GS Nguyễn Mạnh Hùng Quá muộn, nếu Đảng chờ tới 2016 để thay đổi

Đảng quá muộn nếu chờ tới 2016

Đảng Cộng sản Việt Nam cần tranh thủ thời điểm ngay hiện nay để thay đổi mà không nên chờ đợi tới hết nhiệm kỳ Trung ương Đảng hiện nay để cải tổ và thay đổi nhân sự vì khi đó đã là quá muộn.

GS Nguyễn Mạnh HùngGiáo sư Hùng cho rằng Đảng đợi đến năm 2016 mới thay đổi sẽ là quá muộn

Đó là nhận xét của Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng từ Đại học George Madison, Hoa Kỳ hôm 05/5/2013, khi quan sát các diễn biến hiện nay của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 đang nhóm họp tại Hà Nội.

Theo Giáo sư Hùng, việc Đảng điều động một số cán bộ như ông Nguyễn Bá Thanh ra chính quyền trung ương để làm công tác nội chính và chống tham nhũng trong bộ máy lãnh đạo và nhà nước là một tín hiệu mới.

Nhưng nếu ông Thanh không vào được Bộ Chính trị để trở thành một Ủy viên Bộ này trong lúc dẫn dắt Ban Nội chính Trung ương thì quyền lực của ông Thanh sẽ không mạnh và thay đổi nhân sự cũng như cải tổ bộ máy của Đảng tỏ ra không có gì đáng kể.

“Họ đã đưa ông Nguyễn Bá Thanh về làm Nội chính rồi, vấn đề đặt ra là họ có đưa ông Thanh vào Bộ Chính trị hay không. Nếu không thì thấy quyền của ông Nguyễn Bá Thanh cũng kém và việc đánh tham nhũng hay sự sắp xếp thay đổi nhân sự không có gì ghê gớm cả,” ông nói với BBC.

‘Đổ vỡ bất lường’

Nhà quan sát cũng cảnh báo việc thiếu đoàn kết, nhất trí trong các vị trí lãnh đạo quốc gia có thể trở thành một điểm yếu, bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với quốc gia láng giềng Trung Quốc, nước mà theo ông luôn có mục tiêu duy trì Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình trạng như hiện nay.

Giáo sư Hùng cũng phân tích các thay đổi trong chính sách đối nội và đối ngoại trên bình diện quốc tế và khu vực của Mỹ và Trung Quốc và qua đó phán đoán các tác động, giới hạn tác động tới đổi mới, cải tổ từ hai cường quốc gia này với Đảng Cộng sản Việt Nam và quốc gia gần 90 triệu dân.

Đặc biệt ông cho rằng mô hình quyền lực của Đảng Cộng sản không còn có chỗ đứng trong lịch sử và sẽ bị đào thải khi chuyển sang thể chế dân chủ văn minh của nhân loại như một trào lưu quốc tế lâu nay.

Tuy nhiên, việc Đảng có hy sinh hay không quyền lợi của mình vì lợi ích của dân tộc lại tùy thuộc nhận thức của Đảng, nhất là trước khả năng Việt Nam có những cuộc bột phát, bùng nổ dẫn tới cách mạng xã hội, đổ vỡ không thể lường trước, do Đảng thiếu vắng một lộ trình chuyển giao quyền lực.

Ở phần đầu cuộc trao đổi với Quốc Phương của BBC, Giáo sư Hùng phân tích các kịch bản và phương án về nhân sự cấp cao mà Hội nghị Trung ương 7 đang làm việc có thể phải tính tới.

Lập Ban Nội chính trên khắp nước

Ông Nguyễn Bá Thanh (phải)Ông Nguyễn Bá Thanh (phải) đang lãnh đạo Ban nội chính Trung ương Đảng

Ban Nội chính sắp được thiết lập ở hơn sáu mươi tỉnh, thành ở Việt Nam, theo một văn bản nhắc nhở của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản gửi các cơ quan thường vụ đảng cấp tỉnh thành, theo truyền thông trong nước.

Hôm 05/5, trong lúc Hội nghị Trung ương 7 của Đảng đang diễn ra, tờ Bấm Vietnamnet loan tin cho hay ’63 tỉnh, thành sẽ có ban nội chính gồm ba phòng chức năng là văn phòng, theo dõi công tác nội chính, và theo dõi công tác phòng chống tham nhũng’ theo một văn bản từ Trung ương Đảng.

Về cơ cấu nhân sự và nhân sự lãnh đạo của Ban Nội chính Trung ương, tờ báo điện tử dẫn văn bản của Trung ương Đảng, cho hay:

“Về nhân sự lãnh đạo, Ban Bí thư yêu cầu bố trí cán bộ cỡ ủy viên thường vụ tỉnh/thành ủy làm trưởng ban nội chính.

“Nơi chưa có điều kiện thì giao vị trí quan trọng này cho cấp ủy viên thuộc diện được quy hoạch vào thường vụ tỉnh/thành ủy khóa tới.

“Cơ cấu nhân sự này là tương đồng với chủ trương mà Hội nghị Trung ương 6 đã thông qua.

“Cơ cấu nhân sự này là tương đồng với chủ trương mà Hội nghị Trung ương 6 đã thông qua. Theo đó Trưởng ban Nội chính trung ương và cả Ban Kinh tế trung ương mới tái lập cũng được cơ cấu vào Bộ Chính trị, hoặc chí ít là Ban Bí thư trung ương”

Ý kiến của Ban Bí thư Đảng CSVN

“Theo đó Trưởng ban Nội chính trung ương và cả Ban Kinh tế trung ương mới tái lập cũng được cơ cấu vào Bộ Chính trị, hoặc chí ít là Ban Bí thư trung ương.

Hôm Chủ Nhật, trao đổi với BBC từ trong nước, nhà báo tự do, blogger Trương Duy Nhất bình luận cho rằng đây là kế hoạch, dự kiến từ trước của Bộ Chính trị, Ban bí thư, liên quan tới cả hai Ban.

Tuy nhiên, theo ông hiệu quả của Ban Nội chính ra sao còn ít nhất phụ thuộc vào hai yếu tố mà trước hết là liệu các ông Trưởng ban của hai ban này có được bầu bổ sung vào Bộ chính trị hay không và họ được bầu ra sao.

Và thứ hai, vẫn theo ông Nhất, cần tránh để các Ban này rơi vào tình trạng của Ban Nội chính trước đây thời của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng còn tại chức, theo đó sau khi được thành lập một thời gian, Ban này bị suy giảm vị thế, chấm dứt chức năng khi lãnh đạo Ban về hưu.

‘Rối rắm, khó tin’

Blogger này nói: “Cái việc hình thành Ban nội chính của Đảng, nhiều khi tôi thấy cũng rối rắm lắm.

“Cái việc hình thành Ban nội chính của Đảng, nhiều khi tôi thấy cũng rối rắm lắm… Tôi không tin vào hai ban đó, vì nó cứ thành lập sau một thời gian rồi lại mất thôi”

Blogger Trương Duy Nhất

“… Tôi không tin vào hai Ban đó, vì nó cứ thành lập sau một thời gian rồi lại mất thôi.”

“Ở những nhiệm kỳ trước, có nhiệm kỳ lập ra trong thời gian ngắn rồi khi ông Trưởng Ban về hưu thì cái ban đó cũng giải thể, vĩ dụ như thời ông Trương Vĩnh Trọng. Tất cả quy về ông Trọng hết, rồi đến khi ông nghỉ hưu thì dẹp ban đó.

Hôm Chủ Nhật, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang bình luận với BBC về cá nhân Trưởng Ban Nội chính Nguyễn Bá Thanh, cho rằng ông Thanh là một lựa chọn tốt để trở thành một nhân vật cao cấp, thành viên Bộ chính trị lãnh đạo ban này.

Tuy nhiên ông cũng cho rằng ông Thanh có một số nhược điểm cần khắc phục.

Ông nói: “Ông Nguyễn Bá Thanh hơi hăng hái quá, hơi lộ liễu quá, ông tung hô mạnh quá. Ông hô là sẽ bắt hết, nhốt hết.

“Trước đây, ông chỉ đạo hành động ở một thành phố, đơn phương thì tiếng nói của ông ấy có thể có uy tín tuyệt đối, nhưng trăm, triệu con mắt nhìn vào, cả Bộ Chính trị, Trung ương nhìn vào, thì người ta có thể thấy rằng khi quyền vào tay ông ấy, thì ông có thể hơi khó hợp tác, hơi khó điều khiển.”

‘Vào Bộ chính trị?’

“Vấn đề là họ có đưa ông Thanh vào Bộ Chính trị hay không. Nếu không thì thấy quyền của ông Nguyễn Bá Thanh cũng kém và việc đánh tham nhũng hay sự sắp xếp thay đổi nhân sự không có gì ghê gớm cả”

GS Nguyễn Mạnh Hùng, ĐH George Madison, Hoa Kỳ

Việc thành lập Ban Nội chính có vẻ cũng được giới quan sát thời sự Việt Nam ở cả trong lẫn ngoài nước quan tâm.

Hôm thứ Bảy, 04/5, Giáo sư Bấm Nguyễn Mạnh Hùng từ Đại học George Madison Hoa Kỳ nói với BBC:

“Họ đã đưa ông Nguyễn Bá Thanh về làm Nội chính rồi, vấn đề đặt ra là họ có đưa ông Thanh vào Bộ Chính trị hay không. Nếu không thì thấy quyền của ông Nguyễn Bá Thanh cũng kém và việc đánh tham nhũng hay sự sắp xếp thay đổi nhân sự không có gì ghê gớm cả.”

Trở lại với văn bản của Ban bí thư gửi các địa phương, theo truyền thông trong nước, tại 63 tỉnh, thành sẽ đều có ban nội chính gồm ba phòng chức năng, với nhân sự của Ban nội chính tại Hà Nội, TP HCM, Nghệ An, Thanh Hóa không quá 30 người và ở các địa phương khác không quá 21 người.

Riêng bảy tỉnh Lai Châu, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Đăk Nông, Kon Tum, Bạc Liêu, Hậu Giang thì nhân sự không quá 15 người, và chỉ tổ chức thành hai phòng, gồm văn phòng cùng phòng theo dõi chung cả mảng nội chính và phòng chống tham nhũng.

Việc tổ chức ban nội chính ở tất cả các tỉnh, thành ủy là nét khá mới so với trước đây, như với nhiệm kỳ của Ban Chấp thành TƯ Đảng khóa 10, theo VietnamNet hôm Chủ Nhật.

“Vì trước khi Ban Nội chính trung ương giải thể, chỉ những tỉnh, thành thực sự có nhu cầu’ mới được lập ban nội chính, và phải báo cáo Ban Bí thư,” tờ báo cho hay.

Bộ Công an triệt tiêu tinh thần báo chí

Quốc Phương. BBC Việt ngữ, 4 tháng 5, 2013

Cảnh sát Việt Nam
Bộ Công an có ẩn ý gì khi yêu cầu truy xét nguồn tin của báo chí?

Việc Bộ Công an đòi truy xét nguồn tin của báo chí trong tình hình tham nhũng đang ngày càng trở nên một vấn nạn và bi kịch của đất nước như hiện nay chỉ làm triệt thoái tinh thần chống tham nhũng của báo chí, thay vì động viên họ, theo nhận xét của nhà báo tự do từ trong nước.

Trao đổi với BBC hôm 04/5/2013 từ Sài Gòn, ông Phạm Chí Dũng, người đang được Bấmtại ngoại sau khi bị Công an TP Hồ Chí Minh câu lưu bốn tháng, cho rằng thời điểm mà ngành Công an đưa ra yêu cầu buộc ngành báo chí chia sẻ nguồn tin là rất không hợp lý.

Ông Dũng đặt câu hỏi: “Tại sao vào đúng thời điểm nàyBấmBộ Công an lại nêu một đề xuất như thế mà tại sao không phải một thời điểm khác?

“Tại sao năm 2012 khi tình hình tham nhũng rất căng thẳng trong bối cảnh suy thoái kinh tế nặng nề, và đầu năm nay, khi đã có hướng mở về một số chủ trương chống tham nhũng, thì Bộ Công an không đề xuất, mà lại đề xuất vào thời điểm này?

“Tôi cho là có một hàm ý, một ẩn ý gì đó. Nhìn chung tôi cho rằng đề xuất này không nên đặt ra và nói chung là không hợp lý.”

Ông Dũng đưa ra con số so sánh và cho rằng chính ngành báo chí, truyền thông có vai trò mạnh mẽ hơn cả các hệ thống điều tra thuộc ngành tư pháp, trong việc phát giác tham nhũng thời gian gần đây.

Người được cho là cựu cán bộ ngành an ninh trước khi được điều sang làm cán bộ thuộc chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng bị câu lưu trong một vụ án có thể ‘có màu sắc chính trị’, nói:

“Trong tình hình đó lại đặt ra vấn đề này, vấn đề truy xét nguồn tin từ báo chí, tôi cho là, như một số anh em báo chí phản ánh trong vài ngày vừa rồi, làm như vậy gần như là một cái gì đó làm triệt thoái (tiêu) tinh thần chiến đấu của anh em báo chí, thay vì hỗ trợ cho họ”

Ông Phạm Chí Dũng

“Một số quan chức nhà nước và cả một số phản biện gia đã nhận xét là có đến 70-80%, thậm chí là hơn, các vụ việc tham nhũng, tham ô, tiêu cực là do báo chí phát hiện.

“Như vậy chỉ còn lại từ 20-30% là do hệ thống tư pháp phát hiện hoặc do người dân tố cáo trực tiếp, và có thể nói tỷ lệ phát hiện do các cơ quan tư pháp vẫn là ẩn số, cho tới giờ này. Tức là hiệu quả làm việc không cao.

‘Lạ lùng và kỳ quặc’

Ông Dũng cho rằng hiệu quả chống tham nhũng của các cơ quan tư pháp, điều tra của nhà nước không đạt yêu cầu và đánh giá tình hình tham nhũng càng ngày càng nặng nề, trở thành một vấn nạn, bi kịch của đất nước.

“Trong tình hình đó lại đặt ra vấn đề này, vấn đề truy xét nguồn tin từ báo chí, tôi cho là, như một số anh em báo chí phản ánh trong vài ngày vừa rồi, làm như vậy gần như là một cái gì đó làm triệt thoái (triệt tiêu) tinh thần chiến đấu của anh em báo chí, thay vì hỗ trợ cho họ.

“Có thể nói là tham nhũng móc xích chằng chịt dây dợ lẫn nhau và thông tin có thể lộ ra ở bất kỳ nguồn nào, cho nên việc đưa ra ánh sáng một vụ việc tham nhũng là điều hết sức quý giá.

“Một trong những điều quan trọng nhất như các nước phát triển trên thế giới làm, thí dụ như ở Pháp, là phải bảo vệ bằng được nguồn tin cá nhân, người cung cấp tin và kể cả nhà báo viết bài, viết tin, làm bài,” ông nói.

Móc xích các sự kiện với các đề xuất trước đó của Bộ Công an như cho phép nổ súng vào đối tượng chống người thi hành công vụ, nhà báo tự do nhận xét:

“Tôi cho cái này cũng liên quan tới một cái gì đó, cái quyền nổ súng vào người chống người thi hành công vụ, và Bộ Công an gần đây có vài đề xuất có thể nói lạ lùng và kỳ quặc và tính thời điểm đưa ra, tôi cho là không ổn.”

Nhân ngày Tự do Báo chí Thế giới năm nay, 03/5/2013, ông Phạm Chí Dũng nói với BBC rằng ông đồng quan điểm với nhiều bloggers và truyền thông lề dân, truyền thông xã hội khi cho rằng tự do báo chí trong nước đang bị nhà nước, chính quyền hạn chế chặt. Ông nói:

“Họ đánh giá, họ dùng những tính từ, tôi xin nhắc lại như là ông Phạm Minh Hoàng nói là ‘quằn quại’… Và tôi cho là bị hạn chế rất nhiều.

“Trong thực tế, quyền này bị hạn chế do tất cả các cơ quan báo chí, báo đài, cơ quan truyền thông đều nằm trong tay của nhà nước và đươc kiểm soát rất chặt chẽ bởi các đảng viên tin cẩn”

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh

“Tôi chưa muốn dùng những tính từ nặng hơn nhưng nếu cứ để vấn đề như thế này và nó lại móc xích với vấn vừa đề cập, tức là đề xuất của Bộ Công an, thì lúc đó tính chiến đấu và chống tham nhũng của báo chí gần như không còn gì hết.”

Hôm thứ Sáu, cũng nhân ngày này, đánh giá tình hình về tự do báo chí trong nước, bloggerBấmHuỳnh Ngọc Chênh, người được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới và hãng Google đồng trao giải thưởng Công dân mạng Netizen năm 2013 cho hay:

“Ở Việt Nam, pháp luật công nhận quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của người dân, và nhà nước Việt Nam cũng tự nguyện tham gia các tổ chức quốc tế, trong đó cam kết bảo vệ các quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí.

“Tuy nhiên trên thực tế, quyền này bị hạn chế do tất cả các cơ quan báo chí, báo đài, cơ quan truyền thông đều nằm trong tay nhà nước và được kiểm soát rất chặt chẽ bởi các đảng viên tin cẩn.

“Và do vậy những tiếng nói khác với tiếng nói và đường lối của Đảng không được thông tin lên; tuy nhiên, người dân Việt Nam vẫn đấu tranh cho quyền tự do của mình nhờ có hệ thống Internet và qua hệ thống đó thì các trang blogs, các mạng xã hội truyền tải được những thông tin, suy nghĩ của dân.”

‘Tình hình khả quan lên?’

Tuy nhiên, ông Huỳnh Ngọc Chênh cũng cho rằng việc chính quyền cho phép ông hay ông Bùi Thanh Hiếu, được biết đến với tên Blogger Người Buôn Gió, được đi lại nước ngoài là một dấu hiện mới. Ông nói:

“Như ông Bùi Thanh Hiếu, hay như tôi được ra vào tự do thì tôi nghĩ cũng là xu hướng chung, không được ngăn chặn và xâm phạm vào quyền con người một cách thô bạo. Chuyện đi ra nước ngoài là nằm trong quyền của con người được tự do đi lại, có lẽ nhà nước càng ngày càng nới ra trong chuyện đó.”

Về phần mình, ông Phạm Chí Dũng nói ông khá ngạc nhiên về việc ông Chênh không bị chính quyền ngăn cản tới Pháp nhận giải, nhưng ông liên hệ sự việc đó với sự kiện sau khi ông Chênh tới Pháp, Việt Nam và Pháp đã làm việc ở cấp Ngoại trưởng nâng tầm quan hệ song phương lên đối tác chiến lược.

“Tôi không cho là có vấn đề gì đó quá nặng nề đối với anh Huy Đức, nhưng chắc sẽ có những chuyện mà anh không mong muốn. Hiện nay, bối cảnh 2013 nó đang khác khá nhiều so với 2012”

Ông Phạm Chí Dũng

“Tôi cho đó là lý do duy nhất để anh Huỳnh Ngọc Chênh được đi Paris nhận một giải thưởng mà chính quyền vẫn cho là không phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam một cách dễ dàng mà không bị ngăn cản gì.”

Còn về việc ông Bùi Thanh Hiếu hay Blogger Người Buôn Gió được phép sang Đức, ông Dũng nhận xét việc này liên quan tới một giấy mời theo đó ông Hiếu sang Đức để ‘đi học’ một việc ‘nhẹ nhàng hơn là nhận giải.’

Song ông Dũng cũng liên hệ chuyến đi này với sự kiện bang giao quốc tế của Việt Nam và nói nó xảy ra “chỉ ba ngày sau sự kiện đối thoại nhân quyền Việt Mỹ” diễn ra ở Hà Nội.

Nhân dịp này, nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, người vừa được tờ BấmTuổi Trẻ xin lỗi chính thức về việc đưa thông tin sai lệch về ông trong thời gian ông bị Công an TP Hồ Chí Minh câu lưu, cũng bình luận về blogger Osin, tức nhà báo Huy Đức, sau khi tác giả này công bố cuốn sách BấmBên Thắng Cuộc.

Ông Dũng nói: “Nếu Huy Đức viết cuốn Bên Thắng Cuộc và trở về Việt Nam vào cuối năm 2012, đặc biệt thời điểm tháng 11, tháng 12/2012, là thời gian lúc đó tôi vẫn bị câu lưu, thì không ổn cho nhà báo Huy Đức đâu. Tại vì lúc đó còn căng thẳng, rất căng thẳng.

“Và tôi còn nhớ lúc đó vụ bắt Lê Quốc Quân là cuối cùng tính cho tới thời điểm hiện nay, nhưng nó xảy ra vào thời điểm ngày 27/12/2012, và thời gian đó là thời gian Bên Thắng Cuộc phát hành. Nếu Huy Đức trở về thời gian đó thì sẽ có những vấn đề gì đó từ phía cơ quan chức năng.

“Tôi không cho là có vấn đề gì đó quá nặng nề đối với anh Huy Đức, nhưng chắc sẽ có những chuyện mà anh không mong muốn. Hiện nay, bối cảnh 2013 nó đang khác khá nhiều so với 2012, tôi đánh giá tình hình hiện nay khả quan hơn, thậm chí khá nhiều, so với năm 2012,” ông nói với BBC.

Tiền lệ cho dân chủ khiếu kiện chính trị?

Phạm Chí Dũng gửi RFA. 2013-05-04
32-305.jpg

Những thông tin sai sự thật đăng trên báo Tuổi Trẻ về ông Phạm Chí Dũng hồi tháng 7/2012.

Screen capture

Tiền lệ

Ở xã hội Việt Nam vào thời giao thoa này, không hẳn những việc chưa có tiền lệ sẽ không bao giờ có tiền lệ.

Vụ việc khiếu nại của tôi – Phạm Chí Dũng – dù chỉ với tư cách một cá nhân nhỏ bé, đơn phương và không hề mang động cơ đánh bóng bản thân – đối với báo Tuổi Trẻ, biết đâu có thể được xem là một tiền lệ như thế, ứng với bối cảnh xã hội – chính trị Việt Nam đang ở năm 2013 chứ không còn thuộc về năm 2012 hay nhiều năm trước đó.

Ngày 2/5/2013, chỉ một ngày trước thời điểm kỷ niệm 3/5 cho các nhà báo tự do trên thế giới, báo Tuổi Trẻ đã thực hiện cải chính theo những đề nghị trong đơn khiếu nại của tôi:  “Đến nay, chưa có cơ sở xác định ông Phạm Chí Dũng cung cấp các tài liệu bí mật ra nước ngoài và nhận hàng ngàn USD như tin đã đưa”.

Những thông tin sai sự thật đăng trên báo Tuổi Trẻ về tôi đã xảy ra từ tháng 7/2012, tức trước thời điểm tôi khiếu nại 3 quý.

“Việc công khai xin lỗi ông Dũng thể hiện thái độ cầu thị và đường hoàng của báo Tuổi Trẻ TP.HCM” – Sống Mới, một tờ báo của Liên hiệp các tổ chức khoa học kỹ thuật Việt Nam, đã bình luận về tiền lệ trên.

Với cá nhân tôi, rất có thể lời xin lỗi của báo Tuổi Trẻ là một dấu chỉ có ý nghĩa dành cho lễ kỷ niệm Ngày nhà báo tự do quốc tế 3/5.

Chỉ dấu trên có lẽ càng có ý nghĩa hơn nếu chúng ta tham khảo một nhận định của báo Người Việt ở Mỹ “Ở Việt Nam, đính chính và ngỏ lời xin lỗi một cá nhân từng bị cáo buộc phạm những tội, nằm trong nhóm tội “xâm phạm an ninh quốc gia” là chuyện chưa từng có tiền lệ. Cho “tại ngoại” sau đó “đình chỉ điều tra” đối với một cá nhân như vậy cũng là điều chưa từng xảy ra”.

Nhận định trên nằm trong bài viết “Báo Tuổi Trẻ xin lỗi người “âm mưu lật đổ chính quyền””.

24-250.jpg
Hình chụp lại một phần tin cải chính đăng trên báo tuổi trẻ. Photo courtesy of Basam.

Người Việt cũng bày tỏ thái độ ngạc nhiên đầy tính hoài nghi: “Những người đấu tranh dân chủ hóa đất nước, hay cho tự do tôn giáo bị báo chí nhà nước CSVN vu khống, bôi bẩn đã đòi các cơ quan báo đài đó đính chính đều bị lờ đi. Ðưa đơn tới tòa án kiện thì đơn cũng không được nhận”.

Có thể, những hoài nghi của Người Việt hay từ nhiều dư luận trong và ngoài nước đã là một phần sự thật trong nhiều năm qua.

Nhưng cũng có thể, Người Việt ở hải ngoại đã không thật sự hiểu rõ nội tình, và quan trọng hơn là không đủ điều kiện để cảm nhận trực tiếp về bầu không khí xã hội và chính trị đang đượm nhiều sắc thái biến chuyển khác thường ở Việt Nam.

“Bức tường” Trương Tấn Sang?

Bởi hoàn toàn không như những hoài nghi và cả nghi ngờ của công luận và dư luận, vụ việc của tôi chỉ thuần túy là trường hợp một công dân đi khiếu nại với đầy đủ các quyền dân sự của mình.

Như đã trả lời phỏng vấn Đài RFA cách đây không lâu, tôi là một viên chức đã có quá trình 16 năm nghiên cứu về hoạt động an ninh. Tuy nhiên, điều tưởng như “lợi thế chính trị” như vậy lại không nằm trong bất kỳ suy nghĩ nào của tôi đối với việc khiếu nại, cũng như một mối liên hệ nào đó với Tổng cục 2 quân đội trong dĩ vãng xa xưa hoàn toàn chẳng phải động lực để báo Tuổi Trẻ cải chính.

Nguyên do còn lại – “bức tường”, như thường được đồn đoán đối với bất kỳ công chức nhà nước nào được coi là “có mối quan hệ với nhiều cấp lãnh đạo”, thật ra lại hoàn toàn không xác thực. Bởi trong thực tế từ nhiều năm qua, cá nhân tôi không tiếp nhận bất kỳ sự chỉ đạo, chi phối hay tác động nào của người là chủ tịch nước hiện nay – ông Trương Tấn Sang.

Chẳng có bất cứ một “bức tường” nào, nếu như bạn không muốn thế.

Cũng như mối liên hệ với Tổng cục 2 quân đội, tất cả những gì mà tôi còn lưu giữ trong ý ức về ông Trương Tấn Sang chỉ là dĩ vãng trong sạch về con người này.

Với ký ức khó quên như thế, tôi thật lòng cầu chúc cho ông Trương Tấn Sang và những chính khách như ông sẽ tạo ra được một phép màu: lôi đất nước khỏi vũng lầy suy thoái.

Vũng lầy suy thoái đó lại đã được hòa hợp nhưng chưa hề bị phân giải bởi một trong những chất bùn sền sệt – thực tồn mất dân chủ ghê gớm trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều địa phương.

Và như điều ông Sang thường trả lời cử tri, hệ lụy lầy lội trên đã khiến lòng tin của dân chúng vào đảng và chính quyền bị suy giảm nghiêm trọng.

Những biến chuyển mới

Mất dân chủ chỉ có thể được phục hồi bằng chính hành vi dân chủ chứ không phải bởi bất kỳ hình thái phủ dụ nào.

Với cá nhân tôi, nếu tính dân chủ và lẽ công bằng đã được tái lập phần nào qua kết quả lời xin lỗi của báo Tuổi Trẻ, tại sao những công dân chúng ta lại không có quyền hy vọng vào một điều gì đó tiếp nối và có kết quả hơn thế?

Với cá nhân tôi, việc cải chính của báo Tuổi Trẻ đã tạo điều kiện và mở đường cho những người viết báo và công dân hồi phục phần nào hy vọng về tinh thần công bằng trong phản biện độc lập, đối thoại dân quyền và dân chủ chính kiến trong bối cảnh xã hội đang xuất hiện những biến chuyển mới.

Tôi cũng thành tâm mong nguyện rằng trong tương lai sẽ ít hoặc không xảy ra việc khiếu nại hoặc bắt buộc phải khởi kiện của công dân và người viết báo đối với những tờ báo của Nhân Dân và có tính nhân dân, nhằm tránh thoát cho công dân và người viết báo những ý định về quy kết hành vi không đúng hoặc sai lệch với lương tâm của họ.

Giờ đây, xã hội đang dấn thân vào những biến chuyển mới. Khác nhiều với năm 2012 và những năm trước, từ đầu năm 2013 đến ít nhất thời điểm này, chưa có trường hợp “chính trị” nào bị bắt giam.

Sự thoát thai của Minh bạch cùng những tổ chức hoạt động xã hội cũng vì thế đang dần được công khai hóa.

Dù vẫn chưa lộ rõ tín hiệu khởi sắc, nhưng nhãn quan im lặng của người Mỹ vào thời gian sau khi diễn ra cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ tại Hà Nội vào trung tuần tháng 4/2013, cho thấy không hẳn là sự nhẫn nhịn bi quan, mà dường như đang diễn ra một “lộ trình” nào đó về những thỏa thuận nào đó giữa Washington với Hà Nội, Việt Nam với Hoa Kỳ về chủ đề nhân quyền và có thể cả cách thức hình thành nên một nền dân chủ mới.

Cùng lúc cũng diễn ra những sắc thái mới về ngoại giao và quân sự. Trên hết là điểm nhấn Biển Đông, cùng thái độ lắng tiếng của Trung Nam Hải sau khi chiến hạm Mỹ “trao đổi quân sự” với hải quân Việt Nam ở Đà Nẵng.

Giao lưu văn hóa và kinh tế cũng hiện ra tương ứng. Sau 40 năm quan hệ Pháp – Việt, người Gaulois lại một lần nữa xuất hiện, như thể đại diện cho một sự quan tâm đặc biệt hơn hẳn của Liên minh châu Âu đối với vấn đề quyền làm người ở Việt Nam…

Tất cả diễn ra trong bối cảnh Nhà nước Việt Nam đang xúc tiến ứng cử vào một trong những chiếc ghế của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, đồng thời mong muốn thúc đẩy càng sớm càng tốt tiến trình gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) – với các thị trường Mỹ và Tây Âu đóng vai trò sinh tử.

Gạch lót đường

Tất cả có thể diễn ra một cách từ tốn, có phần chậm chạp, nhưng có hy vọng sẽ không phản lộ trình.

Dân chủ cũng bởi thế có hy vọng được lộ diện rõ hơn.

Thế nhưng, như lịch sử đã từng tái hiện quá nhiều lần, Dân chủ không phải là một con đường rải đầy hoa hồng với mùi hương xộc thẳng vào mũi bạn ngay từ những bước dợm chân đầu tiên.

Những chuyển mình đầu tiên lại luôn phải tựa trên những viên gạch lót đường. Mỗi viên gạch lót đường có thể ứng với một tiền lệ nào đó.

Tiền lệ sẽ tiếp nối tiền lệ, cho đến khi tự thân chúng mang tính hệ thống và sinh sôi chuỗi phản ứng có tính quy luật. Đến khi đó, Dân chủ sẽ dần thoát khỏi thời kỳ phôi thai trứng nước để trở thành một hình khối có nhân cách dày dặn hơn.

Cũng đến lúc đó, có thể những viên gạch lót đường đầu tiên sẽ bị đè sâu dưới nhiều viên gạch khác. Cũng có thể những gì thuộc về đầu tiên ấy sẽ bị quên lãng.

Gạch lót đường không nhất thiết phải trở thành một con đường. Cốt lõi của vấn đề này là chúng không kèn cựa với nhau hoặc tệ hại hơn là chồng đạp lên nhau, cũng như phải chấp nhận thân phận bị lãng quên khi tương lai không còn cần đến vai trò của chúng nữa.

Phạm Chí Dũng

‘Nhân dân muốn Đảng thay nhân sự’

Cập nhật: 14:06 GMT – thứ sáu, 3 tháng 5, 2013

Hy vọng tạo ra luồng gió mới về đổi mới đảng và thay đổi cán cân quyền lực trong nội bộ đảng đang được đặt vào Ban Nội chính Trung ương với Trưởng ban này, người đang gặp một số khó khăn, được kỳ vọng bổ sung vào Bộ chính trị, theo ý kiến của blogger trong nước.

Hôm thứ Sáu, 03/05, nhà văn Phạm Viết Đào bình luận với BBC về phương án có ba vị trí ủy viên bộ chính trị được cơ cấu trên cơ sở năm ứng viên được cho là sẽ được đưa ra xem xét cơ cấu vào bộ máy quyền lực cấp chóp bu của Đảng.

Hôm 02/5, một trang mạng mới xuất hiện thời gian gần đây, đưa ra tên của năm nhân vật chưa được kiểm chứng là các ông Nguyễn Bá Thanh, Vương Đình Huệ, Nguyễn Thiện Nhân, Tạ Ngọc Tấn và Trần Quốc Vượng như các ứng viên vào các vị trí của Bộ Chính trị và Ban Bí thư.

Tuy nhiên, ông Đào cho rằng hướng chú ý hiện nay cần được tập trung vào việc củng cố quyền lực cho Ban Nội chính, mà cụ thể là cần cơ cấu một ghế Ủy viên Bộ chính trị cho lãnh đạo Ban này, để ban mà theo ông đang có tới ba ủy viên trung ương Đảng làm thành viên, có thể phát huy tác dụng.

Ông Đào cũng bình luận về các “kịch bản” được nhiều giới và dư luận quan tâm, theo đó liệu sẽ có việc Tổng Bí thư bàn giao sớm chức vụ, hay có khả năng kết hợp lại hai vị trí Tổng bí thư và Chủ tịch nước hoặc liệu Thủ tướng đương kim sẽ di chuyển đi đâu và như thế nào trong nhiệm kỳ tới đây.

RSF: Việt Nam không tiến bộ trong tự do báo chí

RFA 04.05.2013  Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này newsam05042013.mp3Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

rsf-305.jpg

RSF công bố bản chỉ số về tự do báo chí năm 2013.

Photo courtesy of RSF

 Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới hôm qua công bố bản chỉ số về tự do báo chí năm 2013, theo đó Việt Nam vẫn giữ nguyên vị trí không có tiến bộ gì trong lĩnh vực này.

Cụ thể trên bản xếp hạng của RSF, Việt Nam vẫn nằm ở vị trí 172 trên 179 quốc gia khắp thế giới về tình hình tự do báo chí.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang lãnh đạo đất nước, vẫn nằm trong danh sách những người bị mệnh danh là ‘sát thủ’ đối với quyền tự do báo chí.

Công bố về chỉ số tự do báo chí năm 2013 của RSF được đưa ra nhân ngày Tự do báo chí thế giới. Đây là ngày mà Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua hồi năm 1993.

Mới hôm ngày 1 tháng 5, tổ chức Freedom House có trụ sở tại thủ đô Washington D.C. của Hoa Kỳ cũng có phúc trình về tự do thông tin trên toàn cầu, và theo bản phúc trình đó thì Việt Nam xếp trong nhóm 182 trên 197 quốc gia toàn cầu về quyền tự do báo chí.

Hội nghị TW 7: Có tạo được bước ngoặt trong việc sửa đổi Hiến Pháp?

Thu, 05/02/2013 – 03:43 — Kami

 

Kami

Thường ở Việt nam khởi đầu mùa hè là vào khoảng cuối tháng tư hàng năm, song năm nay do sẽ có rất nhiều sự kiện chính trị lớn diễn ra vào tháng 5 này. Tháng mà người ta dự báo sẽ là một tháng năm “đỏ lửa”. Tháng 5.2013 được mở màn bằng Hội nghị TW 7 – Khóa XI vào đầu tháng và tiếp sau sẽ là Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, với rất nhiều công việc quan trọng liên quan đến chính trị còn chưa có lời giải.

Phải thừa nhận không khí chính trị ở Việt nam trong những ngày này, thời gian trước Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW Đảng khóa XI hết sức ngột ngat và căng thẳng. Trong bối cảnh ngoài xã hội sự chống đối ngày càng mạnh và sự bất mãn của người dân cao hơn bao giờ hết, cộng với một nền kinh tế suy thoái đã và đang mang đến cho người dân biết bao nhiêu hệ lụy. Đây cũng là thời điểm mà đảng CSVN đang đối diện với các nguy cơ mang tính thách thức, nói theo GS. Tương Lai là ‘sẽ tự sụp đổ nếu không chỉnh đốn’. Năm 2012, đảng CSVN với người đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành cái gọi là công cuộc chỉnh đốn đảng, mà đỉnh cao là cuộc tắm rửa đối với cá nhân người đứng đầu cơ quan hành pháp. Ông Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng chính phủ, người được cho là đã mắc nhiều sai lầm trong quản lý dẫn tới việc sụp đổ của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước dẫn tới thất thoát lớn về tài chính tới hàng trăm ngàn tỷ đồng. Song đáng tiếc cuộc chỉnh đốn đó đã thất bại, do không tiến hành kỷ luật được bất kỳ lãnh đạo cao cấp nào của đảng. Việc này đã làm cho dư luận hết sức bất bình, từ chỗ lòng tin của đảng CSVN trong nhân dân đã ở mức thấp nhất chưa từng có thì đến nay số lượng những người không còn niềm tin vào đảng đang gia tăng ở mức rất cao.

Việc sửa đổi Hiến pháp cũng vậy, theo dự kiến ban đầu, việc góp ý và sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ kéo dài trong vòng 03 tháng và sẽ kết thúc vào ngày 31 tháng 3.2013. Song việc sửa đổi Hiến pháp lần này không diễn ra suôn sẻ như đảng và chính quyền dự kiến. Mà ngược lại nó đã vấp phải sự phản đối sâu rộng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là sự phản đối mang tính tập thể có tổ chức. Thời gian đầu, trong thời gian khoảng gần hai tháng, việc tuyên truyền cho việc sửa đổi Hiến pháp 1992 được truyền thông nhà nước cổ súy rầm rộ. Mọi loại hình truyền thông của nhà nước được huy động tối đa phục vụ cho chiến dịch sửa đổi Hiến pháp này theo phương châm đánh nhanh, thắng nhanh giành thắng lợi tuyệt đối. Với mục đich cuối cùng khẩn trương đưa vào sử dụng một bản Hiến pháp mới “hợp lòng dân”, ra đời trên ý nguyện của dân chúng hòng khẳng định tính chính danh của bộ máy nhà nước do đảng CSVN lãnh đạo toàn diện.

Song thời gian hiện nay, thời gian đang cận kề Hội nghị TW 7 bỗng đột nhiên công việc sửa đổi Hiến pháp 1992 bỗng chìm xuống. Nếu như không nhắc đến, thì chắc không ai nhớ là đang có sự kiện trọng đại này đang diễn ra ở Việt nam. Truyền thông nhà nước cũng hoàn toàn không hề đả động đến vấn đề mà chỉ mấy tuần trước còn đang là công tác điểm, đặc biệt quan trọng. Phải chăng hình như họ quên hay còn những lý do nào đó. Thay vào đó là các tin tức về trận chiến giữa các phe nhóm trong nội bộ lãnh đạo cao cấp đảng và chính quyền. Ví dụ Ngân hàng Nhà nước rửa vàng bằng cơ chế để hưởng lợi bất chính mấy trăm triệu đô la, hay tin ông Lê Hoàng Quân, chủ tịch UBND TP.HCM vừa cảnh báo “Tội phạm đang chi phối một số cơ quan chức năng!”. Hoặc tin ông Nguyễn Bá Thanh có 60 tỷ USD gửi ở nhà bank nước ngoài v.v… Đây là những tin không mới về thủ đoạn, song nó cũng là một trong những lời cảnh báo bất thường trong hoàn cảnh không bình thường trước ngưỡng của Hội nghị TW 7.

Thông qua 03 bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan chức năng, hay ý kiến của Chính phủ, Chủ tịch nước vừa qua, đã cho ta thấy ba xu hướng của các phe nhóm trong đảng với các xu hướng khác nhau. Nhưng đánh giá thật khách quan những diến biến của  sẽ cho thấy sự xung đột về tư duy chính trị của các nhóm thế lực khác nhau trong đảng, đối với vấn đề vai trò quyền lực chính trị thực sự của nhân dân. Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (bản đầu tiên) chứa đựng tất cả những gì phải có của tư duy giáo điều, khép kín mang nặng học thuyết chuyên chính vô sản. Nó chứng tỏ nhóm thế lực lãnh đạo quyền thế nhưng bảo thủ trong Đảng khi ấy đang mạnh. Đó chính là lý do để họ có quyền cố tình lơ đi trước tiếng nói người dân, tiếng nói của lực lượng trí thức. Nhưng ở các Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thứ 2 và thứ 3, thì người ta đã thấy những ý kiến của phía Chủ tịch nước và phía Thủ tướng đã dần được thể hiện và bước đầu đã có xu hướng lấn át những ý kiến ban đầu của phe bảo thủ. Mọi người đều có chung một nhận xét rằng, hình như bắt đầu đã có cái gì mới so với bản dự thảo Hiến pháp đầu tiên, mà bằng chứng là các khu vực cấm, các khu vực được cho là nhạy cảm nhạy cảm  đang co lại để nhường chỗ cho các ý kiến mang tính đột phá và phù hợp với lòng dân. Việc này ngoài sự ghi nhận được cho là sự tiếp thu của những người lãnh đạo, thì có lẽ là hệ quả từ sự phản ứng của các tầng lớp dân chúng. Và chính vì thế nên nó lại có tác dụng khuyến khích người dân mạnh dạn hơn trong việc bày tỏ ý kiến. Điều đó chứng tỏ cho thấy nội dung hay xu hướng tiến bộ của bản Hiến pháp mới được công bố sẽ không còn là tiếng nói thống nhất của ban lãnh đạo đảng CSVN. Mà nó là tiếng nói, là quan điểm của một vài các phe nhóm trong đảng đang nắm thế thượng phong vào thời điểm đó. Cụ thể là Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tới đây sẽ thể hiện quan điểm của phe giành thắng lợi trong Hội nghị TW 7 – Khóa 11 sắp nhóm họp vào đầu tháng 5.2012 sẽ diễn ra ở Hà nội trong những ngày sắp tới.

Khi bài viết sắp kết thúc, trước khi bước vào Hội nghị TW 7 – Khóa 11, thì cũng là lúc có một số thông tin khá quan trọng của TTXVN về cả nội dung lẫn hình thức khi đưa tin. Đó là việc đưa tin TQ đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam. Phải chăng điều đó cho thấy sự thất thế của phe bảo thủ chủ trương thân Trung quốc trong nội bộ ban lãnh đạo đảng CSVN. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tin tức vỉa hè tại Hà nội đồn đoán rằng có nhiều khả năng người đứng đầu phe bảo thủ có chủ trương thân Trung quốc là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ chủ động xin nghỉ giữa nhiệm kỳ để mở đường cho một Tổng Bí thư mới kiêm Chủ tịch nước. Nếu đúng như vậy thì kết quả này sẽ là một tín hiệu tốt có liên quan đến không chỉ kết quả của Hội nghị TW 7, mà nó còn quyết định đến những nội dung quan trọng khác của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong lần sắp tới? Có nghĩa là kết quả của Hội nghị TW 7 – Khóa 11 ra sao, sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến công việc tiếp theo của cơ quan lập pháp trong Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII. Tại kỳ họp này,  ngoài nội dung quan trọng là các đại biểu Quốc hội sẽ tiến hành bỏ phiếu tin nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo cao cấp do dân cử, thì còn có việc Quốc hội thông qua những vấn đề quan trọng còn chưa dứt khoát trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

Điều đó cho thấy, nội dung bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong lần sắp tới sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả đạt được của Hội nghị TW 7 – Khóa 11.

Ngày 02 tháng 5 năm 2013

© Kami

————————
* Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA

Con ông Lê Thanh Hải ‘cán bộ điển hình’

bbc, 3 tháng 5, 2013

Ông Lê Trương Hải HiếuÔng Lê Trương Hải Hiếu trong một phiên họp

Báo Việt Nam vừa có bài khen ngợi con trai đầu của Bí thư Thành ủy TP HCM Lê Thanh Hải, Lê Trương Hải Hiếu.

