tổ chức kháng chiến chống Pháp của người Việt không Cộng Sản. Sau đó Việt Minh biến thành Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam cùng với Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội…

Đến Tháng Hai năm 1951, Đảng CS đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam khi xảy ra Chiến tranh Đông Dương cũng vẫn trong nhu cầu đánh lừa người quốc gia tham gia chống Pháp. Sau khi chiếm được nửa đất nước năm 1954 thì đến năm 1960, CSVN đổi tên nước thảnh Việt Nam Dân Chủ Công Hòa và đến năm 1976 tức sau khi cướp được một nửa đất nước ở phía Nam, thống nhất đất nước, thì đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nguyên hình là Đảng Công Sản Việt Nam, tên nước đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cho đến nay.

Dù tên nước đổi thế nào, trong sự cai trị của đảng CSVN, người dân đã bị lường gạt, bóc lột sức lao động, cướp đoạt tài sản và ngay cả niềm tin, theo mô hình “xã hội chủ nghĩa” đến nay không ai biết thật sự nó sẽ như thế nào ngoài cái lý thuyết Mác Xít.

Như trên nói, cả tên đảng Cộng Sản và tên nước được những kẻ cầm đầu đảng CSVN thay đổi tùy theo nhu cầu tình thế của hoàn cảnh. Bản chất của nó vẫn là Đảng Cộng Sản và chủ trương của những kẻ cầm đầu đảng CSVN.

Chế độ Hà Nội bị dư luận quốc tế chỉ trích mạnh mẽ về nhân quyền. Nay nếu đổi tên nước, có thể lấy cái tên “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đánh tráo cho cái tên hiện nay “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” thì có thể có căn cứ để biện minh hay bịp tiếp dễ hơn. Chứ cứ ôm lấy cái “Xã hội Chủ nghĩa” thì lộ liễu quá.

Nhưng chỉ đổi tên nước mà bản chất vẫn là do đảng CSVN tham những, độc tài thối nát hiện nay cầm đầu thì nó vẫn chỉ là một thứ con tắc kè đổi màu tùy theo môi trường chung quanh cho dễ ẩn nấp mà rình mồi. Nó cũng vẫn chỉ là trò đánh bạc bịp, vừa đánh trống vừa ăn cướp. Con cáo ăn cắp gà dù gọi nó là con nai thì bản chất của nó không thay đổi. Con nai ăn cỏ chứ con cáo không ăn cỏ để sống.

Khi thông báo kết quả tổng kết nhân dân “góp ý kiến” sửa hiến pháp , riêng tỉnh Bình Dương loan tin đã có tới 44 triệu 500 ngàn ý kiến đóng góp. Tỉnh này chỉ có khoảng 1.5 triệu người, như vậy, mỗi người phải đóng góp tới 30 “ý kiến”, một sự tuyên truyền bịp bợm lộ liễu.

Tờ Sài Gòn Giải Phóng thì khiêm tốn hơn khi thuật tin từ “Ban Biên tập Dự Thảo Sửa đổi Hiến Pháp” nói đến cuối Tháng 3 vừa qua đã có 26 triệu ý kiến đóng góp của các tổ chức, cơ quan, và cá nhân. Nhưng tờ VietnamNet đến ngày 8/4/2013 thì nêu ra con số đến thời điểm này có hơn 20 triệu “lượt ý kiến của các tầng lớp nhân dân”. Không những các bản tường trình khác nhau về con số mà mỗi ngày một thun lại.

“Tôi cho rằng chiêu trò sửa đổi hiến pháp này chỉ là chiêu trò bài ba lá, tráo bài ba lá mà Đảng Cộng sản và một số người được trả lương để định hướng dư luận bày ra để lừa bịp nhân dân và dư luận quốc tế thôi, chứ chẳng sửa đổi để tốt hơn. Tôi chắc chắn sẽ không có gì thay đổi như trong phần đầu phiếu xin ý kiến tôi đã ghi.” Một cư dân thành phố Hà Nội tên  Nguyễn Doãn Kiên trả lời cuộc phỏng vấn của đài RFA ngày 9/4/2013.

Theo ông Kiên “Ở Việt Nam tất cả những cơ quan truyền thông đại chúng đều thuộc quyền của Đảng Cộng sản; cho nên con số thống kê chắc ai cũng biết là không đúng sự thật rồi.”

Ngày 9/1/2013 tờ TBKTVN và nhiều báo khác thuật lời phát biểu của ông Đinh Thế Huynh, trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương của đảng CSVN, nói rằng “Phải làm cho nhân dân tin tưởng những ý kiến đóng góp được trân trọng, được nghiêm túc tổng hợp, nghiên cứu và tiếp thu”.
Sau đó ít ngày, báo của chính phủ Hà Nội đưa tin “Thủ tướng yêu cầu tập hợp trung thực ý dân về Hiến pháp”.

Nhưng ngày 21/3/2013, báo điện tử của Dòng Chúa Cứu Thế (chuacuuthe.com) đưa tin “Công an Đồng Nai sách nhiễu các linh mục vì phổ biến Bản Nhận Định và Góp Ý sửa Hiến Pháp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam”.

Những ai tham gia buổi “dã ngoại nhân quyền” ngày 5/5/2013 tại Sài Gòn, Hà Nội và Nha Trang do nhóm “Công dân tự do” tổ chức, đã bị Công an phá đám ngay từ đầu. Một số người đã bị bắt giữ và gia đình cô blogger Nguyễn Hoàng Vi đã bị cướp tiền bạc, điện thoại, máy ipad và bị hành hung dã man.

Vậy thì đổi tên nước có gì thay đổi ở Việt Nam hay không? Sửa hiến pháp có cải thiện nhân quyền hay không? Hỏi tức là trả lời vì bản chất của đảng CSVN vẫn không thay đổi.