Ông Hiếu, sinh ngày 7/9/1981, hiện là Quận ủy viên, Bí thư Đảng ủy phường Bến Thành, quận 1.

Báo điện tử VietnamNet hôm 30/4 có bài ca ngợi ông Lê Trương Hải Hiếu cùng một bí thư phường khác là “nổi lên như điển hình thế hệ cán bộ trẻ, được đào tạo bài bản, dám nghĩ, dám làm, có những lý tưởng đóng góp cho diện mạo phát triển ngày càng rực rỡ hơn” của thành phố.

Theo bài báo, ông Hiếu được dư luận nhắc tới nhiều kể từ khi ông đưa vào thí điểm áp dụng phần mềm điện tử quản lý dân cư bằng dấu vân tay ở phường Bến Thành.

Ông Lê Trương Hải Hiếu làm Bí thư Đảng ủy phường từ tháng 2/2010 tới nay, trong thời gian cha ông làm Bí thư Thành ủy.

Phường Bến Thành có 5.000 hộ với 18.000 dân, được cho là một trong các phường trọng điểm, nằm ở trung tâm TP HCM.

Trước đó ông là Bí thư Đoàn Quận 1. Ông vào Đảng CSVN từ 2004.

Ông Lê Trương Hải Hiếu là người được đào tạo theo chương trình đào tạo 300 tiến sỹ, thạc sỹ của Thành ủy. Từ 2005 đến 2007, ông được thành phố cử đi học cao học ngành Quản trị kinh doanh ở Hoa Kỳ.

Ngoài bằng Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh, ông còn có bằng Cử nhân Luật và Cao cấp Lý luận chính trị.

Chất vấn hóc búa

Ông Hiếu cũng là Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố HCM khóa 8 nhiệm kỳ 2011-2016 và kiêm nhiệm chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân phường Bến Thành.

Báo VietnamNet nói ông từng làm nóng các phiên chất vấn lãnh đạo thành phố “bằng những câu hỏi hóc búa, đụng chạm những vấn đề nhạy cảm ít ai muốn nói”.

Ông Lê Trương Hải Hiếu xuất thân gia đình cán bộ cấp cao. Mẹ ông, bà Trương Thị Hiền, là Hiệu trưởng Trường Cán bộ TP HCM, em gái cựu Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa.

Ông Hiếu không phải là trường hợp đầu tiên trong số con cái các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam lập thân bằng con đường sinh hoạt Đảng-Đoàn.

Con trai đầu của Trưởng ban Nội chính Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Bá Cảnh, hồi tháng Hai năm nay được bầu làm Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng.

Nguyễn Minh Triết, con trai út của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, năm ngoái cũng quyết định từ Anh trở về làm cán bộ Đoàn cơ sở.

Một người con khác của ông Thủ tướng, Nguyễn Thanh Nghị, hiện là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Con trai cựu Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Nông Quốc Tuấn, là Ủy viên Trung ương, trong khi con trai con trai cựu Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Chi, Nguyễn Xuân Anh, là Ủy viên dự khuyết.

Ngoài lợi thế xuất thân gia đình, các vị lãnh đạo trẻ này nói chung đều được học hành, đào tạo có bài bản.

Trông chờ gì ở Hội nghị Trung ương 7

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok. 2013-05-03

Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương đảng khoá 11 tại thủ đô Hà Nội

Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương đảng khoá 11 tại thủ đô Hà Nội

congan.vn

Nghe bài này

Hội nghị Trung ương 7 khai mạc trong khi nền kinh tế nóng bỏng vì viễn ảnh khó khăn ngày một tới gần. Dư luận không chờ đợi gì vào hội nghị lần này vì tâm lý người dân cũng như nhân sĩ trí thức đã quá ngán ngẫm những đại hội diễn ra thường xuyên nhưng không có một sự vận động đáng chú ý nào. Mặc Lâm phỏng vấn giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam để tìm hiểu thêm về quan điểm của ông.

Không trông chờ không hy vọng gì

Mặc Lâm: Xin cảm ơn Giáo sư Tương Lai. Thưa GS sau khi đọc qua bài diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 7 của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, cảm nhận đầu tiên ông thấy thế nào?

GS Tương Lai: Qua cái bên ngoài thì tôi thấy đầu óc ông này nó đặc sệt, có lẽ đã hết thuốc chữa. Cho tới bây giờ vẫn là giọng điệu từ giáo trình của Đảng cách nay mấy chục năm bây giờ vẫn nói như thế mà không thấy rằng cái điều đó nó đang kiềm hãm cả dân tộc này. Chính vì một mớ giáo điều nó chiếm lĩnh trận địa tư tưởng và đặc sệt trong đầu óc những người lãnh đạo khiến cho dân tộc này không cất đầu lên nổi, vấn đề là ở chỗ ấy.

Có lẽ đã hết thuốc chữa. Cho tới bây giờ vẫn là giọng điệu từ giáo trình của Đảng cách nay mấy chục năm bây giờ vẫn nói như thế mà không thấy rằng cái điều đó nó đang kiềm hãm cả dân tộc này.

GS Tương Lai

Mặc Lâm: Sau bao năm rồi nhưng ông Tổng Bí thư vẫn tiếp tục kêu gọi đổi mới trong Đảng. Theo giáo sư sự nghiệp đổi mới từ những năm 80 vẫn không có gì đáng gọi là tự hào hay sao khi Đảng vẫn loay hoay đổi mới sau gần 30 năm?

GS Tương Lai: Bây giờ nói chuyện đổi mới thì quả thật mỗi một bước đi tới sao mà nó nặng nề thế không biết! Nếu như Đại hội 6 cuối những năm 80 lực lượng muốn đổi mới nó thắng thế thì chắc rằng đất nước này nó không đến nỗi đau đớn và trì trệ như hiện nay. Thế lực bảo thủ nó trì trệ quá. Có những người nhân danh chủ nghĩa xã hội và người ta quyết liệt chống lại cái đổi mới. Điều này thể hiện luận điểm của Hegel khi nói về biện chứng, tức là “mỗi bước tiến mới là một sự nổi loạn chống lại trật tự cũ đang suy đồi nhưng được thần thánh hóa”.

Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

Cái đất nước này trầm luân trong đau khổ trong khi chung quanh chúng ta người ta khởi sắc. Một Singapore dân số chưa bằng tỉnh Thanh Hóa, diện tích cũng không bằng nhưng nổi lên trở thành một cường quốc. Bây giờ ngay cả những cán bộ cao cấp hơi ốm đau một tí là sang Singapore chữa bệnh!

Ngày 25 tháng 12 năm ngoái chúng tôi có một lời kêu gọi thực thi quyền con người theo Hiến pháp Việt Nam. Đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn vì đây mới là đổi mới. Đây mới là phương thuốc cứu nguy trọng bệnh mà đất nước đang lâm vào. Tức là phải mở rộng dân chủ, thực thi quyền con người để Việt Nam hội nhập với thế giới đi vào trong thế giới văn minh.

Thế lực bảo thủ nó trì trệ quá. Có những người nhân danh chủ nghĩa xã hội và người ta quyết liệt chống lại cái đổi mới. Điều này thể hiện luận điểm của Hegel khi nói về biện chứng, tức là “mỗi bước tiến mới là một sự nổi loạn chống lại trật tự cũ đang suy đồi nhưng được thần thánh hóa”

GS Tương Lai

Nói một đằng làm một nẻo

Mặc Lâm: Thưa Giáo sư có một câu rất quan trọng khi ông ấy nói tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác dân vận. Điều này nhắc lại điều mà ông Tổng Bí Thư kết án Kiến nghị 72 là suy thoái trước đây. Có phải ông Tổng Bí thư muốn đảng chú ý hơn đến những tư tưởng phản biện xuất hiện ngày một nhiều hơn hay không?

GS Tương Lai: Sau khi ông ấy liều lĩnh tuyên bố một cách hồ đồ là: “có ai nói đến đòi bỏ điều 4 không? Có nói đến tam quyền phân lập không?…đấy là suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, chứ còn gì nữa?” lời nói liều mạng như vậy nhưng sau đó ông có kiểm tra được ai đâu mà ngược lại như lửa đổ thêm dầu khiến cho người ta phẫn nội.

Chúng tôi mang bản kiến nghị này đến tận trụ sở của Ủy ban soạn thảo Hiến pháp. Trao tận tay cho các vị đó một cách quang minh chính đại. Nhưng rồi sau đó cả hệ thống truyền thông đại chúng mà người ta nói là lề phải từ người điều hành từ cấp cao nhất hoàn toàn xuyên tạc, quy kết cho chúng tôi cho rằng nhóm Kiến nghị 72 này là phản động là chống đảng. Trong lúc đó thì Quốc Hội người ta nói phải mở rộng dân chủ, thành thật tiếp thu, phải để người ta nói.

Chúng tôi mang bản kiến nghị này đến tận trụ sở của Ủy ban soạn thảo Hiến pháp. Trao tận tay cho các vị đó một cách quang minh chính đại. Nhưng … người điều hành từ cấp cao nhất hoàn toàn xuyên tạc, quy kết cho rằng nhóm Kiến nghị 72 này là phản động là chống đảng. Trong lúc đó thì Quốc Hội nói phải mở rộng dân chủ, thành thật tiếp thu, phải để người ta nói

GS Tương Lai

Nhưng mà đấy! Khi ổng nói “Ý đảng lòng dân” thì thực ra đấy là câu nói bẻm mép ở cửa miệng thôi chứ còn lòng dân bây giờ nó khác. Còn ý đảng thì đi ngược với lòng dân, vì vậy mà phải dùng bạo lực mà trấn áp. Nhưng bây giờ ông ấy cũng cảm thấy bạo lực không thể trấn áp được nữa rồi.

Vì vậy cho nên vừa rồi chúng tôi lại phải ra thông báo của nhóm soạn thảo Kiến nghị 72 về sửa đổi Hiến pháp. Chúng tôi gửi trực tiếp cho Quốc hội, các đại biểu Quốc hội. Trực tiếp cho từng ủy viên trong Ủy Ban chấp hành Trung ương Đảng. Không biết kỳ họp Trung ương này các vị Ủy viên có đọc hay không nhưng đấy là tiếng nói tâm huyết của chúng tôi, những người không muốn cho dân tộc mình không lầm than và đau khổ như hiện nay.

Mặc Lâm: Thưa GS có một điều mọi người đang rất ngạc nhiên đó là sự kêu gọi xem chừng hiện tượng biến đổi khí hậu của ông Tổng bí thư trong khi khí hậu kinh tế Việt Nam đang nóng rực và trầm trọng như thế này mà Đảng lại không nói gì tới, nó có vẻ lạc điệu quá hay không?

GS Tương Lai: Đúng là biến đổi khí hậu là một điều quá lớn nhất là Việt Nam là một trong mười nước bị ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu nó tàn phá. Nhưng vấn đề là nói vào lúc nào! Trước đây trong thời kỳ thế giới cảnh báo về vấn đề môi trường thì một lãnh đạo cấp cao phụ trách về tư tưởng, văn hóa nói rằng “Đấy! trong lúc chúng ta đang đổ xương máu ra để đánh giặc ngoại xâm thì bây giờ người ta đòi hỏi bảo vệ những cho thú rừng hoang dã đây!” Họ không thấy tầm nhìn thế giới về những vấn đề này. Chỉ có điều là lúc này đây, cái lúc nước sôi lửa bỏng này thì có nên đưa vấn đề này ra không?

Đây là cái sự tính toán. Hình như đầu óc của các ông ấy rối cả lên rồi cho nên không biết chọn cái gì trước cái gì sau thế thôi!

Mặc Lâm: Xin cảm ơn Giáo sư.

Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc hội nghị trung ương 7

RFI, Thanh Phương, 2/5/2013

Hội nghị Trung ương 7dự kiến kéo dài đến ngày 11/05/2013 (DR)

Hội nghị Trung ương 7dự kiến kéo dài đến ngày 11/05/2013 (DR)

Hôm nay, 02/05/2013, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai mạc tại Hà Nội. Dự kiến kéo dài đến ngày 11/05, hội nghị trung ương lần này diễn ra trong bối cảnh kinh tế tiếp tục trì trệ, đấu đá trong nội bộ ban lãnh đạo Đảng vẫn gay gắt.

Theo báo chí chính thức, trong bài phát biểu khai mạc, tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng cho biết là Hội nghị trung ương 7 sẽ xem xét và quyết định 6 vấn đề lớn. Bên cạnh việc « hoàn thiện hệ thống chính trị » và « tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận », ông Nguyễn Phú Trọng nêu lên vấn đề sửa đổi Hiến pháp 1992.

Tuy tổng bí thư Đảng kêu gọi các ủy viên trung ương phải « chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân », nhưng ông nhấn mạnh Nhà nước sẽ vẫn do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tức là sẽ không chấp nhận những kiến nghị đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp.

Trong bài phát biểu khai mạc, ông Nguyễn Phú Trọng cho biết hội nghị lần này sẽ sơ kết một năm thực hiện « Nghị quyết trung ương 4 về xây dựng Đảng ». Nhưng không ai chờ đợi là sẽ có những thay đổi nhân sự sau hội nghị trung ương 7, mặc dù các ủy viên trung ương sẽ cho ý kiến về dự kiến quy hoạch cán bộ « cấp chiến lược » cho nhiệm kỳ tới, tức Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước.

Xin nhắc lại là trong Hội nghị Trung ương 6 ngày 15/10/2012, mặc dù Bộ Chính trị đã « đề nghị » được kỷ luật đối với tập thể và kỷ luật đối với « một ủy viên Bộ Chính trị » ( mà ai cũng biết đó là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ), nhưng rốt cuộc Hội nghị Trung ương 6 đã không kỷ luật một ai, kể cả ông Nguyễn Tấn Dũng, người bị xem là chịu trách nhiệm chính về tình trạng tăng trưởng kinh tế chậm, lạm phát tăng trở lại, tham nhũng tràn lan và khủng hoảng ngân hàng.

Hội nghị Trung ương 7 lần này cũng diễn ra trong bối cảnh đấu đá tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng vẫn diễn ra gay gắt và kinh tế Việt Nam ngày càng trì trệ. Trước hội nghị, đã có những tin đồn về việc đổi tiền, trong khi đó, chính sách quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước thì bị chỉ trích nặng nề. 

Về vấn đề tham nhũng, không biết có phải là trùng hợp thời điểm hay không, nhưng trước Hội nghị Trung ương 7, một vụ được gọi là « trốn thuế lớn nhất lịch sử » diễn ra dưới thời Bí thư Thành ủy Hà nội Nguyễn Phú Trọng cuối năm 2004, với số tiền thất thoát nhiều nghìn tỷ đồng, liên quan đến công ty đầu tư bất động sản CIPUTRA ở Hà Nội, đã bị phanh phui. Cũng như mọi khi, chống tham nhũng có thể sẽ là cái cớ để các phe đấu đá với nhau trong nội bộ ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng họp bàn nhân sự và Hiến pháp VN

Tổng bí thư Nguyễn Phú TrọngTổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu khai mạc Hội nghị 7

Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN khóa XI vừa khai mạc sáng thứ Năm 1/5 để bàn và quyết định sáu nhóm vấn đề lớn.

Thông tấn xã Việt Nam cho hay các ủy viên Trung ương sẽ “xem xét, quyết định, cho ý kiến về các vấn đề: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường”.

Theo Chương trình của toàn khóa, Hội nghị 7 đáng ra bàn chuyên đề về công tác dân vận.

Một nguồn khả tín nói với BBC rằng chương trình nghị sự nay thêm một số chủ đề khác; và đây là lý do mà Hội nghị 7 diễn ra chậm hơn kế hoạch khoảng một tuần.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì và có bài phát biểu khai mạc Hội nghị 7.

Tại hội nghị lần này, một bản dự kiến quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo sẽ được mang ra xin ý kiến.

Nguồn tin không chính thức nói con số ủy viên Bộ Chính trị khóa XI sẽ được tăng thêm một vị trí thành 15 trong thời gian tới.

Theo TTXVN, các ủy viên Trung ương “đã tích cực tham gia phát hiện, giới thiệu nguồn quy hoạch”.

Bản tin của hãng thông tấn nhà nước cho hay “nguồn cán bộ khá dồi dào về số lượng, có đủ ba độ tuổi cho các chức danh”.

Bộ Chính trị Đảng CSVN đã xem xét, thảo luận và có ý kiến sơ bộ về chức danh nhân sự dự kiến để thảo luận trong hội nghị 7 này.

Sau khi tổng hợp ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị sẽ căn cứ vào đó để ra quyết định chính thức.

Khác với Hội nghị 6, khi không khí căng thẳng với kết quả phê bình và tự phê bình của nhiều lãnh đạo chủ chốt, trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; hội nghị 7 dường như nhìn tới quy hoạch xa.

Kiên trì nguyên tắc trong Hiến pháp

Về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong phát biểu khai mạc Hội nghị 7, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị các ủy viên Trung ương “bám sát Cương lĩnh của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị Trung ương 5… nghiên cứu thật kỹ, thảo luận thật sâu các nội dung Báo cáo giải trình, tiếp thu vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp mà Ủy ban sửa đổi Hiến pháp trình, đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng”.

“Tiếp tục khẳng định Nhà nước [ta] là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.”

TBT Nguyễn Phú Trọng nói về nguyên tắc trong sửa đổi Hiến pháp 92

Ông Trọng khuyến cáo “phải chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, tiếp thu tối đa những ý kiến hợp lý”.

Tuy nhiên ông nhấn mạnh cần “kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước” và “tiếp tục khẳng định Nhà nước [ta] là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”.

Nguyên tắc khác mà ông tổng bí thư tái khẳng định là “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp công-nông và đội ngũ trí thức; quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…”

Ông Nguyễn Phú Trọng cũng nhắc nhở cần “tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất cao”.

“Đối với những vấn đề mới hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau, Trung ương cần xem xét, trao đổi thật kỹ để có phương án tiếp thu, giải trình phù hợp.”

Với chỉ đạo nói trên, có thể thấy sẽ không có đột phá gì lớn so với dự thảo sửa đổi Hiến pháp mà Quốc hội Việt Nam đang trưng cầu ý dân tới tháng 9/2013.

Được biết Hội nghị 7 sẽ kéo dài tới 10/5.

Việt Nam lại bị đưa vào danh sách các nước không có tự do báo chí

 VOA, 02.05.2013
Phúc trình về Tự do Báo chí 2013 của Freedom House

Phúc trình về Tự do Báo chí 2013 của Freedom House

Freedom House, một tổ chức nhân quyền có trụ sở ở Hoa Kỳ, nói rằng con số những người sống trong các xã hội hoàn toàn có tự do báo chí đã giảm xuống mức thấp nhất, tính từ một thập niên nay.

Ông David Kramer, Chủ tịch của Freedom House, cho biết tiêu chuẩn để xếp một nước vào nhóm các quốc gia không có tự do báo chí :

“Lý do mà một nước được đánh giá là không có tự do báo chí là bởi vì nước này không đáp ứng các tiêu chuẩn về tự do pháp lý, tự do chính trị, tự do kinh tế, để cho phép các nhà báo và tổ chức truyền thông có thể hoạt động. Thế cho nên tại các nước nằm trong nhóm ‘Không có tự do’, có khá nhiều các nước như thế, nhưng tệ hại nhất gồm có Belarus, Cuba, Guiné Xích đạo, Eritrea, Iran, Bắc Triều Tiên, Turkmenistan and Uzbekistan.”

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ban tiếng Khmer của Đài VOA, bà Karin Deutsch, một chuyên viên phân tích nghiên cứu về Châu Á thuộc Freedom House, so sánh tự do báo chí của Việt Nam với nước láng giềng Campuchia:

“Rõ ràng môi trường làm việc của giới truyền thông ở Campuchia chắc chắn là cởi mở hơn so với Việt Nam, hoặc với Miến Điện.”

Trong năm qua, tin tức về các vụ bắt bớ, giam cầm và truy tố các nhà báo và blogger không ngừng gia tăng cùng với những mối đe dọa và sách nhiễu đối với những người cầm bút, cho thấy xu hướng giới hạn quyền tự do báo chí tại Việt Nam không những tiếp diễn mà có lẽ còn tệ hơn.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ban Việt ngữ –VOA, ông Shawn Crispin, Đại diện cấp cao của Ủy ban Bảo vệ các Ký giả Cở Đông Nam Á (CPJ), và là tác giả của một phúc trình về tự do báo chí tại Việt Nam, đánh giá về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam trong năm 2012 như sau:

“Rõ ràng là tình hình tự do báo chí ở Việt Nam đã xuống dốc rất nhanh. Cuộc nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, chính quyền Việt Nam đang tăng cường đàn áp các blogger độc lập, và các nhà báo viết bài đăng trên mạng. Điều đó chứng tỏ là chính quyền Việt Nam đã có một nỗ lực phối hợp để siết chặt một thế giới mạng từng hoạt động tương đối cởi mở, cung cấp các quan điểm và tin tức đa dạng bên cạnh giới truyền thông chính thức bị nhà nước chi phối. Sự kiện Việt Nam xếp hạng thứ 6 trên danh sách của CPJ là một dấu hiệu cho thấy là giới thẩm quyền Việt Nam ngày càng ra tay trấn áp mạnh bạo hơn các quyền tự do trên mạng, chiến dịch này vẫn đang tiếp diễn ở Việt Nam. Quan tâm của chúng tôi là tình hình chỉ có thể trở nên xấu hơn trong bối cảnh chính phủ Việt Nam đang gặp khó khăn kinh tế và khi những rạn nứt đã bắt đầu xuất hiện giữa các phe phái khác nhau trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam.”

Thứ hạng của Việt Nam trong báo cáo năm nay không thay đổi so với năm trước đó. Freedom House xếp Việt Nam hạng thứ 182 trên tổng số 197 quốc gia và lãnh thổ được khảo sát về tự do báo chí.

USCIRF đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC

Hoài Hương-VOA, 01.05.2013


Tiến sĩ Scott Flipse, chuyên gia về Việt Nam và hiện là Phó Giám đốc đặc trách nghiên cứu chính sách của USCIRF.

Hoài Hương-VOA,  01.05.2013

Hôm 30/4, Ủy Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (gọi tắt là USCIRF) công bố phúc trình thường niên, đề nghị chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam và 6 nước khác, vào danh sách các Quốc Gia Cần Quan Tâm Đặc Biệt (Country of Particular Concerns, gọi tắt là CPC).

Phúc trình năm 2013 của Ủy hội Tự Do Tôn giáo Quốc Tế nêu lên lý do của đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC:

“Tình trạng tự do tôn giáo vẫn tồi tệ bất chấp một số thay đổi tích cực trong thập niên qua để đáp lại sự chú ý của quốc tế. Chính quyền Việt Nam tiếp tục bỏ tù nhiều cá nhân vì họ hoạt động tôn giáo hay vận động cho tự do tôn giáo. Hà Nội sử dụng lực lượng đặc nhiệm công an tôn giáo và áp dụng các luật mơ hồ về an ninh quốc gia để trấn áp các hoạt động tôn giáo độc lập, kể cả Phật Giáo, Tin Lành, Hoà Hảo và Cao Đài, đồng thời tìm cách chặn đứng sự phát triển của đạo Tin Lành và Công Giáo trong các dân tộc thiểu số qua hình thức kỳ thị, bạo lực và cưỡng bức bỏ đạo.”

Tiến sĩ Scott Flipse là một chuyên gia về Việt Nam và hiện là Phó Giám đốc đặc trách nghiên cứu chính sách của USCIRF.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Ban Việt ngữ VOA, Tiến sĩ Scott Flipse nói tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam sẽ cải thiện nếu Việt Nam định chế hóa một số quyền tự do.

“Tự do ngôn luận, tự do internet, tự do tôn giáo, tự do lập hội, nếu xảy ra tại Việt Nam và nếu các quyền tự do ấy được bảo vệ thì Việt Nam sẽ tốt đẹp hơn. Đó là những quyền tự do mà chúng ta cần nỗ lực làm việc để cải thiện cùng lúc, bởi vì chúng liên kết chặt chẽ với nhau.”

Tình trạng tự do tôn giáo vẫn tồi tệ bất chấp một số thay đổi tích cực trong thập niên qua để đáp lại sự chú ý của quốc tế. Chính quyền Việt Nam tiếp tục bỏ tù nhiều cá nhân vì họ hoạt động tôn giáo hay vận động cho tự do tôn giáo…

» Phúc trình thường niên của USCIRF.

Giải đáp thắc mắc về việc Việt Nam luôn luôn khẳng định có đầy đủ luật pháp để cho phép người dân được hành sử các quyền tự do mà ông vừa nêu lên, Tiến sĩ Scott Flipse nói:

“Đúng, Việt Nam có rất nhiều luật lệ, nhưng xã hội Việt Nam là một xã hội pháp trị, chứ không phải là một xã hội pháp quyền, điều đó có nghĩa là các yếu tố chính trị hay quan niệm về nhu cầu an ninh quốc gia chiếm thế thượng phong những điều khoản bảo vệ các quyền tự do được ghi trong Hiến Pháp. Thế cho nên tôi nghĩ rằng chúng ta phải tiếp tục chuyển hướng, từ một xã hội pháp trị sang một xã hội cai trị bằng luật pháp, luật pháp là tối thượng”.

Tiến sĩ Scott Flipse nói cách duy nhất để buộc Việt Nam phải chú ý là đặt vấn đề nhân quyền làm trọng tâm của các quan hệ Mỹ-Việt, kể cả với chiến lược và an ninh.

“Thông điệp mà chúng ta cần gửi đến người Việt Nam là đây là quyền lợi của người Mỹ, và chúng tôi sẽ không tiến hành các chương trình phục vụ quyền lợi kinh tế và an ninh của Việt Nam, đặc biệt liên quan tới cuộc tranh chấp Biển Đông, cho tới khi nào có tiến bộ về các quyền lợi của Hoa Kỳ như nhân quyền và tự do tôn giáo.”

Tiến sĩ Scott Flipse nói Việt Nam hành động nhanh chóng để cải thiện pháp quyền khi Việt Nam muốn gia tăng xuất khẩu, nhưng lại trì hoãn việc cải thiện nhân quyền, dân quyền và quyền chính trị, bởi vì họ lo sợ các quyền ấy có thể động chạm tới quyền cai trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Bản phúc trình của USCIRF nêu ra nhiều trường hợp về đàn áp tôn giáo, như vụ đàn áp Giáo Xứ Cồn Dầu ở Đà Nẵng, bỏ tù các thanh niên Công Giáo, đàn áp và bỏ tù những những người Hmong và Thiểu Số Tây Nguyên theo đạo Tin Lành, kiểm soát các hoạt động của Phật Giáo Hoà Hảo và Cao Đài, tịch thu đất đai tài sản của các tổ chức tôn giáo, và tại một số nơi, bắt các tín đồ phải bỏ đạo.

Bản phúc trình của USCIRF nêu lên Nghị Định 92 (92/2012/NĐ-CP) về Tôn Giáo của Việt Nam, nói rằng đây là một bước thụt lùi sẽ tạo nhiều khó khăn cho các nhóm tôn giáo đang hoạt động không chính thức.

Phúc trình của USCIRF nói tình hình tự do tôn giáo trên thế giới ngày càng lâm nguy vì sự hiện diện của điều mà tác giả của phúc trình gọi là “các lực gây bất ổn”, như sự gia tăng của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, đi kèm với những hành động hay thiếu hành động của các chính quyền.

Ủy ban Tự Do Tôn giáo Quốc Tế là một ủy ban độc lập do Quốc hội Hoa Kỳ thành lập để theo dõi tình hình tự do tôn giáo trên thế giới, ủy ban này có nhiệm vụ đề nghị nên đưa nước nào vào danh sách các nước đáng quan tâm về nhân quyền, gọi tắt là CPC.

Ngoài Việt Nam, 6 nước khác cũng bị Ủy Hội đề nghị đưa vào Danh sách đáng quan tâm về tự do tôn giáo gồm có: Miến Điện, Trung Quốc, Eritrea, Iran, Bắc Triều Tiên, Ả rập Xê-út, Sudan và Uzbekistan.

Việt Nam có thực tâm hòa hợp và cả hòa giải dân tộc?

Phạm Chí Dũng gửi RFA.  2013-05-01

Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này
000_Hkg8513609-305.jpg

Những công nhân kết hoa trang trí xcho nàgy 30 tháng 4 năm 2013 tại Hà Nội.

AFP photo

Vẫn còn “tài nguyên nhân quyền” đặt lên bàn đàm phán quốc tế, chủ đề hòa hợp và có thể cả hòa giải dân tộc lại đang được Hà Nội nhắc đến. Chỉ có điều, bối cảnh hiện thời khác xa so với gần một thập niên trước.

Biến đổi quan niệm

Dường như đã thấm thía ý nghĩa của mối quan hệ “song phương” và có thể cả đa phương hóa, gần mười năm sau nghị quyết số 36 về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, giới chức lãnh đạo của quốc gia này mới hé cửa về triển vọng “hòa hợp dân tộc”.

Cũng tràn ngập ý nghĩa và không kém ấn tượng, bài phỏng vấn Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn do báo Thanh niên thực hiện với tiêu đề “Hòa hợp tạo ra sức mạnh cho dân tộc” đúng vào ngày 30/4 – kỷ niệm năm thứ 38 của “Bên thắng cuộc”, đã phác họa những nội dung chưa từng có tiền lệ kể từ năm 2004.

2004 – thời điểm mà nghị quyết 36 của Bộ chính trị ra đời, cũng là một “thời kỳ quá độ” mà Việt Nam tích cực vận động để “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được tô điểm thêm một sắc thái mới: thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Vào thời kỳ quá độ trên, chủ đề hòa hợp hòa giải dân tộc cũng đã được nêu ra, nhưng thể hiện một cách đầy chắt lọc chứ không phổ cập đại chúng trên báo chí trong nước như những ngày qua.

Độ lượng hơn trong ít nhất việc chọn lọc “đối tượng”, hòa hợp dân tộc đang biến diễn trong bối cảnh Việt Nam nhiệt thành xúc tiến cho một cuộc thương thuyết mới sau “phong trào” WTO: gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tất nhiên, kinh tế có thể đóng vai vế làm biến đổi cả quan niệm chính trị.

“Cái nhìn hết sức tích cực”

Sau gần mười năm từ năm 2004, một quan chức có trọng trách về ngoại giao và cũng là chủ nhiệm của Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài – ông Nguyễn Thanh Sơn, đã lần đầu tiên dẫn ra một quan niệm mới “Do hoàn cảnh lịch sử mà kiều bào ta vẫn còn một bộ phận mà ngày xưa chúng ta vẫn gọi là “phản động”. Quan điểm của tôi là không nên gọi như thế”.

Trong bài trả lời phỏng vấn báo Thanh niên, nhân vật số hai của Bộ ngoại giao Việt Nam đã “giải mật” một nội dung mà vẫn thường mang nặng dấu ấn cơ mật vào “ngày xưa”, khi ông tiết lộ việc thông qua Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Việt Nam ở Mỹ, vào tháng 10/2012 ông đã có những cuộc tiếp xúc tại Washington, Houston, California, quận Cam với “các cá nhân, tổ chức còn chống đối, có tư tưởng hận thù với đất nước”, trong đó có những thủ lĩnh, nhân vật “chống cộng khét tiếng’” như Nguyễn Ngọc Lập, Nguyễn Phương Hùng, Nguyễn Thành Quang, Võ Đức Quang, Đức Nguyễn, Thôn Thất Chiếu, Đông Duy, Nguyễn Á Độc Lập, Hoàng Duy Hùng…

Riêng đối với nhân vật Hoàng Duy Hùng, ông Sơn khen ngợi: “Vấn đề mà chúng ta từng lo ngại là các thành phần chống cộng cực đoan đã ngày càng giảm đi. Một trong những người cực đoan nhất như ông Al Hoàng (Hoàng Duy Hùng) vừa qua cũng đã được về nước và ông ấy đã có những cái nhìn hết sức tích cực như các anh (phóng viên) đã biết”.

Người được khen tặng – Hoàng Duy Hùng, một nghị viên của Thành phố Houston đặc trách về châu Á – đã có chuyến về thăm Việt Nam vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/2013 qua lời mời của Bộ ngoại giao Việt Nam và của thành phố Đà Nẵng – đô thị được xem là “nơi đáng sống nhất Việt Nam” và đang có mối quan hệ kết nghĩa với Houston.

“Tôi e ngại rằng nhiều đảng phái quá sẽ không xây dựng được đất nước, nên tôi cho rằng hệ thống lưỡng đảng ở Hoa Kỳ đem áp dụng cho Việt Nam là tốt nhất, và đó cũng là sự “hợp nguyên”. Suy cho cùng, hệ thống lưỡng đảng là tương đối ổn thỏa nhất để xây dựng và phát triển Việt Nam” – ông Hoàng Duy Hùng đã nêu ra “cái nhìn hết sức tích cực” khi trả lời BBC tiếng Việt cũng vào ngày 30/4/2013 – thời điểm mà Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn hé cửa “hòa hợp dân tộc” trong trả lời phỏng vấn báo Thanh niên.

Nghị viên Houston Hoàng Duy Hùng còn đề nghị một phương án hết sức táo bạo: nếu Đảng cộng sản Việt Nam thuận theo sự tiến bộ và tách thành hai đảng, thí dụ Đảng cộng hòa (bảo thủ) và Đảng xã hội hay Đảng dân chủ (cấp tiến), thì đó chính là đột phá của lịch sử để giải quyết nhiều bế tắc trong nhiều năm qua ở ngay trong nội bộ Đảng cộng sản cũng như của chính những người bất đồng chính kiến và ở hải ngoại. Lúc đó, những người bất đồng chính kiến có thể tham gia một trong hai đảng mà không cảm thấy khó khăn.

Khá bất ngờ là chính trường Việt Nam, với những ẩn dụ chưa định hình, đang lần đầu tiên tạm chấp nhận sự hiện diện và cả phát ngôn của một nhân vật “khét tiếng chống cộng”.

Việt Nam dân chủ cộng hòa?

Cũng khá bất ngờ đối với người dân trong nước và còn đột ngột hơn với giới trí thức hải ngoại, tháng 4/2013 lại khởi đầu cho một “đột phá lịch sử” nào đó giữa Nhà nước với thành phần trí thức “bất đồng” ở Việt Nam, nhưng không được kích hoạt một cách trực tiếp, mà bằng vào sự hồi tưởng lịch sử năm 1946: Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Quay về tên nước “Việt Nam dân chủ cộng hòa” cũng là một trong những nội dung cải cách chính trị của nhóm “Kiến nghị 72”.

Điều đáng ngạc nhiên là trong bối cảnh chỉ mới từ tháng 3/2013 trở về trước, khi việc sửa đổi Hiến pháp vẫn không chấp nhận các ý kiến trái chiều, thì trong một buổi tọa đàm lấy ý kiến Hiến pháp tại TP.HCM diễn ra sau đó không lâu, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã cho rằng “cần phải tiếp thu ý kiến nhiều chiều”.

Ý kiến đề xuất của một số nhân sĩ và cả giới chức mặt trận về việc đổi tên nước cũng vì thế được lưu tâm hơn. Trong số nhân sĩ này, có cả những người bất đồng chính kiến và những người mà “ngày xưa” còn bị cơ quan an ninh xem là “đối tượng chống đối”.

Nhưng chỉ mới đây thôi, có vẻ cách nhìn và thái độ của các cơ quan “đặc vụ” đã trở nên dịu dàng hơn nhiều. “Tôi cũng có quan hệ rất tốt với các cơ quan quốc phòng, công an và các anh ấy cũng rất ủng hộ tôi khi có đột phá vào những chuyện vẫn bị coi là nhạy cảm” – Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn trần tình trong trả lời báo Thanh niên.

Ông Sơn cũng gián tiếp khơi gợi về một sự kiện không kém ẩn ý trong thời gian qua: “Tại sao năm 1946 khi Bác (ông Hồ Chí Minh) đi thăm Pháp trong bối cảnh đất nước thù trong, giặc ngoài mà Bác không chọn bác Phạm Văn Đồng hay bác Võ Nguyên Giáp là quyền chủ tịch nước, mà lại ủy nhiệm cho cụ Huỳnh Thúc Kháng vị trí đó? Trong những lúc đất nước lâm nguy, khó khăn thì hơn bao giờ hết tinh thần đại đoàn kết dân tộc được thể hiện qua sức mạnh dân tộc trong các thành phần dân tộc, các tầng lớp trong xã hội. Người được lựa chọn không phải là người ở trong chính đảng mà Bác thành lập, mà là một chí sĩ yêu nước có uy tín lớn, đủ khả năng lãnh đạo đất nước”.

Vào trung tuần tháng 4/2013, sau khi đề xuất đổi tên nước được bất thường khởi xướng và có dấu hiệu lan rộng, một buổi lễ truy tặng huân chương Sao vàng cho chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng đã được tổ chức tại huyện ủy Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, với sự chủ trì của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Thực ra, tình cảm tri ân lịch sử của ông Sang đã được thể hiện qua bài viết “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” của ông vào tháng 8/2012, trước khi diễn ra Hội nghị trung ương 6 đầy sôi động.

Hòa giải?

Hướng về lịch sử chiến tranh Nam – Bắc cũng đang là tinh thần nổi trội sau gần mười năm mà nghị quyết 36 của Bộ chính trị vẫn bị nhiều nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước xem là “chưa đi vào thực tiễn”. Một trong những chủ trương có tính lịch sử như thế liên quan đến nghĩa trang quân đội Việt Nam cộng hòa ở tỉnh Bình Dương.

“Hai quân đội từng đối địch nhau, để như vậy càng tạo thêm sự xung đột sau này, cho nên chuyển thành nghĩa trang dân sự là rất đúng” – Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn giải đáp một cách không quá thiên về thói quen ngoại giao.

“Lần đầu tiên một quan chức Việt Nam bày tỏ nghĩa cử tưởng nhớ đối với tử sĩ Việt Nam cộng hòa, những chiến binh của phía thua cuộc” – báo chí phương Tây bình luận về sự hiện diện “đến thăm và thắp hương” của Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn tại đài tưởng niệm bằng đá đen mới được dựng lên trong nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũ ở tỉnh Bình Dương, nơi chôn cất 16.000 binh lính Việt Nam cộng hòa đã tử trận.

Sự kiện đáng nhớ trên lại diễn ra vào tháng 3/2013, ngay trước khi xuất hiện một sự kiện khó quên khác: giáo sư Michael Dukakis – cựu ứng viên tổng thống Mỹ năm 1988, hiện là Chủ tịch Diễn đàn toàn cầu Boston – đã phát biểu đầy sôi nổi tại Học viện chính trị – hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: “Các bạn là một dân tộc điển hình về hòa giải, hòa hợp sau chiến tranh, nỗ lực xây dựng một thế giới tránh xung đột”.

Dù vẫn thận trọng và chỉ dùng từ “hòa hợp” mà không có phụ ngữ “hòa giải”, nhưng lời lẽ trong nội dung trả lời phỏng vấn của Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn lại như toát lên một hàm ý nào đó về cả sự hòa giải dân tộc – điều chưa từng hiện diện một cách thực tâm và thực chất trong gần bốn chục năm qua giữa Nhà nước Việt Nam với “các thế lực thù địch”.

Cho tới giờ, người ta đã có thể giải thích vì sao trong không khí nhang khói tại nghĩa trang quân đội Việt Nam cộng hòa vào tháng 3/2013, lại có mặt một trong những đại diện của “thế lực thù địch ấy” – ông Nguyễn Đạc Thành, nguyên thiếu tá quân lực Việt Nam cộng hòa, cựu tù cải tạo và hiện là Chủ tịch Hội Vietnamese American Foundation, bên cạnh “Người thắng cuộc” Nguyễn Thanh Sơn.

Nếu kinh tế có thể làm biến đổi quan niệm chính trị, thì quan niệm ấy cũng có thể khiến đổi khác những hành động về ý thức hệ.

Đó cũng là lý do giải thích cho một hành động rất mới mẻ là chính vào bối cảnh “rất nhạy cảm” như hiện nay, tờ báo Thanh niên của Trung ương đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lại có đủ can đảm để nêu ra một câu hỏi đặc biệt đối với Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn: “Bài học lịch sử ấy (thời kỳ đầu xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa), theo ông, có thể áp dụng thế này vào hiện tại để tập hợp những con người có thể có quan điểm, chính kiến khác nhau vì mục tiêu phát triển của đất nước?”.

Rất có thể đây là lần đầu tiên từ rất nhiều năm qua, một tờ báo “quốc doanh” lộ ra mối quan tâm với những người bất đồng chính kiến mà không bị Ban tuyên giáo trung ương “tuýt còi”.

Tài nguyên nhân quyền!

Trong Việt Nam đương đại, chủ đề “Phát triển đất nước” là một bài toán quá nhiều ẩn số với xuất phát điểm của quá nhiều nguyên nhân, mâu thuẫn và xung đột thuộc về nội tại.

Chìm trong suy thoái và gần như cạn kiệt về sức hồi sinh, nền kinh tế Việt Nam và những người điều hành nó đang phải bằng nhiều cách tìm ra lối thoát.

Nếu Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn dường như đang cố gắng thể hiện “gương mặt ôn hòa” với kỳ vọng có thể thu hút từ 10 đến 20 tỷ USD kiều hối từ 4,5 triệu “kiều bào ta”, thì sau gần mười năm, nghị quyết số 36 của Bộ chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn rất xa mới đạt được ý nghĩa trọn vẹn về hình thể và nhân cách của nó.

Cũng gần như cạn kiệt tài nguyên, ngoài dầu khí ở khu vực biển Đông, Việt Nam đang tụt hậu quá xa so với Myanmar trong nhãn quan lợi nhuận của giới tư bản quốc tế.

Trong bối cảnh đầy ám ảnh như thế, hiển nhiên lời đánh đố về tính hấp dẫn mang tính cứu cánh của TPP như “Việt Nam sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất”, cũng như kết quả đàm phán gia nhập tổ chức này của Việt Nam, vẫn là một cái gì đó không thể không liên đới với khuyến cáo mới đây của tiến sỹ Jonathan London của Trường đại học tổng hợp Hồng Kông, trong một cuộc hội thảo tại Trường đại học Phạm Văn Đồng (tỉnh Quảng Ngãi): “Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để chọn con đường cải cách, đẩy mạnh cải cách chính trị để thu hút hậu thuẫn cho chủ quyền của mình ở biển Đông”.

Ứng với những động thái khá cấp tập “vừa tranh thủ vừa đấu tranh” nảy ra trong các mối quan hệ Việt – Mỹ và Việt Nam – Liên minh châu Âu, vào lần này hình như chủ quyền lại đồng nghĩa với quyền con người.

Thường được mô tả như “một thị trường tiêu thụ tiềm năng với hơn 80 triệu người”, Việt Nam cũng còn một thứ tài nguyên đặc chủng để đặt lên bàn đàm phán quốc tế: tài nguyên nhân quyền.

Một lần nữa từ nhiều năm qua và sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ tái lập ở Hà Nội vào giữa tháng 4/2013, chủ đề hòa hợp và có thể cả hòa giải dân tộc được Hà Nội nhắc đến.

Chỉ có điều, bối cảnh hiện thời đang khác xa so với gần một thập niên trước.

Tin, bài liên quan

Hội nghị TW 7 – Cuộc sống mái cuối cùng?

Fri, 04/12/2013 – 09:30 — Kami

Kami


Đột nhiên mấy ngày này các phương tiện truyền thông báo chí của nhà nước có một cái gì đấy không bình thường. Đó là hầu như tất cả đều đồng loạt dừng đưa tin về việc sửa đổi Hiến pháp 1992, hay việc các tờ báo chính thống hàng bậc nhất, như hai tờ Nhân dân và Quân đội Nhân dân đã xuất hiện các tin tức liên quan đến chủ quyền Biển Đông và đặc biệt báo Nhân dân còn đã đăng một bài tố cáo hàng tiêu dùng của Trung quốc.

Đó là những dấu hiệu bất thường rất đáng lưu ý, đặc biệt những việc này lại xảy ra vào thời điểm chuẩn bị khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Khóa 11 lần thứ 7 (Hội nghị BCH TW 7 – Khóa 11), vào trung tuần tháng 5 sắp tới. Đây là những chỉ dấu cho thấy sự trỗi dậy của phe đồng chí X, người thoát chết trong cuộc tắm rửa bất thành của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng trọng Hội nghị BCH TW 6 – Khóa 11 tháng 10.2012 vừa qua. Chỉ khác giờ đây đồng chí X đã trở lại ở vai trò người làm chủ cuộc chơi mới mang tính báo thù. Nếu ngược thời gian lại khoảng 2-3 tháng trước đây, nếu không nói đến đòn cảnh cáo mang tính thăm dò của đồng chí X đối với tân trưởng Ban Nội chính TW Nguyễn Bá Thanh và các đồng chí đứng đằng sau Thanh về vụ việc thanh tra việc sử dụng đất đai, thì mấy sự việc dưới đây cũng đã khiến Tổng Bí thư Phú Trọng vã mồ hôi hột. Như:

1. Tại Hội nghị toàn quốc về chống thất thu thuế 3/2013 do Bộ Tài chính tổ chức vừa qua, một trường hợp tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng diễn ra dưới thời Bí thư Thành ủy Hà nội Nguyễn Phú Trọng cuối 2004, đã bị phe đồng chí X nêu đích danh là vụ trốn thuế lớn nhất lịch sử Việt Nam với số tiền thất thoát nhiều nghìn tỷ đồng. Và số tiền khoảng 3.000 tỷ đồng đã trở thành siêu lợi nhuận của nhà đầu tư bất động sản CIPUTRA. Để đổi lại hành động cố tình “tạo điều kiện” cho doanh nghiệp, làm thất thu thuế của nhà nước hàng nghìn tỉ đồng này, thì một số đồng chí đã được doanh nghiệp lại quả bằng các tòa biệt thự triệu đô. Vì thế Bộ Tài chính đã yêu cầu các cơ quan chức năng phải sớm điều tra, truy cứu trách nhiệm cá nhân lãnh đạo cao cấp nhất còn đương nhiệm (ám chỉ đồng chí Lú). Được biết, trong vụ này các cá nhân liên quan gồm các nhân vật cao cấp đã nghỉ hưu như Phan Văn Khải,Nguyễn Công Tạn, Hoàng Văn Nghiên, Vũ Hồng Khanh và riêng ông Nguyễn Phú Trọng vãn đang tại chức. Nghe nói sắp tới, trong  Hội nghị TW 7 vụ này sẽ được  phe đồng chí X chuyển cho Tân trưởng Ban Nội chính TW Nguyễn Bá Thanh để xem Ban Nội chính sẽ xử lý thế nào?.

2. Chiều 25/1, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có buổi làm việc định kỳ với các chuyên gia, tư vấn về tình hình kinh tế-xã hội tháng 1/2013 và các giải pháp, chính sách thực hiện mục tiêu năm 2013. Được biết, sau những nội dung hoạt động chính bên lề hội nghị đồng chí X đã bày tỏ những suy nghĩ của cá nhân mình trước thực trạng chính trị, kinh tế, xã hội. Hôm đó Thủ tướng có nêu ra hàng loạt nguy cơ có biến động lớn nếu như không thay đổi căn bản và nhanh chóng. Đặc biệt trong đó có vấn đề chủ quyền biển đảo, tình hình kinh tế, và quyền tự do dân chủ của dân.

3. Trong việc tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992, giữa lúc phe của đồng chí Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đang làm mưa làm gió để biến Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt nam trở thành một văn bản nghị quyết của đảng CSVN. Với mục đích để nhằm biến Hiến pháp trở thành một boongke trú ẩn an toàn của đảng CSVN và một bầy sâu. Thì đùng một cái, tại cuộc họp chuyên đề về Hiến pháp của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì, hội nghị đã có kiến nghị nhiều nội dung quan trọng. Đáng chú ý, về các nội dung liên quan đến quyền lập hiến của nhân dân, Chính phủ cho rằng cần xác định quyền lập hiến là thể hiện cao nhất chủ quyền nhân dân. Và đã có10/25 thành viên CP biểu quyết đề nghị quy định: “Dự thảo HP được trưng cầu ý dân sau khi QH thông qua với ít nhất 2/3 tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành. Trình tự, thủ tục trưng cầu ý dân do luật định”. Vì theo chính phủ phải Hiến định như vậy sẽ hàm ý biểu quyết Hiến pháp thông qua trưng cầu dân ý là quyền dân chủ trực tiếp cao nhất, là quyền đương nhiên. Qua đó thì Hiến pháp mới bảo đảm vị trí tối thượng trong đời sống XH.

4. Cũng trong cuộc hội nghị này, dưới sự chủ trì của đồng chí X hội nghị cũng chính phủ cũng đã có những kiến nghị rất tiến bộ về quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân và cho rằng cần ghi nhận nguyên tắc các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được bảo đảm thực hiện bằng luật và cũng chỉ có thể bị hạn chế bằng luật. Ví du, khoản 2 điều 15 dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần giới hạn hẹp hơn nữa căn cứ giới hạn quyền, thành: “Quyền con người, quyền cơ bản của công dân chỉ có thể bị giới hạn bằng luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia và sức khỏe của cộng đồng”. Khác với dự thảo, có thêm hai trường hợp “trật tự, an toàn xã hội”, “đạo đức xã hội” và không có “bằng luật”. Hoặc đề nghị thay thế cụm từ “theo quy định của pháp luật” thành “theo quy định của luật” ở nhiều quyền cơ bản quan trọng. Bao gồm: Quyền bí mật thư tín (điều 23); quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước (điều 24); quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình (điều 26); quyền bảo hộ về sở hữu tư nhân, quyền thừa kế (Điều 33)…

Hay ý kiến về thu hồi đất Chính phủ cũng có kiến nghị rất đáng chú ý liên quan đến thu hồi đất và quyền sử dụng đất, cụ thể, khoản 3 điều 56 dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định Nhà nước trưng mua, trưng dụng có bồi thường “theo giá thị trường” với tài sản của công dân. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản, thì khoản 3 điều 58 dự thảo lại quy định Nhà nước thu hồi “có bồi thường theo quy định của pháp luật”. Thì chính phủ cho rằng quy định như vậy là không rõ ràng và mâu thuẫn với nhau. Vì vậy cần sửa đổi theo hướng Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản, hay thu hồi đất thì đều phải bồi thường theo giá thị trường.

Dẫn chứng một vài ví dụ để thấy phe đồng chí X đang cố gắng lấy lại niềm tin của quần chúng nhân dân sau một thời gian khi mà uy tín của thủ tướng đã rơi xuống điểm thấp nhất chưa từng có trong 10 năm trở lại đây. Bằng tư duy khẳng định vai trò quyền lực của nhân dân là tối thượng, bảo vệ lợi ích của nhân dan trong việc thu hồi đất đai, hay tôn trọng quyền con người, quyền cơ bản của công dân chỉ có thể bị giới hạn bằng luật trong trường hợp cần thiết vì những lý do hạn chế. Phải chăng điều đó cho thấy đồng chí X như đang có vẻ tỏ ra mình là một con người cải cách?

Được biết, trong tháng 5 tới sẽ có các sự kiện quan trọng dự kiến sẽ diễn ra. Thứ nhất, đó là  Hội nghị BCH TW 7 – Khóa 11, với nhiệm vụ nhằm kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5 và tổng kết việc tự phê bình và phê bình trong toàn đảng nhằm tăng cường chấn chỉnh sự lãnh đạo lãnh đạo của đảng. Thứ hai là tháng 5 cũng có cuộc họp Quốc hội thường niên, với nhiệm vụ nhằm  bàn tiếp về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đặc biệt là có nhiều khả năng Quốc hội tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm cho các chức vụ lãnh đạo cao cấp do dân cử.

Đây là những điểm hẹn gặp để so găng một mất một còn giữa các phe phái ở trong đảng CSVN, không chỉ dừng lại ở mức độ ai sẽ lọt qua cửa ải để vào ngồi trong 1-2 ghế Ủy viên Bộ Chính trị mà còn là chuyện ai ở, ai đi.Sau kết quả của Hội nghị BCH TW 7 – Khóa 11, người mà được dư luận đánh giá rằng sẽ bị buộc phải ra đi đầu tiên là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình. Người được cho rằng phải chịu trách nhiệm về việc kinh doanh bất chính gây hậu quả thất thoát lớn của hàng loạt các ngân hàng thương mại. Nhưng cho đến giờ này, vị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước gọi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng bằng anh này xem ra vẫn vững như bàn thạch.

Và chính sách ổn định vàng, thực chát là một chủ trương mang tính trục lợi của lợi ích nhóm vẫn triển khai, bất chấp phản ứng của xã hội và các khuyến nghị của các chuyên gia kinh tế. Điều đó cho thấy phe phái của đồng chí X vẫn đang giữ một sức mạnh đáng gờm, các phe phái khác không dễ gì mà ăn tươi nuốt sống như nhiều người nghĩ. Và không ít người cho rằng, hình như đồng chí X đang có ý định để mượn thời cơ này, thời cơ mà dân chúng muốn có một sự thay đổi mang tính thoát xác, để tập hợp lực lượng trở thành một lực lượng cải cách thực thụ, từ bỏ công thức chính trị giáo điêu đã quá lạc hậu và bảo thủ mà đảng CSVN theo đuổi trong mấy chục năm qua (!?)

Đòn thù trong chính trị, nếu khi đã tung ra mà không tính toàn kỹ để đối phương không chết tươi tức khắc thì coi chừng đòn phản. Phản đòn rất nguy hiểm vì nó được đối phương tung ra khi tưởng chừng họ đang rất yếu thế, khiến đối thủ chủ quan. Ai mà nghĩ một kẻ vừa thoát chết như đồng chí X lại ra đòn hiểm như ta thấy. Trước thềm Hội nghị BCH TW 7 tháng 5 tới, thì cùng một lúc cho quân chọc vào hai vụ tiêu cực đất đai siêu khủng với số tiền thất thoát đều hàng nghìn tỉ, một ở Đà Nẵng và một tại Hà Nội. Đặc biệt là hai vụ tham nhũng trên đều chủ ý nhằm đánh thẳng vào những người người đứng đầu bộ máy Nội chính, Chống tham nhũng của đảng. Đó là Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng và Tân trưởng Ban Nội chính TW Nguyễn Bá Thanh. Đó mới là những cái chúng ta đã thấy. Ngoài lề nghe thiên hạ nói còn một số vụ khủng hơn nhiều, nếu tung ra thì đối thủ sẽ không chết thì cũng bị thương

Chúng ta cùng chờ xem rồi sẽ thấy, điều đồng chí X đã từng lớn tiếng với chiến hữu sau trận chiến Hội nghị Trung ương 5 tháng 10.2012 kết thúc rằng “Khóc vờ a, tui sẽ làm cho lão già khóc thiệt. Chờ coi!”.

Ngày 12 tháng 4 năm 2013©

Kami

————————
* Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA

Những điểm khác biệt ở Hội thảo biển Đông tại Quảng Ngãi

Việt Hà, phóng viên RFA. 2013-04-30

bien-Dong-11-305.jpg

Hội thảo quốc tế về Hoàng Sa – Trường Sa tại Quảng Ngãi hôm 27/4.

Courtesy quangngai.gov.vn

Trong hai ngày 27 và 28 tháng 4, tại đại học PHạm Văn Đồng, tỉnh Quảng Ngãi, đã diễn ra hội thảo biển Đông với chủ đề, chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các yếu tố pháp lý và lịch sử. Buổi hội thảo quy tụ nhiều học giả trong và ngoài nước. Nhân dịp này, Việt Hà phỏng vấn tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, người tham gia thuyết trình tại hội thảo.

Tập trung về chủ quyền của VN

Trước hết nói về điểm khác biệt của hội thảo này so với các hội thảo quốc tế về biển Đông trước kia, tiến sĩ Nguyễn Nhã cho biết:

TS Nguyễn Nhã: Tôi thấy là nó khác nhiều ở điểm là ở đây là tại một trường đại học tổ chức, địa điểm đặc biệt là Quảng Ngãi, và đồng thời nội dung cũng khác nhiều, cũng tập trung về vấn đề biển Đông, đặt vấn đề chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa trường Sa. Người ta tập trung nhiều các vấn đề nổi cộm hiện nay là Philippines đưa ra tòa án biển.

Việt Hà: Thưa ông xin ông cho biết là trong hội thảo hôm nay, các học giả cũng nói về vụ kiện của Philippines, thì các học giả có nhận định thế nào về khả năng thành công của vụ kiện này?

Đa số các học giả đều thấy là cần những giải pháp hòa bình, giải pháp hợp tác. Người ta cũng nói là không để bên nào mất mặt.
-TS Nguyễn Nhã

TS Nguyễn Nhã: Người ta cũng nói có nhiều khả năng. Nhưng có nhiều người nói là đây là một khả năng cũng rất tốt cho Philippines thắng kiện, và khi Philippines thắng thì người ta cũng đặt ra vấn đề là Trung Quốc có tuân thủ không. Hiện nay Trung Quốc không chấp nhận 1 trong 5 thẩm phán của tòa quốc tế đó, phải thay thế một đại diện, tức là thẩm phán của Ba Lan.

Người ta cũng bàn nhiều về vấn đề như vậy thì hậu quả ra sao, khi tòa án quốc tế có kết luận. Người ta phân tích nhiều là Trung Quốc không có cơ sở pháp lý và lịch sử nào về đường chữ U hay đường đứt khúc 9 đoạn, tức là đường lưỡi bò. Có cái ngại là Trung Quốc sẽ phản ứng ra sao khi có những kết luận của tòa án. Trong đó người báo cáo và những người thảo luận cũng đặt ra vấn đề như thế. Có nhiều người nói đây là một dịp tốt cho Việt Nam.

Việt Hà: Các học giả hôm nay có đưa ra những kiến nghị gì trong việc giải quyết tranh chấp tại biển Đông?

bd-250.jpg
Các học giả quốc tế và Việt Nam trao đổi tại hội thảo quốc tế về Hoàng Sa – Trường Sa tại Quảng Ngãi hôm 27/4. Courtesy quangngai.gov.vn

TS Nguyễn Nhã: Đa số các học giả đều thấy là cần những giải pháp hòa bình, giải pháp hợp tác. Người ta cũng nói là không để bên nào mất mặt. Có nói là chủ nghĩa dân tộc hiện nay đang phát triển, vì sức ép đó, có người nói là các giải pháp làm thế nào để một bên nào bị sức ép như vậy, bị mất mặt. ASEAN phải đoàn kết với nhau.

Từ đoàn kết đó, họ phân tích về COC nhưng người ta ngại là Trung Quốc không hợp tác, tức trì hoãn. Vấn đề đặt ra vẫn là dấu hỏi về thái độ của Trung Quốc hiện nay. Họ nói hợp tác luôn tỏ thái độ dữ dằn.

Việt Hà: Hội thảo biển Đông lần này tổ chức tại Quảng Ngãi là tỉnh có rất nhiều ngư dân khi đi đánh bắt cá tại Hoàng Sa, chịu nhiều thiệt hại do tranh chấp ở biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo ông hội thảo lần này tại Quảng Ngãi có ý nghĩa thế nào với người dân tại đây và tỉnh Quảng Ngãi?

TS Nguyễn Nhã: Theo tôi tổ chức hội thảo này đúng vào thời gian huyện đảo Lý Sơn tổ chức lễ khao lề tế lính Hoàng Sa, tức là lễ người dân Lý Sơn nói riêng và nói chung cả quê hương từ khi Lý Sơn tách tra khỏi đất liền, là nôi của đội Hoàng Sa, là dân binh đi khai thác biển Đông, có nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền của mình tại Hoàng Sa, Trường Sa. Vì đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải. Tại một địa điểm như vậy, đến ngay mai các học giả quốc tế sẽ đến để chứng kiến lễ khao lề ở huyện đảo Lý Sơn.

Việt Hà: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn này.

Tin, bài liên quan

Ngày 30/4 khởi đầu một trào lưu bất đồng

Quốc Phương. BBC Việt ngữ. 30 tháng 4, 2013

Quân đội Bắc Việt tiến vào Sài GònNgày 30/4 đánh dấu mầm mống bất đồng trong chính nội bộ ‘bên thắng cuộc’

Ngày 30/4/1975 đánh dấu mầm mống khởi đầu của sự bất đồng trong chính nội bộ phe những người cộng sản giành chiến thắng trong cuộc tiến chiếm Sài Gòn, theo nhà nghiên cứu từ trong nước.

Trao đổi với BBC hôm thứ Ba từ Sài Gòn, nhà nghiên cứu độc lập Lữ Phương nói ngay từ những ngày đầu tiên sau giải phóng, đã xuất hiện những rạn nứt trong cách thức nhìn nhận cuộc chiến và cách ứng xử với phần lãnh thổ mà quân đội miền Bắc vừa chiếm được từ tay chính quyền Sài Gòn.

“Những nhà lãnh đạo đã bệ nguyên một mô hình thể chế cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam, và cũng đã có những nhìn nhận chỉ coi trọng vai trò của những người từ miền Bắc vào giải phóng, tiếp quản.”

Trong khi đó theo nhà nghiên cứu này những công lao, đóng góp của phe kháng chiến Nam Bộ, những người thuộc lực lượng thứ ba đã có vẻ đã bị coi nhẹ.

Được hỏi từ khi nào thì xuất hiện những tư tưởng bất đồng đầu tiên trong hàng ngũ những người cộng sản tham gia điều hành chính quyền ở miền Nam hậu giải phóng, nhà nghiên cứu nói:

“Nguyễn Văn Linh liên kết với Trung Quốc, chấm dứt cải tổ và đó là bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam”

Lữ Phương

“Ngay từ những ngày tháng đầu đã xuất hiện những ý kiến này khác, nhưng phải đợi tới các dấu mốc là năm 1986 khi ông Nguyễn Văn Linh hứa hẹn đổi mới, để rồi sang những năm đầu thập niên 1990 ông Linh được cho là đã không giữ lời hứa, mà quay lưng lại với cải cách, thì các ý kiến mạnh lên.”

Ông Phương nói các cán bộ lãnh đạo thuộc các phong trào kháng chiến nam bộ, mặt trận cách mạng dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, các lực lượng bưng biền, các thành viên thuộc lực lượng thứ ba đã bắt đầu công khai lên tiếng.

“Những người như các ông Nguyễn Hộ, Trần Văn Trà, nhóm câu lạc bộ kháng chiến, rồi ông Trần Độ và nhiều người khác lên tiếng cho rằng ông Linh không giữ lời hứa,” ông nói thêm.

Theo nhà nghiên cứu ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Gia Định, đã bị phê phán vào thời điểm cuối thập niên 1980 – đầu 1990 là đã có hành vi trấn áp nhiều tiếng nói, trong đó có giới nhà báo, như bà Kim Hạnh, hay các đồng chí cũ như Nguyễn Hộ, hay Trần Độ v.v…

“Nguyễn Văn Linh liên kết với Trung Quốc, chấm dứt cải tổ và đó là bi kịch của Đảng cộng sản Việt Nam,” ông Phương, nguyên Thứ trưởng Thông tin – Văn hóa của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, một tổ chức do chính quyền cộng sản Bắc Việt xây dựng nên, nói.

‘Bờ vực phá sản’

Ba mươi tám năm sau sự kiện 30/4, theo nhà nghiên cứu, phong trào bất đồng trong nội bộ đảng cộng sản ở miền Nam vẫn có những tiến triển đáng kể.

“Rút lui cũng là một lựa chọn, rút lui để dân tộc tiến bộ, đất nước hùng mạnh, là một lựa chọn đúng. Trong lịch sử những người cộng sản trước đây đã từng có lúc tuyên bố giải tán, tuyên bố rút lui”

Lữ Phương

“Đã có sự phân hóa và cũng có những tiến triển, nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển, mặc dù sự áp bức đã làm một số người thay đổi thái độ, song số đông của phong trào vẫn tiếp tục vì họ vẫn giữ được niềm tin vào sự thay đổi của đất nước, nhất là trước thực trạng của Đảng” ông nói với BBC.

“Lẽ ra những người Cộng sản phải nhận thức được vị thế và thời cuộc của mình, và nếu họ thực sự yêu nước, thương nòi, thực sự có trách nhiệm, thì họ phải biết cần làm gì,

“Rút lui cũng là một lựa chọn, rút lui để dân tộc tiến bộ, đất nước hùng mạnh, là một lựa chọn đúng.

“Trong lịch sử những người cộng sản trước đây đã từng có lúc tuyên bố giải tán, tuyên bố rút lui, họ không nên tham quyền cố vị,” nhà nghiên cứu nói.

Theo Lữ Phương, những người lãnh đạo cộng sản hiện nay đang phạm một sai lầm rất nghiêm trọng và to lớn:

“Họ đã đang dẫn đất nước tới một bờ vực của sự phá sản, suy thoái hoàn toàn, các giá trị cơ bản bị phá hoại,

“Họ đặt lợi ích của họ lên trên lợi ích chung của dân tộc, của nhân dân và đất nước, họ đang giữ chặt thể chế để không làm gì khác ngoài việc làm kinh tế cho họ, biến cả đất nước thành một cỗ máy làm ăn cho họ,” nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến có thể coi là chỉ trích khá thẳng thắn.

“Họ đổi mới nửa vời, nay họ còn đang chia ra phe cánh với nhau để làm ăn, họ từ chối đổi mới chính trị đi đôi với cải tổ kinh tế. Họ coi nhân dân như kẻ thù. Rồi trong nội bộ nay họ cũng đang đấu đá, phe nọ đánh đấm phái kia quyết liệt, tanh bành…

“Họ biến đất nước thành một vũng lầy với đầy các tệ nạn từ hối lộ đến bất công, tràn lan, và hiện chưa rõ có con đường nào để thoát ra.”

Lữ PhươngÔng Lữ Phương cho rằng phong trào đấu tranh dân chủ và bất đồng trong nước đang gieo những mầm mống tương lai

Nhà nghiên cứu cũng đưa ra một nhận xét nói hiện nay đang có quan ngại trong lúc ‘cùng quẫn’ đảng có thể ngả theo Trung Quốc để cố gắng có được sự hậu thuẫn, bất chấp tương lai, vận mệnh và quyền lợi của dân tộc có thể bị thế lực ngoại bang này xâm phạm.

“Hãy xem Trung Quốc đang vào Việt Nam như thế nào, từ nhân lực cho tới doanh nghiệp, từ sản phẩm, cho tới thị trường và đồng thời họ cũng chiếm giữ, tiến chiếm, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để gặm nhấm dần dần đất đai và biển đảo của chúng ta.”

“Trong khi ấy lãnh đạo Việt Nam suốt ngày nói về đoàn kết ý thức hệ, nói về giữ hòa khí và lấy cớ đó ngăn dân không cho người dân phản ứng, không cho họ lên tiếng trước thứ chủ nghĩa thực dân mới mà ai cũng nhận thấy rõ,” ông Phương đưa ra bình luận có tính chất ít nhiều như cáo buộc.

‘Âm thầm gieo mầm’

Khi được hỏi liệu những nhà bất đồng xuất phát từ các cựu lãnh đạo, các đảng viên, các thành viên kháng chiến cũ nay có thể quá ít ỏi, yếu về tiếng nói và không có tương lai hay không, như một số ý kiến của giới chức chính quyền, ông Phương nói:

“Không nên lấy số lượng để tính, những tiếng nói bất đồng từ 30/4, từ thập niên 1986, 1990 ấy vẫn âm thầm nhưng họ đang làm được một việc rất quan trọng, các tiếng nói ngày càng nhiều, như các vị Lê Hiếu Đằng, Trần Quốc Thuận, rồi nhiều vị khác nữa…

“Đó là gieo mầm, họ gieo những mầm mống để một ngày có điều kiện, đất nước sẽ có sự đổi thay.

“Số lượng không nói lên điều gì then chốt, chính những người cộng sản ngày trước, những năm 1945 khi họ làm cách mạng chống Pháp, khi họ còn trong vị trí bị trị, họ chỉ có mấy ngàn đảng viên đấy thôi.”

Nhà nghiên cứu cũng cho rằng phong trào đang lớn mạnh lên rõ rệt, với nội dung bất đồng, chỉ trích, đấu tranh ngày càng quyết liệt, không khoan nhượng và triệt để hơn, bất chấp các rủi ro bị đàn áp.

“Mà trấn áp người ta xong, bỏ tù người ta xong thì người ta ra tù lại phát biểu mạnh mẽ hơn, quả quyết hơn, cho người ta đi tù là càng cấp bằng, là càng phong thánh cho người ta chứ gì”

Lữ Phương

“Từ các phong trào ấy, rồi gần đây mở ra, nào là trang mạng Bauxite, những người ra kiến nghị về Thơ Trần Dần, nay phát triển rộng khắp với nhiều nhóm khác,

“Hiện tại phong trào kiến nghị sửa hay đổi Hiến pháp cũng đang rất mạnh mẽ, quyết liệt. Còn trấn áp ư, trấn áp ngày nay so với xưa chưa là gì,

“Mà trấn áp người ta xong, bỏ tù người ta xong thì người ta ra tù lại phát biểu mạnh mẽ hơn, quả quyết hơn, cho người ta đi tù là càng cấp bằng, là càng phong thánh cho người ta chứ gì,” ông Lữ Phương nói.

Gần đây trong một phỏng vấn với BBC về phong trào bất đồng chính kiến và tranh đấu cho tự do dân chủ ôn hòa ở trong nước, một quan chức cao cấp trong ngạch đào tạo cán bộ lãnh đạo của Đảng cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam hiện không có đối thủ vì đối lập quá yếu và mỏng.

Phản biện lại ý kiến này, nhà bất đồng chính kiến, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang nói rằng chính do bị chế áp bằng chuyên chính vô sản của chính quyền mà phong trào có thể bị yếu, mỏng, hay có lúc bị phân chia, nhưng nhìn chung vẫn đang vận động tiến lên và có triển vọng

Còn luật sư Nguyễn Văn Đài, cũng từ Hà Nội, thì nói Đảng đông quân số, lại nắm hết các lực lượng chuyên chính từ quân đội, công an, tới tòa án và toàn bộ bộ máy chính trị, cai trị, nhưng thiếu chính nghĩa.

Trong khi vẫn theo nhà hoạt động dân chủ này, các lực lượng tranh đấu vì dân chủ tuy yếu hay mỏng, nhưng lại có tương lai vì nắm trong tay chính nghĩa và được sự ủng hộ của người dân và các phong trào tiến bộ dân chủ quốc tế.

Cái bẫy của thu nhập

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA.  2013-05-01
000_Was7471460-305.jpg

Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Christine Lagarde và Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Young Kim (T) tại buổi họp báo cuối cùng của IMF tại Washington hôm 20/4/2013. AFP photo

Hôm Thứ Hai 29, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF công bố báo cáo cập nhật về viễn ảnh kinh tế của khu vực Á Châu Thái Bình Dương với dự báo lạc quan hơn trước về triển vọng kinh tế của trong năm nay. Nhưng định chế tài chính quốc tế này cũng cảnh báo các nước trong khu vực về cái “bẫy sập của thu nhập ở mức trung bình”. Bẫy sập ấy là gì, Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Thận trọng với chính sách kinh tế vĩ mô

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF vừa công bố tại Singapore hôm Thứ Hai 29 đầu tuần những dự đoán lạc quan hơn về triển vọng kinh tế của khu vực Châu Á Thái Bình Dương với tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,75% vào năm nay. Định chế này cũng cảnh báo các nước nên thận trọng với chính sách kinh tế vĩ mô để khỏi bị rơi vào bẫy sập của thu nhập. Thưa ông, kỳ này chúng ta sẽ tìm hiểu xem cái bẫy sập ấy nghĩa là gì. Nhưng trước hết, xin đề nghị ông trình bày cho bối cảnh.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa vâng, như mọi khi, tôi xin được nói về bối cảnh trước, rồi mới đi vào vấn đề mà ta muốn tìm hiểu.

IMF thường xuyên khảo sát tình hình kinh tế thế giới trong khoảng thời gian chừng hai quý tức là sáu tháng để ước tính ra triển vọng kinh tế trong từng khu vực. Chúng ta hãy mường tượng ra một tháp canh khá cao, với tầm nhìn bao quát hơn, để thông báo về cả hy vọng lẫn rủi ro trước mắt hầu các nước khỏi bị bất ngờ và có thể khai thác cơ hội thuận tiện. Tuy nhiên ta không quên rằng đấy chỉ là khảo sát ngắn hạn, là trong tầm nhìn của một năm và còn phải cập nhật liên tục. Thứ hai, và đây là nhận định của riêng tôi, IMF thường đưa ra dự báo lạc quan hơn thực tế và chính vì vậy mà ta càng nên chú ý đến lời cảnh báo của định chế này.

Trong bản phúc trình gần 70 trang, IMF dự đoán là các nước trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương sẽ dẫn đầu sự phục hồi kinh tế toàn cầu với đà tăng trưởng cao và nêu ra cơ sở của dự báo này là hoàn cảnh của khối kinh tế công nghiệp hóa Âu-Mỹ, là chính sách kích thích kinh tế của Nhật và nhất là những ưu nhược điểm của các nước trong khu vực. Chương ba của báo cáo mới nói đến nan đề của nhiều nước là làm sao tránh được bẫy sập của thu nhập từ thấp lên cao.

Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông về cách trình bày tuần tự này, trước khi ta nhìn vào cái bẫy sập đó.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng cũng về bối cảnh nhưng nhìn trong trường kỳ thì mình thấy sự tiến hóa và thịnh vượng của các nước trên thế giới có chung một vài đặc tính.

Thứ nhất, các nước công nghiệp hoá, chủ yếu là các nền kinh tế Âu-Mỹ, đã mất hai thế kỷ để đi từ hình thái nông nghiệp lên hình thái công nghiệp và nâng cao lợi tức của người dân. Ngày nay, họ đã lên tới trạng thái hậu công nghiệp với đà tăng trưởng thấp hơn nhưng trên một nền móng giàu mạnh hơn trước và cho đến nay thì vẫn còn hơn nhiều quốc gia khác.

Thứ hai, trong thế kỷ 20, một số quốc gia khác, chủ yếu là các nền kinh tế Á Châu, lại không mất hai thế kỷ mà chỉ có hai thế hệ để bung ra khỏi tình trạng nghèo khó và trở thành nền kinh tế ta gọi là “tân hưng”, mới phát triển. Lý do là họ học được kiến thức về tổ chức và kỹ thuật sản xuất của các nước đi trước trong môi trường kinh tế tự do hơn và trao đổi với nhau nhiều hơn.

Thứ ba là các nước đi sau mới học kinh nghiệm Tây phương và các nước tân hưng đi trước để đạt mức tăng trưởng nhanh hơn, với số lợi tức từ trình độ thấp lên cao hơn. Nhưng người ta nghiệm thấy là nhiều nước nghèo lại không bung lên bậc cao hơn mà chỉ dậm chân tại chỗ hoặc thập chí còn tuột thang. Người ta nói rằng các nước đó rơi vào bẫy sập của thu nhập bình quân. Ngân hàng Thế giới ước lượng mức đó vào khoảng ngàn mốt ngàn hai đô la cho mỗi đầu người.

Vắn tắt lại cho dễ nhớ, nếu thu nhập bình quân của dân Mỹ là gần năm vạn đô la một năm, của cả Âu Châu nói chung là hơn ba vạn thì Nam Hàn hay Đài Loan cũng đã vượt qua mức hai vạn trong khi dân Trung Quốc thì vẫn chỉ ở số sáu ngàn. Việt Nam thì được hơn một ngàn mà nhiều nước khác chưa bung khỏi giới hạn ngàn đồng một năm, là kiếm ra dăm ba đồng một ngày.

Vì đâu rơi vào bẫy sập?

RFA-250.jpg
Những tòa nhà cao tầng bên sông Hàn, Đà Nẵng. AFP photo

Vũ Hoàng: Như vậy và nhìn trong viễn cảnh dài, từ cảnh nghèo khốn mỗi người dân chỉ kiếm ra khoản lợi tức quy ra vài trăm đô la một năm, nhiều nước đã sớm vượt cái ngưỡng ngàn đồng để tiếp tục đi lên và có thu nhập bình quân một đầu người là vài chục ngàn một năm. Thưa ông, có  phải là như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng vậy, mà sở dĩ tôi nhắc đến khung cảnh rộng lớn và lâu dài của các nền kinh tế trên thế giới là để chúng ta cùng nhìn thấy một thực tế khách quan.

Đó là các nước có thể học hỏi để phát huy và xây dựng những động lực đem lại sự thịnh vượng cho người dân. Ngoài yếu tố kiến thức hay kỹ thuật sản xuất, một trong các động lực ấy là quyền tự do trao đổi kinh tế. Thứ nữa, các nước đã có thể bung lên là nhờ buôn bán với nhau chứ không có cái cảnh xứ này bóc lột xứ khác, hoặc sự giàu có của quốc gia này chỉ là kết quả của việc bóc lột quốc gia khác. Tư tưởng đấu tranh giai cấp hay lý luận tranh đoạt quyền lợi kinh tế theo kiểu đế quốc là những sai lầm đã gây ra chiến tranh và tàn phá. Như vậy, sự thể khách quan mà ta cần thấy ra ngày nay là sự thịnh suy của các nước tùy thuộc nhiều nhất vào chính sách bên trong từng nước, chứ không thể đổ lỗi cho thiên hạ là xong. Ngược lại, các nước có thể tự rơi vào bẫy!

Vũ Hoàng: Thưa ông, nếu cho là chẳng ai giăng bẫy ai vì sự thịnh vượng của xứ này có thể đem lại lợi tức cho xứ khác như ông vừa phân tích thì đâu là những lý do mà các nước có thể tự rơi vào bẫy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng về câu trả lời, ta có thể học được… từ Trung Quốc!

Quốc gia đông dân này bị khủng hoảng và tự giác ngộ khỏi xã hội chủ nghĩa hoang tưởng kiểu Mao Trạch Đông mà cải cách kinh tế từ năm 1979 nên cũng có tốc độ tăng trưởng cao như Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan cùng nhiều nước tân hưng Đông Á khác trước đó vài thế hệ. Với dân số đông và đà tăng trưởng cao, Trung Quốc có nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới từ năm 2010 nhưng vẫn chưa là nước tân hưng, mới chỉ là “tân tòng” theo quy luật tự do và bắt đầu rơi vào khoảng trũng nên đang phải cải sửa chiến lược kinh tế từ lượng sang phẩm.

Hai năm trước, chính các kinh tế gia của họ đã cảnh báo về cái bẫy sập. Hình như là chúng ta cũng đã đề cập đến chuyện này nên tôi chỉ xin được nhắc lại. Thứ nhất, mỗi hoàn cảnh phát triển lại đòi hỏi một số chính sách phù hợp. Trung Quốc đã dám cải cách theo lối mò chân dưới nước để tìm đường đi và áp dụng nhiều chính sách thích hợp để đạt mức tăng trưởng cao và tiến sang hoàn cảnh khác.

Nhưng sau khi có những thành tựu nhất định như vậy, Trung Quốc cứ sợ mò chân xuống nước để tìm đường đi tiếp và điều ấy là sai. Sở dĩ như vậy vì sau những thành tựu đó, nhiều thế lực kinh tế và chính trị đã thu vén đặc lợi trong giai đoạn trước nên e ngại đổi thay. Mà không chỉ sợ đổi thay sẽ làm mất quyền lợi, các nhóm lợi ích này còn cưỡng chống và phá hoại nỗ lực cải cách của lãnh đạo để bảo vệ thành quả riêng. Vì vậy, Trung Quốc có thể rơi vào bẫp sập của lợi tức. Năm ngoái, Ngân hàng Thế giới và Trung tâm Nghiên cứu Phát triển của Bắc Kinh cũng có lời cảnh báo tương tự về cái bẫy sập. Phó Thủ tướng Lý Khắc Cường khi ấy, là Tổng lý Quốc vụ viện ngày nay, hoàn toàn đồng ý với kết luận này và nêu quyết tâm cải cách để ra khỏi bẫy sập.

Hiện trạng Việt Nam

BAY-THU-NHAP-BINH-QUAN_250.jpg
Công nhân xây dựng ở Hà Nội, ảnh minh họa. RFA photo

Vũ Hoàng: Chúng ta đang tiến dần đến sự thật đó vì dường như là Việt Nam cũng gặp cảnh ngộ tương tự khi người ta than phiền về thế lực của các nhóm lợi ích đang cưỡng chống việc tái cơ cấu nền kinh tế và gây vấn đề cho chính sách kinh tế vĩ mô. Thưa ông, có phải rằng đấy cũng là yếu tố đưa Việt Nam vào bẫy sập hay chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi e rằng sự thật lại còn tệ hơn vậy nữa!

Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn vì hết lợi thế nhân công rẻ do sự thay đổi về dân số và thị trường xuất khẩu của họ bị co cụm nên phải cải cách và tìm lực đẩy ở tiêu thụ nội địa thay cho xuất khẩu và theo chiến lược chú trọng về phẩm hơn là về lượng. Vậy mà chưa chắc lãnh đạo mới đã giải quyết nổi yêu cầu sinh tử đó và còn e ngại động loạn. Nhưng dù sao, người dân xứ này vẫn có mức thu nhập bình quân là gấp năm người Việt, và trình độ chuyên môn của cấp lãnh đạo Bắc Kinh còn cao hơn lãnh đạo Hà Nội. Hoàn cảnh Việt Nam là chưa kịp len vào hạng trung bình thì đã rơi xuống dưới vì cản lực quá lớn của các nhóm lợi ích. Cơ bản nhất, Việt Nam chưa hoàn thành việc cải cách kinh tế cho tự do nên chưa có một sân chơi bình đẳng và lành mạnh.

Việt Nam vẫn duy trì vai trò và thế lực quá lớn của khu vực kinh tế nhà nước là nơi xuất phát các nhóm lợi ích cấu kết với nhau trong bộ máy đảng, nhà nước và tay chân thân tộc. Các phe nhóm này không che giấu mà còn phơi bày những thành tựu bất công và bất lương của họ để huy động thêm vây cánh và cản trở mọi ý hướng cải cách.

Những gì ta đang thấy từ lời đả kích ồn ào về tội lũng đoạn hoặc rửa vàng của cơ quan này hay tội phạm pháp của đại gia kia chỉ là biểu hiện ra ngoài của nạn đấu đá về quyền lợi trong nội bộ. Trong khi ấy, đại đa số người dân vẫn còn nghèo và cơ sở tư doanh thì mỗi tháng chết hàng ngàn. Việt Nam khó ra khỏi hố sâu hiện tại để mơ tới những bậc thang cao hơn.

Vũ Hoàng: Lời kết của ông cho hiện tượng đáng buồn này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trên bước đường phát triển, xứ nào cũng có thể gặp gió chướng như một chu kỳ suy trầm hoặc bị khủng hoảng vì nhiều chứng tật tích lũy từ trước. Gặp cảnh đó, các quốc gia đã thành công đều cố truy ra lý do và tìm hướng cải cách, rồi dám sửa đổi để lại đi lên. Trên bậc thang cao hơn, họ có thể lại gặp vấn đề mới nhưng nếu dám sửa thì cuối cùng cũng tạo hoàn cảnh làm ăn dễ dàng cho mọi người, nhờ đó mới thành nước tân hưng. Nhiều quốc gia thì chỉ mon men trong cảnh vặt mủi bỏ mồm, và Việt Nam thì giỏi vặt mũi người này bỏ mồm người khác. Đấy là một sự bất công rất nguy hiểm và là bài toán chính trị chứ không chỉ kinh tế.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

30-4-1975: Giai nhân và quái vật

Sơn Văn

Khi đọc đầu đề này hẳn có người nghĩ rằng tôi sắp kể một câu chuyện tình na ná chuyện cổ tích phương Tây “Giai nhân và quái vật” đã làm mê say bao triệu người từ trẻ đến già trên toàn thế giới và vì vậy sẵn lòng chờ một giấc mơ hoa để rũ bỏ dù trong chốc lát những u uẩn của cuộc sống hiện tại. Nếu vậy thì tôi rất xin lỗi mà thưa rằng, những gì tôi nói ngay sau đây sẽ chẳng có vẻ gì của một chuyện tình, càng không phải là một chuyện tình có hậu.

Không nghi ngờ gì nữa, thống nhất đất nước là khát vọng thiêng liêng của mọi người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của mình, đặc biệt ở thế kỷ 20, bất luận ở bên nào của chiến tuyến, dù trong hàng ngũ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Việt Cộng, hay thuộc lực lượng Việt Nam Cộng hòa chống cộng. Do đó, 30-4-1975 chắc chắn là cái tuyệt vời, cái vô cùng đẹp đẽ khi khép lại cuộc chiến thảm khốc kéo dài 20 năm không một ngày ngưng để nối liền non sông thành một dải. “Giai nhân” mà 30-4-1975 mang lại cho dân tộc ViệtNamchính là chỗ đó!

Thế nhưng oái ăm thay, cùng một lúc với “giai nhân”, 30-4-1975 đã mang lại cho người Việt Nam trên khắp đất nước một “quái vật”: Chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác-Lênin (sau đây gọi tắt là “chủ nghĩa xã hội”).

Vậy tại sao chủ nghĩa xã hội lại là quái vật? Hỏi tức là trả lời, là vì chủ nghĩa xã hội hại nước, hại dân, hại người! Cụ thể, quái vật này hiện hình như mô tả sau đây.

1. Chủ nghĩa xã hội phản dân tộc

Có một sự thật là nội chiến hay chiến tranh giữa những người cùng dân tộc, cùng quốc gia dù không mong muốn thì nó vẫn xảy ra khi mâu thuẫn chính trị giữa họ đã lên đến đỉnh điểm mà không giải quyết được bằng biện pháp hòa bình. Nói cách khác, chiến tranh “huynh đệ tương tàn” không phải là riêng của quốc gia nào, mà đáng tiếc Việt Nam lại là một thí dụ nổi bật với Loạn 12 Sứ quân vào thế kỷ 10, chiến tranh Lê – Mạc vào thế kỷ 16, chiến tranh Trịnh – Nguyễn rồi chiến tranh giữa Tây Sơn và Trịnh, giữa Tây Sơn và Nguyễn vào các thế kỷ tiếp theo cho đến đầu thế kỷ 19, và hiển nhiên rồi, chiến tranh giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Việt Cộng và Việt Nam Cộng hòa ở thế kỷ 20.

Như vậy, nếu nội chiến là không thể tránh được thì vấn đề là ở chỗ người chiến thắng phải mau chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh mà hòa giải dân tộc là liệu pháp hàng đầu, cụ thể là không trả thù, không sỉ nhục người chiến bại dưới bất kỳ hình thức nào và ngay lập tức coi họ là những công dân đầy đủ của quốc gia thống nhất. Thế nhưng chính quyền cộng sản ViệtNamđã đi ngược đạo lý dân tộc ấy vì chủ nghĩa xã hội mà chính quyền này theo đuổi.

Thực vậy, đối với chủ nghĩa xã hội thì không có “dân tộc” mà chỉ có “giai cấp”, không có “con người dân tộc” mà chỉ có “con người giai cấp” và vì “đấu tranh giai cấp” hay “cách mạng” là thường trực nên bất cứ ai không tán thành sự thống trị của giai cấp công nhân hay “vô sản” đều là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, là đối tượng đàn áp của “chuyên chính vô sản” mà hiện thân là chính quyền cộng sản.

Điều này lý giải vì sao sau 30-4-1975, chính quyền cộng sản đã đưa cả trăm ngàn nhân viên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vào các “trại tập trung cải tạo” – các nhà tù thực sự – với lý do duy nhất là họ đã phục vụ trong chính quyền “ngụy” đối nghịch. Lẽ dĩ nhiên, việc bỏ tù các “kẻ thù giai cấp” này của chính quyền cộng sản chỉ càng đào sâu hận thù dân tộc thay vì xóa bỏ nó. Chính sách gây hận thù dân tộc này còn được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đẩy lên kịch trần khi bỏ tù luôn cả người đòi nhà cầm quyền thực hiện hòa giải dân tộc, cụ thể là bỏ tù Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, vì ông đã gửi Quốc hội “Kiến nghị trả tự do cho tất cả các tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lấy “Việt Nam” làm quốc hiệu để hòa giải dân tộc”!

Chủ nghĩa xã hội không chỉ phản dân tộc ở chỗ xóa bỏ “con người dân tộc” bằng cách luôn duy trì người Việt Nam trong tình trạng thù hận lẫn nhau như trên vừa chứng minh, mà còn tày trời hơn, ở chỗ muốn xóa bỏ luôn Tổ quốc của người Việt Nam với định danh “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” ghi trong Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 hiện hành.

Thực vậy, “Tổ quốc” trong tiếng Việt có nghĩa “Quốc gia do Tổ tiên tạo lập”, đồng nghĩa Tổ quốc của người Việt Nam chỉ có một, là quốc gia do Tổ tiên của người Việt Nam là Vua Hùng tạo lập. Do đó “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” không gì khác hơn là phủ nhận Vua Hùng, phủ nhận chính quốc gia của người Việt Nam đã có từ 4000 năm nay hay phủ nhận chính Tổ quốc của người Việt Nam!

Nhân đây cần khẳng định rằng lập luận “Tổ quốc phải gắn với chế độ chính trị” để biện minh cho “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” là hoàn toàn phản động, nếu không muốn nói là ngu xuẩn. “Tổ quốc phải gắn với chế độ chính trị” mặc nhiên có nghĩa một khi chế độ bị xóa bỏ thì Tổ quốc cũng mất theo. Vậy phải chăng người Việt Nam không còn Tổ quốc sau khi chế độ phong kiến bị xóa bỏ vào tháng 8 năm 1945 với việc đại diện của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Bộ trưởng Cù Huy Cận tiếp nhận sự thoái vị của Vua Bảo Đại nhà Nguyễn tại Ngọ Môn, Huế?! Nhìn ra nước ngoài, phải chăng người Nga và những dân tộc khác ở Đông Âu không còn Tổ quốc sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước họ sụp đổ, tan tành trong vỏn vẹn vài năm, từ 1989 đến 1991?! Vả lại, nói “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thì phải chăng hàng triệu người ViệtNamđịnh cư ở nước ngoài không còn Tổ quốc?!

Cũng như vậy, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà Đảng Cộng sản luôn tuyên truyền là một sự xuyên tạc lịch sử của dân tộc ViệtNamkhông hơn không kém.

Thực vậy, Độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã giành được cách đây 68 năm hoàn toàn không dính dáng đến chủ nghĩa xã hội, điều này có thể thấy rõ trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Không những thế, việc Đảng Cộng sản Việt Nam – lúc bấy giờ có tên là Đảng Cộng sản Đông Dương – tự giải thể vào ngày 11-11-1945, chỉ hai tháng sau khi nền Cộng hòa ra đời, dù trong thực chất có là hình thức đi nữa thì đối với yêu cầu đối nội và đối ngoại của lịch sử lúc bấy giờ, việc giành độc lập của nhân dân Việt Nam là để thực hiện quyền dân tộc tự quyết chứ tuyệt nhiên không phải để xây dựng chủ nghĩa xã hội như một mục đích tự thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, và về khách quan, đấy cũng là bằng chứng chứng tỏ sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam gây trở ngại cho danh nghĩa bảo vệ và củng cố nền Độc lập dân tộc còn trứng nước. Ngoài ra, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” không gì khác hơn là phủ định sạch trơn Độc lập dân tộc mà người Việt Nam đã giành được dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Ngô Quyền, Lê Lợi trước phong kiến Trung Hoa, hay nói ngắn gọn, xóa bỏ toàn bộ lịch sử đấu tranh giành Độc lập của dân tộc Việt Nam!

Không dừng lại ở phủ nhận, xuyên tạc Tổ quốc và Độc lập dân tộc của người ViệtNam, chủ nghĩa xã hội xâm hại ngay chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ViệtNam.

Năm 1988, Trung Quốc đã dùng hải quân tấn công quần đảo Trường Sa, giết chết 64 sĩ quan, chiến sĩ Việt Nam và chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo này của Việt Nam. Thế nhưng, vì “đại cục xã hội chủ nghĩa”, từ bấy cho đến mãi gần đây Chính phủ Việt Nam im re, không hề lên án hành vi xâm lược này của “đồng chí” Trung Quốc. Thực ra, không phải đến năm 1988 chủ nghĩa xã hội mới xâm hại chủ quyền và lãnh thổ ViệtNam. 30 năm trước đó, năm 1958, vì “đại cục xã hội chủ nghĩa” Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đã gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai công hàm gián tiếp công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, điều này giải thích vì sao chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không hề phản ứng dù chỉ là tí chút trước việc Trung Quốc vào năm 1974 dùng vũ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng hòa quản lý. Những hành vi không thể chấp nhận này mà nguyên nhân là chủ nghĩa xã hội của chính quyền cộng sản Việt Nam càng lộ rõ khi cách đây vài năm chính quyền này bắt giam một số công dân Việt Nam vì họ đã lên tiếng khẳng định “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam” với lý do không có gì ngược đời hơn là những người yêu nước này đã “xâm phạm an ninh quốc gia”, cũng như là chính quyền đã không chịu công nhận liệt sĩ cho các quân nhân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong chiến đấu chống Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa.

Tuy nhiên, hành vi đáng lo ngại nhất của chính quyền cộng sản Việt Nam khiến cả dân tộc mất ăn mất ngủ vẫn đang là câu chuyện ở phía trước. Thực vậy, trước âm mưu dùng vũ lực thôn tính nốt quần đảo Trường Sa và độc chiếm Biển Đông đã quá rõ ràng của Trung Quốc – hiện đang sở hữu các phương tiện chiến tranh trên biển gấp bội lần Việt Nam – TS luật Cù Huy Hà Vũ đã nhiều lần kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam khẩn trương liên minh quân sự với Mỹ để bảo vệ thành công quần đảo Trường Sa và tiến tới thu hồi quần đảo Hoàng Sa, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam nên Biển Đông, vì Mỹ không chỉ là siêu cường quân sự duy nhất trên thế giới mà còn là nước duy nhất trên thế giới có chiến lược quân sự Châu Á – Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bành trướng bằng vũ lực của Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt ở Đông Nam Á. Thế nhưng Chính phủ Việt Nam đã bác bỏ liên minh quân sự với Mỹ vì cho rằng cái giá phải trả cho liên minh này là mất chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tóm lại, chính quyền cộng sản Việt Nam thà “mất nước”, mất lãnh thổ quốc gia vào tay Trung Quốc chứ nhất định không chịu mất chủ nghĩa xã hội!

 

2. Chủ nghĩa xã hội phản dân chủ, chống lại xã hội

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam do Chính phủ Việt Nam chủ trì biên soạn, “chuyên chính” là “trực tiếp dùng bạo lực (đối lập với dân chủ) để áp đặt ý chí của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị”. Vậy chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa đồng nhất với “chuyên chính vô sản” dứt khoát là một chế độ phản dân chủ, trên thực tế, ngược lại với dân chủ (cạnh tranh bình đẳng, phi bạo lực giữa các cá nhân, các đảng phái nhằm cung ứng cho quốc gia, xã hội và các công dân không chỉ một sự quản lý tốt nhất mà cả một sự bảo vệ tốt nhất), Đảng Cộng sản Việt Nam – “đội tiên phong của giai cấp công nhân (vô sản) – sau ngày thống nhất đất nước đã thẳng thừng áp đặt sự thống trị của đảng này đối với nhân dân Việt Nam bằng quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” tại Điều 4 cả trong Hiến pháp 1980 lẫn trong Hiến pháp hiện hành.

Cần phải nói ngay rằng bộ mặt phản dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa lộ rõ không chỉ ở sự áp đặt Điều 4 Hiến pháp mà còn ở nội dung phi logic của điều này.

Thực vậy, Điều 2 Hiến pháp khẳng định: “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”, tức nhân dân là chủ duy nhất của Nhà nước, đồng nghĩa Nhà nước không thể phục tùng hay chịu sự lãnh đạo của ai khác ngoài nhân dân là chủ duy nhất của mình. Có nghĩa là, Đảng Cộng sản Việt Nam tuyệt nhiên không phải là chủ của Nhà nước thì không thể điều khiển lãnh đạo Nhà nước được!

Ngoài ra, khái niệm “lãnh đạo” của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước là sản phẩm của sự dốt nát, yếu kém cực kỳ về lý luận. Đảng Cộng sản Việt Nam hay bất cứ đảng phái nào khác có thể “lãnh đạo” với nghĩa tổ chức giành chính quyền về tay nhân dân thì chỉ nhân dân, chứ không phải đảng phái quyết định đường lối quốc gia cũng như cách thức hoạt động của chính quyền hay Nhà nước. Cụ thể là nhân dân thực hiện các quyết định sống còn này của mình hoặc trực tiếp bằng lá phiếu – gọi là “dân chủ trực tiếp” – hoặc gián tiếp thông qua các đại diện của mình được bầu ra ở cấp quốc gia (đại biểu Quốc hội) và ở cấp địa phương (đại biểu Hội đồng nhân dân) – gọi là “dân chủ đại diện” hay “dân chủ ủy quyền”. Theo logic đó, các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hay đảng phái khác hoặc người không thuộc đảng phái nào được nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu vào các cơ quan quyền lực Nhà nước mà ở đây là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp chỉ là để thực hiện ý chí của nhân dân hay chỉ là “đầy tớ của nhân dân” như chính Hồ Chí Minh đã nói, chứ không thể làm điều ngược lại là áp đặt ý chí chủ quan của mình cho nhân dân. Để nói, không thể có chuyện đầy tớ “lãnh đạo”, bắt ông chủ, bà chủ phục tùng mình được.

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam hay bất cứ đảng phái nào khác có thể “lãnh đạo” nhân dân nhưng chỉ trong trường hợp dùng vũ lực giành chính quyền về tay nhân dân, đồng nghĩa một khi chính quyền về tay nhân dân thì sự “lãnh đạo” có tính đảng phái này sẽ tự động mất đi và thay vào đó nhân dân sẽ quyết định tất cả, từ đường lối quốc gia cho đến bộ máy thực hiện đường lối đó. Còn như Đảng Cộng sản Việt Nam khăng khăng mình phải “lãnh đạo Nhà nước” thì đó là đảng này phủ nhận chủ quyền của nhân dân, là chống lại nhân dân!

Bên cạnh đó, quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước” thì tréo ngoe với nhiều quy định khác trong Hiến pháp, trước hết với Điều 2 và Điều 83.

Điều 2 Hiến pháp quy định Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền”, tức Nhà nước chỉ tuân theo Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật, gọi chung là pháp luật. Do Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như bất cứ đảng phái nào khác, không phải là pháp luật nên Nhà nước không thể chịu sự “lãnh đạo” hay điều khiển của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cũng như vậy, Điều 83 Hiến pháp quy định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, điều này có nghĩa không có quyền lực hay lực lượng nào đứng trên, làm “sếp” của Quốc hội để có thể “lãnh đạo”, áp đặt ý chỉ chủ quan của mình cho Quốc hội ngoài chính người đã “đẻ” ra Quốc hội là nhân dân!

Tương tự, Điều 64 Hiến pháp quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội. Do đó nếu nói Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo xã hội” tức là “lãnh đạo gia đình”, tức “lãnh đạo mọi quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, từ ái ân giữa vợ và chồng cho đến cách nuôi dạy con cái, đối xử với ông bà…”, thì không gì khác hơn là can thiệp vào đời sống gia đình, đời sống riêng tư là đối tượng bảo hộ của luật pháp, đó chưa nói là bất khả thi bởi không ai có thể “lãnh đạo” hay điều khiển các quan hệ gia đình ngoài chính các thành viên gia đình trên cơ sở đạo lý xã hội và pháp luật có liên quan.

Mở rộng ra, xã hội là tập hợp các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng, đạo đức… vô cùng đa dạng và phức tạp. Nói cách khác, “xã hội” đồng nhất với “đa dạng và phức tạp”. Vậy “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xã hội” tức buộc các quan hệ xã hội hoạt động theo ý chí chủ quan của đảng này, rõ ràng là “triệt tiêu sự đa dạng và phức tạp” của xã hội, đồng nhất với “phá xã hội”!

3. Chủ nghĩa xã hội chống lại các quyền con người

Trước hết cần ghi nhận rằng nhiều quyền con người đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam mà sau đây là một số cơ bản nhất.

Điều 69 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.

Điều 70 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào… Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”.

Ngoài ra, Nhà nước Việt Nam đã tham gia một số điều ước quốc tế về nhân quyền, trong đó có Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự. Điều 19 Công ước này quy định:

  1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
  2. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao giồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến…
  3. Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:
  1. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác.
  2. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội.

Thế nhưng, chủ nghĩa xã hội là “nói một đằng làm một nẻo”. Những quyền con người nói trên đều bị chính quyền cộng sản Việt Nam chà đạp trên thực tế.

Để triệt tiêu quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, chính quyền cộng sản đặt ra “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” – Điều 88 Bộ luật Hình sự. Cụ thể là chính quyền cộng sản vin vào tội danh này để bỏ tù tất cả những ai bày tỏ quan điểm chính trị trái ngược với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản án phúc thẩm của Tòa án tối cao nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kết án TS luật Cù Huy Hà Vũ tự nó đã nói lên tất cả.

Bản án ghi “Bị cáo và các luật sư cho bị cáo cũng như một số ý kiến quan tâm đến việc xét xử sơ thẩm bị cáo Cù Huy Hà Vũ cho rằng: Việc kết án Cù Huy Hà Vũ là vi phạm Điều 69 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự (1966) mà Việt Nam đã tham gia Công ước này năm 1988. Hội đồng xét xử thấy: Điều 69 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Khoản 2 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự cùng quy định “Mọi người có quyền tự do ngôn luận…”. Nhưng Khoản 3 Điều 19 của Công ước này lại quy định “Việc áp dụng các quyền được quy định tại Khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể là đối tượng chịu một số hạn chế nhất định được quy định trong pháp luật và cần thiết để… bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”. Như vậy, Điều 88 của Bộ luật Hình sự quy định về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là cụ thể hóa Điều 69 của Hiến pháp và hoàn toàn phù hợp với Khoản 3 Điều 19 của Công ước Quốc tế các quyền chính trị, dân sự (1966) mà Việt Nam đã tham gia năm 1982”.

Như mọi người đã thấy, sau câu “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” và câu “có quyền được thông tin” tại Điều 69 của Hiến pháp là dấu “;” (chấm phẩy), tức là nghĩa của các câu này trọn vẹn. Nói cách khác, các quyền con người – quyền công dân này không bị ràng buộc bởi bất cứ quy định pháp luật nào khác. Thế nhưng Tòa án tối cao đã làm đậm câu “theo quy định của pháp luật” với ý “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật” để từ đó nói “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là quy định của pháp luật mà công dân phải tuân theo khi thực hiện các quyền trên. Tóm lại, chỉ riêng việc Tòa án tối cao cố ý xuyên tạc lời văn của Điều 69 Hiến pháp cũng đã đủ triệt tiêu lập luận “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là “cụ thể hóa Điều 69 của Hiến pháp” của chính cơ quan tư pháp tối cao này, đồng nghĩa Điều 88 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ pháp lý nên phải xuyên tạc Hiến pháp để hỗ trợ!

Vả lại, cứ cho là Hiến pháp quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật” thì Điều 88 Bộ luật Hình sự quyết không thể là quy định pháp luật mà công dân phải tuân theo, bởi không pháp luật nào lại bắt công dân tuân theo tội phạm cả! Thật vậy, nếu thay “theo quy định của pháp luật” bằng Điều 88 Bộ luật Hình sự thì sẽ có “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Thật không thể điên khùng hơn! Còn nếu Tòa án tối cao cho rằng “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là cụ thể hóa các quyền của con người – quyền công dân quy định tại Điều 69 Hiến pháp – thì quan điểm này của cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hơn cả điên khùng, là phản pháp luật đến cùng cực vì đã biến các “quyền” của công dân thành “tội phạm”!

Chưa hết, chính Khoản 3 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự mà Tòa án tối cao đã dẫn để biện minh cho sự tồn tại của “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, oái oăm thay, lại có tác dụng “gậy ông đập lưng ông” phủ định chính tội danh này. Thực vậy, như mọi người đã thấy, theo quy định này của Công ước, để bảo vệ an ninh quốc gia… quyền tự do ngôn luận và các quyền có liên quan có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, với điều kiện này phải được quy định trong pháp luật. Thế nhưng trong pháp luật của Việt Nam đã không có quy định nào hạn chế quyền tự do ngôn luận và các quyền có liên quan. Còn Điều 88 Bộ luật Hình sự dứt khoát không phải là quy định pháp luật hạn chế quyền tự do ngôn luận và các quyền có liên quan như trên đã chứng minh. Nói cách khác “Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” chỉ có thể tồn tại sau khi pháp luật đã có quy định “cấm tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” vì tội danh được định ra là để xử lý bằng biện pháp hình sự hành vi vi phạm, điều mà pháp luật cấm. Thế nhưng quy định “cấm tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sẽ không bao giờ có thể “xuất đầu lộ diện” trong pháp luật Việt Nam vì nó hoàn toàn trái với quy định “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp” tại Khoản 1 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự mà Việt Nam là thành viên.

Kết luận lại, “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” phải bị xóa bỏ vì hoàn toàn trái với Khoản 1 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền chính trị, dân sự mà Việt Nam là thành viên và Điều 69 Hiến pháp Việt Nam!

Cũng cần nói thêm rằng chính quyền cộng sản cấm báo chí tư nhân trong khi thực chất của quyền tự do báo chí là cá nhân hay tư nhân được ra báo chí. Bản thân khái niệm “tự do” xuất phát và gắn liền với khái niệm “cá nhân”, hay nói cách khác, “cá nhân” không tồn tại thì “tự do” không tồn tại!

Về quyền lập hội, quyền biểu tình của công dân, các quyền này chỉ có thể được pháp luật bảo hộ sau khi các quyền này được luật hóa như quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992. Thế nhưng cho đến nay, đã 21 năm trôi qua, Luật về Hội và Luật Biểu tình vẫn chưa được ban hành, đồng nghĩa với quyền lập hội, quyền biểu tình “có cũng như không”, hay nói đúng hơn các hội, các cuộc biểu tình ở Việt Nam luôn ở trong tình trạng bất hợp pháp và vì vậy có thể bị chính quyền cộng sản dẹp bỏ bất cứ lúc nào và những người tổ chức luôn có thể bị chính quyền này khép vào “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân” quy định Điều 258 Bộ luật Hình sự, hay vào “Tội gây rối trật tự công cộng” quy định tại Điều 245 Bộ luật Hình sự.

Nhân đây cần khẳng định rằng “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân” là trái pháp luật vì “lợi dụng” không phải là hành vi vi phạm pháp. Pháp luật không chặt, hở, để ai đó lợi dụng thì đó là lỗi của các nhà làm luật. Nói cách khác, tội danh này được chính quyền cộng sản Việt Nam đặt ra là để loại bỏ chính các quyền tự do, dân chủ của công dân!

Cũng như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại Điều 70 Hiến pháp là không thực chất chừng nào còn Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng Cộng sản Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thực vậy, tín ngưỡng hay tôn giáo suy cho cùng đều là hệ tư tưởng và chủ nghĩa Mác – Lênin cũng là hệ tư tưởng. Do đó, một khi đã khẳng định tự tín ngưỡng, tự do tôn giáo thì đương nhiên tín ngưỡng, tôn giáo không thể bị “lãnh đạo” hay định hướng, điều khiển bởi hệ tư tưởng nào khác mà ở đây là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là chưa nói đến quan điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của chủ nghĩa Mác-Lênin, theo đó, những người cộng sản phải giải thoát nhân dân khỏi sự đầu độc của tôn giáo, tức coi tôn giáo là địch thủ, là đối tượng mà những người cộng sản phải trừ bỏ!

Về quy định “những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ” cũng tại Điều 70 Hiến pháp thì quy định này đồng nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo bị cấm cản, đàn áp khi nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo bị chính quyền bị xóa bỏ và chiếm đóng trái pháp luật. Cần khẳng định rằng nghĩa trang của giáo xứ là nơi thờ tự của đạo Thiên Chúa (Kitô giáo). Do đó, việc chính quyền Đà Nẵng năm 2009 đã chiếm lấy nghĩa trang của Giáo xứ Cồn Dầu và bỏ tù một số giáo dân do những người này đã đưa một số giáo dân khác vừa qua đời đến chôn ở nghĩa trang này là hành vi đàn áp tôn giáo không hơn không kém!

Lẽ dĩ nhiên còn rất nhiều quyền con người – công dân khác như quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tài sản đối với đất đai… bị chính quyền cộng sản xâm hại nghiêm trọng mà khuôn khổ của một bài viết không đủ để liệt kê đầy đủ. Tuy nhiên, một số dẫn chứng về việc chính quyền cộng sản xâm hại nghiêm trọng nhân quyền đã nêu ở trên cũng đã đủ để cho thấy chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa là điển hình của đàn áp nhân quyền!

4. Chủ nghĩa xã hội mang lại đói nghèo và tham nhũng

Trước hết phải khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản không gì khác hơn là kinh tế tư nhân đồng nhất với kinh tế thị trường, còn chủ nghĩa xã hội lại chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tức là xóa bỏ kinh tế tư nhân, xóa bỏ kinh tế thị trường thông qua “công hữu hóa tư liệu sản xuất” mà sản phẩm là các doanh nghiệp Nhà nước.

Thực tế ở Việt Nam cho thấy chủ nghĩa xã hội chỉ mang lại đói nghèo cho tuyệt đại đa số người dân, đẩy Việt Nam đến bờ vực phá sản với lạm phát 900% vào năm 1985 dẫn tới ăn mày đầy đường!

Để sống sót, từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiến hành “Đổi mới”, bước đầu đi theo chủ nghĩa tư bản bằng cách thừa nhận kinh tế tư nhân đồng nhất với kinh tế thị trường và “tự diễn biến hòa bình” từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản này đã cơ bản hoàn tất với việc Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức cho đảng viên làm kinh tế tư nhân vốn bị đảng này coi là “bóc lột”. Mặc dầu vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không chịu công khai thừa nhận sự phá sản của chủ nghĩa xã hội và để bao biện cho việc rốt cuộc đã phải thực hiện kinh tế thị trường – hiện thân của chủ nghĩa tư bản – đảng này đã biến báo kinh tế thị trường bằng cách gắn cho nó cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên sự bao biện này của Đảng Cộng sản Việt Nam là công cốc. Thực vậy, như đã nêu trên, “chủ nghĩa xã hội” hay “xã hội chủ nghĩa” đồng nhất với “xóa bỏ kinh tế thị trường”. Vậy khi thay “xã hội chủ nghĩa” trong “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” bằng “xóa bỏ kinh tế thị trường” thì ta có “kinh tế thị trường định hướng xóa bỏ kinh tế thị trường” ngớ ngẩn không kể xiết! Ngoài ra, chỉ riêng việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm các nước thuộc Liên hiệp Châu Âu (EU) đầu năm 2013 luôn khẩn khoản đề nghị các nước này công nhận Việt Nam có “nền kinh tế thị trường” chứ không phải “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng đã đủ cho thấy để tồn tại và phát triển trong thế giới ngày nay, Việt Nam không thể không từ bỏ chủ nghĩa xã hội!

Chủ nghĩa xã hội cũng đồng nhất với tham nhũng. Như trên đã đề cập, chủ nghĩa xã hội chủ trương quốc hữu hóa nền kinh tế. Nhà nước trực tiếp kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp nhà nước, nghĩa là nhà nước vừa là người quản lý đồng nhất với giám sát, kiểm soát tài sản quốc gia vừa là người sử dụng tài sản ấy, tức là làm cái chuyện “vừa đá bóng vừa thổi còi” theo cách nói dân gian. Nói cách khác, nhà nước không phải chịu bất cứ giám sát, kiểm soát nào trong việc sử dụng tài sản quốc gia và chính lỗ hổng thể chế này đã tạo ra tham nhũng – tham nhũng thể chế!

Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước là kênh chủ yếu để những người nắm giữ quyền lực Nhà nước, mà ở đây là các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tham nhũng tột mức bằng mọi thủ đoạn, làm đất nước điêu đứng, mà các vụ VINASHIN, VINALINES là những bằng chứng điển hình. Điều này lý giải vì sao Hiến pháp 1992 hiện hành vẫn khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, cơ bản là lỗ! Trong các lĩnh vực phi kinh doanh cũng vậy, tham nhũng tràn lan bởi sự độc quyền cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã loại trừ tính minh bạch trong sử dụng ngân sách Nhà nước. Tình hình nghiêm trọng đến mức ngay Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã phải thừa nhận tham nhũng chính là quốc nạn.

Kết

Hẳn có người đặt câu hỏi, chủ nghĩa xã hội quái vật như thế, gây hại, tàn phá con người và đất nước Việt Nam như thế thì phải chăng thống nhất đất nước vào 30-4-1975 dưới màu cờ đỏ sao vàng là sai lầm?

Như trước đây và ngay ở đầu bài viết này tôi đã nói thống nhất đất nước là khát vọng thiêng liêng của mọi người Việt Nam bất luận chính kiến và vì vậy 30-4-1975 là tất yếu của lịch sử, mà đã là tất yếu thì không thể sai lầm! Vấn đề là ở chỗ chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa đã không do nhân dân lựa chọn mà do Đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt. Để nói chủ nghĩa xã hội chống lại con người và quốc gia Việt Nam đã có thể loại trừ nếu như nhân dân Việt Nam đã có quyền quyết định chế độ cho chính mình.

Như Hiến pháp quy định, nhân dân là chủ nhân duy nhất của đất nước. Do đó, nhân dân, chứ không phải ai khác quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương nơi cư trú và nhân dân thực hiện sứ mệnh này hoặc trực tiếp bằng lá phiếu hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Trên tinh thần đó, những vấn đề quan trọng nhất của đất nước trong đó có chế độ chính trị được xác định trong Hiến pháp phải được nhân dân trực tiếp quyết định bằng hình thức bỏ phiếu về Dự thảo Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua với đa số tuyệt đối (2/3 số đại biểu Quốc hội), hình thức mà Hiến pháp 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nền Cộng hòa – gọi là phúc quyết của nhân dân về Hiến pháp. Nói cách khác, chừng nào Hiến pháp chưa được nhân dân trực tiếp làm ra dưới hình thức phúc quyết về Hiến pháp thì không thể nói nhân dân đã được quyền làm chủ đất nước hay là đã có dân chủ, càng không thể nói chế độ chính trị mà ở đây là chủ nghĩa xã hội đã được nhân dân Việt Nam lựa chọn. Tuy nhiên, có một thực tế là trong điều kiện chiến tranh thì quyền phúc quyết của nhân dân về Hiến pháp là không thể thực hiện được như trường hợp của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, điều này có nghĩa là trong điều kiện hòa bình thì không thể có lý do gì nhân dân không thực hiện chủ quyền cao nhất ấy của mình!

Thế nhưng như tất cả mọi người đều thấy, sau khi đất nước đã được thống nhất, hòa bình đã được lập lại vào 30-4-1975, nhân dân đã không được chính quyền cộng sản trao quyền phúc quyết về Hiến pháp, dù đó là Hiến pháp 1980 hay Hiến pháp 1992, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội hay chế độ xã hội chủ nghĩa chưa bao giờ là lựa chọn của nhân dân Việt Nam theo đúng nghĩa đen của từ này.

Kết luận lại, để thực sự trở thành chủ nhân của đất nước, quyết định vận mạng chính trị của chính mình thì nhân dân Việt Nam không có cách nào khác là phải trực tiếp làm Hiến pháp thông qua phúc quyết về Hiến pháp mới hoặc Hiến pháp sửa đổi. Điều này có nghĩa là Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau khi được Quốc hội thông qua với đa số tuyệt đối phải được đưa ra trưng cầu dân ý để nhân dân phúc quyết, trừ trường hợp vì lợi ích tối cao của Tổ quốc và nhân dân Việt Nam quyết định làm Dự thảo Hiến pháp mới để sau đó trình nhân dân quyết định.

Cho dù quái vật chủ nghĩa xã hội không phục thiện để trở thành người để câu chuyện 30-4-1975 có được cái kết có hậu như trong cổ tích “giai nhân và quái vật” thì sự tồn tại của giai nhân là báo hiệu sự xuất hiện của anh hùng để làm nên câu chuyện mới – câu chuyện “Anh hùng cứu Mỹ nhân”. Hẳn nhiên rồi, Anh hùng bao mong đợi ấy chính là Dân chủ bởi không thể nào khác được!

Một ngày không xa, “Dân chủ – Anh hùng” sẽ lên ngôi để cùng “Thống nhất đất nước – Giai nhân” làm nên câu chuyện tình đẹp nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Thực tế lịch sử cho phép ta được quyền tin như thế!

29/4/2013

 S.V.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Hòa hợp hòa giải dân tộc?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok. 2013-04-30

 Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này
Tổng Thống Dương Văn Minh (2) ngày 30-4-1975 ở Dinh Độc Lập. Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu (1) và nhà báo Bùi Tín (3).

Tổng Thống Dương Văn Minh (2) ngày 30-4-1975 ở Dinh Độc Lập. Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu (1) và nhà báo Bùi Tín (3).  File photo

Chưa bao giờ mà nhân ngày 30 tháng Tư cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như báo chí trong nước lại nhắc nhở về sự hòa hợp hòa giải dân tộc nhiều như năm nay. Chỉ dấu này cho thấy đã đến lúc cùng nghĩ lại những điều mà cả hai bên còn vướng mắc để đi đến xóa bỏ nỗi đau đã kéo dài gần bốn mươi năm qua. Mặc Lâm phỏng vấn Đại tá Bùi Tín, Phó tổng biên tập của báo Nhân Dân, người được xem là chứng nhân lịch sử trong ngày 30 tháng Tư năm 75 để tìm hiểu suy nghĩ của ông về ngày này 38 năm sau.

Tôi không hề nhận sự đầu hàng

Mặc Lâm: Xin cám ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vần này. Thưa ông, sau ba mươi tám năm không biết ông có còn nhớ cái cảm giác lúc ông cùng với đồng đội tiến vào Sài Gòn trong những ngày sau cùng ấy như thế nào?

Ông Bùi Tín: Những ngày đó tôi đang ở gần và càng ngày càng tiến gần về Sài Gòn với mọt niềm phấn khởi hết sức to lớn. Cùng với đồng đội bạn bè vì chiến tranh sắp kết thúc và đất nước có hòa bình, thống nhất cho nên có thể nói đó là những ngày vui sướng nhất tuy cuộc hành quân rất vất vả.

Mặc Lâm: Báo chí nhiều nước viết rằng ông là một nhân chứng lịch sử vì là người nhận sự bàn giao chính quyền từ ông Dương Văn Minh, thật hư việc này ra sao thưa ông?

Thật ra tôi không hề nhận sự đầu hàng. Ông Minh nói với tôi là ông muốn chuyển giao chính quyền nhưng tôi bảo tôi không có nhiệm vụ đó. Chính quyền của ông đã sụp đổ rồi thì ông không thể giao cái gì mà ông không có trong tay nữa. Cho nên trong thực tế không có chuyện Bùi Tín nhận bàn giao chính quyền

Ông Bùi Tín

Ông Bùi Tín: Nói rằng tôi là người nhận sự đầu hàng của ông Dương Văn Minh là nói thái quá và có một số nhà báo nước ngoài họ nhận định như thế bởi họ thấy sự kiện diễn ra. Thật ra tôi không hề nhận sự đầu hàng. Ông Minh nói với tôi là ông muốn chuyển giao chính quyền nhưng tôi bảo tôi không có nhiệm vụ đó. Chính quyền của ông đã sụp đổ rồi thì ông không thể giao cái gì mà ông không có trong tay nữa. Cho nên trong thực tế không có chuyện Bùi Tín nhận bàn giao chính quyền hay là Bùi Tín nhận sự đầu hàng của chính quyền Sái Gòn, điều đó không hề có và do một số nhà báo nước ngoài thêu dệt và tôi cũng không muốn lạm dụng để mà lợi dụng một danh nghĩa không có thật ấy.

Nhà báo Bùi Tín đang viết bài trong Dinh Độc Lập ;ngày 30 tháng Tư, 1975
Nhà báo Bùi Tín đang viết bài trong Dinh Độc Lập ;ngày 30 tháng Tư, 1975

Tôi chỉ nhận rằng tôi là người được chứng kiến, là một chứng nhân lịch sử của ngày 30 tháng Tư là một. Thứ hai, trên thực tế tôi là sĩ quan cao nhất mà cũng có thể nói là sĩ quan cao cấp duy nhất có mặt ở dinh Độc lập gặp chính phủ cũ của miền Nam vào cái ngày lịch sử đó. Nói như thế là đúng.

Mặc Lâm: Nhà báo Huy Đức đã phát hành tác phẩm Bên Tháng cuộc gây chấn động trong và ngoài nước vì hàng ngàn chi tiết lịch sử chưa được công bố, nhất là quyển một “Giải Phóng” có nhắc cả những ngày tiếp thu Dinh Độc lập. Là một nhân chứng sống ông đánh giá ra sao về tác phẩm và nếu được bổ xung thì ông sẽ thêm vào những biến cố hay con người nào?

Ông Bùi Tín: Tôi đánh giá rất cao cố gắng của nhà báo Huy Đức. Anh đã lao động nghề nghiệp một cách công phu kéo dài một thời gian và thu lượm được một khối đồ sộ tài liệu, tư liệu sống động, ta phải công nhận điều đó. Nhưng dù sao anh chỉ là một con ngườì, hai nữa anh thu lượm tài liệu một cách gián tiếp, không trực diện mắt thấy tai nghe cho nên dù sao cũng rơi rụng đi nhiều, thiếu sót không phải là ít. Tôi đọc “Bên thắng cuộc” thấy rất nhiều những chi tiết sai, thế nhưng anh ấy không biết thì tôi nghĩ ta phải châm chước vì nói chung cái mà anh làm được rất đồ sộ. Nhưng lịch sử nó to lớn lắm một con người làm sao bao quát được hết? Tôi muốn bổ xung cho anh ấy là đánh giá cuộc chiến này mà không nói gì tới ông Hồ Chí Minh thì đấy là một lổ hỗng rất lớn mà anh Huy Đức cũng không có sức để mà làm.

Tôi thất vọng ngay sau những ngày đầu vì không có được những hòa giải và hòa hợp. Một số những anh em bà con với tôi trong miền Nam cũng bị đi cải tạo.

Ông Bùi Tín

Thất vọng ngay những ngày đầu

Mặc Lâm: Quay trở lại với ngày 30 tháng Tư năm 1975, sau khi tiếp thu miền Nam có điều gì làm cho ông thất vọng hay không trong khi niềm sung sướng chấm dứt chiến tranh và chiến thắng miền Nam vẫn đang rất hưng phấn?

Nhà báo Bùi Tín và Tướng CSVB Nam Long trưa 30-4-1975 ở Dinh Độc Lập
Nhà báo Bùi Tín và Tướng CSVB Nam Long trưa 30-4-1975 ở Dinh Độc Lập. File photo

Ông Bùi Tín: Tôi thất vọng ngay sau những ngày đầu vì không có được những hòa giải và hòa hợp. Một số những anh em bà con với tôi trong miền Nam cũng bị đi cải tạo. Tôi có ông anh con ông bác ruột là chủ tịch của Giám sát viện của miền Nam cũng phải đi tập trung cải tạo mấy năm, điều đó làm cho tôi có thể nói là niềm cay đắng kéo dài cho tới mấy năm sau đó.

Mặc Lâm: Trong thời gian gần đây báo chí trong nước và hầu như các trang mạng xã hội nói rất nhiều đến hòa giải hòa hợp, ông nhận xét gì về hiện tượng này?

Ông Bùi Tín: Có người nói 30 tháng Tư là ngày hàng triệu người vui và cũng hàng triệu người buồn. Thế nhưng tôi nghĩ cái vui cái buồn đó tương đối và nó có những chuyển động của nó. Riêng đến năm nay niềm cay đắng của tôi dã bớt đi rất nhiều và thay vào đó là niềm vui. Ngày 30 tháng Tư năm nay tôi có thể nói với anh và các bạn nghe đài RFA rằng năm nay tôi vui lắm và tôi lạc quan. Lạc quan với vui vì thời cuộc trong nước ta đang có những thay đổi tuy chưa phải là thay đổi to lớn, nhảy vọt nhưng nó tiệm tiến và nó đi đến cái thay đổi cơ bản.

Vượt qua tư tưởng quá khích để đến với nhau

Mặc Lâm: Ông có nghĩ rằng Bộ Chính trị sẽ có một động thái nào đó trước nhu cầu hòa hợp hòa giải để tiến đến xóa bỏ lằn ranh thù hận đã hiện hữu quá lâu hay không, và theo ông họ phải làm gì?

Tôi nghĩ là phải vượt qua những tư tưởng quá khích đó để đến với nhau như anh em ruột thịt. Bình đẳng nhìn đến tương lai chứ không phải chỉ quay về quá khứ thì mới có thể thực hiện được hòa hợp và hòa giải số đông đồng bào trong và ngoài nước

Ông Bùi Tín

Ông Bùi Tín: Tôi không tin cái Bộ Chính trị hiện nay nghĩ đến hòa giải và hòa hợp. Phải thay đổi, có khi phải thay lãnh đạo thì mới có thể có tư duy mới để mà thực hiện hòa giải hòa hợp đã lỡ mất đến 38 năm. Còn việc phải làm gì để hòa giải hòa hợp thì nhiều lắm. Ví dụ như từ nay trở đi đừng  gọi miền Nam là “ngụy” nữa. Sửa cả những văn kiện lịch sử đừng nói là bán nước nữa vì miền Nam có những cách yêu nước riêng của họ và đừng gọi là ngụy nữa vì đây là anh em ruột thịt với nhau, mỗi bên có đường lối khác nhau. Ví dụ như cho anh em cũ ở miền Nam trở về sửa sang lại nghĩa trang Biên Hòa chẳng hạn. Như vậy sẽ là những cái hòa hợp hòa giải thiết thực

Hiện nay còn có những người bị tù 38 năm rồi vẫn còn trong tù, tôi nghĩ phải thả họ ra và nhân đó phải trả lại tự do cho tất cả anh chị em đấu tranh cho dân chủ. Từ anh Cù Huy Hà Vũ cho đến nhà báo Điếu Cày và một số anh em gần đây bị tuyên án. Phải trả tự do cho tất cả. Đó là biểu hiện của hòa hợp hòa giải. Thế nhưng tôi thấy lãnh đạo hiện nay đã quá sức của họ. Bây giờ họ tham nhũng quá rồi cho nên họ không muốn nhả ra nữa. Họ không muốn trả lại những gì họ đã lấy của nhân dân. Họ đã ăn cắp, ăn cướp đất đai tiền bạc của nhân dân cho nên họ không nghĩ tới hòa hợp hòa giải được nữa, đã quá muộn rồi.

Hiện nay đã có hòa giải hòa hợp nhưng không phải từ những người lãnh đạo. Hiện nay trong hàng ngũ dân chủ, hàng ngũ đòi tự do đã nảy ra những điều hòa hợp hòa giải, bắt tay với những anh em dân chủ ngoài nước để mà hỗ trợ lẫn nhau đó mới là cái hòa hợp hòa giải quý báu. Tất nhiên ở ngoài hay ở trong gì cũng đều có những tư tưởng quá khích nhưng tôi nghĩ là phải vượt qua những tư tưởng quá khích đó để đến với nhau như anh em ruột thịt. Bình đẳng nhìn đến tương lai chứ không phải chỉ quay về quá khứ thì mới có thể thực hiện được hòa hợp và hòa giải số đông đồng bào trong và ngoài nước

Mặc Lâm: Xin cảm ơn ông.

Chính sách quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước bị chỉ trích

Vàng miếng được bày bán tại một cửa hảng ở Zurich, Thụy Sĩ. Rất nhiều vàng đã được nhập vào Việt Nam do chênh lệch giá trong thời gian qua.

Vàng miếng được bày bán tại một cửa hảng ở Zurich, Thụy Sĩ. Rất nhiều vàng đã được nhập vào Việt Nam do chênh lệch giá trong thời gian qua. Reuters

Chuyện các tờ báo chính thức ở Việt Nam lỡ đăng thông tin « nhạy cảm », sau đó buộc phải gỡ xuống, là chuyện chẳng có gì mới mẻ. Thế nhưng, sự kiện Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phản ứng rất mạnh đối với bài báo « Rửa » vàng bằng cơ chế của tờ Thanh Niên, đăng trên mạng ngày 24/4, khiến tờ báo này phải vội vã rút bài xuống và hôm sau đăng đính chính trên báo in, đã khiến mọi người chú ý, bởi vì sự kiện này đặt nhiều dấu hỏi về chính sách quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Bài báo nói trên của tờ Thanh Niên trích dẫn các số liệu của Hiệp hội Vàng thế giới về tổng nhu cầu vàng của Việt Nam trong hai năm 2011 và 2012 để phân tích và đi đến kết luận rằng các chính sách xuất nhập và chuyển đổi vàng khác sang vàng thương hiệu độc quyền của Ngân hàng Nhà nước, tức vàng SJC, trong thời gian qua cho thấy có khả năng « trục lợi chính sách để « rửa » số tiền nhập lậu khổng lồ đã tràn vào Việt Nam »

Tuy tờ Thanh Niên không nêu đích danh Ngân hàng Nhà nước, nhưng ngay sau khi bài báo được đăng trên mạng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã mở họp báo trong ngày 24/4, bác bỏ hoàn toàn nội dung bài báo của tờ Thanh Niên. Theo khẳng định của Ngân hàng Nhà nước, thông tin cho rằng chủ trương tạm xuất, tái nhập vàng là nhằm hợp pháp hóa vàng nhập lậu là « hoàn toàn không có căn cứ, cố ý bóp méo chính sách của Nhà nước ». Ngân hàng Nhà nước nói thêm là số liệu về nhu cầu vàng của Việt Nam nêu trong báo cáo thường niên của Hiệp hội Vàng thế giới chỉ là con số dự tính, chứ không phải số liệu về lượng vàng nhập khẩu hàng năm của Việt Nam.

Trước phản ứng của Ngân hàng Nhà nước, tờ Thanh Niên ngay trong ngày hôm đó đã gỡ bài báo nói trên khỏi mạng và ngày hôm sau, 25/04, đã phải đăng đính chính trên báo in. Tờ báo này thanh minh rằng tác giả bài báo “hiểu chưa đúng về các thuật ngữ nên đã nhầm lẫn, dẫn tới sai sót khi phân tích về giao dịch vàng trong nước.” Cụ thể, theo Hiệp hội Vàng thế giới thì nhu cầu giao dịch vàng nữ trang của Việt Nam trong năm 2011- 2012 là 25,5 tấn, trị giá 1,3 tỷ đô la, nhưng tác giả bài viết đã “hiểu không chính xác”, nên cho rằng đây là số vàng nhập khẩu, để kết luận sau đó rằng đã có nhập lậu 25,5 tấn vàng nữ trang vào thị trường nội địa trong 2 năm 2011- 2012.

Nhưng dù có lời đính chính của Thanh Niên, Ngân hàng Nhà nước vẫn có một hành động bất thường, đó là gởi công văn yêu cầu Tổng cục an ninh 2 của Bộ Công an điều tra về vụ « Báo Thanh Niên đăng tin sai lệch về chính sách quản lý thị trường vàng », như thể là tờ báo này đã đe dọa đến an ninh quốc gia !

Những lời phản bác, cũng như hành động nói trên của Ngân hàng Nhà nước càng khiến người ta phải đặt nghi vấn về chính sách quản lý vàng của ngân hàng này, trong bối cảnh mà giá vàng trong nước vẫn cao hơn nhiều so với giá của thế giới và quy luật cung cầu tất yếu dẫn đến việc vàng được nhập nhiều vào thị trường Việt Nam và dĩ nhiên trong số đó không thể loại trừ có vàng nhập lậu.

Trên thực tế đã bắt đầu có những thông tin xác nhận việc nhập lậu vàng. Theo báo chí trong nước ngày 26/04, Công an tỉnh Điện Biên ngày 19/4 vừa qua đã bắt giữ hai người vận chuyển 15kg vàng lậu từ Lào về Việt Nam. Rất có thể đây chỉ là một trong vô số vụ buôn lậu vàng, bởi vì Việt Nam có chung đường biên giới cả ngàn km với các nước láng giềng như Lào và Cam Bốt, làm sao công an có thể ngăn chận hết được.

Báo chí trong nước những ngày qua đã có nhiều bài gián tiếp hoặc trực tiếp chỉ trích chính sách quản lý thi trường vàng, cho nên phải chăng thông qua chuyện bài báo bị xem là “cố ý bóp méo chính sách của Nhà nước” của tờ Thanh Niên, chính quyền Việt Nam muốn răn đe các báo khác rằng đừng tiếp tục đụng vào đề tài nhạy cảm này?

Chính sách “tạm xuất tái nhập”, cũng như những phiên đấu giá vàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho tới nay vẫn chưa đạt được tác dụng mong muốn, đó là kéo giá vàng trong nước xuống ngang bằng với giá vàng thế giới. Trên báo Pháp luật TP HCM (25/4), tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã nhận định : “Có thể nói tất cả các chính sách điều hành về thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước áp dụng đến nay đã thất bại hoàn toàn”. Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh, thị trường vàng “đã rơi vào giai đoạn nguy cấp, bởi hễ một mặt hàng nào có chênh lệch giá từ 5 triệu đồng trở lên, thì không có lực lượng hải quan nào quản nổi.”

Về phần chuyên gia kinh tế, tiến sĩ Nguyễn Thị Hiền, cũng được tờ Pháp luật TP HCM trích dẫn, thì chỉ trích phản ứng quá mạnh của Ngân hàng Nhà nước đối với tờ Thanh Niên. Bà cho rằng: “Sự phê phán về tình trạng độc quyền trong nhập khẩu vàng nguyên liệu, chế tác và đấu giá vàng miếng và kiến nghị Ngân hàng Nhà nước trả lại vàng cho thị trường đều có cơ sở, có căn cứ và cần được lắng nghe thấu đáo”,

Mặc dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có sức bào chữa, chính sách quản lý thị trường vàng của ngân hàng này đã có quá nhiều điểm bất cập, phi lý, đến mức mà chính phủ Hà Nội đã phải lập một đoàn thanh tra, để thanh tra Ngân hàng Nhà nước về các hoạt động trên thị trường vàng trong khoảng thời gian từ 01/2009 đến 03/2013.

Với một nền kinh tế bị “vàng hóa” như Việt Nam, tức là nền kinh tế mà vàng gần như là một thứ ngoại tệ để trao đổi, thanh toán, sự bất ổn định của thị trường vàng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nói chung.

Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn với tiến sĩ Nguyễn Quang A về đề tài này:

TS Nguyễn Quang A    28/04/2013

Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha sẽ ra tòa ngày 16/5 Hải Huỳnh

Hải Huỳnh (Danlambao) – Tin cho biết, phiên toà xét xử hai sinh viên yêu nước là Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha sẽ diễn ra vào ngày 16/5/2013 sắp tới, tại trụ sở tòa án tỉnh Long An. Cả hai sinh viên cùng bị cáo buộc ‘Tuyên truyền chống phá nhà nước’ theo điều 88 BLHS, trong đó có việc rải truyền đơn chống Trung Quốc xâm lược.

Dự kiến, chủ tọa phiên tòa là ông Lê Quốc Hùng, hiện đang là Phó Chánh án tòa án tỉnh Long An, Kiểm sát viên giữ quyền công tố là ông Huỳnh Văn Hoàng.

Có 3 luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi cho 2 sinh viên yêu nước là :

1. Luật sư Nguyễn Văn Miếng, văn phòng luật sư Hồng Đức thuộc Đoàn luật sư thành phố bào chữa cho sinh viên Đinh Nguyên Kha

2. Luật sư Nguyễn Thanh Lương, Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre tham gia bào chữa cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên

3. Luật sư Hà Huy Sơn, Đoàn luật sư Hà Nội tham gia bào chữa cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên.

Phiên tòa dự kiến sẽ diễn ra trong 1 ngày, nhưng nhiều thông tin khẳng định chắc chắn rằng thời gian xét xử sẽ bị “nén” xuống thành 1 buổi.

Phía đại diện các cơ quan nước ngoài thì hiện nay chỉ mới có Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã đăng ký với tòa án tỉnh Long An để đến tham dự phiên tòa này.

Cho đến thời điểm hiện nay thì Phương Uyên đã gặp luật sư được 2 lần. Trong lần mới đây nhất thì cô và luật sư trao đổi thắng thắn hơn. Dù có công an trại giam theo dõi suốt buổi gặp mặt nhưng tinh thần Phương Uyên rất mạnh mẽ và cô yêu cầu bào chữa theo hướng không có tội.

Trong khi đó, sinh viên Đinh Nguyên Kha trước đó đã bị ‘trích xuất’ lên Bộ Công An, bị đưa về giam giữ tại trại giam B14 (Sài Gòn) với lý do để điều tra cái gọi là ‘hành vi khủng bố’.

Hải Huỳnh 

danlambaovn.blogspot.com

* Theo một văn bản được phổ biến trên trang Dân Luận, hôm 27/4, luật sư Nguyễn Thanh Lương đã chính thức gửi đơn yêu cầu xem xét, xử lý việc Phương Uyên bị đánh trong trại giam của CA Long An:

________________________________

30 tháng Tư trong thế giới mạng

Sự kiện 30/04 được chính quyền nói đế́n nhiều trên phương tiện truyền thông nhà nước và cũng là chủ đê bảo chí tiếng Việt tại hải ngoại khai thác, nhưng gần đây có thêm sự tham gia nhiều và mạnh hơn của cư dân mạng.

Là trang thu hút hàng chục triệu người Việt trong nước và ở nước ngoài sử dụng, Facebook, mạng xã hội từng bị chặn tại Việt Nam, đang xuất hiện các thông điệp tương đối trái chiều để đánh dấu sự kiện 30/04.

Tờ Bấm Dân Trí có bài mô tả rằng “các bạn trẻ treo trên tường nhà cùng với việc thay avatar hình lá cờ đỏ sao vàng Việt Nam”.

“Cộng đồng mạng còn hạ quyết tâm “nhuộm đỏ” Facebook với sự xuất hiện của quốc kì, đó không chỉ là trào lưu mà là hành động thiết thực thể hiện tình yêu với quê hương đất nước,” bài báo của Dân Trí viết.

Trong khi đó Bấm Đốp Catherine có bài ‘30/4 – anh hỏi em nghĩ gì?’ trên Facebook được khá nhiều người tán thưởng.

Tác giả bình luận “Những ngày này em lên facebook, những avatar cờ vàng ba sọc đỏ xen lẫn với avatar cờ đỏ sao vàng. Những ngày này, người ta đang tranh cãi nhau nên gọi nó là ngày gì: giải phóng hay quốc hận”.

‘Giải phóng’

Biểu tình “Ngày Quốc Hận” chiều 27/04/13 tại Place du Trocadéro, Paris.

“Em đã đọc về Sài Gòn trước 75, em đã thấy những hình ảnh của một Sài Gòn phồn thịnh, tự do nên em không thể coi đó là ngày giải phóng.

“Em sinh sau đẻ muộn, em biết chuyện hàng ngàn người bỏ mạng ngoài biển khơi, em hiểu nỗi đau của những người còn sống sót và đến được bến bờ tự do nhưng em không muốn mang chữ hận thù bên cạnh mình.

“Em sẽ gọi nó là ngày tang thương, dù thực ra, cuộc tang thương của đất nước mình bắt đầu trước đó cả ba mươi năm”, tác giả viết.

Trong khi đó từ Đại học Harvard, nhà báo Huy Đức, tác giả cuốn “Bên Thắng Cuộc” dẫn lời Thủ tướng Thái Lan nói “Chúng tôi tự hào vì không phải đánh nhau với đế quốc to nào cả” khi đáp lại câu “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to” của cố Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt khi ông thăm nước này vào năm 1991.

Trong một entry ngắn trên Facebook, Bấm Huy Đức dẫn lời cố Chủ tịch Hồ ChíMinh nói: “Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc, thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa”.

“Nếu những người cộng sản tin những gì mình đã làm là cao cả thì nên chiểu theo “lời dạy của Hồ Chí Minh”, thấy cái gì dân chưa có tự do thì trả tự do cho dân, thấy cái gì dân chưa hạnh phúc thì để cho dân mưu cầu hạnh phúc”

Nhà báo Huy Đức

Nhà báo có nhiều người hâm mộ trên Facebook viết tiếp “Ngày 30-4-1975, cũng có thể coi là ngày chiến thắng nhưng nó chỉ mới là chiến thắng của những người cộng sản”.

“Cho dù đã sau 38 năm, theo tôi, vẫn có thể tạm gác lại chuyện đánh giá bản chất của cuộc chiến tranh.

“Nếu những người cộng sản tin những gì mình đã làm là cao cả thì nên chiểu theo “lời dạy của Hồ Chí Minh”, thấy cái gì dân chưa có tự do thì trả tự do cho dân, thấy cái gì dân chưa hạnh phúc thì để cho dân mưu cầu hạnh phúc.

“Cái ngày mà đảng cộng sản Việt Nam làm được điều đó xin cứ gọi là ngày giải phóng và chắc chắn sẽ có không ít người dân cũng coi đó là ngày chiến thắng”, nhà báo Huy Đức bình luận trên Facebook của mình.

Con em ‘chế độ cũ’

“38 năm- Nhà nước của một nửa” của Ngô Minh là bài viết được phát tán khá nhiều khác trên mạng.

Tác giả mở bài nói “Cứ nghĩ đến đất nước từ sau năm 1975 đến nay, đã 38 năm gọi là “thống nhất” nhưng thực tế lòng người chưa về một mối”.

Người dân tại cả hai bên chiến tuyến đều chịu thiệt hại về người và của trong Cuộc chiến Việt Nam.

“Thực tế vẫn tồn tại hai loại người: Người phe của cách mạng và người thuộc phe “ngụy quân ngụy quyền”. Hai “loại người” cùng sống trong một làng, ấp, xã này khác biệt nhau từ ý thức hệ đến những chế độ chính sách cụ thể hàng ngày.

“Những phân biệt đối xử như vậy khiến người dân liên quan đến “ngụy quân ngụy quyền” cứ nghĩ: Nhà nước này là nhà nước của những người cách mạng, không phải nhà nước của mình. Nghĩa là nhà nước của một nửa,” tác giả viết.

Bài viết mô tả về sự phân biệt đối xử với “con em ngụy quân ngụy quyền, những người làm việc dưới chế độ cũ” và cáo buộc điều tác giả gọi là có một loại “nhà nuớc một nửa khác”.

“Đó là nhà nước ra tay ủng hộ bọn cướp đất của dân, điều động cảnh sát , quân đội trấn áp nhân dân để cho bọn cướp đất làm giàu như ở Tiên Lãng, Văn Giang. Ở Tiên Lãng, người nông dân bị hại đứng lên chống lại bọn cướp thì bị xử tù nặng hơn bọn cướp. Nghĩa là nhà nước là nhà nước một nửa, nhà nước của quan chức tham nhũng”, tác giả nhận xét.

Phải nói thẳng rằng, 38 năm qua, nhà nước cầm quyền đã không có được một chính sách xã hội thích đáng để hàn gắn vết thương lòng của dân tộc, tạo nên sự hòa họp, hòa giải dân tộc, mà nhiều khi còn làm cho tình trạng bất hòa tăng lên.

“Tôi tin chả có thế lực thù địch nào bên ngoài, nguy hiểm bằng chính sự tha hóa ở bên trong đang làm mục ruỗng đất nước mình”

Phương Bích

Tôi cứ nghĩ, nếu cứ tiếp tục quản lý đất nước theo ý thức hệ “địch–ta” như thế này thì đến trăm năm nữa người Việt cũng không hòa giải dân tộc được.

Còn công dân mạng k‎y tên Phương Bích thì lấy nguồn cảm hứng từ bài thơ “Đất nước, những năm tháng thật buồn” của ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001-2006) để viết bài “Hòa giải dân tộc cũng là chuyện của người Việt trong nước” vì điều tác giả gọi là ông Điềm đã “nói hộ tâm tư của không ít người, trong đó có cả tôi”.

“Ít nhất đã có nhiều người ở cả hai phía của cuộc chiến trước đây, giờ trở thành bạn bè thân thiết qua mạng. Họ đều có chung một khao khát cho đất nước, sau ngần ấy năm đau khổ vì chiến tranh và ly tán, nay phải được bình yên và hạnh phúc.

“Tôi tin chả có thế lực thù địch nào bên ngoài, nguy hiểm bằng chính sự tha hóa ở bên trong đang làm mục ruỗng đất nước mình,…

“Chuyện hòa giải không còn là của riêng người Việt trong nước và người Việt tha phương, mà chính người Việt trong nước cũng cần hòa giải với nhau. Nếu không cố gắng tìm tiếng nói chung, vô hình chung chúng ta càng đẩy mình ra xa nhau,” tác giả Phương Bích viết.

Cải cách chính trị để giữ chủ quyền

Hội thảo ở Quảng Ngãi

Hội thảo Quốc tế ‘Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – khía cạnh lịch sử và pháp lý’ vừa được tổ chức tại Quảng Ngãi hôm 27/4.

Hội thảo này có sự tham gia của khoảng 50 học giả, nhà nghiên cứu quốc tế, trong đó có những tên tuổi như Giáo sư Carlyle Thayer, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, Giáo sư Renato Cruz DeCastro, …

Tiến sỹ Jonathan London từ trường City University of Hong Kong, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, cũng mang đến hội thảo một tham luận mà ông cùng soạn thảo với Tiến sỹ Vũ Quang Việt [ông Việt không có mặt trong hội thảo], trong đó hai ông đề cập tới nhu cầu cải cách chính trị để hễ trợ vấn đề chủ quyền.

BBC đã hỏi chuyện Tiến sỹ London về hội thảo.

Tiến sỹ Jonathan London: Tôi đánh giá cao kết quả của hội thảo này. Trong hội thảo các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều bằng chứng rõ ràng về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa và đã thảo luận rất cụ thể về các đòi hỏi phi pháp và bất chính đáng của Trung Quốc đối với Biển Đông.

Sự vắng mặt của các học giả Trung Quốc tại đây, theo tôi thì có cả mặt lợi và không có lợi, vì chúng ta không được nghe và thảo luận về các bằng chứng của TQ nhưng cũng tránh được các cãi cọ nảy sinh do lý luận tuyên truyền của các học giả của nước này.

Tôi đã nêu rõ trong hội thảo ba vấn đề: nhu cầu cần làm rõ các bằng chứng và lý luận về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo ở Biển Đông.

Thứ hai là quảng bá các bằng chứng đó cho thế giới thấy.

“Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để chọn con đường cải cách, đẩy mạnh cải cách chính trị để thu hút hậu thuẫn cho chủ quyền của mình ở Biển Đông.”

Tiến sỹ Jonathan London

Thế nhưng thứ ba, cũng cần thấy rằng Trung Quốc là nước mạnh, có trong tay vũ khí hùng hậu và hung hăng trong tư cách một đế quốc. Nó dẫn tới câu hỏi Việt Nam phải làm gì.

Trung Quốc, như đã nói là một quốc gia lớn, mạnh, quan trọng… và cũng rất tự hào dân tộc. Người Trung Quốc không dễ gì chịu ‘mất mặt’ trước thế giới. Việt Nam do vậy phải tìm ra phương cách làm sao để vừa có cơ sở pháp lý vừa được Trung Quốc chấp nhận.

Một số nhà nghiên cứu, như bản thân tôi, cho rằng Việt Nam cần duy trì quan hệ hai bên cùng có lợi với Trung Quốc [ngay cả trong quá trình đấu tranh về chủ quyền].

BBC: Một phần tham luận được biết là gây tranh luận của ông có nhắc tới khuyến cáo chính trị trong vấn đề chủ quyền?

Tiến sỹ Jonathan London: Bài tham luận của tôi và Tiến sỹ Vũ Quang Việt có phần cuối cùng tập trung vào giải pháp trong vấn đề chủ quyền: làm gì và làm thế nào.

Tôi có nhắc lại tại hội thảo một câu nói của ai đó không rõ, rằng “theo Mỹ thì mất chế độ còn theo Trung Quốc thì mất nước”.

Ngoài hai phương án trên, phương án thứ ba là thế nào? Quan điểm của chúng tôi là nếu Việt Nam muốn giành được sự ủng hộ của quốc tế thì nên đẩy mạnh cách cải cách về chính trị và nhân quyền.

Chừng nào Việt Nam còn bắt giữ, đàn áp, hạn chế tự do ngôn luận thì ít quốc gia nào trên thế giới ủng hộ Việt Nam. Nếu Việt Nam thay đổi theo chiều hướng cởi mở như vậy thì Việt Nam sẽ giành được sự ủng hộ của quốc tế, có thế mạnh trong vẫn đề chủ quyền.

BBC: Sau khi trình bày tham luận thì phản ứng của cử tọa như thế nào, thưa ông?

Tiến sỹ Jonathan London: Có ba phản ứng. Một số học giả nước ngoài biết nhiều về Việt Nam thì cảnh báo: “Có muốn về Việt Nam nữa không?”. Một số thuộc ban tổ chức thì nói rằng không nên tham luận như vậy và không nên đề cập vấn đề ngoài lề như vậy.

Ông London trên Truyền hình Việt NamTiến sỹ Jonathan London giảng dạy tại City University of Hong Kong

Nhưng cũng có người tới gặp tôi và cảm ơn vì đây là chủ đề quan trọng cần được nói tới.

Cả tôi và ông Vũ Quang Việt đều không thể hoàn toàn chắc chắn tất cả những điều chúng tôi đưa ra đều đúng 100% nhưng đóng góp của chúng tôi là để góp phần giúp Việt Nam giải quyết vấn đề chủ quyền.

Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để chọn con đường cải cách, đẩy mạnh cải cách chính trị để thu hút hậu thuẫn cho chủ quyền của mình ở Biển Đông.

Tôi còn đề cập tới Kiến nghị 72 của các trí thức nhân sỹ về sửa đổi Hiến pháp trong phần trình bày của mình, đề nghị Nhà nước Việt Nam cân nhắc các đề xuất của Nhóm 72 để làm sao có một hệ thống hiệu quả, minh bạch hơn và có trách nhiệm hơn với các công dân của mình.

Tôi nghiên cứu về Việt Nam đã 20 năm nay. Sau 20 năm nghiên cứu sâu về Việt Nam, tôi thấy tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông thực ra có liên quan tới nền kinh tế-chính trị của Việt Nam.

Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?

LS Nguyễn Văn Đài. BBC từ Hà Nội, 29 tháng 4, 2013

Người vui, người buồn trong dịp 30/4

Mỗi dịp 30-4 hàng năm, tôi lại nhận được câu hỏi của những người đồng bào Việt Nam ở hải ngoại là “anh nghĩ và có cảm xúc gì khi sắp tới ngày 30-4?”. Tôi lại có dịp kể cho họ nghe về suy nghĩ và cảm xúc của mình.

Từ nhỏ cho đến năm mười chín tuổi, mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi đó là ngày chiến thắng và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế.

Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức (cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.

Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ cộng sản.

Hoài nghi, nuối tiếc

Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.

“Nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.”

Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975, trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,… và trên mọi cấp độ từ trung ương đến địa phương.

Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.

Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”

Tôi trả lời: Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.

Bài phản ánh quan điểm và văn phong của riêng tác giả, một luật sư bất đồng chính kiến sống tại Hà Nội.

In Hard Times, Open Dissent and Repression Rise in Vietnam

By

Justin Mott for the International Herald Tribune

A slum in Ho Chi Minh City, Vietnam. Wide dissatisfaction has followed the boom of the 1990s.

Published: April 23, 2013 94 Comments

HO CHI MINH CITY, Vietnam — His bookshelves are filled with the collected works of Marx, Engels and Ho Chi Minh, the hallmarks of a loyal career in the Communist Party, but Nguyen Phuoc Tuong, 77, says he is no longer a believer. A former adviser to two prime ministers, Mr. Tuong, like so many people in Vietnam today, is speaking out forcefully against the government.

Follow @nytimesworld for international breaking news and headlines.

Twitter List: Reporters and Editors

Justin Mott for the International Herald Tribune

Apartments are crowded next to a railroad track in Ho Chi Minh City. Unemployment and other economic woes have emerged, but the economy is still growing.

Justin Mott for the International Herald Tribune

“If the system is not fixed, it will collapse on its own.” NGUYEN PHUOC TUONG, a Marxist scholar who was adviser to two Vietnamese prime ministers

Readers’ Comments

Readers shared their thoughts on this article.

“Our system now is the totalitarian rule of one party,” he said in an interview at his apartment on the outskirts of Ho Chi Minh City. “I come from within the system — I understand all its flaws, all its shortcomings, all its degradation,” he said. “If the system is not fixed, it will collapse on its own.”

The party that triumphed over American-backed South Vietnamese forces in 1975 is facing rising anger over a slumping economy and is rived by disputes pitting traditionalists who want to maintain the country’s guiding socialist principles and a monopoly on power against those calling for a more pluralist system and the full embrace of capitalism.

Perhaps most important, the party is struggling to reckon with a society that is better informed and more critical because of news and opinion that spread through the Internet, circumventing the state-controlled news media.

Since unifying the country 38 years ago, the Communist Party has been tested by conflicts with China and Cambodia, financial crises and internal rifts. The difference today, according to Carlyle A. Thayer, one of the leading foreign scholars of Vietnam, is that criticism of the leadership “has exploded across the society.”

In an otherwise authoritarian environment, divisions in the party have actually helped encourage free speech because factions are eager to tarnish one another, Dr. Thayer said.

“There’s a contradiction in Vietnam,” he said. “Dissent is flourishing, but at the same time, so is repression.”

As dissident voices have multiplied among Vietnam’s 92 million people, the government has tried to crack down. Courts have sentenced numerous bloggers, journalists and activists to prison, yet criticism, especially online, continues seemingly unabated. The government blocks certain Internet sites, but many Vietnamese use software or Web sites to maneuver around the censorship.

“Many more people are trying to express themselves than before, criticizing the government,” said Truong Huy San, an author, journalist and well-known blogger. “And what they are saying is much more severe.”

Mr. San, who is on a fellowship at Harvard, is the author of “The Winning Side,” perhaps the first critical, comprehensive history of Vietnam since 1975 by someone inside the country. Widely read in Vietnam, the two-volume work, written under the pen name Huy Duc, was printed without a permit from the government and describes such acts as the purges of disloyal party members and the seizure of south Vietnamese business owners’ assets.

For casual visitors to Vietnam, surface evidence of economic progress may make it hard to understand the deep pessimism that many express in the country. Millions of people who a decade ago had only bicycles now speed around on motor scooters past factories and office towers.

The economy blossomed in the 1990s after reforms gave birth to Vietnam’s awkward mix of a market economy closely chaperoned by the Communist Party. Even now, the Vietnamese economy is still projected to grow at about 4 percent to 5 percent this year, thanks in part to strong exports of rice, coffee and other agricultural products.

But the real estate market is frozen by overcapacity, banks are saddled with bad loans, newspapers are running articles about rising unemployment, and the country is ranked among some of the world’s most corrupt by Transparency International, a global corruption monitor. (The country ranks 123rd on a list of 176, in which those with low numbers are the least corrupt.)

Vietnamese business people complain of overbearing government regulations imposed by a party that believes it can be the vanguard of capitalist enterprises.

And many say that Vietnam is directionless, despite its seemingly irrepressible industriousness and youthful population.

“In my 21 years here I’ve never seen this level of disenchantment with the system among the intelligentsia and entrepreneurs,” said Peter R. Ryder, the chief executive of Indochina Capital, an investment company in Vietnam. “There’s very meaningful debate within the business community and within the party — people who are superconcerned about the direction that the country is going.”

At the Spring Economic Forum, a conference held in early April that is organized by the economic committee of the National Assembly, participants “were fighting to have a chance at the microphone,” according to Le Dang Doanh, a leading economist who attended the forum, which he described as “stormy.”

He said there was widespread criticism that although the economy needed profound restructuring, “almost nothing has been implemented.”

“It’s a crisis of trust,” Mr. Doanh said. “Better times have been promised every year, but people don’t see it.”

At the center of the political storm is Prime Minister Nguyen Tan Dung, who has been in power since 2006. Mr. Dung’s brash style and ambitious program for the economy initially won him supporters because he broke from the mold of the stodgy party apparatchik.

But he alienated many party members by dismantling an advisory board that had been a leading force behind the reform program (and that board included Mr. Tuong, the Marxist scholar, among many other senior party members).

More important, Mr. Dung’s trademark policy, his forceful push to build up state-run companies along the lines of South Korea’s private conglomerates, backfired.

Run by executives with close ties to the Communist Party hierarchy, the enterprises expanded into many businesses they were unqualified to manage, economists say, and speculated in the stock market and in real estate. Two of the largest state enterprises nearly collapsed and remain close to insolvency.

Mr. Tuong, the Marxist scholar, says the tensions in the Communist Party have been heightened by the troubles with the economy.

In February, he helped write an open letter to the party’s general secretary, Nguyen Phu Trong, urging changes to the country’s Constitution that would “ensure that real power belongs to the people.” He has yet to receive a response.

Mr. Tuong says he has been eager to promote change since his days as adviser to Prime Minister Vo Van Kiet, who helped overhaul the economy in the 1990s.

But today he feels the pressure of time. He has cancer, though it appears to be in remission, and he talks about the disease as a sort of intellectual liberation spurring him to tell what he now views as the truth.

“In a nutshell, Marx is a great thinker,” he said. “But if we never had Marx it would have been even better.”

A version of this article appeared in print on April 24, 2013, on page A1 of the New York edition with the headline: In Hard Times, Open Dissent and Repression Rise in Vietnam.

Triển lãm bằng chứng lịch sử “Hoàng Sa của Việt Nam” cho khách quốc tế

Thụy My, rfi, 29-4-13

Vị trí quần đảo Hoàng Sa (Paracel) ngoài Biển Đông.

Vị trí quần đảo Hoàng Sa (Paracel) ngoài Biển Đông. (Carte : Chemarin/RFI)

Sáng nay 29/04/2013 tại Bảo tàng Đà Nẵng đã khai mạc cuộc triển lãm « Hoàng Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử », giới thiệu nhiều tư liệu quý chứng minh quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đây là lần thứ hai Đà Nẵng tổ chức triển lãm các tài liệu lịch sử chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là một phần lãnh thổ của Việt Nam.

Triển lãm trưng bày các tài liệu lưu trữ của Việt Nam Cộng Hòa trước đây, các bản đồ được xuất bản tại nhiều nước, trong đó có cả các tập bản đồ do Trung Quốc in có ghi rõ biên giới cực nam của Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam, với các chú thích được dịch ra tiếng Anh cho khách quốc tế.

Trả lời RFI Việt ngữ, ông Đặng Công Ngữ, chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa đã giới thiệu sơ qua về cuộc triển lãm sẽ kéo dài đến ngày 15/05/2013.

Ông Đặng Công Ngữ, chủ tịch huyện Hoàng Sa  29/04/2013

« Đây không phải là lần đầu tiên triển lãm các tư liệu liên quan đến chủ quyền huyện đảo Hoàng Sa. Mục đích lần này là giới thiệu cho người nước ngoài, để người ta hiểu rõ hơn về lịch sử Việt Nam.

Có rất nhiều nội dung, nhưng tập trung là một số chứng cứ lịch sử về sự chiếm hữu và quản lý của Việt Nam từ nhiều đời nay – từ thế kỷ 17 đến nay, về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tư liệu thứ hai là các tập bản đồ do Trung Quốc in – Atlas – vào năm 1908, 1919 và 1933. Tất cả các bản đồ do Trung Quốc in đều xác định ranh giới cực Nam của Trung Quốc là tới đảo Hải Nam.

Tư liệu thứ ba là nhóm các tài liệu của các nhà nghiên cứu Việt Nam, trong đó có các nhà nghiên cứu ở Đà Nẵng, gồm font tư liệu về Hoàng Sa, và một số tài liệu liên quan đến thời Việt Nam Cộng Hòa quản lý quần đảo Hoàng Sa.

Và thứ tư là một số nhân chứng sống, là những người đã công tác, làm việc tại quần đảo Hoàng Sa trước năm 1974, hiện nay đang ở Đà Nẵng ».

Nhiều vali tiền của CIA rơi vào túi ai?

Tổng thống Hamid Karzai (trái) và Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (giữa)

Báo Mỹ vừa tố̃ cáo rằng hàng chục triệu đô la tiề̉n mặt CIA chuyển cho văn phòng tổng thống Afghanistan, Hamid Karzai đã không giúp chính quyền thu phục các phe phái chống đối mà còn góp phần gây tham nhũng.

Tiền mà Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) chuyển tới Kabul trong hơn 10 năm qua, đựng trong vali, ba lô và cả các túi mua hàng loại dùng ở siêu thị được gọi là ‘tiền ma’ (ghost money), theo New York Times.

Tờ báo trích lời các quan chức Afghanistan và Hoa Kỳ từng có công tác liên quan đến quan hệ hai bên để có nội dung bài báo này.

Một quan chức Mỹ được trích lời nói đây là nguồn gốc gây ra “tham nhũng” và Hoa Kỳ đứng đằng sau chuyện đó.

Cho tới ngày 29/4/2013, CIA từ chối không bình luận về bài của New York Times và Bộ Ngoại giao Mỹ cũng không bình luận ngay, theo AP.

Tuy nhiên, cho tới nay, giới chức Hoa Kỳ thường giải thích về chính sách của họ tại Afghanistan rằng Washington cần chi tiêu vào nhiều dự án hỗ trợ chính quyền Karzai giành ảnh hưởng trong các phe phái ở nước này, và nắm bắt thông tin liên quan đến chính trị sở tại.

Tiền ma đến và đi

Hãng tin này cũng nói tờ báo Mỹ đã không đăng bất cứ một bình luận gì từ chính ông Karzai hay văn phòng của ông.

“Hàng chục triệu đô la ‘tiền ma’ mà CIA chuyển cho Văn phòng Tổng thống Kazai đã góp phần gây ra nạn tham nhũng”

Báo New York Times

Ông Khalil Roman, người từng phụ trách văn phòng của Tổng thống Karzai từ 2002 đến 2005, được New York Times trích lời, gọi đây là các gói ‘tiền ma đến và đi trong bí mật’.

Sử dụng tiền mặt vào các công tác bí mật là cách mà CIA làm ở Afghanistan kể từ khi xảy ra cuộc chiến.

Tiền được chi vào các chương trình trợ giúp của CIA với tình báo nước sở tại, và không vi phạm luật Mỹ.

Cũng không có bằng chứng rằng bản thân ông Karzai nhận bất cứ khoản nào vì tiền được quan chức lo về an ninh quốc gia của ông xử lý.

Nhưng theo New York Times, nhiều khoản được chuyển tới các sứ quân có lực lượng vũ trang ngoài phạm vi kiểm soát của chính phủ Karzai nhằm thu phục họ.

Và trong không ít trường hợp, tiền rơi vào tay các lãnh đạo quân sự hoặc chính trị “có quan hệ với phe Taliban hoặc các băng đảng ma tuý”.

Theo bình luận của một số cựu quan chức được tờ báo Mỹ trích lời, có vẻ như CIA ủng hộ một số mạng lưới mà chính các cơ quan an ninh và ngoại giao của Mỹ tìm mọi cách để phá đổ.

Theo AP, trong vòng 11 năm cầm quyền của ông Karzai, có rất ít nỗ lực chống tham nhũng thực sự được triển khai trong quân đội và cảnh sát.

Các cơ chế này của Afghanistan nhận được hàng tỷ USD tiền viện trợ để xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và cảnh sát có hiệu năng nhưng đến nay vẫn thất bại.

Quân đội và cảnh sát Afghanistan không thu hút thanh niên gia nhập hàng ngũ của họ, thậm chí còn có nhiều trường hợp đào ngũ hoặc quay súng bắn lại quân đồng minh.

Được biết không chỉ Hoa Kỳ mà cả Iran cũng từng chuyển tiền mặt chính quyền của ông Karzai nhằm gây ảnh hưởng tại nước này.

Hội thảo về Hoàng Sa, Trường Sa

Hội nghị về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa diễn ra hôm 27/4

Tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam được đưa ra thảo luận tại hội nghị quốc tế ở Quảng Ngãi diễn ra ngày 27/4.

Hội thảo, với chủ đề “Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – khía cạnh lịch sử và pháp lý” là hội thảo quốc tế đầu tiên về chủ quyền biển đảo của Việt Nam được tổ chức tại tỉnh miền Trung, nơi có nhiều ngư dân gặp rắc rối khi đánh bắt ở quanh hai quần đảo trên.

Báo trong nước cho biết hội thảo này có sự góp mặt của nhiều các nhà nghiên cứu từ nhiều nước, trong đó có những nhân vật tên tuổi như Giáo sư Carlyle Thayer, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, Giáo sư Renato Cruz DeCastro…, nhưng không có hiện diện của các học giả Trung Quốc.

Hội thảo do Đại học Phạm Văn Đồng cùng một số cơ quan khác tổ chức.

Tờ Thanh Niên trong tin đăng ngày 27/4 cho biết luận điểm chung của nhiều học giả có mặt tại hội nghị, là Trung Quốc đã “vi phạm luật pháp quốc tế” khi chiếm Hoàng Sa năm 1974 và một số bãi ngầm ở Trường Sa năm 1988.

‘Bất hợp pháp’

Tiến sỹ Nguyễn Nhã, một nghiên cứu gia về Hoàng Sa và Trường Sa nói tại hội thảo: “Chúng ta có nhiệm vụ chứng minh sự thực lịch sử mà Việt Nam đã xác lập chủ quyền quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa”.

Bản tham luận hơn 100 trang của ông Nhã mà BBC tiếng Việt có giữ phiên bản dựa trên nhiều lập luật dựa trên các bằng chứng lịch sử để bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo này.

Tài liệu này ghi nhận Việt Nam đã “chiếm hữu thật sự mang tính nhà nước liên tục và hòa bình qua các thời đại” các quần đảo trên từ “những năm đầu thế kỷ XVII đến thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền từ năm 1816”.

“Vấn đề hiện nay là Việt Nam nêu rõ cơ sở pháp lý để huy động sự hợp tác của quốc tế nhằm giúp Việt Nam cũng như cả khu vực ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp trên biển Đông.”

Giáo sư Jonathan London, giảng dạy tại Đại học Hong Kong

Tập tài liệu của ông Nhã cũng trích dẫn những chứng cứ khác nhau để chứng minh rằng chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là được quốc tế công nhận, đồng thời bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc: “Nghị quyết 2625 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc quy định bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp.”

Bản tham luận của ông Nhã cũng nhắc đến tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vốn đã được thủ tướng Phạm Văn Đồng chấp thuận qua công hàm, tuy nhiên ông này nhấn mạnh tuyên bố trên “xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt với lục địa bởi biển cả, chứ không phải là vùng nước lịch sử.”

Đồng ý quan điểm

Việc đơn phương thành lập thành phố Tam Sa của Trung Quốc tại Hoàng sa bị các bên yêu sách cho là làm phức tạp tình hình căng thẳng trên Biển Đông

Các chuyên gia nước ngoài có mặt tại hội thảo được báo trong nước dẫn lời nói bày tỏ sự đồng ý với quan điểm của Việt Nam về chủ quyền.

Theo tờ Thanh Niên, Giáo sư Jonathan London từ Đại học Hong Kong cho rằng quan điểm của Việt Nam về chủ quyền đối với Hoàng Sa – Trường Sa là “hoàn toàn hợp lý.”

Theo ông, “vấn đề hiện nay là Việt Nam nêu rõ cơ sở pháp lý để huy động sự hợp tác của quốc tế nhằm giúp Việt Nam cũng như cả khu vực ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp trên biển Đông”.

Tuy nhiên ông London cũng đặt vấn đề Việt Nam cần cải thiện pháp quyền và quyền con người nếu như muốn có sự trợ giúp của quốc tế.

Hội nghị đã bế mạc ngày 27/4.

Ngày 28/4, các đại biểu có mặt tại cuộc họp sẽ được mời ra thăm huyện đảo Lý Sơn dự Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, tham quan các di tích lịch sử trên đảo gắn liền với các hoạt động thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Mỹ sẽ có hành động quân sự ở Syria?

Mark Mardell. Biên tập viên Bắc Mỹ BBC. 27 tháng 4, 2013

Ông Obama từng nói sẽ thay đổi chiến lược khi Syria dùng vũ khí hóa học.

Israel nói rằng vũ khí hóa học đã được sử dụng. Anh nói rằng có bằng chứng “có giới hạn nhưng thuyết phục” cho thấy chất sarin đã được sử dụng.

Nay Nhà Trắng đã gửi một bức thư cho hai thượng nghị sĩ nói: “Giới tình báo của chúng ta đã đánh giá với mức độ tự tin khác nhau rằng chế độ Syria đã sử dụng Bấm vũ khí hóa học với quy mô nhỏ ở Syria,”

Bấy lâu nay ông Obama đã nói rằng “thế trận cần phải được thay đổi khi Syria dùng vũ khí hóa học”.

Tất nhiên ông Obama chưa bao giờ nói chính xác rằng thế trận sẽ thay đổi thế nào, nhưng hầu hết mọi người cho rằng ‎ông nói về một sự can thiệp quân sự nào đó.

Các quan chức Nhà Trắng đã xác nhận rằng nếu tin về việc Syria sử dụng vũ khí hóa học quy mô nhỏ được xác nhận, điều đó có nghĩa là chính quyền Syria đã vượt qua vạch đỏ của tổng thống. Tuy nhiên, ông Obama không hài lòng với thông tin tình báo thu thập ở mức hiện nay.

Bức thư của Tòa Bạch ốc nói thêm rằng bất kỳ quyết định nào sẽ phải phụ thuộc vào những dữ kiện “đáng tin cậy và có cơ sở để chúng ta chắc chắn ở mức độ nào đó”.

Nhiều rủi ro

“Với rủi ro đi kèm, và những gì chúng ta đã rút ra từ kinh nghiệm gần đây, đánh giá của tình báo thôi không thể đã là đủ”

Thư của Tòa Bạch Ốc

Cũng hơi oái oăm khi người người ta thấy ông Obama phát biểu tại lễ khai trương Thư viện mang tên Tổng thống George W Bush ở Texas mới đây.

Người ta nay cũng dễ dàng quên đi rằng tổng thống Obama khi được bầu lên là người bình tĩnh và có quan điểm chống ông Bush.

Ông từng xem cuộc chiến Iraq là sự sai lầm nghiêm trọng, xảy ra do hệ quả của cả tình báo tồi và ‎nhiệt huyết sẵn sàng lâm chiến lúc đó.

Lá thư của Tòa Bạch Ốc nói rằng: “Với rủi ro đi kèm, và những gì chúng ta đã rút ra từ kinh nghiệm gần đây, đánh giá của tình báo thôi không thể đã là đủ.”

Những người thuộc đảng Cộng hòa đang nói rằng chế độ Assad đã vượt quá vạch đỏ và rằng chính phủ Syria sẽ cảm thấy khích lệ nếu không thấy có hành động gì.

Họ cũng nói rằng không nên để trách nhiệm thanh tra cho Liên Hiệp Quốc.

Rõ ràng ông Obama không muốn lâm chiến ở Syria. Ông coi cuộc chiến nếu xảy ra là quá phức tạp, quá khó và bất chắc.

Hành động của Mỹ tại đây sẽ có một tác động rất lớn vào cách nhìn đối với Hoa Kỳ trong khu vực – khẳng định thêm những hình ảnh về nước Mỹ mà ông muốn thay đổi.

Nhưng Hoa Kỳ có lẽ đang di chuyển từ từ và thận trọng để có hành động.

Hiện không có chỉ dấu nào về thời gian biểu hoặc không chắc chắn về điều gì xảy thực sự xảy ra. Điều này rất đúng phong cách của Obama: đó là sự thận trọng, việc ông muốn kéo các đồng minh cùng tham gia, sự miễn cưỡng phải phán xét một cách vội vàng.

Kẻ thù thì gọi đó là đòn tung hỏa mù. Ngay cả đồng minh của Mỹ đôi khi cũng thấy sốt ruột. Tôi nghi ngờ là sẽ có bất kỳ sự lo ngại nào chi phối một tổng thống từng nói rằng gửi người lính trẻ tham chiến là điều khó khăn nhất mà ông phải làm.

Sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị đánh trong tù

Gia Minh, biên tập viên RFA. 2013-04-27

phuonguyen-305.jpg

Sinh viên Nguyễn Phương Uyên, ảnh chụp trước đây. File photo

Gia Minh hỏi chuyện bà Nguyễn Thị Nhung, mẹ của sinh viên Nguyễn Phương Uyên về thông tin đó.

Bà Nguyễn Thị Nhung: Tôi đi thăm bé Uyên hôm qua ngày 26 tháng tư vì được chứng đơn. Trước cuộc gặp mặt, tôi có liên hệ với quản giáo Đinh Công Trí, và người này có bảo tôi làm một bản cam kết. Tôi hỏi lý do thì anh ta cho biết vào ngày 15 tháng tư tôi có gửi cho con một cái kính cận mà theo yêu cầu của trại giam là kính phải bằng nhựa hoàn toàn, không có tính gây sát thương. Nhưng hôm qua ( ngày 26/), trại giam mới bắt tôi làm bản cam kết với nội dung ‘nếu có việc gì xảy ra, nếu có nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con tôi cũng như của người khác thì tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi không chịu bản cam kết đó. Sau đó người quản giáo Đinh Công Trí này có nói cách đây ba hôm, bé Uyên con của tôi lên cơn co giật, động kinh.

Điều anh ta nói với tôi như thế thật bất ngờ, vì con gái tôi từ nhỏ đến lớn không có mấy bệnh đó. Nó rất khỏe mạnh, cao 1,65 mét và nặng 57 cân, rất khỏe mạnh, chỉ bị cận thôi.

Sau khi anh đó cho biết tin đó và giải quyết cho thăm gặp thì khoảng thời gian rất lâu, vì anh này cứ bắt tôi làm cam kết. Cuối cùng không làm cam kết mới quyết định lập biên bản gọi là Biên bản Không hợp tác, Không chịu làm cam kết mới giải quyết cho thăm gặp.

Gia Minh: Cuộc gặp được bao lâu, thế nào, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Nhung: Theo tôi nghĩ lúc đó hơn 10 giờ sáng, và thời gian gặp chừng 20 phút. Nói chuyện qua điện thoại, ở giữa có một tấm kính ngăn cách.

Nhìn qua kính tôi thấy trên mình con tôi đầy vết bầm, từ cổ, ngực, trên hai cánh tay có những vết thâm tím. Tôi mới hỏi sao lại có những vết thâm tím đó? Cháu trả lời bị đánh, bị tấn công, bị đạp vào bụng đến ngất xỉu luôn.
Nghe cháu nói như thế thật sự tôi rất đau lòng.

Gia Minh: Cháu có cho biết ai đánh không?

Bà Nguyễn Thị Nhung: Tôi hỏi sao bị đánh? Vì con nhà tôi từ trước đến giờ chưa làm mất lòng ai, cháu rất hiền lành, sống rất hòa đồng với mọi người. Tôi hỏi sao bị đánh, cháu nói tự dưng người đó gây sự và tấn công. Đến lúc ngất xỉu, người ta mới biết và đưa đi cấp cứu. Bác sĩ đưa đi cấp cứu biết.

Gia Minh: Cháu có cho biết bị giam với ai, người tấn công là ai và gây gỗ vì lý do gì?

Nhìn qua kính tôi thấy trên mình con tôi đầy vết bầm, từ cổ, ngực, trên hai cánh tay có những vết thâm tím. Tôi mới hỏi sao lại có những vết thâm tím đó? Cháu trả lời bị đánh, bị tấn công, bị đạp vào bụng đến ngất xỉu luôn.

Bà Nguyễn Thị Nhung

Bà Nguyễn Thị Nhung: Lý do không nghe cháu nói, vì cháu nói không có lý do gì để gây gỗ hết. Cháu chỉ nói người đó muốn gây sự và tấn công cháu thôi.

Buồng giam thì cháu nói bị giam cùng hai người khác.

Gia Minh: Cháu có nói hai người đó tuổi tác bao nhiêu, và phạm tội gì không?

Bà Nguyễn Thị Nhung: Cháu Uyên nói người đó là phụ nữ, tuổi chắc lớn hơn, và cháu nói là tội hình sự.

Gia Minh: Khi trao đổi, bà thấy tinh thần cháu ra sao? Cháu có hoảng loạn không?

Bà Nguyễn Thị Nhung: Tinh thần cháu tôi thấy ổn định. Cháu có nói ngày 16 tháng 5 phiên xử sẽ diễn ra. Cháu nói gửi cho một bộ đồ nào mà tôi thấy đẹp và ưng ý nhất để cháu mặc, vì cháu không muốn hình ảnh tại phiên tòa xấu. Cháu có nói bên trong không có lược để chải đầu. Cháu muốn khi ra tòa được chải đầu gọn gàng tươm tất.

Như thế tôi biết phiên tòa xử cháu Uyên vào ngày 16 tháng 5 sẽ diễn ra.

Gia Minh: Cháu có cho biết luật sư đã được tiếp xúc với cháu thế nào không?

Bà Nguyễn Thị Nhung: Luật sư Sơn có đến gặp cháu một lần, luật sư Lương gặp cháu hai lần. Gần đây theo tôi biết chưa có, nhưng hai luật sư cũng sắp xếp để đến gặp cháu trước ngày mở ra phiên tòa.

Gia Minh: Gia đình có gặp luật sư và được họ cho biết thông tin gì về cháu Uyên không?

Bà Nguyễn Thị Nhung: Tôi có liên lạc với luật sư, những việc cháu Uyên nói với luật sư cháu cũng có nói với tôi. Chẳng hạn, lần trước cháu không đồng ý với bản cáo trạng: thứ nhất trên bản cáo trạng thể hiện việc mua máy ảnh để phục vụ việc rải truyền đơn, cháu không đồng ý. Cháu nói việc đó là hoàn toàn phục vụ nhu cầu cá nhân. Thứ hai trên cáo trạng không thể hiện việc chống Trung Quốc. Cháu nói vì yêu nước cháu mới chống Trung Quốc.

Đó là một tình tiết giảm nhẹ mà không được nêu ra trong cáo trạng.

Còn việc hôm qua sau khi gặp cháu trong trình trạng bị đánh rất dã man, ảnh hưởng sức khỏe nhiều; sau khi ra tôi có tìm gặp lại người quản giáo Đinh Công Trí và hỏi tại sao anh ta không nói đúng sự thật con tôi bị đánh, mà nói con tôi lên cơn động kinh. Tôi hỏi anh giải thích thế nào? Anh mới nói không có trách nhiệm báo cáo việc đó cho tôi.

Tôi có nói với anh Đinh Công Trí đó là rõ ràng anh làm cho tôi bức xúc.

Gia Minh: Cám ơn bà Nguyễn Thị Nhung.

Hội nghị Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ

Ỷ Lan, thông tín viên RFA.  2013-04-28

Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này

luvusanvadan-bold-305.jpg

Ngoại trưởng Mông Cổ Luvusanvadan Bold. Hình do TTV Ỳ Lan cung cấp

Hội nghị lần thứ VII của Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ cấp Bộ trưởng họp tại thủ đô Mông Cổ bao gồm đại diện của gần 100 quốc gia ở cấp bộ trưởng và đại diện các tổ chức Phi chính phủ và xã hội dân sự.

Trong lễ khai mạc sáng ngày 27/4 tại Đại sảnh đường Chính phủ, Thủ tướng Mông Cổ Noroviin Altankhuyag đã đọc diễn văn khai mạc Hội nghị.

Thủ tướng ngỏ lời “chào đón 1200 đại biểu thuộc 100 quốc gia năm châu về tham dự. Kể từ năm 2011, Mông Cổ chủ tọa Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ. Tiêu điểm trong nhiệm kỳ của Mông Cổ là “Giáo dục dân chủ” được Đại hội đồng LHQ thông qua năm 2012”.

Thủ tướng còn xác nhận “Mông Cổ quan niệm phát triển và hậu thuẫn cho các xã hội dân sự là điều quan trọng nhất, bởi vì xã hội dân sự là nền tảng của dân chủ. Trong Hội nghị lần thứ 7 của Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ cấp Bộ trưởng, một trong những nhiệm vụ hàng đầu là thiết lập Mạng lưới Dân chủ Châu Á. Đây là sự kế thừa của Mông Cổ như một quốc gia dân chủ Châu Á đối với Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ trên thế giới”.

Dân chủ đang thắng trận ở Châu Á

Tiếp lời Thủ tướng, Bà Maria Lessner, cựu Đại sứ Thụy Điển về Dân chủ, đương kim Tổng thư ký Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ phác họa sự hình thành cùng tiêu đích của Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ:

“Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ là mạng lưới độc nhất. Từ Ba Lan và Hoa Kỳ, Bronislav Geremeik và Madeleine Albright là hai ngoại trưởng đã thấy xa và thai nghén công trình này. Cả hai là con đẻ của Thế chiến thứ hai, với sự trải nghiệm cá nhân về đàn áp, độc tài toàn trị, và những ý thức hệ diệt chủng. Họ thấy ra rằng để ngăn ngừa cơn ác mộng khủng bố cho thế hệ tương lai, các nhà dân chủ cần phải cùng nhau cộng tác, tương trợ lẫn nhau và trao đổi ý kiến để tiếp tục cuộc đấu tranh. Đây là lý do họ thành lập Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, giúp cho thiên kỷ mới học bài học quá khứ để soi sáng cho tương lai.

Nhưng họ không chú tâm riêng cho cộng đồng các chính phủ. Dân chủ đan dệt từ nhiều sợi tơ và màu sắc khác nhau, đây là cơ sở cho sức mạnh và bền vững. Xã hội dân sự là một trong những sợi tơ này. Do vậy mà Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ bao gồm cả yếu tố của các tổ chức Phi chính phủ, tập họp quanh những nhà lãnh đạo xã hội dân sự quốc tế đại diện các khu vực trên thế giới.

Dân chủ đang dâng lên ở Châu Á. Dân chủ đang thắng trận. Không với sự nổ bùng khởi nguyên, mà theo phương cách Á Châu, từng bước từng bước. Hội nghị cấp Bộ trưởng hôm nay đang chứng kiến sự xuất hiện của một Mạng lưới Châu Á của các Quốc gia Dân chủ, như bộ phận tương ứng của các xã hội dân sự, như một đóng góp của Mông Cổ hậu thuẫn cho sự lớn dậy của nền dân chủ Châu Á.

Nhưng cũng có những đám mây đen. Cộng đồng các quốc gia không có tự do đang trở thành càng lúc càng mạnh mẽ, chia sẻ cho nhau cách hành xử đàn áp xã hội dân sự hay phối trí tấn công chống lại tự do Internet, tuy chưa rõ nét nhưng họ kiên định giảm thiểu sự tự do lập hội và tự do truyền thông. Các nhà báo càng lúc càng bị lâm nạn và bị tấn công hơn bao giờ. Lý do rất giản dị. Cộng đồng các quốc gia không có tự do chẳng có chung biểu giá trị, không có chung ý thức hệ, không theo tôn giáo. Họ buộc chung với nhau trong việc xâm chiếm lợi quyền và quyết không để cho quyền bính bị đánh mất.  Họ chia chung kẻ thù với nhau.  Kẻ thù của họ là bầu cử tự do, truyền thông phê phán, xã hội dân sự và cá nhân biểu tình trên đường phố. Toàn là những điều gây nguy hại cho bọn lãnh đạo không chấp nhận tự do.

Họ buộc chung với nhau trong việc xâm chiếm lợi quyền và quyết không để cho quyền bính bị đánh mất.  Họ chia chung kẻ thù với nhau.  Kẻ thù của họ là bầu cử tự do, truyền thông phê phán, xã hội dân sự và cá nhân biểu tình trên đường phố. Toàn là những điều gây nguy hại cho bọn lãnh đạo không chấp nhận tự do.
Cựu ĐS Thụy Điển Maria Lessner

Chúng ta sẽ bàn thảo những điều này trong những ngày tới với các Bộ trưởng các chính phủ cùng với các đại biểu các xã hội dân sự, và Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm tự do lập hội. Chúng ta sẽ đề ra phương cách lật ngược xu hướng trên đây”.

Trong lời phát biểu của Cố vấn Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Xã hội dân sự và các quốc gia dân chủ vừa xuất hiện, ông Tomicah Tilleman nhấn mạnh:

“Chúng ta đang đối diện trước sự đổi thay kỳ diệu. Và chúng ta sẽ có cơ hội trong những ngày tới bàn các phương cách thay đổi trong thế giới. Công trình và sự hy sinh của biết bao thế hệ dẫn dắt chúng ta tới đây. Nhân danh dân chủ chúng ta hãy vinh danh giây phút này. Nước chủ nhà Mông Cổ vừa cho chúng ta một cơ hội tối hậu. Bây giờ là lúc chúng ta bắt tay làm việc”.

Kết thúc lễ khai mạc, Chủ tịch Diễn Đàn Dân biểu các Quốc hội cho Dân chủ, ông Emanuelis Zingeris nói lên kinh nghiệm của những quốc gia từng sống khổ đau, mất nhân phẩm dưới chế độ Cộng sản:

“Tôi đến từ Lithuania. Chúng tôi đã phải sống năm, sáu chục năm dưới chế độ độc tài Cộng sản. Trong khoảng thời gian 50 năm ấy, chúng tôi hiểu ra rằng thực tại dưới chế độ độc tài không phải là thực tại của chúng tôi.

Chúng tôi đã cố công đối kháng từng ngày để tự bảo với chúng tôi rằng, không, không thể tự biến mình thành thực tại của cộng sản. Cứ thế, chúng tôi đối kháng mỗi ngày.

Lý do vì sao năm 1990, chúng tôi đã hủy bỏ nhanh chóng đảng Cộng sản để trở thành quốc gia dân chủ và gia nhập Liên Âu. Tôi hãnh diện nói rằng Lithuania trở thành Chủ tịch luân phiên của Liên Âu năm 2013. Tôi cũng tự hào để nói rằng Lithuania đã từng được chọn làm Chủ tọa Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ.

Hôm nay chúng ta gặp nhau tại một nước dân chủ Châu Á, Mông Cổ, tôi kêu gọi các quốc gia dân chủ ở Châu Á hãy giúp đỡ cho các nước ở Châu Á đang phấn đấu để thiết lập dân chủ.

Chúng tôi rất quan ngại cho tình hình Bắc Hàn, là ví dụ tiêu biểu của một chế độ độc tài Cộng sản bạo hành. Đồng lúc chúng tôi phấn khởi với nhà lãnh đạo Aung San Suu Kyi ở Miến Điện. Thật lạ thường khi thấy nhiều Dân biểu Quốc hội Miến tấp nập sang Brussels gặp gỡ chúng tôi tại Hội đồng Châu Âu. Họ không thuộc đảng của bà Aung San Suu Kyi mà thuộc đảng đa số đang cầm quyền. Nhưng chính bà Aung San Suu Kyi chứ không ai khác đã mở cánh cửa cho các thành phần khác trong xã hội đến tiếp cận chúng tôi. Đây là yếu tố vô cùng trọng đại, và chúng tôi kỳ vọng sẽ đến lượt Việt Nam nối gót theo”.

VN sẽ có dân chủ

Nhân dịp này, chúng tôi phỏng vấn Ngoại trưởng Mông Cổ, ông Luvusanvadan Bold, về việc Mông Cổ đã đóng góp như thế nào cho dân chủ, sự kế thừa cho dân chủ nói chung và cho dân chủ Châu Á nói riêng ? Ông cho biết:

NT Luvusanvadan Bold: Là một quốc gia dân chủ mới, chúng tôi chuyển hóa từ chế độ độc tài toàn trị sang dân chủ. Đây là một trải nghiệm mà chúng tôi có thể chia sẻ với nhiều quốc gia khác có mặt trong Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ hôm nay. Sự kế thừa của chúng tôi là làm cho bất cứ ai mang trong mình mối hy vọng đều có thể trở thành một quốc gia dân chủ. Bất cứ ai cũng có thể trở thành một quốc gia dân chủ, bất cứ ai đều có may mắn hoàn thành tiến trình dân chủ hóa. Chúng tôi tin rằng sự ra đời của Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ rất quan trọng, bởi vì nó mang trong mình những giá trị toàn cầu, và chúng tôi có thể đem chia sẻ những giá trị này với mọi người.

Chúng tôi có thể chia sẻ với nhân dân Việt Nam những giá trị dân chủ mà chúng tôi đã tái tạo ở Mông Cổ. Dân chủ bao hàm nhân dân, trao cho nhân dân thực quyền. Dân chủ là trao cho nhân dân mọi quyền cơ bản mà họ phải được hưởng.
NT Luvusanvadan Bold

Ỷ Lan: Cuộc phỏng vấn này sẽ được phát sóng về Việt Nam. Ngoại trưởng có thể nói gì về Việt Nam hôm nay?

NT Luvusanvadan Bold: Vâng, 23 năm trước đây, chúng tôi là thành viên của Cộng đồng các Quốc gia Cộng sản. Hôm nay, Mông Cổ là một thành phần trong Cộng đồng các Quốc gia Dân chủ. Điều này không có nghĩa là tình hữu nghị Việt – Mông đã thay đổi. Chúng tôi vẫn còn hợp tác chặt chẽ với nhau. Thực tình tôi nghĩ rằng hai nước có thể cùng nhau học hỏi. Chúng tôi có thể chia sẻ với nhân dân Việt Nam những giá trị dân chủ mà chúng tôi đã tái tạo ở Mông Cổ. Dân chủ bao hàm nhân dân, trao cho nhân dân thực quyền. Dân chủ là trao cho nhân dân mọi quyền cơ bản mà họ phải được hưởng. Tôi nghĩ rằng sự tiến triển tại Việt Nam đang bước tới từng bước một, và tôi hy vọng rằng Việt Nam sẽ chấp nhận chia sẻ với chúng tôi những giá trị dân chủ.

Ỷ Lan: Ngoại trưởng có tin rằng một ngày nào đó Việt Nam sẽ là một nước dân chủ không ?

NT Luvusanvadan Bold: Chắc chắn thế, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.

Ỷ Lan: Xin cám ơn Ngoại trưởng.

Ỷ Lan, Phóng viên Đài Á Châu Tự do tại Ulaanbaata, Mông Cổ.

Tin, bài liên quan

Lược sử cuộc sửa đổi Hiến pháp Việt Nam 1992 – Timeline of the Amendment of Vietnam’s 1992 Constitution

Đoan Trang – Bản tiếng Anh ở phía dưới. Please scroll down for the English version.

2011

Tháng 1: Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới”. Bản báo cáo dài hơn 100 trang, với ngôn ngữ chung chung thường lệ, không nêu cụ thể “tình hình mới” là như thế nào, nhưng có nhận định: “Từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình””.

2/8: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có tờ trình lên Quốc hội “về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”. 

Tờ trình khẳng định việc sửa đổi Hiến pháp là nhằm mục đích “thể chế hoá kịp thời đường lối, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng”, “việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải bám sát” các cương lĩnh, nghị quyết và văn kiện của Đảng, “ghi nhận những thành quả”, “thành tựu to lớn” của đất nước “do Đảng khởi xướng”. 

Tờ trình cũng đề ra một định hướng của việc sửa đổi Hiến pháp 1992 là “Khẳng định sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội đã được nhân dân ta, mà đại diện cao nhất là Quốc hội thừa nhận và ghi vào Hiến pháp”. 

6/8: Quốc hội ra Nghị quyết số 06/2011/QH13 “Về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”. 

Thành viên Uỷ ban gồm: 

Ông Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban. 

Ông Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Ủy ban. 

Ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Ủy viên. 

Bà Nguyễn Thị Doan, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Ủy viên. 

Ông Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên. 

Bà Tòng Thị Phóng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên. 

Ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị 

Tất cả đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và giữ chức vụ cao trong bộ máy lãnh đạo.

24/8: Uỷ ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 họp phiên thứ nhất.

2012

21/2: Uỷ ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 họp phiên thứ hai, thảo luận về “Báo cáo của Ban Biên tập về những vấn đề cơ bản trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992”. 

22/5: Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành văn bản số 52-HD/BTGTW, gửi các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương Hướng dẫn tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành TW Đảng khoá XI (7/5/2012), trong đó có “những vấn đề cơ bản định hướng việc sửa đổi Hiến pháp 1992” (tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo).

23/11: Quốc hội ra Nghị quyết “Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, đợt lấy ý kiến “bắt đầu từ ngày 02 tháng 01 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2013”.

29/12: Bộ Chính trị ra Chỉ thị “về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, nêu rõ: “Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương (…) chỉ đạo chặt chẽ công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta”. 

Cùng ngày, tại cuộc họp báo triển khai thực hiện việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Chủ nhiệm UB Pháp luật QH Phan Trung Lý, Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, khẳng định: “Không có điều gì cấm kỵ khi nhân dân góp ý sửa Hiến pháp”, “nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả”. 

2013 

2/1: Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 22-CT/TW về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Điểm số 3 và 4 quy định:

“Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương lãnh đạo, kiểm tra việc lấy ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; chỉ đạo chặt chẽ công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời đấu tranh, ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta”. 

“Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Cán sự Đảng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Ban Cán sự Đảng Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí ở trung ương và địa phương có kế hoạch tuyên truyền bằng nhiều hình thức thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp; mở chuyên trang, chuyên mục về dự thảo sửa đổi Hiến pháp và phản ảnh kịp thời ý kiến đóng góp của nhân dân”. 

11/1: Giáo sư Hoàng Xuân Phú có bài viết “Hai tử huyệt của chế độ”, nhận định:

“Có lẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm rằng

– quy định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội, và

– quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý

tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ. Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, thì họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện tại Điều 4 (*) và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”. 

19/1: 72 trí thức cùng ký vào một bản kiến nghị gọi là “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, với nội dung đề nghị soạn thảo Hiến pháp theo Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về Quyền Con Người, thực hiện tam quyền phân lập, thành lập toà bảo hiến, lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải với Đảng Cộng sản Việt Nam như Điều 70 của dự thảo.

Kiến nghị được đăng tải trên trang web Bauxite Việt Nam và Anh Ba Sàm. Sau đó, một số chuyên gia luật (ẩn danh) đã soạn thảo một dự thảo hiến pháp đi kèm kiến nghị này, theo đó Việt Nam thực hiện dân chủ đa đảng. Cả dự thảo và bức kiến nghị hôm 19/1 trở thành Kiến nghị 72 – là bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp đầu tiên không phải do Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra trong lần sửa đổi này.

1/2: Trang web Cùng viết hiến pháp (hienphap.net) ra đời với mục đích “tạo ra một không gian đối thoại dân chủ về việc sửa đổi Hiến pháp”, như lời phi lộ của nhóm khởi xướng (gồm GS. Ngô Bảo Châu, GS. Đàm Thanh Sơn, Nguyễn Anh Tuấn).

2/2: Đại biểu Quốc hội Lê Như Tiến, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trả lời phỏng vấn tạp chí Thanh Tra, tái khẳng định: “Không có “vùng cấm” trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này”. 

4/2: 16 đại diện của nhóm Kiến nghị 72 đến trụ sở Quốc hội tại 37 Hùng Vương (Hà Nội) gửi Kiến nghị, trưởng đoàn là ông Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Tư pháp. Một số cơ quan báo chí có đến đưa tin và đăng tải, như báo Pháp luật TP.HCM.

Ông Lê Minh Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Ban Biên tập dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, tiếp đoàn.

21/2: Một số cựu sinh viên Đại học Luật Hà Nội gửi Kiến nghị về việc sửa đổi Hiến pháp1992, với hai nội dung: 1. Huỷ thời hạn chót cho việc lấy ý kiến nhân dân; 2. Tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân thực hiện quyền phúc quyết hiến pháp.

25/2: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại một hội nghị với Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức… Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa”. 

Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng tin này trong chương trình Thời sự 19h, và lập tức gây ra một làn sóng phản đối trên không gian Facebook.

26/2: Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, báo Gia đình & Xã hội, có bài viết “Vài lời với TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng”, đăng trên blog cá nhân và có gửi cho hai trang web khác là Anh Ba Sàm và Cùng viết Hiến pháp. Buổi sáng, Anh Ba Sàm đăng tải bài viết này. Đầu giờ chiều, ban lãnh đạo báo Gia đình & Xã hội tổ chức họp và chất vấn Nguyễn Đắc Kiên về bài viết, sau đó tuyên bố cho ông Kiên nghỉ việc, và đăng thông báo buộc thôi việc trên trang điện tử của báo.

28/2: Từ trang Dân Làm Báo, xuất hiện lời Tuyên bố của các Công dân tự do. Không còn là một kiến nghị, Tuyên bố này giống như sự thể hiện một ý chí chính trị: “Chúng tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà chúng tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành. Chúng tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước”. 

1/3: Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi thư góp ý về Hiến pháp cho Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, yêu cầu Hiến pháp mới phải nêu rõ hơn các quyền con người, xoá bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phái chính trị nào, Nhà nước không được tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo và không được can thiệp vào công việc nội bộ của cộng đồng tôn giáo.

2/3: Đoàn công tác Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 do Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Ủy ban dự thảo – dẫn đầu đã có cuộc làm việc với TP.HCM về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo sửa đổi HP trên địa bàn TP.

Sau đó, mỗi hộ dân tại TP.HCM bắt đầu được phát một tập tài liệu 79 trang so sánh Hiến pháp 1992 với dự thảo Hiến pháp do Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra. Kèm theo đó là một bản “Phiếu lấy ý kiến nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992”. 

Bản này đưa ra hai nội dung góp ý: 

1. Đồng ý với toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992

2. Đồng ý với những nội dung khác trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và có ý kiến góp ý, đề nghị sửa đổi, bổ sung ở những Chương, Điều, Khoản hoặc từ ngữ cụ thể.

6/3: Công thư của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng gia hạn góp ý sửa đổi Hiến pháp sẽ được dời lại đến ngày 30/9 thay vì 31/3, và đề nghị các cấp chính quyền, các cơ quan ban, ngành địa phương tạo điều kiện cho người dân đóng góp ý kiến.

8/3: Đài Truyền hình Việt Nam bắt đầu một chiến dịch truyền thông vào “giờ vàng” – Chương trình Thời sự 19h hàng ngày – với nội dung đả kích những người ký vào bản Kiến nghị 72, và khẳng định, ca ngợi vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cùng ngày, blog Anh Ba Sàm – trang blog mạnh mẽ nhất trong việc đăng các bài viết, tư liệu mang các quan điểm ngoài quan điểm của Đảng và Nhà nước về sửa đổi hiến pháp – bị hack, toàn bộ dữ liệu bị xoá. Biên tập viên điều hành blog tìm cách lấy lại quyền kiểm soát trang web của mình, và bắt đầu cuộc chiến không cân sức giữa “Thông Tấn Xã Vỉa Hè” và cả một quân đoàn hacker.

Đồng thời với chiến dịch truyền thông trên Đài Truyền hình Việt Nam, các báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, nhiều người tham gia ký Kiến nghị 72 (các đợt sau này) cũng phản ánh việc bị công an và chính quyền địa phương thăm dò, hạch sách.

9/3: Báo Đại Đoàn Kết đăng bài “Sự nguỵ tạo có chủ đích”, khẳng định phần lớn những người ký tên vào Kiến nghị 72, tại địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, đều là những địa chỉ không có thực và bị giả mạo. Kết luận của nhóm tác giả bài báo: “Việc ngụy tạo tên người dân nhằm tạo sức ép với Đảng và Nhà nước đã khiến việc dân chủ lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã bị lợi dụng làm méo mó, biến dạng là động cơ chính trị không trong sáng của một số người có tư tưởng đối lập”. 

10/3: Đài Truyền hình Việt Nam hưởng ứng báo Đại Đoàn Kết với phóng sự “Mạo danh chữ ký kiến nghị sửa đổi hiến pháp” trong Bản tin Thời sự 19h. Phóng sự ghi hình bà Nguyễn Thị Hường, Phó Hiệu trưởng trường Đại Học Hà Tĩnh, cho biết: “Riêng điều 4 Hiến pháp, các em sinh viên đều hoàn toàn đồng tình, không có bất kỳ ý kiến trái chiều nào”. 

12/3: Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, có bài viết “Khi phản biện xã hội được sử dụng như một chiêu bài” của tác giả Huỳnh Tấn, bóng gió rằng các tác giả của những bản kiến nghị trên Internet chắc là “không có việc gì làm”, “chống Đảng”.

13/3: Hacker tiếp tục cướp các địa chỉ khác (mới lập) của Anh Ba Sàm, tung lên những hình ảnh nguỵ tạo về một biên tập viên trang này nhằm mục đích bôi nhọ.

15/3: Anh Ba Sàm tiếp tục blogging ở địa chỉ mới.

17/3: Công An Nhân Dân đăng bài của tác giả Phương Nhi, nhấn mạnh rằng khẳng định Điều 4 Hiến pháp là một phần của lịch sử lập hiến Việt Nam, bảo vệ Điều 4 là bảo vệ chủ quyền dân tộc, thành quả cách mạng, tôn trọng lịch sử và phẩm giá của dân tộc.

18/3: Báo Quân Đội Nhân Dân có bài xã luận khẳng định quân đội không thể thoát ly sự lãnh đạo của Đảng. VTV hưởng ứng.

Một số người dân TP.HCM bắt đầu phản ánh lên Facebook, trang Bauxite Việt Nam và trang Anh Ba Sàm, về việc bị cán bộ địa phương (người của tổ dân phố, phường…) đến nhà “hướng dẫn” ký xác nhận đồng ý vào Phiếu lấy ý kiến, ví dụ: “Chỉ cần ghi “Đồng ý” là xong”, “Nên tránh ghi phần 2, nhất là về Điều 4 và các điều về công an. Nếu ai ghi phần 2 thì các tổ trưởng nhớ ghi nháy thêm địa chỉ nhà hộ đó”. 

20/3: VTV và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, ông Từ Văn Diện, cùng khẳng định Thái Bình và Hà Tĩnh là hai mảnh đất rất giàu truyền thống cách mạng, nhưng lại có rất nhiều người bị nguỵ tạo chữ ký vào bản Kiến nghị 72, chứng tỏ đây là “việc làm có mưu đồ chính trị chống phá đường lối chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước”. 

Tuy nhiên, VTV và ông Từ Văn Diện không đưa ra bằng chứng cụ thể nào về sự nguỵ tạo. 10 ngày sau, Giáo sư Hoàng Xuân Phú chỉ ra điều đó trong bài viết “Chẳng nhẽ độc quyền cả nói dối hay sao?”, đăng trên blog cá nhân, và blog Anh Ba Sàm đăng lại.

22/3: VTV phỏng vấn ông Nguyễn Đình Lộc, cựu Bộ trưởng Tư pháp, thành viên của Kiến nghị 72. Ông Lộc nói: “(…) những cái bản ấy tôi không tham gia. Tôi không tham gia. Tôi không tham gia vào việc xây dựng cái tờ văn bản ấy”. 

Cùng ngày, trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Thế Tùng, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, khẳng định sở hữu toàn dân về đất đai là tất yếu.

2/4: Nhóm khởi xướng Kiến nghị 72 ra một bản thông báo, tuyên bố rõ: “Dùng bạo lực và những thủ đoạn chính trị để duy trì chế độ toàn trị, cưỡng lại ý chí của nhân dân sẽ gây nguy hại lớn cho đất nước, cho dân tộc và cho cả Đảng Cộng sản Việt Nam”.

3/4: Tỉnh Bình Dương tổ chức họp báo công bố kết quả lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, theo đó, số lượt ý kiến đóng góp từ ngày 12/3 tới ngày 27/3 trong toàn tỉnh lên tới 44.459.628 trên tổng dân số 1,7 triệu người. Trong số ý kiến đóng góp này, có 44.455.188 người tán thành nguyên văn với bản Dự thảo Hiến pháp, chiếm tỷ lệ 99,99% dân số tỉnh Bình Dương.

13/4: Nhóm Các Công dân Tự do ra tuyên bố thứ hai, “Quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân”, kêu gọi từ chối, bất hợp tác với mọi hành vi cưỡng ép ký nhận các văn bản liên quan đến Hiến pháp, yêu cầu chính quyền chấm dứt việc đến từng nhà dân ép ký tên vào kiến nghị, ra văn bản nghiêm cấm và nghiêm trị mọi phát biểu và hành vi đe doạ những người dân muốn nêu ý kiến độc lập về Hiến pháp.

21/4: Báo Quân Đội Nhân Dân trích lời Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho biết, “Sau 3 tháng triển khai nghiêm túc, dân chủ Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Bộ Chính trị về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, với 28.140 hội nghị, hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến góp ý”.

*

 2011 

January: The political report, disclosed at the 11th National Congress of the Vietnamese Communist Party (VCP), stipulates that “the 1992 Constitution (which was amended in 2001) be promptly researched, amended and supplemented to be in line with new realities.” The over 100-page report, being rhetorical and full of usual clichés, does not elaborate on what “new realities” it is, but reads, “Since late 2007, early 2008, the economy and life faced many difficulties. Hostile forces maintain their acts of sabotage and fomentation and intensify “peaceful evolution” activities.” 

August 2: The Standing Committee of the National Assembly submits to the NA the Statement “On the Implementation of the Policy of “Research and Amendment of the 1992 Constitution.” The statement makes clear that the Constitution amendment aims at “constitutionalizing opportunely the Party’s major guidelines and policies,” and that “the Constitutional amendment must adhere closely to the Party’s political credos, resolutions and political documents”, “acknowledging huge achievements of the country constituted by the Party.” 

The Statement also draws up some guidelines for the Constitution amendment, including “Reinforcing the entire rule of the VCP over the State and the society, the rule that has been recognized and constitutionalized by the people, whose supreme respresentative is the National Assembly.” 

August 6: The NA issues Resolution No. 06/2011/QH13, titled “On the Amendment of the 1992 Constitution and the Establishment of the Committee for the Revision Draft of the 1992 Constitution.” 

The members of this Committee include: 

Mr. Nguyễn Sinh Hùng, Politburo member, Chairman of the NA, Chairman.

Mr. Uông Chu Lưu, Central Party commissioner, Deputy Chair of the NA, Deputy Chairman

Mr. Lê Hồng Anh, Politburo member, permanent member of the Party Central Secretariat

Ms. Nguyễn Thị Doan, Central Party commissioner, Vice President of the State

Mr. Nguyễn Xuân Phúc, Politburo member, Deputy Prime Minister

Ms. Tòng Thị Phóng, Politburo member, Deputy Chair of the NA

Mr. Tô Huy Rứa, Politburo member

All of them are members of the ruling VCP and are holding high positions of political leadership.

August 24: The Committee for the Revision Draft of the 1992 Constitution holds their first meeting.

2012 

February 21: The Committee for the Revision Draft of the 1992 Constitution holds their second meeting to discuss on “The Report by the Ediorial Board on Basic Issues in the Amendment.”

May 22: The Central Department of Propaganda and Education issues the document No. 52-HD/BTGTW to all Party cells, guiding the Party members to hold courses and seminars to study and comprehend the Resolutions of the fifth Conference of the 11th Central Committee of the VCP, which has been held on May 7, 2012. These Resolutions stipulate “basic guidelines for the Amendment of the 1992 Constitition”, including “to keep constitutionalizing more fully and deeply the policy of promoting socialist democracy, guaranteeing that all the power of the state belong to the people, based on the alliance between the workers’ class, the peasants’ class, and the intellectual team led by the VCP.” 

November 23: The NA issues the Resolution titled “Conducting the Collection of People’s Opinions on the Amendment Draft of the 1992 Constitution”. The process of opinion collection is intended to take place “from January 2, 2013 to March 31, 2013.”

December 29: The Politburo releases their Instruction of “conducting the collection of people’s opinions on the amendment draft”, commanding “the Central Military Commission and the Central Party Committee of Public Security” to “strictly lead and supervise the activities of ensuring national security and social order; work with concerned agencies to counter and to deter acts of abusing democracy and taking advantage of the people’s opinion collection process to spread misleading propagandas against our Party and the State.” 

On the same day, in a press conference on the collection of people’s opinions on the Amendment Draft, Mr. Phan Trung Ly, Head of the Legal Committee of the NA and the Editorial Board of the Draft, firmly said, “There is nothing like a taboo when people contribute their opinions to the 1992 Constitution reform,” “People may express their viewpoints about Article 4 of the Constitution as well as to any other article in the Draft, without any taboo.” 

2013

January 2: The Politburo issues the Intrustion No. 22-CT/TW on collecting people’s opinions on the Amendment Draft of the 1992 Constitution, Provion 3 and 4 of which said:

“The Central Military Commission and the Central Party Committee of Public Security co-lead and co-supervise the opinion collection within the Military and the Police; strictly lead and supervise the activities of ensuring national security and social order; work with concerned agencies to counter and to deter acts of abusing democracy and taking advantage of the people’s opinion collection process to spread misleading propagandas against our Party and the State.”

“The Central Department of Propaganda and Education, the Party Affair Committee of the Ministry of Culture, Sports and Tourism, and the Party Affair Committee of the Ministry of Information and Communication instruct and guide media agencies at central and provincial levels to develop strategies and plans to disseminate propaganda in diversed forms and to create favourable conditions for the people to contribute opinions; to set up subpages and columns on the Draft and to opportunely reflect public opinion.” 

January 11: Professor Hoàng Xuân Phú writes in his article “The Two Dead Points of the Regime”:

“The VCP may have thought that

– its ruling power over the State and the society, and 

– the regulation that land is owned by the people with the State as the administrator,

as stipulated in Article 4 (*), Article 17 and 18 of the 1992 Constitution, are two dead points of the regime. Consequently, the more the people wish to either abolish or to amend those two provisions, the more the VCP wishes to reserve them. They are part of the Party’s Immutable Policies, and they are restated in Article 4 and 57 of the Revision Draft of the 1992 Constitution.” 

January 19: 72 intellectuals sign on “the Petition for the 1992 Constitution Amendment”, suggesting the seperation of power, the adoption of constitutional court, and the new Constitution be in accordance with the 1948 Universal Declaration of Human Rights. It also calls on the military to pledge loyalty to the nation and the people rather than the VCP as stipulated in Article 70 of the Draft prepared by the Committee for the Revision Draft of the 1992 Constitution.

The petition is posted to Bauxite Vietnam and Anh Ba Sam blog. Subsequently, some legal experts who remain anonymous draw up a new Constitution draft to be attached; accordingly, Vietnam becomes a multi-party democracy.

Together with the petition dated January 19, 2013, this document will later be referred to as Petition 72, the first Constitution draft which is not written by the Committee for the Revision Draft of the 1992 Constitution, i.e. the first among the drafts not produced by the VCP.

February 1: Website Cùng viết hiến pháp (Let’s Draw up the Constitution) is launched at hienphap.net with the purpose of “creating a space for democratic dialogues on constitution reform” as prefaced by the initiative group (including Professor Ngô Bảo Châu, Professor Đàm Thanh Sơn, and Nguyễn Anh Tuấn, former editor-in-chief of the VietNamNet).

February 2: Mr. Lê Như Tiến, Deputy Chair of the Committee of Culture, Education, Youth and Children, in his interview with the Inspectorate magazine, restates, “There is no forbidden zone in amending the Constitution.”

February 4: 16 people, as representatives of the Petition 72 movement, go to the NA head quarter at 37 Hùng Vương St., Hanoi, to hand in the Petition in written from. The delegation is headed by Mr. Nguyễn Đình Lộc, former Minister of Justice. Subsequently some media agencies will report on this, such as the Ho Chi Minh City Legal Daily.

They are welcomed by Mr. Lê Minh Thông, Deputy Chair of the Legal Committee of the NA, Deputy Head of the Editorial Board of the Constitution Amendment Draft.

February 21: Several alumni of the Hanoi Law University submit Petition for the Amendment ofthe 1992 Constitution, suggesting (1) to cancel the deadline for the process of public opinion collection, and (2) to hold referendum so that the Vietnamese people can practice their right to ratify the Constitution.

February 25: General Secretary of the VCP, Mr. Nguyễn Phú Trọng, said in a meeting on Monday with the Vĩnh Phúc Party’s Standing Committee, “Recently there have been currents of ideas that can be considered as political, ideological, and moral deterioration. (For instance) Is there anyone who wants to remove Article 4 from the Constitution? (Anyone) Who wants to deny the Communist Party’s leading role? (Anyone) Who wants pluralism and multi-party system? (Anyone) Who wants separation of power? (Anyone) Who wants to depoliticalize the military? There have been people with such opinions, and their opinions have been disseminated by the mass media. This must be nothing else but deterioration! What can it be to pursue mass litigation, demonstration and class action lawsuit?” 

His preach, broadcast on the Vietnam Television (VTV – the major state-owned television) in the evening news, stirs a public outcry in the blogsphere and the Facebook community.

February 26: Nguyễn Đắc Kiên, a reporter for the Family & Society, writes an article in which he openly criticized the General Secretary as being too judgmental and having committed libel in considering freedom of expression as deterioration. He intially posts the article to his personal blog and sends it also to Anh Ba Sam (“Sidewalk News Agency”, a popular blog advocating for democracy in Vietnam) and Cùng viết Hiến pháp. Later, the article is published on Anh Ba Sam in the morning, and in early that afternoon, the newspaper’s leaders hold a meeting with Kiên, in which they announce his dismissal. The notice of Kiên’s dismissal is published afterwards on the newspaper’s website.

February 28: The “Declaration of Free Citizens”, orginated from Dân Làm Báo (Citizen Journalism), receives thousands of signatures from Vietnamese people, both domestic and oversea. It goes beyond a petition to become a declaration demonstrating a political will, “We not only want to remove Article 4 from the current Constitution, but we also want to conduct a constitutional referendum and to draw up a new Constitution which truly reflects the political will of all Vietnamese people, not the willl of the VCP like the current Constitution imposes. We advocate pluralism and a multi-party system where political parties compete fairly for the sake of freedom, democracy, peace and development of Vietnam, where no political party shall dominate and control the country under any name.”

A logo of the Declaration of Free Citizens as appears on Dân Luận (danluan.org) 

March 1: The Vietnam Episcopal Council sends a letter of assessment and comments to the Committee for the Revision Draft of the 1992 Constitution, requesting that the new Constitution must elaborate more on human rights and revoke the privileges of any political party, and the government must not spread propaganda agaisnt religions or intervene into internal affairs of the religious community.

March 2: A working delegation of the Committee for the Revision Draft of the 1992 Constitution, headed by Mr. Nguyễn Sinh Hùng, Chair of the NA and the Committee, makes a visit to Ho Chi Minh City to work on the process of collecting public opinions on the Constitution Revision Draft in the city.

Later on, every household in Ho Chi Minh City receives a 79-page documents comparing the current Constitution with the Revision Draft drawn by the Committee and a “Request for Opinion on the 1992 Constitution Amendment Draft.” This so-called request offer signees with two options:

1. I totally agree with the 1992 Constitution Amendment Draft

2. I agree with other provisions in the 1992 Constitution Amendment Draft and I would like to suggest amendment to these particular points.

March 6: An official letter from Mr. Nguyễn Sinh Hùng, Chairman of the NA, extends the deadline for the contribution of opinions to the Constitution Revision Drafft to September 30, instead of the previous deadline of March 30. He also urges authorities at all levels, and local state agencies to “create favourable conditions for the people to contribute their opinions.”

March 8: The Vietnam Television embarks on a huge media campaign at “prime time” – the daily 19h Evening News – to condemn those who have signed on Petition 72, reaffirming and praising the leading role of the VCP.

On the same day, blog Anh Ba Sam – so far the most straightforward website in publishing unmainstream viewpoints other than the VCP and the Government’s regarding the Constitution reform – is hacked, all of its data removed. The website editors seek to regain their control, and the unequal battle between them and a corps of hackers began.

Along with the media campaigns launched by the Vietnam Television, the Nhân Dân (People), Quân Đội Nhân Dân (People’s Army) and Công An Nhân Dân (People’s Police), many of the people who have signed on the Petition 72 (initiated by 72 intellectuals) report to Internet media their being questioned and harassed by local authorities and police staffs.

March 9: The Đại Đoàn Kết (Great Solidarity) newspaper publishes an article, “Attempted Counterfeit”, alleging the signees of Petition 72 in Hà Tĩnh province to be phantom. The group of co-authors writes in their conclusion, “Forging signatures to exert pressures upon the VCP and the Government means taking advantage of democracy and the opinion contribution process for sabotage, and this originates from the dark motive of some political dissidents.” 

March 10: The Vietnam Television bolsters the Đại Đoàn Kết with TV reportage “Counterfeiting signatures in the petition for Constitution amendment”, broadcast in the 19h Evening News. In the reportage, Ms. Nguyễn Thị Hường, Vice Principal of the Hà Tĩnh University, is reported saying, “Regarding the Article 4 of the current Constitution, all students consent to it. There is not any view of dissent at all.” 

March 12: The Nhân Dân (People) newspaper, the official mouthpiece of the VCP, publishes the article “When Social Debates Are Employed as a Guise” by Huỳnh Tấn, implying that the initiators of all online petitions “must have had nothing to do,” “must be anti-Party.”

March 13: Hackers attack other sites of Anh Ba Sàm, posting fake photos and stories they made up about the site editors to discredit them.

March 15: Anh Ba Sam resumes blogging at another site address.

March 17: The Công An Nhân Dân (People’s Police, official mouthpiece of the public security force) publishes an editorial by Phương Nhi, highlighting that Article 4 is an integral part in the national history of constitution making, and that to protect this Article means to defend national sovereignty and revolutionary achievements out of deference to national history and dignity.

March 18: An editorial on the Quân Đội Nhân Dân (People’s Army), official mouthpiece of the communist military, declares that the military cannot be placed out of the leadership of the VCP. The Vietnam Television, as usual, involves itself in advocating this viewpoint.

Many people in Ho Chi Minh City grumble on Facebook, Bauxite Vietnam and Anh Ba Sam, about being “guided” by local authorities to sign “totally agree” on the Request for Opinion, i.e. the opinion contribution form prepared by the Committee for the Revision Draft. They are being told, for example, “Just sign “totally agree” and that is all,” “You should not choose the second option, especially not mention Article 4 and other things related to the police. If there’s anyone who chooses the second, local administrative employess remember to note down his or her home address.” 

March 20: In the 19h Evening News, the Vietnam Television (VTV) and the Chair of the Hà Tĩnh Fatherland Front, Mr.Từ Văn Diện, say that although Thái Bình and Hà Tĩnh are lands of revolutionary tradition, there are many people in these two provinces whose signatures were forged in Petition 72. They allege this to be the evidence that the Petition is a political plot to subvert the Party’s guidelines and the Government’s policies.

However, both VTV and Mr. Từ Văn Diện fail to present any concrete example or evidence of counterfeit. Ten days later, Professor Hoàng Xuân Phú points the fallacies committed by VTV out in his article, “You Want to Hold Monopoly even in Telling Lies?” posted in his blog and reported by Anh Ba Sam.

March 22: News reporters of the Vietnam Television conduct an interview with Mr. Nguyễn Đình Lộc, former Minister of Justice, head of the representative delegation of Petition 72 group. He says, “I was not involved. I did not participate. I did not participate in compiling those documents.”

On the same day, in an interview with the Voice of Vietnam, Professor Đỗ Thế Tùng, Ph.D., former Head of the Institute of Economics, Ho Chi Minh National Academy of Politics and Public Administration, stresses that public ownership of land remains inevitable.

April 2: The initiators of Petition 72 issue a statement, claiming, “Resorting to violence and bad political tactics to maintain the authoritarian regime, despite the will of the people, will cause great harm to the country, the people and even to the VCP.”

April 3: Local authorities in Bình Dương province hold a press conference to announce the results of the public opinion contribution process. Accordingly, the number of opinions contributed from March 12 to March 27 amounts to 44,459,628, given the population of 1.7 million within the province. Of which, 44,455,188 people “totally agree” to the Revision Draft, accounting for 99.99% of the population.

April 13: The Free Citizens make the second declaration, Constituent Power Must Belong to the People, calling on people to refuse cooperating with any act of coercing citizens into signing documents related to the Constitution, and urging the Government to “stop going from door to door, forcing people to sign on the Constitution Revision Draft” and to “strictly ban and punish any act that aims to intimidate independent opinions”.

April 21: The Quân Đội Nhân Dân (People’s Army) quotes the Standing Committee of the NA as saying, “Three months of earnestly implementing the NA’s Resolution, the Politburo’s Instruction on collecting people’s opinions on the 1992 Constitution Revision Draft have elapsed. In total, there have been over 26 million opinions from organizations and invididuals regarding the Revision Draft, and 28,140 conferences and seminars contributing opinions have been organized.”

* * *

 (*) Article 4 of the 1992 Constitution of Vietnam stipulates that the Communist Party is the supreme leader of the State and the society.

Đoan Trang

http://www.phamdoantrang.com/2013/04/luoc-su-cuoc-sua-oi-hien-phap-viet-nam.html

Đảng CS không đối thủ vì đối lập yếu

Quốc Phương. bbcvietnamese.com. 26 tháng 4, 2013

Đảng cộng sản Việt NamĐảng Cộng sản VN nói có tới hàng chục triệu đảng, đoàn, đội viên hậu thuẫn

Lực lượng đối lập trong nước của Việt Nam hiện nay vừa yếu vừa không có sức mạnh, trong khi đảng cộng sản đang không có đối thủ và có thể sẽ giữ vững quyền lực trong nhiều thập kỷ nữa, theo một quan chức trong ngạch giảng dạy cao cấp của Đảng.

Cùng lúc, một số nhà bất đồng chính kiến thừa nhận đối lập quả là còn yếu và phân tán nhưng cho rằng quá trình đất nước vận động đi đến một xã hội ‘dân chủ đa đảng’ là tất yếu.

Nhận xét về vị thế ‘không đối thủ’ của Đảng cầm quyền tại Việt Nam đến từ một quan chức thuộc Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh trong dịp Việt Nam sắp kỷ niệm sự kiện 30/4/1975.

Trao đổi với BBC từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đình Tấn, Giám đốc Viện Xã hội học thuộc Học viện nói:

“Thực chất ở Việt Nam hiện nay, có thể nói với Đảng Cộng sản Việt Nam thì không có đối thủ. Nếu thể hiện là đối thủ của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là một tổ chức, tôi nghĩ là không có,”

“Nó chỉ có thể có những ý kiến của những cá nhân, những nhóm người ta có những khác biệt với Đảng Cộng sản. Với tư cách đối thủ, tôi quan niệm là không có và trong tương lai tôi nghĩ là không có.”

Ông khẳng định vị thế đạt được qua lịch sử của Đảng cộng sản:

“Đảng Cộng sản gắn với lịch sử, ra đời trong bối cảnh đất nước Việt Nam ngày xưa nghèo nàn và bị đô hộ bởi phong kiến. Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó được coi là đội quân tiên phong nhất, được xã hội rồi dân tộc lựa chọn.”

“Trước đó cũng có nhiều kẻ sỹ, nhân sỹ và những người yêu nước khác nữa, nhưng Đảng Cộng sản và đứng đầu bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy được vị thế trong nhân dân.”

‘Uy tín vẫn lớn?’

Người đồng thời giữ cương vị Chủ tịch Hội Xã hội học Việt Nam nói uy tín, thế và lực của Đảng cộng sản còn rất mạnh:

“Việt Nam bây giờ có nhiều vấn đề, nhưng về cơ bản, uy tín của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn là lớn. Lực lượng rõ ràng có 4-5 triệu người, mà trong đó không chỉ có những triệu Đảng viên như vậy, mà con có gia đình của hàng triệu Đảng viên.

“Trong tương lai xa, Việt Nam sẽ đi vào quỹ đạo văn minh, quốc tế. Việt Nam là phương Đông, không thể đổ vỡ, không thể thực hiện kiểu cú sốc như phương Tây”

Giáo sư Nguyễn Đình Tấn (giữa, hàng đầu)

“Rồi nó cũng có hàng chục triệu Đoàn viên là cánh tay phải của Đảng, rồi hàng chục triệu thiếu niên nhi đồng cũng là những cánh tay mầm non của Đảng, nên theo quan điểm của tôi Đảng Cộng sản không có đối thủ; những đối thủ ra mặt và đầy đủ lực lượng tôi nghĩ là không có ai cả.”

Quan chức nghiên cứu này nhận xét về lực lượng đối lập và đấu tranh cho dân chủ trong nước. Ông nói:

“Chỉ có điều là có những ý kiến, còn có những ý kiến mong muốn và thậm chí người ta còn phàn nàn về một số cá nhân, một số nhóm này nọ, và tôi cũng nghĩ không nên đánh giá họ nặng nề.

“Tôi nghĩ cái đó có, kể cả trong nhân dân cũng có, nhưng số đó là số ít và số đó không có sức mạnh. Và trong thập kỷ sắp tới chưa thể có cái gì đó để có thể vươn tới, tạo ra sự đối trọng với Đảng.

“Mà hơn nữa Đảng của chúng tôi đang tiến hành cải cách rất mạnh, vừa rồi tiến hành nghị quyết Trung ương IV, thực chất là tiến hành cuộc đấu tranh phê và tự phê, thực chất là tiến hành những cải cách rất mạnh mẽ, trung thực và cầu thị.

Theo Giáo sư Tấn, Đảng cộng sản đang tiếp tục khẳng định vị thế lãnh đạo, nhưng cho rằng Đảng sẽ không thể được chấp nhận nếu tiếp tục sai sót hay nếu không tự đổi mới vì như vậy theo ông sẽ không thể tiếp tục ‘nắm bắt ngọn cờ.’

Ông cho rằng Việt Nam sẽ đi lên trong ổn định, hòa bình với ổn định phải là vấn đề ‘nguyên tắc’ và các tiếp thu phải có chọn lọc.

‘Không là duy nhất’

Về học thuyết chính trị Mác – Lênin mà Đảng Cộng sản Việt Nam lâu nay xếp là kim chỉ nam, ông nói:

“Trước kia chúng tôi nói là theo chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng tôi dùng từ theo, nhưng bây giờ chúng tôi đặt vấn đề là chúng tôi nghiên cứu, tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, và đồng thời vận dụng nó một cách sáng tạo, có phát triển, đổi mới và có phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin.

“Và chủ nghĩa Mác – Lênin không là duy nhất mà chúng tôi tiếp thu rất đa dạng các học thuyết khác, của cả Parsons, của cả Durkheim, của cả Auguste Compte, của Weber…những nhà khoa học, chúng tôi tiếp thu những hạt nhân hợp lý ở trong đó vào trong tư tưởng, phần hồn chỉ đạo đất nước của chúng tôi.”

Giáo sư Tấn so sánh một số mô hình chính trị và cho rằng Đảng cộng sản Trung Quốc đang thành công với học thuyết phát triển lấy phương châm “hài hòa” làm trọng tâm, nhưng ông cũng đánh giá cao mô hình đa đảng ở Mỹ.

“Đấu tranh dân chủ ở VN phải vừa đấu tranh, vừa có lý luậtn, phải tổ chức lực lượng quần chúng. Phải đồng thời xây và chống, nhiều tổ chức mới chỉ làm được chống mà chưa làm được xây”

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang (trái)

Ông nói:

“Hai đảng rất văn minh, trên thực tế nó không phải là hai cái đảng đối lập theo nghĩa là nó tiêu diệt lẫn nhau. Mà đây, hai Đảng có thể có những khác biệt, nhưng trong đó người ta tranh đua với nhau để đưa ra những phương án tốt nhất.”

“Đồng thời đảng này sẽ bị đảng khác giám sát, nếu anh làm không tốt, thì đến một ngày nào đó, anh phải trao quyền lực, luân phiên một cách khách quan, thông qua bầu cử.”

Tuy vậy, qua kinh nghiệm “Mùa Xuân Ả-rập,” Giáo sư Tấn từ chối cho rằng Việt Nam sẽ cần tới ‘vùng đệm’ là thể chế đa đảng đối lập và đa nguyên chính trị để tránh ‘nổi dậy, đổ vỡ’, vì ông nhìn thấy mô hình đa đảng ở một số nước Trung Đông và Bắc Phi là “ma quái” và không đáng học tập.

Về lựa chọn mô hình chính trị và hướng đi tương lai, Giáo sư Tấn khẳng định:

“Trong tương lai xa, rồi thì Việt Nam cũng sẽ đi vào quỹ đạo chung, quỹ đạo bình thường của nền văn minh. Việt Nam đang đi, nhưng phải đi từ từ, dần dần, Việt Nam là phương Đông, không thể thực hiện những cú sốc được theo kiểu phương Tây.”

‘Cơ hội đổi mới’

Bình luận về ý kiến của ông Tấn, nhà hoạt động dân chủ, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang nói với BBC từ Hà Nội rằng ông thừa nhận lực lượng đối lập và cổ súy cho dân chủ ở trong nước hiện nay chưa đủ mạnh.

“Điểm yếu của họ là họ đang ở vị trí phi nghĩa, khi họ áp đặt sự cai trị của họ lên cả dân tộc Việt Nam”

Luật sư Nguyễn Văn Đài

Tuy nhiên ông cho rằng thực trạng này cũng có nguyên nhân từ việc chính quyền sử dụng các công cụ chuyên chính vô sản để ngăn chặn, kiềm chế, hoặc phân hóa.

Về cách thức và đường lối của phong trào dân chủ trong nước, ông Giang cho rằng đấu tranh dân chủ ở Việt Nam cần có chiến lược vừa đấu tranh, vừa lý luận vừa đồng thời tổ chức lực lượng quần chúng.

“Phải đồng thời xây và chống, nhiều tổ chức mới chỉ làm được chống mà chưa làm được xây…,” ông nói.

Tuy nhiên, Tiến sỹ Giang tin rằng phong trào dân chủ và đối lập đang đứng trước những cơ hội vì theo ông Việt Nam đang chuyển mình trong khi đảng cộng sản đang tỏ ra suy yếu lại xuất hiện phân hóa nội bộ và ‘đánh đá, tiêu diệt lẫn nhau’.

Về phần mình, luật sư Nguyễn Văn Đài, một nhà hoạt động dân chủ khác từ trong nước, cho rằng nhận xét của Giáo sư Tấn cũng có phần khách quan, khi lực lượng dân chủ và đối lập theo ông Đài vẫn còn yếu và chưa có chương trình dài hạn.

Ông Đài cho rằng tình hình Việt Nam hiện nay tương đồng với tình hình đêm trước các cuộc Cách mạng ở Đông Âu, khi đó các nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo còn khá mạnh và các lực lượng đối lập, dân chủ bị kìm kẹp chặt và có phân tán lực lượng.

“Nhưng mọi điều bất ngờ đều có thể xảy ra,” ông nói trước khi đưa ra so sánh tương quan giữa phong trào đối lập và Đảng cộng sản hiện nay.

“Điểm mạnh của Đảng cộng sản hiện nay là họ nắm trong tay mọi công cụ sức mạnh từ quân đội, cảnh sát, tòa án rồi toàn bộ hệ thống chính trị của họ đều nằm trong tay của Đảng cộng sản. Điểm yếu của họ là họ đang ở vị trí phi nghĩa, khi họ áp đặt sự cai trị của họ lên cả dân tộc Việt Nam.

“Nó không tạo ra sự công bằng, bình đẳng cho tất cả người dân ở trong xã hội, và tệ nạn tham nhũng, suy thoái đạo đức của họ làm cho chính bản thân họ suy yếu đi rất nhiều.”

‘Vận động tất yếu’

“Còn điểm yếu hiện nay là chúng tôi thiếu kinh nghiệm, và thiếu một chương trình để chúng tôi có thể làm việc một cách lâu dài, hướng đến một mục tiêu thành công ở trong tương lai”

Về phong trào đấu tranh dân chủ, ông Đài nói:

“Con đường đấu tranh, sự lựa chọn là con đường chính nghĩa, là quá trình đi đến tất yếu của sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội Việt Nam, đó là một xã hội dân chủ đa đảng, đó là sức mạnh chính nghĩa và được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng như người dân ở trong nước,”

“Còn điểm yếu hiện nay là chúng tôi thiếu kinh nghiệm, và thiếu một chương trình để chúng tôi có thể làm việc một cách lâu dài, hướng đến một mục tiêu thành công ở trong tương lai.”

Gần đây phong trào đấu tranh cho dân chủ và các lực lượng đối lập ôn hòa ở Việt Nam được cho là có thêm những bước phát triển mới phong phú, đa dạng hơn về nội dung và hình thức hoạt động, đấu tranh, đặc biệt với sự phát triển của mạng internet và các phong trào viết blog và mạng xã hội.

Trong khi đó, phong trào cũng được cho là gặp sự kiểm soát mạnh mẽ, chặt chẽ, có tính hệ thống của chính quyền, nhiều nhà hoạt động dân chủ ôn hòa, trong đó có một số bloggers có tiếng như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, các luật gia như Lê Quốc Quân và trước đó là Cù Huy Hà Vũ, đã bị bắt giữ và đối diện, hoặc có thể đối diện những bản án nghiêm khắc.

Cùng lúc một số quốc gia Phương Tây tiếp tục khuyến khích Việt Nam cải tổ hệ thống chính trị và các nhà ngoại giao của họ cố gắng tiếp xúc với giới bất đồng chính kiến để gửi thông điệp rằng họ ủng hộ cho một môi trường dân chủ hơn tại Việt Nam.

VN theo sát vụ kiện TQ ở Biển Đông

Việt Nam nói họ theo dõi sát tiến trình vụ Philippines kiện TQ về chủ quyền tại Biển Đông sau khi Tòa án quốc tế về Luật Biển đã chỉ định đủ trọng tài viên cho Tòa Trọng tài của LHQ.

Tòa án này là cơ quan hành pháp được thành lập thể theo Phụ Lục VII của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển.

Bấm Website của Bộ Ngoại Giao Việt Nam dẫn lời Người Phát ngôn Lương Thanh Nghị nói “Là quốc gia ven biển có các quyền và lợi ích quốc gia hợp pháp và chính đáng ở Biển Đông, Việt Nam quan tâm và theo dõi sát tiến trình của vụ kiện này”.

“Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, cũng như chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình ở Biển Đông.

“Việt Nam đề nghị các bên liên quan nghiêm túc thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) ký năm 2002 giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc, Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao ASEAN – Trung Quốc lần thứ 15 kỷ niệm 10 năm DOC và mong muốn các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc sớm tiến hành đàm phán chính thức xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)”, ông Nghị nói thêm.

Trang web của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho hay ngày 24/4/2013, Chánh án Tòa án quốc tế về Luật Biển đã chính thức chỉ định các trọng tài viên cho Tòa Trọng tài được thành lập theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

Vào tháng Một năm nay, Philippines đã ra thông báo và tuyên bố khởi kiện Trung Quốc về chủ quyền lãnh hải tại Biển Đông.

Việc Philippines kêu gọi đưa ra trọng tài giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông gần đây đã được thúc đẩy thêm, với việc Nghị viện Âu châu ra nghị quyết ủng hộ sáng kiến của Manila.

Nghị viện Âu châu đã ra nghị quyết hôm 14/3 theo đó thông qua một bản phúc trình có nội dung ủng hộ sáng kiến trọng tài của Philippines theo Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc 1982 (UNCLOS), nhằm làm rõ các quyền trên biển của nước này tại Biển Đông.

Bản phúc trình cũng kêu gọi Trung Quốc “tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong việc theo đuổi các mục tiêu ở nước ngoài”.

Bộ Ngoại giao của Philippines trong một tuyên bố đã hoan nghênh nghị quyết này là một “cột mốc” trong các nỗ lực của Philippines trong việc thu hút chú ý tới chuyện xử lý bất đồng về chủ quyền ở các vùng đang có tranh cãi trên Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình như đưa ra trọng tài.

‘Chiếm tạm thời’

TQ và Philippines từng đưa tàu ra đối đầu ở khu vực Bãi cạn Scarborough.

Vào hôm 26/04, Philippines cáo buộc Bắc Kinh có động thái “chiếm đóng tạm thời” một bãi cạn tại Biển Đông sau khi có đối đầu nhưng không có va chạm hồi năm ngoái.

Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario nói ba tàu của Trung Quốc vẫn ở trong vùng ngoại vi Bãi cạn Scarborough và hù dọa ngư dân địa phương.

Ông được các hãng thông tấn dẫn lời nói Trung Quốc đang cố chiếm đóng theo kiểu “chiếm tạm”.

Trung Quốc vốn nhiều lần phản đối việc mang tranh chấp quanh bãi cạn Scarborough ra tòa quốc tế, nói đây là chủ đề song phương giữa Trung Quốc và Philippines.

Tình hình quanh bãi cạn mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham căng thẳng từ năm ngoái, khi Bắc Kinh gửi nhiều tàu thuyền tới đây.

Các lãnh đạo ASEAN tới dự họp ở Brunei tuần qua hy vọng là Trung Quốc sẽ sớm đồng ý bắt đầu các cuộc đàm phán về một thỏa thuận kiềm chế nhằm ngăn chặn nguy cơ xảy ra đụng độ lớn tại các vùng lãnh thổ có tranh chấp, điều có thể gây tổn hại cho các nền kinh tế trong khu vực.

Thế nhưng Trung Quốc đến nay vẫn không hề ra một chỉ dấu rõ rệt về việc khi nào Bắc Kinh sẽ đồng ý thương thuyết về Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông này.

“Mọi người đều quan tâm một giải pháp hòa bình và cũng đều lên tiếng quan ngại về tình trạng gia tăng tranh chấp trên biển,” AP trích lời Tổng thống Philippines Benigno Aquino III nói với các phóng viên sau khi ông và các vị lãnh đạo quốc gia khác có bữa ăn tối truyền thống hôm 24/04.

Tháng 6/2012, Manila đã phải rút tàu của mình về và vào tháng ngày 22/1 năm nay, ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario nói Philippines “đã cạn kiệt tất cả các giải pháp chính trị và ngoại giao nhằm giải quyết thông qua đàm phán hòa bình với Trung Quốc”.

Ông cũng nói ông hy vọng tòa án quốc tế sẽ đưa lại giải pháp lâu bền cho tranh chấp.

Kinh tế thất bại- bất mãn công khai- gia tăng đàn áp

Việt-Long, RFA, phỏng theo The New York Times, Apr 24, 2013-

Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này
14826_2734116169767_13750215_305.jpg

Giáo dân ký kiến nghị đòi hủy điều 4 hiến pháp 1992 tại nhà thờ Thái Hà. Courtesy Huỳnh Ngọc Chên Blog

Sụp đổ đè lên chính nó

Tủ sách đầy những tuyển tập của Marx, Engels và Hồ Chí Minh, dấu ấn của một sự nghiệp trung thành với đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng nhà học giả 77 tuổi nói ông không còn là “tín đồ” của Đảng.

Từng là cố vấn cho hai thời Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Phước Tường, (tức giáo sư Tương Lai- ghi chú của người dịch), đang nói lên những tiếng nói phản kháng mạnh mẽ chính quyền Việt Nam, giống như bao nhiêu người khác ở Việt Nam ngày nay.

Hệ thống của chúng tôi bây giờ là chế độ toàn trị độc đảng. Tôi xuất thân từ bên trong hệ thống ấy – Tôi hiểu tất cả những khiếm khuyết, những bất cập, những suy đồi thoái hóa của nó. Hệ thống này không được sửa chữa thì sẽ sụp đổ đè lên trên chính bản thân nó”  – Ông trả lời một cuộc phỏng vấn, tại căn hộ ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh.

gs-tuong-lai
Nhà học giả Mác-Xít: GS Tương Lai Nguyễn Phước Tường – trinhanmedia.com.vn photo

Đảng từng chiến thắng lực lượng miền Nam Việt Nam do Mỹ yểm trợ năm 1975 đang đối diện sự phẫn nộ ngày càng tăng trước một nền kinh tế suy sụp, vì chia rẽ do những tranh cãi giữa những người bảo thủ ôm chặt truyền thống muốn duy trì xã hội dưới những nguyên tắc chỉ đạo của xã hội chủ nghĩa đi đôi với quyền lực độc tôn, chống lại bên kia là những người kêu gọi (áp dụng) một hệ thống đa nguyên hơn cùng với sự hội nhập hoàn toàn với chủ nghĩa tư bản.Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất là đảng đang đấu tranh đối phó với một xã hội được thông tin đầy đủ hơn, nhiều phê phán hơn, nhờ những tin tức và ý kiến phổ biến qua internet, thoát khỏi (vòng bưng bít) của truyền thông do Nhà nước kiểm soát.

Từ khi thống nhất xứ sở 38 năm về trước. đảng Cộng sản đã trải qua thử thách với những cuộc xung đột với Trung Quốc và Cambodia, những khủng hoảng tài chính và chia rẽ nội bộ. Sự khác biệt của ngày nay, theo học giả chuyên gia hàng đầu về Việt Nam Carl A. Thayer, là sự phê phán giới lãnh đạo “đã bùng nổ trên khắp nước.
Trong một môi trường toàn trị khác, những chia rẽ trong đảng đã và đang thực sự khuyến khích tự do ngôn luận vì các phe phái đều hăng hái bôi nhọ lẫn nhau, theo học giả Thayer. Ông nói: “Có một nghịch lý ở Việt Nam là những bất đồng bừng nở, và những đàn áp cũng gia tăng cùng lúc”

Thêm bất đồng, gia tăng đàn áp

Khi những tiếng nói bất đồng gia tăng gấp bội trong 92 triệu người dân thì cũng là lúc chính quyền ra sức đàn áp. Các tòa án đã tuyên án tù nhiều bloggers, nhà báo, nhà hoạt động, nhưng lời chỉ trích, nhiều nhất là trên mạng online, vẫn tiếp tục, không giảm sút. Chính quyền cản phá một số trang nhà và địa chỉ internet, nhưng nhiều người Việt sử dụng software hay những trang nhà khác để đi vòng và lách khỏi kiểm duyệt.

“Thêm nhiều người đang cố gắng tự bày tỏ chính mình hơn trước đây, và chỉ trích chính quyền” Ông Trương Huy San, một tác giả, nhà báo, và là một blogger nổi tiếng với bút hiệu Huy Đức nói. “Và những điều họ nói đã gay gắt hơn rất nhiều” Ông San, từng là nghiên cứu sinh đại học Harvard, là tác giả quyển sách “Bên thắng cuộc”, có thể là cuốn sách lịch sử có tính chất bao hàm đầu tiên của Việt Nam trong thời kỳ từ 1975, cũng là cuốn sách sử đầu tiên từ lúc đó mang tính cách phê phán, được một người từ bên trong Việt Nam viết lên.

huy-duc
Nhà báo Huy Đức Trương Huy San – lamtamnhu.blogspot.com photo

Bộ sách được nhiều người đọc ở Việt Nam, gồm 2 quyển, tác giả mang bút hiệu Huy Đức, được in ra không có giấy phép của chính quyền. Bộ sách mô tả cuộc thanh trừng những đảng viên không trung thành và việc chiếm đoạt tài sản của các sở hữu chủ các doanh nghiệp ở miền Nam Việt Nam.

Bề mặt lành, bề đáy vỡ

Với những du khách hời hợt đến thăm Việt Nam, bề mặt nổi của sự tiến bộ kinh tế có thể làm họ khó lòng hiểu được tâm trạng bi quan sâu đậm mà nhiều người bày tỏ trong nước. Hằng triệu người mà mươi năm trước chỉ đi xe đạp, ngày nay phóng xe gắn máy qua các nhà máy và cao ốc văn phòng. Nền kinh tế bừng nở trong thập niên 1990 sau cuộc đổi mới đã sản sinh cho Việt Nam một sự pha trộn của một nền kinh tế thị trường được đảng Cộng sản kèm cặp chặt chẽ. Cả ngày nay nền kinh tế Việt Nam cũng vẫn được dự kiến tăng trưởng khoảng 4 tới 5% cho năm nay, một phần nhờ vào thế mạnh xuất khẩu gạo, cà phê và các sản phẩm nông nghiệp khác. Tuy nhiên thị trường bất động sản đóng băng vì xây dựng dư thừa quá đáng, các ngân hàng chất đầy nợ xấu, báo chí đăng tải những bài nói về nạn thất nghiệp gia tăng, và xứ sở Việt Nam được xếp vào hàng ngũ những nước tham nhũng nhất thế giới, do Transparency International, một tổ chức theo dõi tham nhũng toàn cầu, đánh giá (Việt Nam xếp hạng 123 trong danh sách 176 quốc gia, trong đó những nước mang số hạng càng nhỏ là những nước càng ít tham nhũng)
Giới doanh nghiệp Việt Nam than phiền về những quy định của chính phủ quá sức chịu đựng, bị áp đặt do một đảng tự tin họ là thành phần tiên phong của các doanh nghiệp tư bản. Và nhiều người nói Việt Nam không có định hướng, mặc dù có vẻ có một dân số trẻ siêng năng và không thể áp chế được. “Trong 21 năm ở xứ này tôi chưa bao giờ thấy trong giới trí thức và chủ doanh nghiệp có mức độ bất mãn đến thế đối với hệ thống (chính quyền,) Ông Peter R. Ryder, giám đốc Indochina Capital, một công ty đầu tư ở Việt Nam, nói “Có nhiều cuộc thảo luận rất có ý nghĩa trong cộng đồng doanh nghiệp, và trong nội bộ đảng – giữa những người hết sức quan tâm đến c

le-dang-doanh
TS Lê Đăng Doanh – 24h.com.vn photo

hiều hướng mà quốc gia đang đi theo”Tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân, một hội nghị được Uỷ ban Kinh tế Quốc hội Việt Nam tổ chức vào thượng tuần tháng tư hằng năm, những người tham dự “đang tranh nhau cơ hội đứng trước chiếc microphone,” theo lời ông Lê Đăng Doanh, một nhà kinh tế hàng đầu tham dự diễn đàn mà ông mô tả là “đầy sóng gió.”

Ông nói có sự chỉ trích lan truyền rộng rãi rằng tuy nền kinh tế cần tái cấu trúc sâu xa, nhưng “hầu như “chẳng có gì được thi hành.”

Đó là khủng hoảng niềm tin” Ông Doanh nói. “Năm nào cũng hứa hẹn sẽ tốt đẹp hơn, nhưng người dân chẳng thấy gì”

Vùng tâm bão

Ở tâm của cơn bão chính trị là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người nắm giữ quyền lực từ năm 2006. Phong cách mạnh dạn và chương trình kinh tế nhiều cao vọng của ông đầu tiên giúp ông được nhiều người ủng hộ vì ông bứt khỏi khuôn thuớc ù lì của các “quan lớn” trong giới lãnh đạo đảng Cộng sản.

Nhưng ông làm cho nhiều đảng viên xa lánh khi giải tán ban cố vấn từng là bộ máy lãnh đạo đằng sau chưong trình đổi mới (và trong ban cố vấn đó có ông Tường, học giả Mác-Xít, trong số nhìều đảng viên cao cấp). Quan trọng hơn nữa, chính sách biểu hiệu của ông Dũng, là thúc đẩy mạnh mẽ việc kiến tạo những công ty quốc doanh theo mẫu những đại công ty tư nhân của Hàn quốc, đã phản tác dụng.

Được điều hành do những giám đốc có quan hệ gần gũi với hệ thống giai tầng của đảng Cộng sản, các doanh nghiệp này mở rộng thành nhiều doanh nghiệp nhỏ mà họ không đủ trình độ quản lý, theo các nhà kinh tế nói, và đem đầu cơ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Hai đại công ty quốc do

v-n-p-m
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – xaluan.com photo

anh lớn nhất suýt sụp đổ và rơi xuống tình trạng gần chìm ngập trong nợ nần không trả nổi.Ông Tường, nhà học giả Mác-Xít, nói mối căng thẳng trong đảng Cộng sản đã tăng cao là do khó khăn kinh tế.

Vào tháng 2, ông góp chung tay viết một lá thư ngỏ lên Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, kêu gọi sửa đổi hiến pháp của quốc gia để “bảo đảm quyền lực thực sự phải thuộc về nhân dân.” Ông vẫn chưa hề nhận được một tiếng hồi âm.

Ông Tường nói ông vẫn khao khát xúc tiến thay đổi từ những ngày ông làm cố vấn cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người đã có công kiến tạo lại nền kinh tế trong thập niên 1990.

Nhưng ngày hôm nay ông Tường cảm thấy áp lực của thời gian. Ông bị ung thư, tuy có vẻ thuyên giảm, và ông nói về cơn bệnh như một loại giải phóng tri tuệ thúc đẩy ông nói lên những gì mà hiện lúc này ông coi là sự thật.

Ông Bá Thanh lại dọa ‘bắt nhốt hết’

Ông Nguyễn Bá Thanh tiếp xúc cử tri 25/4Ông Bá Thanh vẫn cương quyết “bắt nhốt hết” những người làm sai

Trưởng ban Nội chính Trung ương Đảng Nguyễn Bá Thanh vừa có cuộc tiếp xúc cử tri lần cuối cùng với tư cách trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng hôm 25/4.

Trước đó ông cũng đã thôi các chức vụ như Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố, để chuyên trách nhiệm vụ khó khăn ở trung ương.

Báo trong nước tường thuật trong cuộc tiếp xúc cử tri hôm thứ Năm tại Quận Hải Châu, ông hứa tiếp tục quan tâm theo dõi công cuộc phát triển ở thành phố.

“Mọi người thấy tui đi, cho rằng tui không theo dõi, giám sát ở đây là nhầm”.

Ông cũng khuyến cáo: “Bà con thấy gì thiệt bức xúc cứ điện thoại cho tui.”

Ông Nguyễn Bá Thanh cho biết vừa xử lý một cán bộ Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng đặt hàng làm sổ theo dõi khám-chữa bệnh không đảm bảo chất lượng nhưng lại đắt gấp nhiều lần thực giá.

“Bà con thấy gì thiệt bức xúc cứ điện thoại cho tui.”

Ông Nguyễn Bá Thanh

Ông nói: “Xây bệnh viện là để từ thiện, nhũng nhiễu ở đây là ác lắm, có lỗi với dân”.

Về tình trạng tiêu cực, nhũng nhiễu trong các lĩnh vực như y tế hay nhà đất, ông Nguyễn Bá Thanh chỉ đạo các ngành chức năng xử lý quyết liệt và triệt để, “bắt nhốt hết” những kẻ làm sai.

Thẳng tay với tham nhũng

Phát biểu trên đồng điệu với tuyên bố của chính ông Thanh cách đây vài tháng, khi ông nói tới chống tham nhũng.

Hồi tháng 1, ông Nguyễn Bá Thanh từng cam kết: “Sắp tới tôi sẽ rà vô một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”.

Tuy hoạt động của Ban Nội chính mới đang ở những bước đầu, chưa mang lại kết quả gì nhãn tiền, ông Thanh tái khẳng định lập trường “thẳng tay với tham nhũng” của mình.

Ông nói: “Vấn đề cử tri hỏi tại sao công chức ‘rên’ lương thấp mà vẫn mua được nhà, sắm được ôtô thì tôi xin trả lời là hiện nay vẫn phải thừa nhận một vài nơi có tình trạng cán bộ hưởng lương ít nhưng khi làm người này người khác cũng dúi cho phong bì phong bao nên cũng khá lắm”.

“Nhưng cũng nói thật nghe, phải coi chừng đó, chứ một ông chủ tịch UBND tỉnh trong miền Nam có xôn xao léng phéng với một cô gái, Bộ Chính trị vừa có ý kiến cho nghỉ luôn đó, không đùa đâu.”

Mới đây, báo chí Việt Nam nói nhiều vụ một nữ phó phòng ở tỉnh Trà Vinh bị kỷ luật vì “quậy phá” trụ sở UBND tỉnh.

Sau vụ này, ông Trần Khiêu, Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh, đã làm đơn xin nghỉ hưu sớm trong khi có nghi vấn về quan hệ giữa ông và người phó phòng ở trên.

‘Mỹ sẽ giúp Nhật nếu có xung đột với TQ’

bbc, 24 tháng 4, 2013

Cộng tác viên Đỗ Thông Minh từ Tokyo nói Hoa Kỳ sẽ giúp Nhật khi có xung đột với TQ tại quần đảo Senkaku.

Trả lời Nguyễn Hoàng của BBC tiếng Việt, ông Minh nói vũ khí của Nhật “chỉ mang tính chất phòng vệ”.

“Thực ra quân đội Nhật cũng mạnh nhưng không mạnh như trước mà phải dựa vào Hoa Kỳ. Nếu Nhật Bản bị xâm phạm thì Hoa Kỳ trong một chừng mực nào đó cũng sẽ ra tay”, ông nói.

Thủ tướng Shinzo Abe vào tuần này nói Nhật Bản sẽ quyết ‘dùng vũ lực’ đối với bất cứ hành động đổ bộ nào của phía Trung Quốc lên khu vực đảo hai nước hiện đang tranh chấp chủ quyền trên Biển Hoa Đông mà Bắc Kinh gọi là đảo Điếu Ngư.

Trong một diễn biến khác, hôm thứ Ba ngày 23/4 Tokyo đã triệu đại sứ Trung Quốc lên để phản đối sau khi tám chiếc tàu của Trung Quốc đi vào vùng biển mà phía Nhật cho là thuộc lãnh hải của họ.

Mỹ ủng hộ Việt Nam về Hoàng Sa?

Tổng lãnh sự Lê Thành Ân trong cuộc gặp
Tổng lãnh sự Lê Thành Ân (người thứ hai bên trái) trong cuộc gặp

Một trang mạng Việt Nam đưa tin Tổng lãnh sự Mỹ Lê Thành Ân vừa có chuyến thăm và làm việc với giới chức UBND huyện Hoàng Sa.

Tuy là đơn vị hành chính đặt ra để quản lý quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa lại đặt ở TP Đà Nẵng vì quần đảo này đã bị Trung Quốc hoàn toàn chiếm đóng.

Việc ông tổng lãnh sự, một trong các đại diện ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ tại Việt Nam, tới thăm và làm việc với củ tịch UBND huyện, có thể được xem như hành động thừa nhận hiện diện của đơn vị hành chính này.

Trang mạng của Bấm huyện Hoàng Sa đưa tin “Chiều ngày 23/4/2013, Đoàn công tác của Tổng lãnh sự Mỹ tại thành phố Hồ Chí Minh do ông Lê Thành Ân [dẫn đầu] cùng các tham tán và viên chức chính trị đã đến thăm và làm việc với UBND huyện Hoàng Sa”.

Đây cũng là trang duy nhất đưa tin về chuyến thăm của ông tổng lãnh sự.

Ông Lê Thành Ân sắp kết thúc nhiệm kỳ ba năm làm Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại TP Hồ Chí Minh, bắt đầu từ tháng 8/2010.

Sự có mặt của ông Lê Thành Ân tại Đà Nẵng trùng hợp với chuyến thăm của tàu khu trục USS Chung-Hoon cùng tàu cứu hộ USNS Salvor với thủy thủ đoàn gần 400 người.

Chuyến thăm của hai tàu chiến Mỹ kéo dài từ 21/4-25/4.

Ủng hộ giải pháp hòa bình

Trang mạng của huyện Hoàng Sa tường thuật: “Trong không khí trao đổi cởi mở và thẳng thắn, Đoàn công tác của Tổng lãnh sự Mỹ bày tỏ lập trường ủng hộ giải pháp hòa bình đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; khẳng định sự cần thiết hợp tác để đảm bảo chủ quyền, đảm bảo hòa bình và an ninh, an toàn, tự do hàng hải, tự do thương mại bình thường trên Biển Đông, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982”.

Đây là quan điểm lâu nay của Hoa Kỳ đối với các tranh chấp tại Biển Đông.

Việt Nam và Trung Quốc đều đang có các chương trình hành động khẳng định chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Mới đây Trung Quốc chính thức phát hành Bản đồ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và công bố Quy hoạch phát triển sự nghiệp hải dương quốc gia 5 năm lần thứ 12, trong đó có những nội dung liên quan Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị chiều thứ Tư 24/4 đã lên tiếng phản đối, nói đây là hành động “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam”.

Blogger Người Buôn Gió: Từ Phất Lộc-Hà Nội đến Weimar-Đức

Tú Anh, rfi, 24-4-13

Blogger Người Buôn Gió

Blogger Người Buôn Gió. DR

Ngày 17/04 vừa qua, anh Bùi Thanh Hiếu, tức blogger Người Buôn Gió, đã đến được thành phố Weimar của Đức trong khuôn khổ chương trình học bổng do thị trưởng thành phố này cấp cho những văn nghệ sĩ từ các nước được mời đến đây để tham quan và lấy cảm hứng sáng tác về thành phố được coi là biểu tượng của văn hóa châu Âu.

Từ Weimar, blogger Người Buôn Gió trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ.

Blogger Người Buôn Gió    24/04/2013

Thủ đoạn của CSVN: Luật đất vẫn giữ ‘sở hữu toàn dân’?

Nông dân Việt Nam chỉ được sử dụng quỹ đất có từ nghìn năm của họ

Hội nghị tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội Việt Nam về dự án sửa Luật Đất đai vẫn kết luận cần duy trì chế độ ‘sở hữu toàn dân’ do Nhà nước làm đại diện và chủ động quyết định cách dùng quỹ đất.

Tại phiên họp hôm 24/4/2013 ở Hà Nội do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức, Thứ trưởng Bộ này, ông Nguyễn Mạnh Hiển đã tóm tắt kết quả lấy ý kiến nhân dân đối với Dự án Luật Đất đai sửa đổi.

Dù thừa nhận sửa đổi Luật Đất đai có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế – xã hội của đất nước và “phải giải quyết được những vướng mắc, bức xúc hiện nay”, quan chức này vẫn nêu ra rằng chế độ sở hữu toàn dân là phù hợp với nhu cầu của hệ thống hiện nay.

Để Nhà Nước được chủ động

Ông Hiển cũng nói rõ ra rằng chế độ sở hữu toàn dân về đất do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu này nhằm phục nhu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu Nhà nước nêu ra:

“[Việc thực hiện quy định] nhằm bảo đảm cho Nhà nước chủ động trong khai thác, sử dụng tài nguyên đất đai phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng,”

Ngoài ra là còn để “phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, theo ông Nguyễn Mạnh Hiển được các báo của chính phủ và Bấm Đảng Cộng sản Việt Nam trích dẫn cùng ngày.

Khác với đa số các quốc gia coi sở hữu tư nhân về đất đai là “bất khả xâm phạm”, ở Việt Nam người dân chỉ được quyền “sử dụng đất được giao”.

Người dân cũng “có trách nhiệm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai”.

“Đa số ý kiến của các đoàn đại biểu Quốc hội đều khẳng định sự tiếp tục quy định sở hữu toàn dân đối với đất đai”

Theo trang của Đảng Cộng sản (cpv.org.vn), tại Hội nghị, dù Bộ Tài nguyên – Môi trường còn tiếp tục nhận các ý kiến từ đại biểu Quốc hội, Hội nghị đã kết luận rằng “đa số ý kiến của các đoàn đại biểu Quốc hội đều khẳng định sự tiếp tục quy định sở hữu toàn dân đối với đất đai”.

Lý do là để “đảm bảo ổn định trong quản lý và sử dụng đất đai, ổn định xã hội” và Nhà nước sẽ chỉ điều chỉnh tỷ giá và cách thực hiện chính sách bồi thường thu hồi đất.

Tuy nhiên, chính chế độ sở hữu đất và các vụ ‘cưỡng chế đất’ như tại Văn Giang một năm trước đây và ở Tiên Lãng đã thu hút sự chú ý của dư luận.

Hiện có sự khác biệt lớn giữa cách nhìn luật đất và chế độ sở hữu đất ở Việt Nam và trên thế giới, nhất là tại các quốc gia cấp viện giúp Việt Nam cải tổ hệ thống pháp luật.

Các nước này có quan điểm rằng sở hữu tư nhân về đất đai gắn liền với các quyền kinh tế và dân sự cơ bản của công dân, còn chính quyền Việt Nam chỉ coi đây là vấn đề kinh tế hoặc an ninh xã hội nếu xảy ra va chạm và tranh chấp đất.

Chẳng hạn, trong Bấm Báo cáo Nhân quyền của Bộ Ngoại giao Anh về Việt Nam, Anh Quốc dự đoán “quyền đất đai sẽ là một chủ đề trong năm 2013”.

Anh Quốc trong năm nay cũng sẽ dùng vai trò chống tham nhũng của họ trong nhóm các nước cấp viện từ EU với Việt Nam để “thách thức chính phủ Việt Nam và nêu bật tầm quan trọng của vấn đề luật đất đai”.

Cùng thời gian, một số chuyên gia, nhân sỹ Việt Nam cũng liên tục lên tiếng cho rằng chính việc giao nhiều quyền xử lý, quản trị đất đai cho các cơ quan công quyền cấp địa phương là lỗ hổng gây tham nhũng và bất công xã hội, dẫn tới bất ổn.

Tuy vậy, sử luật đất đai còn liên quan đến định nghĩa về thể chế và các nguyên tắc của hệ thống ‘xã hội chủ nghĩa’ vốn không còn được duy trì ở Đông Âu sau khi Liên Xô sụp đổ nhưng vẫn là nền tảng của chế độ chính trị hiện hành ở Việt Nam.

‘Đổi quốc hiệu không bằng lo thực chất’

Xã hội Việt NamChính quyền và đảng đang huy động ‘toàn dân’ đóng góp cho sửa đổi hiến pháp

Chuyên gia về luật hiến pháp trong nước nói với BBC rằng việc đổi tên hiệu quốc gia không quan trọng bằng việc làm sao đảm bảo thực chất cho đất nước được hưởng tự do, dân chủ và các quyền con người thực sự.

Trao đổi với BBC hôm 23/4 từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đăng Dung, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng việc để tính từ đi kèm tên nước như hiện nay là ‘xã hội chủ nghĩa’ có thể không phù hợp vì nó chỉ thể hiện một ước muốn còn ở xa trong tương lai.

Ông nói: “Việc chuyển sang ‘Việt Nam Dân chủ Cộng hòa’ theo đề nghị của một số nơi như Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, hay thậm chí của một số học giả, tôi thấy rằng có thể là tốt hơn bởi vì chính thể phải phù hợp với điều kiện thực tiễn, ở thực tại.

“Chứ chế độ chính trị để như trước vì tương lai quá. Hiến pháp đặt ra vấn đề là phải kéo nó về thực tại, giải quyết những gì đang diễn ra ở cuộc sống chứ không phải giải quyết cái gì ở tương lai, ở thời tương lai.

Ông nói ở một số quốc gia, chế độ chính trị vẫn để là ‘Vương quốc’ hay ‘Quốc vương’, một thể chế chính trị rất cũ nhưng ở bên trong, tất cả những gì thể hiện trong đời sống của họ lại đều mang danh một chế độ ‘dân chủ, cộng hòa’ và ông cho rằng đây là một điều tốt.

Chuyên gia luật nhận xét trên thế giới hiện có rất ít quốc gia đề tên hiệu ‘Xã hội chủ nghĩa’ và cho rằng tên hiệu của Việt Nam như hiện này ‘có một cái gì đó hơi xa’ với thực tế của đất nước.

Giáo sư Dung cho rằng đổi tính từ trong quốc hiệu trở lại ‘Dân chủ, Cộng hòa’ có thể là một phương án có nhiều tiềm năng, phù hợp, đồng thời theo ông sẽ không có vấn đề gì sau khi đổi quốc hiệu về cơ bản nói chung cũng như về mặt thừa kế, tiếp tục, xử lý các hệ lụy về pháp lý hay giao dịch quốc tế nói riêng.

Ông nói: “Hiện nay cũng có một số quan điểm khác, việc đổi tên nước có thay đổi về mặt nội dung hay không.

“Hình thức thay đổi thì nội dung có thay đổi hay không thì người ta cũng lo lắng. Anh thay đổi về mặt hình thức nhưng nội dung không thay đổi thì cũng chẳng có nghĩa lý gì cả”.

‘Cũng bằng không’

“Ăn nhau vẫn là phải đổi nội dung thể hiện bên trong cuộc sống của xã hội Việt Nam như thế nào… Thế còn… nếu không có tự do, không có dân chủ thì cũng bằng không”

GS Nguyễn Đăng Dung

Ông nhấn mạnh: “Ăn nhau vẫn là phải đổi nội dung thể hiện bên trong cuộc sống của xã hội Việt Nam như thế nào, đấy là vấn đề.”

“Thế còn… cuộc sống ở bên trong không thể hiện được hình thức ở bên ngoài, nếu không có tự do, không có dân chủ thì cũng bằng không.”

Gần đây ý kiến của dư luận và một số học giả trong nước còn cho rằng quốc hiệu cũng thể hiện kỳ vọng về mục tiêu quốc gia hay thể chế hướng tới.

Về hướng đi đổi mới thể chế trong dài hạn của Việt Nam, một nhà nghiên cứu xã hội học trong nước cho rằng nhà nước cần lưu ý các mục tiêu thực chất hơn về công bằng và dân chủ, với trọng tâm ưu tiên đặt vào công bằng xã hội.

Trao đổi với BBC từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đình Tấn, từ Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia, nói:

“Công bằng nên đặt trước dân chủ. Dân chủ rất quan trọng, nhưng nếu dân chủ mà không công bằng thì cái dân chủ đó chỉ là lời kêu gọi thôi. Khi có công bằng xã hội, thì khi đó mới có dân chủ, và hai cái đó tương tác với nhau.”

‘Quỹ đạo văn minh’

Giáo sư Tấn cho rằng về lâu về dài Việt Nam sẽ hòa nhập với ‘quỹ đạo văn minh’ quốc tế nhưng từ nay tới đó, quốc gia này sẽ vẫn giữ nguyên thể chế có duy nhất một đảng lãnh đạo là đảng cộng sản Việt Nam.

Ông nói: “Có lẽ trong tương lai xa, rồi thì Việt Nam cũng sẽ đi vào quỹ đạo chung, quỹ đạo bình thường của nền văn minh

“Việt Nam đang đi, nhưng phải đi từ từ, dần dần, Việt Nam là phương Đông, không thể thực hiện những cú sốc được theo kiểu phương Tây.

“Trong tương lai xa, Việt Nam cũng sẽ đi vào quỹ đạo chung, quỹ đạo bình thường của nền văn minh… VN đang đi, nhưng phải đi từ từ, dần dần, VN là phương Đông, không thể thực hiện những cú sốc “

GS Nguyễn Đình Tấn (giữa)

Về ‘mục tiêu phấn đấu’ của Việt Nam do Đảng cộng sản đặt ra, trong một trao đổi với BBC gần đây, Đại biểu Quốc hội, sử gia Dương Trung Quốc nêu quan điểm:

“Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội tôi nghĩ vẫn là mục tiêu có thể đặt ra, nhưng nó phải hết sức thực tiễn vì đó là mô hình chưa hề có. Vì thế tôi đề nghị, tôi mong muốn là ta trở lại với chế độ dân chủ, cộng hòa.”

Gần đây, truyền thông trong nước phản ánh các ý kiến đặt vấn đề về việc Việt Nam cần sửa đổi tên hiệu của quốc gia ra sao cho phù hợp với tình hình mới nhân dịp nhà nước tổ chức việc lấy ý kiến đóng góp của người dân cho sửa đổi Hiến pháp hiện hành.

Có ý kiến gợi ý rằng đổi lại tên nước là trở lại đúng với Bấm bản chất chế độ, nhưng cũng có ý kiến tin rằng Bấm chưa nên đổi tên trong thời điểm hiện nay và cần cân nhắc toàn cục.

Một blogger là sỹ quan và phóng viên của báo Quân đội Nhân dân còn đặt nghi vấn cho rằng đổi tên nước có thể là ‘ Bấm một chiêu‘ mà một số nhà lập pháp tung ra có ý đồ.

Được biết, trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi chính thức mà chính quyền và Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội Việt Nam đưa ra vấn ý người dân hôm 12/4, ở điều 1, phương án 2, nội dung quốc hiệu, có đoạn viết:

“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”

Các bài liên quan

Việt Nam bàn việc gia nhập TPP

Ông Demetrios Marantis và ông Vũ Văn Ninh (ảnh của website Chính phủ)Đại sứ Marantis đã gặp nhiều giới chức cao cấp của Việt Nam

Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nói với Quyền Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Demetrios Marantis rằng Việt Nam quyết tâm gia nhập Hiệp định TPP.

Đại sứ Marantis đang có chuyến thăm làm việc kéo dài ba ngày, bắt đầu từ 21/4, để thảo luận với giới chức cao cấp của Việt Nam về việc Việt Nam đàm phán gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong thời gian tới.

Hôm thứ Ba 23/4, ông Marantis đã hội kiến Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước khi gặp ông Vũ Văn Ninh, theo website của cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ.

Chủ tịch Sang được dẫn lời “đề nghị hai bên cần tăng cường trao đổi, rút ngắn lộ trình đàm phán TPP”.

Ông nói: “Việt Nam sẽ nỗ lực tối đa và mong muốn nhận được sự giúp đỡ về kỹ thuật của Mỹ, thúc đẩy đàm phán thành công, tạo tiền đề nâng tầm quan hệ Việt Nam – Mỹ”.

Trong khi đó, Quyền Đại diện Thương mại Marantis đánh giá rằng “để hoàn tất đàm phán TPP vào tháng 10 năm nay, Mỹ và Việt Nam còn nhiều nội dung cần trao đổi để đi đến thống nhất”.

Phát biểu của ông Marantis cho thấy quá trình đàm phán của Việt Nam còn nhiều khó khăn tuy thời gian không còn nhiều.

Quyền lao động

Cuộc gặp đầu tiên trong chuyến công du của ông Demetrios Marantis là với Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội Nguyễn Thanh Hòa, trong đó hai bên thảo luận việc sửa đổi Luật Lao động và Công đoàn của Việt Nam trong bối cảnh gia nhập TPP.

Quyền lao động được cho là một yếu tố quan trọng trong đàm phán TPP của Việt Nam.

Sau đó Đại sứ Marantis đã gặp Thứ trưởng Công an Tô Lâm, trong đó ông đã đề cập một số quan ngại của Hoa Kỳ, trong có việc Việt Nam ngăn chặn các website bất đồng chính kiến và liên hệ giữa quan hệ thương mại song phương với tình hình nhân quyền.

Cải thiện nhân quyền là một trong các đòi hỏi của không chỉ Hoa Kỳ mà còn của nhiều quốc gia Phương Tây để tăng cường hợp tác kinh tế.

Giới quan sát bình luận rằng Chính phủ Việt Nam thường đưa ra các nhượng bộ về nhân quyền trong khi đàm phán các hiệp định hợp tác quan trọng; và ngược lại, các nước liên quan cũng lấy nhân quyền làm chủ đề để gây áp lực với Hà Nội.

Hoa Kỳ đang đàm phán với một loạt nước về Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương

Đại sứ Marantis còn gặp Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, trong đó ông thảo luận các cơ hội TPP có thể mang lại cho Việt Nam, cũng như các vấn đề chính còn đang phải thương lượng, như tiếp cận thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư và thương mại điện tử.

Với Bộ trưởng Tài Nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang, ông Demetrios Marantis đã bàn các vấn đề buôn bán trái phép động vật hoang dã, khai thác gỗ trái phép và trợ giá cho ngư nghiệp, trong các đòi hỏi chung ngặt nghèo về bảo vệ môi trường.

Hiệp định quan trọng

Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam.

Thương mại hai chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng từ 1 tỷ đôla năm 2001 tới 26 tỷ vào năm ngoái.

Hiệp định TPP có thể làm tăng mạnh con số đó và được cho là có lợi cho cả hai bên.

Trong buổi tiếp Đại sứ Marantis chiều 23/4, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh khẳng định “Việt Nam nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Hiệp định TPP,” theo website Chính phủ.

“Từ một thành viên liên kết, Việt Nam đã trở thành thành viên đàm phán chính thức. Trải qua nhiều vòng đàm phán, các bên đều đạt được những tiến bộ quan trọng. Điều này khẳng định quyết tâm của Chính phủ Việt Nam”, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nói.

Hiện TPP đang được đàm phán giữa Hoa Kỳ và các nước Australia, Brunei, Canada, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam.

Các nước Đông Á khác cũng quan tâm muốn tham gia vì TPP được định nghĩ̉a là ‘bến đỗ’ cho các nền kinh tế của thế kỷ 21 quanh vùng Thái Bình Dương.

Cùng thời gian, các nhóm vận động về quyền lao động, nghiệp đoàn và nhân quyền cũng coi đây là dịp để nêu ra các chủ đề mang tính toàn cầu nhằm gây sức ép lên các chính phủ đang đàm phán TPP.

Các bài liên quan

TPP hay khúc quanh Việt – Mỹ? 15.04.13, Diễn đàn

‘Tình hình báo chí xấu đi rất nhiều’

Tiến sỹ Nguyễn Quang A vừa bình luận về tin đồn ‘lệnh miệng’ của cấp cao đối với việc bài của ông gửi bị báo Lao Động từ chối đăng.

Bài báo ‘Sở hữu tư nhân hạn chế về đất đai?’ bàn về chủ đề sở hữu đất trong bối cảnh nhà chức trách kêu gọi góp ý sửa đổi hiến pháp.

Trả lời phỏng vấn BBC ngày 24/04, ông Quang A cũng bàn về các vấn đề tự do ngôn luận ở Việt Nam trong những năm gần đây.

BBC: Trên trang Bấm Anh Ba Sàm đăng là bài viết của ông cho báo Lao Động bị từ chối và cộng tác cho chuyên trang Thời Luận do ông phụ trách cũng sẽ khép lại là do ‘lệnh miệng’ của ông Đinh Thế Huynh (Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương), ông có thể xác nhận tin này?

Tôi không biết cụ thể, cũng nghe loanh quanh thế thôi. Khi người ta không có văn bản thì mình cũng khó mà kiểm tra được thực hư thế nào. Nhưng mà có lẽ người ta nói đi nói lại thế thì nó cũng chính xác đấy, chứ không phải không.

BBC: Có phải do ông có những bài viết có tiếng nói khác đi và có những bài viết nhận định về chính sách của chính phủ Việt Nam?

Có lẽ là do tôi có những bài viết mà có tính chất phê phán nhiều hơn để góp ý cho người ta sửa đổi, thì cũng có khi người ta không thích cách viết của tôi, cách đặt vấn đề của tôi, thì cái đó tôi cũng không coi thành vấn đề.

BBC: Trước đây cũng từng có lời đồn là ông bị cấm tiếp xúc với các báo lớn ở Việt Nam, có đúng không, và vì sao?

Tôi cũng có nghe người ta đồn như thế, không ai nói với tôi một cách chính thức cả. Trước kia VTV họ hay phỏng vấn tôi, nhưng đúng là từ thời đó đến bây giờ thì không có một lần nào cả.

Rồi các báo lớn đúng là thỉnh thoảng tôi có gửi bài cho người ta nhưng người ta không đăng. Từ kết quả đó thì có thể suy ra, dự đoán như vừa nói là có cơ sở. Nhưng cũng chỉ là dự đoán thôi, không biết được chính xác nó như thế nào.

Chắc chỉ đến khi nào, nếu có văn bản, mà người ta lần lưu trữ ra, thì ai ra lệnh như thế nào thì may ra biết được. Còn bây giờ, tất cả những thông tin đó mình đều không biết, chỉ thấy là thực tế nó phù hợp với những đồn đoán như vậy.

Vừa rồi tờ Nông thôn Ngày nay cũng nhờ tôi viết 600 chữ một tuần, thì tôi cũng viết được khoảng nửa năm nay, nhưng chắc là với sự kiện báo Lao Động tôi cũng dừng ở đấy nốt.

‘Nguy hiểm cho hệ thống’

BBC: Có sự thay đổi trong cách viết của ông không, hiện nay ông có viết mạnh tay hơn hay thẳng thắn hơn so với ngày xưa không?

“Trong những năm vừa qua, kể cả các báo lớn của các cơ quan nhà nước cũng bị siết mạnh, rồi các blogger bị bắt, làm tình làm tội rất nhiều, có thể nói là vài năm vừa rồi tình hình xấu đi rất nhiều.”

Tiến sỹ Nguyễn Quang A

Tôi hoàn toàn không nghĩ như vậy vì cách đây độ 7, 8 năm thì các bài viết của tôi còn mang tính phê phán hơn những bài bây giờ. Bài bây giờ luôn luôn mang tính xây dựng, tuy là vẫn đặt vấn đề mổ xẻ những chính sách hoặc phê phán.

Có lẽ là quyền tự do ngôn luận và trao đổi hoặc chính kiến ở Việt Nam trong những năm vừa qua bị kém đi rất nhiều. Trước Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam cuối năm 2005, đầu 2006, tranh luận một cách rất sôi nổi.

Sau đó, chúng tôi và nhà xuất bản Tri Thức còn ra cả một tập sách tranh luận rất đàng hoàng trên báo chí với những nhà lý luận hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam như giáo sư Nguyễn Đức Bình.

Thời đấy có khi cởi mở hơn bây giờ.

BBC: Ông có cho là chính quyền Việt Nam đang có động thái muốn dẹp đi những người có chính kiến khác, và đặc biệt là những người có ảnh hưởng lớn tới một lực lượng nhất định trong xã hội?

Tôi nghĩ là với việc làm của họ như vậy thì ai cũng phải đưa ra kết luận như vừa nói. Kết luận của tôi cũng giống như vậy.

Trong lúc người ta thấy mình yếu, người ta không biết làm cách nào rẽ ra, thì họ phải tập trung cho người tranh luận thoải mái, thì lúc đó tự họ cũng sẽ mạnh lên.

Nhưng tự họ không dám làm những chuyện đó và khiến cho dư luận rất ngột ngạt.

Trong những năm vừa qua, kể cả các báo lớn của các cơ quan nhà nước cũng bị siết mạnh, rồi các blogger bị bắt, làm tình làm tội rất nhiều, có thể nói là vài năm vừa rồi tình hình xấu đi rất nhiều.

BBC: Ông có cho đó là sự bất lợi đối với chính quyền khi có những động thái như thế, và cả việc xô xát với nông dân, điều đó có nguy hiểm đối với chính quyền Việt Nam không?

“…Đây là biểu hiện rất đặc sắc của chủ nghĩa toàn trị và càng dùng những biện pháp như vậy thì sự kết liễu của chế độ toàn trị càng xảy ra sớm hơn, như vậy sẽ mang lại tốn kém rất lớn cho xã hội, cho đất nước. Và đấy là điều rất rất nên tránh.”

Tôi nghĩ rằng rất nguy hiểm đối với chính họ. Cách xử trí của họ không khôn ngoan chút nào.

Có những cách xử lý tốt hơn rất nhiều, bằng cách đối thoại với bà con nông dân chẳng hạn, đối thoại một cách đàng hoàng.

Tôi nghĩ người nông dân không phải chống lại chính quyền làm gì cả. Nhưng ví dụ như ông Huỳnh Phong Tranh, ông Tổng thanh tra Nhà nước, nói rằng những vụ khiếu kiện đông người mang màu sắc chính trị thì phải dẹp.

Một quan chức cỡ bộ trưởng như thế mà ông ấy không hiểu mang màu sắc chính trị là gì. Tất cả hoạt động của người dân mang tính chất quyết định tập thể thì đều là hoạt động chính trị.

Hoạt động chính trị là cái vô cùng cần thiết cho xã hội này hoạt động. Thế mà bây giờ các ông bảo là phải dẹp cái đó, tôi không hiểu.

Quan chức chính phủ cấp cao mà trình độ hiểu biết có như vậy thì rất nguy hiểm cho chính họ, cho bản thân hệ thống của người ta.

Ngay trong thông báo của những người ký kiến nghị 72 cũng nói rất rõ đây là biểu hiện rất đặc sắc của chủ nghĩa toàn trị và càng dùng những biện pháp như vậy thì sự kết liễu của chế độ toàn trị càng xảy ra sớm hơn, và như vậy sẽ mang lại tốn kém rất lớn cho xã hội, cho đất nước. Và đấy là điều rất rất nên tránh.

‘Bất mãn chưa từng thấy’?

Một góc ở Sài GònTình hình kinh tế chính trị Việt Nam đang xấu đi rất nhiều

Nhật báo New York Times hôm thứ Tư ngày 24/4 vừa đăng một bài báo về lòng tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tình hình khó khăn hiện nay.

Dưới tiêu đề ‘Những lúc khó khăn cũng là lúc bất đồng và trấn áp công khai nở rộ ở Việt Nam’, nhà báo Thomas Fuller của New York Times đã đưa ra quan sát này trong một lần đi tìm hiểu thực tế mới đây ở thành phố Hồ Chí Minh.

Nhân vật chủ đạo trong bài báo là giáo sư Nguyễn Phước Tương (tức Tương Lai), cựu cố vấn của hai đời thủ tướng Việt Nam.

Ngoài ra ký giả này cũng đã trao đổi với ông Trương Huy San (tức nhà báo Huy Đức), một cựu cố vấn khác của thủ tướng là Tiến sỹ kinh tế Lê Đăng Doanh, cũng như một số nhà quan sát khác để tìm hiểu về tình hình kinh tế chính trị của Việt Nam hiện nay.

‘Không tin Đảng nữa’

“Trên các kệ sách chất đầy các tuyển tập của Marx, Engels và Hồ Chí Minh, dấu ấn của một đời trung thành với Đảng Cộng sản, nhưng ông Nguyễn Phước Tương, 77 tuổi, nói ông không còn tin vào Đảng nữa,” bài báo bắt đầu từ tư gia của GS Tương Lai ở ngoại ô thành phố lớn nhất nước.

“Ông Tương, cũng giống như rất nhiều người khác ở Việt Nam hiện nay, đang lên tiếng phản đối chính quyền mạnh mẽ.”

“Chế độ của chúng tôi là độc tài toàn trị,” ông Tường được dẫn lời nói, “Tôi là người sống trong lòng chế độ – tôi biết tất cả những khiếm khuyết, những sai lầm sự suy thoái của nó.”

“Trong vòng 21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ sự bất mãn với chế độ của trí thức và doanh nhân đến mức độ như hiện nay.”

Peter R. Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital

“Nếu chế độ này không được sửa đổi thì tự nó sẽ sụp đổ,” ông nói thêm.

Theo Fuller thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân về sự trượt dốc của nền kinh tế và nội bộ Đảng đang bị chia rẽ giữa một bên là những người bảo thủ muốn vẫn duy trì những nguyên tắc soi đường của chủ nghĩa xã hội và sự độc quyền lãnh đạo và một bên là những người kêu gọi một xã hội đa nguyên và chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa tư bản.

Tuy nhiên quan trọng nhất là Đảng đang đối phó với một xã hội thông tin ngày càng rộng mở và khán giả ngày càng tỉnh táo trước các thông tin khi mà có nhiều tin tức và ý kiến khác nhau lan truyền trên mạng làm ảnh hưởng đến sự tuyên truyền của truyền thông Nhà nước.

Bài báo dẫn nhận định của ông Carlyle A. Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc, một trong những học giả nước ngoài hàng đầu về Việt Nam, cho rằng giờ đây sự chỉ trích Đảng đã ‘bùng nổ trên toàn xã hội’.

Đây là khác biệt lớn nhất so với các thách thức mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng trải qua kể từ khi Đảng này thống nhất đất nước 38 năm trước đây như cuộc chiến với Trung Quốc và Campuchia, khủng hoảng tài chính và chia rẽ nội bộ.

Cũng theo quan sát của ông Thayer thì ‘bất đồng nở rộ nhưng đồng thời sự đàn áp cũng gia tăng’.

‘Bi quan sâu sắc’

Thành phố ở Việt NamKinh tế Việt Nam đang bộc lộ hết tất cả những khiếm khuyết mà thời gian dài không được khắc phục

“Có thêm nhiều người muốn bày tỏ chính kiến phê phán chính phủ của mình hơn trước và những gì họ chỉ trích cũng nghiêm trọng hơn,” ông Trương Huy San (tức nhà báo, blogger Huy Đức – tác giả Bên Thắng Cuộc), nói với New York Times.

Vấn đề đăṭ ra ở đây, theo nhà báo Fuller, là ‘khó mà hiểu được sự bi quan sâu sắc’ của người dân trên đất nước này nếu nhìn vào bề mặt của sự tăng trưởng kinh tế.

Theo bài báo này thì nhiều người cho rằng Việt Nam đang mất phương hướng mặc dù đất nước này có dân số trẻ và làm việc chăm chỉ.

“Trong vòng 21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ thấy sự bất mãn với chế độ của trí thức và doanh nhân lên đến mức độ như hiện nay,” ông Peter R. Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital, được dẫn lời nói.

Tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức hồi đầu tháng Tư năm nay, các diễn giả đã ‘tranh nhau nói trước micro’, kinh tế gia Lê Đăng Doanh thuật lại với New York Times.

Ông cho biết nhiều người đã chỉ trích mặc dầu nền kinh tế cần phải được tái cơ cấu sâu rộng nhưng ‘gần như chẳng ai làm gì cả’.

“Đó là sự khủng hoảng lòng tin,” ông Doanh được dẫn lời nói, “Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện nhưng họ không thấy gì cả,” ông nói.

“Đó là sự khủng hoảng lòng tin. Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện nhưng họ không thấy gì cả.”

Kinh tế gia Lê Đăng Doanh

Bài báo đã nêu đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là trung tâm của cơn bão chính trị hiện nay.

“Sự tự tin thái quá và các chương trình đầy tham vọng của ông Dũng lúc đầu giúp ông có người ủng hộ bởi vì ông đã đoạn tuyệt với khuôn mẫu một cán bộ Đảng xơ cứng,” bài báo viết.

Tuy nhiên, sau đó ông làm nhiều người bất mãn với việc giải tán ban cố vấn vốn là động lực phía sau chương trình cải cách kinh tế mà ông Tương Lai là một thành viên.

Bên cạnh đó, chính sách kinh tế mang dấu ấn cá nhân ông Dũng là thúc đẩy thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước theo kiểu các chaebol của Hàn Quốc, đã đem lại hiệu quả ngược.

Điều hành các tập đoàn này những người thân cận với Đảng Cộng sản, những người đã biến các tập đoàn thành nhiều công ty khác nhau mà họ không đủ khả năng điều hành cũng như đầu cơ trên thị trường chứng khoán và bất động sản.

Hai tập đoàn trong số này đã gần như sụp đổ và đang đứng bên bờ vực phá sản.

‘Căng thẳng trong Đảng’

Đường phố Hà NộiBáo Mỹ viết Đảng Cộng sản ngày càng mất đi sự ủng hộ trong lòng người dân Việt Nam

Ông Nguyễn Phước Tương nói với New York Times rằng những khó khăn của nền kinh tế đã khiến cho căng thẳng trong nội bộ Đảng Cộng sản dâng cao.

Hồi tháng Hai, ông đã tham gia soạn thảo một thư kiến nghị gửi đến lãnh đạo Đảng Nguyễn Phú Trọng để kêu gọi thay đổi Hiến pháp theo hướng đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Ông nói đến nay ông chưa nhận được phản hồi gì cả.

Giờ đây ông đang cảm thấy áp lực thời gian, ông cho biết. Căn bệnh ung thư của ông, mặc dù đang thuyên giảm, giống như là sự giải phóng tư tưởng thôi thúc ông phải nói lên điều mà ông cho là sự thật, ông nói.

“Nói cho cùng, Marx là một nhà tư tưởng vĩ đại,” ông nói, “Nhưng nếu như thế giới này chưa từng có Marx thì có lẽ sẽ tốt đẹp hơn.”

Bản điện tử của bài báo này trên trang chủ của New York Times đã nhận được một số ý kiến phản hồi của độc giả.

Một người ký tên là R. Vasquez đến từ tiểu bang New Mexico của Hoa Kỳ bình luận:

“Đảng (Cộng sản Việt Nam) đã cạn nhiệt huyết và ý tưởng. Những người thật sự còn trung thành với lý tưởng cộng sản giờ cũng đã 70, 80 tuổi… Các thế hệ tiếp nối sẽ thấy ngày càng khó mà hài hòa giữa những lý luận của các nhà tư tưởng ở châu Âu vào thế kỷ 19 với nhu cầu và khát vọng của nước Việt Nam trong thế kỷ 21.”

Còn Party State đến từ thành phố Vancouver của Canada thì viết:

“Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy đồi cả về tinh thần lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ. Vấn đề ở đây là điều gì sẽ xảy ra sau đó? Liệu Việt Nam có trở thành một chế độ độc tài quân sự hay sẽ có một nhân vật như Hun Sen lên nắm quyền? Tương lai, tôi sợ rằng, sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với hiện tại.”

‘Giá đừng phản chiến’

“Nói cho cùng, Marx là một nhà tư tưởng vĩ đại. Nhưng nếu như thế giới này chưa từng có Marx thì có lẽ sẽ tốt đẹp hơn.”

GS Tương Lai

Charles ở Slough, Vương quốc Anh, tự vấn phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Độc giả này viết:

“Những người chúng ta đã từng tham gia vào phong trào phản chiến trong những năm 60 và 70 nên cúi đầu xấu hổ và nhận lỗi với người dân Việt Nam. Với việc ủng hộ phe cộng sản và gây sức ép lên Quốc hội cắt đứt mọi viện trợ cho miền Nam Việt Nam thì chúng ta đã góp phần đảm bảo cho chiến thắng của ông Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta.

Lại nữa, hãy thử nghĩ xem nếu không có cuộc cách mạng này thì ngày nay Việt Nam đã tốt hơn như thế nào? Ba mươi năm chiến tranh, số người chết không kể xiết, thiệt hại và đau thương vô cùng lớn – tất cả chỉ để đem đến kết cục là một chế độ kinh tế Marxist không khả thi do một Đảng cộng sản suy đồi và tàn bạo lãnh đạo.

Hãy nghĩ xem giờ này Việt Nam sẽ như thế nào nếu họ trải qua 60 năm thị trường tự do giống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Singapore. Chắc chắn là không hoàn hảo nhưng sẽ tốt hơn nhiều và lại không có chết chóc hay tàn phá.”

Tuy nhiên ý kiến này đã bị một công dân mạng khác có tên là Khang Duong từ Việt Nam phản bác:

“Ông chỉ đọc từ một phía và ông không hiểu gì về Việt Nam cả. Tôi không nghĩ rằng Việt Nam sẽ tốt hơn nếu không làm cách mạng. Đất nước của ông bị nước khác tàn phá, người dân của ông mất hết quyền lực và bị đối xử như súc vật? Miền Nam điêu tàn dưới tay của một kẻ độc tài. Ngô Đình Diệm không phải do người dân Việt Nam mà là người Pháp, người Mỹ đưa lên. Nếu Hồ Chí Minh không làm cách mạng thì cũng sẽ có một cuộc cách mạng khác mà thôi.”

Góp ý Kiến nghị 72 và hồi đáp của Bauxite Việt Nam

Bauxite Việt Nam

GÓP Ý KIẾN NGHỊ 72

Nguyễn Quốc Hưng

Kính thưa quý vị trí thức kiến nghị sửa đổi Hiến pháp Việt Nam.

Ở bản Thông báo – thay mặt nhóm soạn thảo, 15 người trí thức tiêu biểu đã ký và gửi kiến nghị này đến Quốc hội quốc gia.

Trong Kiến nghị này có nêu ra: “Chúng tôi kiến nghị Hiến pháp cần quy định: “bảo đảm quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng cầu ý dân được tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới”.

Tôi KHÔNG ĐỒNG Ý với quan điểm giám sát qua người dân và báo giới!

Vì rằng báo giới ở Việt Nam có ĐỘC LẬP ĐÂU mà bảo rằng trung thực ở VIỆC GIÁM SÁT!? Ngoài ra người dân còn bị áp bức qua việc ký bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp mà không có hình thức độc lập ở câu trả lời – cả hai ô trả lời đều ghi sẵn là có sự đồng ý tất cả hay một phần (!!!) thì làm gì mà nhân dân có thể giảm sát việc này được?

Với trình độ của một kiểm toán viên – rất quen với việc giám sát, rõ ràng tôi thấy quý vị đã cẩu thả ở câu đề nghị trên.

TÔI CỰC LỰC PHẢN ĐỐI.

ĐÂY LÀ LẦN ĐẦU TIÊN và cũng vì SỰ HỆ TRỌNG của vấn đề đối với nhân dân và đất nước – tôi đề nghị việc này phải nhờ LIÊN HIỆP QUỐC GIÚP ĐỠ qua giám sát quốc tế.

(Đã gửi qua hộp thư E-mail của trang boxitvn ngày hôm nay).

N.Q.H.

Kiểm toán viên
Denmark

* * *

TRẢ LỜI CỦA BAUXITE VIỆT NAM

Thưa ông Nguyễn quốc Hưng,

Về việc này, để phòng ngừa mọi tình huống không hay trong việc nhận thức nội dung câu chữ của bản Kiến nghị, trang BVN đã có dịp trình bày cụ thể hơn trong Lời mở đầu bài Góp ý về việc đổi tên nước của TS. Tô văn Trường. Xin nhắc lại toàn văn để  ông tường minh:

Đọc báo chính thống cũng như báo “lề dân” mấy hôm nay hẳn chúng ta đều không khỏi cảm thấy ngỡ ngàng trước những “đổi thay chóng mặt” trong cách Ban soạn thảo Hiến pháp nhanh chóng chỉnh đốn câu chữ theo tinh thần có vẻ như “thực sự cầu thị” dựa trên “ý nguyện” của dân, cho đến nỗi tên nước cũng sẵn sàng chuyển phắt trở về với danh xưng đã từng khai sinh năm 1946. Chyển đổi vội vàng đến nỗi trong Dự thảo Hiến pháp viết lại lần thứ ba vừa mới công bố thì chỉ điều khoản đầu tiên nói về tên nước là có hai phương án, hoặc giữ nguyên CHXHCNVN, hoặc trở lại với VNDCCH, còn tất cả các điều khoản sau thì thật trớ trêu, mấy chữ Cộng hòa XHCNVN vẫn cứ nghiễm nhiên ngự trị.

Vậy là VNDCCH chỉ là cái vỏ cho bộ ruột CHXHCNVN, nói một cách ví von thì đây vẫn là ông Tổng biên tập của tờ báo Đảng xưa kia nay ký một bút danh khác. Đổi tên nước đâu có dễ như đổi bút hiệu cho một dư luận viên nào đó để y dễ bề tự tung tự tác chống lại nền dân chủ trên internet mà không ai phát hiện! Và vì thế người ta bỗng đâm ra phân vân, không hiểu ngay từ đầu, trong tầm nhìn chiến lược, các vị đề xuất việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 có quan niệm đây là một sự kiện có ý nghĩa bước ngoặt trọng đại hay không, để đến nay, sau khi đã dấy lên cả “một cuộc vận động chính trị rộng lớn trên toàn quốc”, đến mức phải in ra hàng mấy chục triệu bản dự thảo Hiến pháp phát về tận các cơ sở vô cùng tốn kém, mọi việc lại có vẻ chắp vá đến khó hiểu?  Hay đúng như điều mà chúng tôi, những người sáng lập và điều hành trang BVN đã e ngại trong cuộc mạn đàm vào ngày đầu năm, rằng biết đâu cái việc tưởng cao sâu này chung quy cũng chỉ là một trò bút mực, một chuyện tu sức văn vẻ cho vui, nhằm đánh đổi một cái gì đó trên trường ngoại giao, trong tình hình đất nước đang lâm thế kẹt hiểm nguy về nhiều mặt, còn bản chất vấn đề thì đâu vẫn đấy.

Bởi thế, điều mà chúng tôi muốn bạn đọc nhắm tới trong yêu cầu sửa đổi Hiến pháp lần này, để may ra còn giành được một cái gì hữu ích cho con đường dân chủ hóa thật sự đất nước, đó là một vài mục tiêu rất giới hạn nhưng thiết thực sau đây mà chúng ta nên cùng nhau trao đổi thẳng thắn và kiên trì đề xuất với người có trách nhiệm thực hiện bằng được: (1) Cần xóa bỏ điều 4, bởi vì điều này xét cho cùng chỉ là chuyện thuộc về đảng phái, trong khi Hiến pháp thì bao giờ cũng là bản khế ước của nhân dân với người cầm quyền, thể hiện quyền sống thiêng liêng của mình, sự gắn bó hòa hợp giữa những thực thể xã hội khác nhau (đảng phái cũng nằm chung trong đó, và quyền uy của một đảng là do uy tín thực của nó trong đời sống quyết định), bằng những điều luật cơ bản nhất, nhằm dựa vào đấy mà có biện pháp chế tài cần thiết mỗi khi kẻ cầm quyền tùy tiện vượt ra khỏi những điều luật đã được hiến định; (2) Cần xác định rõ quyền con người phân biệt với quyền công dân, theo đúng Công ước quốc tế về quyền con người năm 1948 và các công ước khác mà Việt Nam đã ký kết, là những quyền do Tạo hóa ban cho và không thể bị tước bỏ, được cụ thể hóa bằng những quyền mưu cầu hạnh phúc, tự do ngôn luận, biểu tình, lập hội, tín ngưỡng, bình đẳng trước pháp luật… Trong văn bản Hiến pháp sửa đổi không được dùng bất kỳ xảo thuật văn chương nào nhằm giảm đẳng hiệu lực thực tế của những quyền cơ  bản đó, cản trở các quyền đó bằng cách đưa vào một loạt nghĩa vụ một cách tùy tiện, để lúc hữu sự thì bộ máy cầm quyền nhân danh điều này điều nọ như các lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị… tha hồ chà đạp lên quyền con người của dân, tức là chà đạp lên Hiến pháp, mà thực tế nhiều năm qua trong cuộc sống hàng ngày đã cho ta thấy quá nhiều bằng chứng; (3) Cần khẳng định quyền đa sở hữu về đất đai thay cho khái niệm “sở hữu toàn dân” đã bộc lộ sự sai trái đến phi lý, lại còn là một chỗ dựa để bọn tham nhũng đất đai lộng hành dẫn đến nhiều oan sai đẫm máu và nước mắt trong đời sống của xã hội bao nhiêu năm nay; (4) Cần quy định quân đội phải là lực lượng luôn luôn trung thành với nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, ngoài ra không còn một mục đích nào khác. Không một tổ chức nào được phép điều động quân đội vào các nhiệm vụ đi ra ngoài quy định then chốt nói trên, chẳng hạn dùng quân đội để đàn áp dân chúng, xử lý mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; (5) Để cho một bản Hiến pháp có hiệu lực và được người dân tin theo như một bộ luật mẹ làm nền tảng cho pháp luật của cả nước, trước khi ban hành cần tổ chức phúc quyết Hiến pháp một cách nghiêm minh, có sự giám sát chặt chẽ của những tổ chức không đảng phái và có chứng kiến của các tổ chức quốc tế, được tiến hành rộng rãi trong toàn dân.

Thiết tưởng, trong một bản Kiến nghị nêu lên 7 vấn đề quan trọng, khó có thể phân tích dài dòng, nên nhóm khởi thảo đã cố gắng viết thật ngắn gọn mà đủ ý. Còn khi mọi việc được chấp nhận thực thi thì sẽ còn phải bàn sâu và tỉ mỉ hơn nữa, chắc chắn là vậy. Tuy nhiên, e rằng chuyện này muốn trở thành hiện thực thì còn lâu lắm, hiện chỉ mới nằm trong giấc mơ của mọi chúng ta thôi.

Bauxite Việt Nam

‘Rồng VN trĩu cánh không bay được’

Quốc Phương. bbcvietnamese.com, 22 tháng 4, 2013

Kinh tế Việt NamChuyên gia nhận định kinh tế Việt Nam cần ít nhất một vài năm để tái ổn định

Nền kinh tế Việt Nam đang nằm ở ‘một vùng trũng mấp mô’ với suy giảm tăng trưởng và cần chờ ít nhất một vài năm để vực lại sự ổn định bước đầu.

Đó là nhận định của một chuyên gia kinh tế vĩ mô đã đang tham vấn cho nhiều đề án kinh tế và chiến lược phát triển gắn với quy hoạch trung và dài hạn từ trong nước.

Trao đổi với BBC hôm 22/4 từ Hà Nội, chuyên gia không muốn tiết lộ danh tính này nói:

“Việt Nam đang nằm ở một giai đoạn khó khăn, một vùng trũng, mấp mô, với tăng trưởng suy giảm và kinh tế vĩ mô gặp nhiều bất ổn do các sai lầm tích lũy từ nhiều năm qua, đặc biệt trong 1-2 năm gần đây gây ra.

“Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn chủ yếu và kép về thị trường và vốn.”

Về mặt thị trường, ý kiến này ghi nhận hiện trạng nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng hòa nhưng không tiêu thụ được do sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ, của Việt Nam rất kém.

“Việt Nam đang chịu cạnh tranh gay gắt bởi các nước ở trong khu vực, trong đó phải kể tới Trung Quốc và Thái Lan.

“Do sức cạnh tranh yếu, các doanh nghiệp Việt Nam đang rất lúng túng với bài toán sản xuất ra, nhưng khó bán được hàng.”

Về vốn, ý kiến chuyên gia nói Việt Nam đang ở trong một vòng luẩn quẩn với việc nhiều doanh nghiệp cần vốn, ngân hàng còn có thể cung cấp, nhưng doanh nghiệp khó tiếp cận.

“Một trong các lý do chính là các ngân hàng mắc nợ xấu, nay cũng muốn điều chỉnh lãi suất cho vay, nhưng điều kiện còn quá chặt chẽ.

Theo chuyên gia này thì các ngân hàng vẫn còn vốn, tuy nhiên vốn chủ yếu “chạy” giữa các ngân hàng mà chưa được chuyển ra cho các doanh nghiệp.

‘Không giống ai’

“Chính sách Việt Nam cần đó là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng với lãi suất hợp lý”

Hôm thứ Hai 22/04, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành cũng nói với BBC rằng các doanh nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ đang gặp rủi ro cao và một số lượng không nhỏ vẫn chưa chắc chắn có thể ‘trụ’ được hay không, do gặp khó khăn chính từ thiếu nguồn vốn vay.

Ông nói: “Thực sự khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là không tiếp cận được nguồn vốn vay của ngân hàng.

“Trong hai năm nay, lãi suất của ngân hàng lên quá cao, từ mười mấy phần trăm lên tới hai chục, thậm chí ba chục phần trăm.

“Vì vậy các doanh nghiệp không thể hoạt động được, nhất là các doanh nghiệp nhỏ không đủ sức chịu đựng lãi suất cao đến như thế và không tiếp cận được nguồn vốn, thì nguồn vốn tự có không có đủ.”

Kinh tế gia cho rằng đây là vấn đề đặc thù của riêng Việt Nam, không giống bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới, khi hệ thống ngân hàng thương mại không tuân thủ một hệ thống quy định pháp luật nào, trong lúc ngân hàng nhà nước không quản lý quy củ được hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Ông nói: “Vì thế mới có vấn đề các ngân hàng tranh nhau huy động vốn với lãi suất lên tới 15, 16, 17, 18% cho các doanh nghiệp vay với lãi suất trời ơi đất hỡi hai chục, ba chục phần trăm và tồn tại như thế hơn hai năm nay rồi.”

Ông Thành cho rằng nhiều biện pháp điều chỉnh vĩ mô của Việt Nam hiện nay chỉ mang tính tình thế, nhất thời mà chưa trở thành các chính sách hợp lý và đúng nghĩa như được kỳ vọng.

Ông nói: “Chính sách Việt Nam cần đó là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng với lãi suất hợp lý,

“… Doanh nghiệp mong muốn được vay với lãi suất dưới 10%, muốn thế, ngân hàng trung ương phải cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất, 1, 2, 3, 4%, ngân hàng thương mại có thể cho doanh nghiệp vay với lãi suất 6, 7%, như thế là hoàn toàn trong tầm tay.”

Ông Thành nói thêm rằng thời gian qua nhà nước để xảy ra một việc khó hiểu là các nguồn vốn vay lại không tới với đối tượng các doanh nghiệp có nhu cầu và cần trợ giúp trong nền kinh tế để vực dậy sau đợt khủng hoảng kinh tài, mà lại được cung cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, đặc biệt là các “đại gia”, một lĩnh vực đã được dự đoán là “bong bóng” và thiếu hiệu quả.

‘Xem lại mình’

Khi được hỏi đâu là tỷ lệ giữa các nguyên nhân đến từ bên ngoài và bên trong hệ thống vốn gây khó khăn cho nền kinh tế trong nước, cùng các trở ngại cho các doanh nghiệp, ông Bùi Kiến Thành nói:

“Chúng tôi dự báo và đánh giá rằng nền kinh tế Việt Nam đang nằm trong vùng trũng mấp mô, vùng trũng là suy giảm tăng trưởng và lạm phát lúc cao, lúc thấp”

“Không có con số để tính, nhưng ước lượng thì tác động từ bên ngoài Việt Nam có thể là chừng 20%, cái Việt Nam tự tạo ra cho mình có thể lên tới 60, 70%.”

Ông Thành cũng nói tới việc nhiều doanh nghiệp trong nước, đặc biệt doanh nghiệp nhà nước, trong thời gian qua đã phân tán đầu tư từ lĩnh vực sản xuất, dịch vụ chuyên của mình và đổ vào thị trường bất động sản cũng như thị trường chứng khoán.

Và theo ông, đây là hai nguyên nhân làm cho họ vừa không phát triển được năng lực tự thân, mà ngược lại chuốc lấy những khoản thua lỗ khi đi vào những thị trường tưởng dễ thu lời lãi nhanh, mà thực tế rất không bền vững.

Ông đề nghị các doanh nghiệp xem lại động cơ và định hướng đầu tư, cũng như thế mạnh kinh doanh của mình, trong khi kêu gọi nhà nước xem lại độ hợp lý trong các chính sách tiền tệ, tài khóa.

“Những vấn đề tham nhũng, tham lam và tiêu cực là rất lớn, không thể nào nhìn được trên đất nước này từ làng xóm từ xã cho tới trung ương, chỗ nào cũng có tiêu cực, chỗ nào cũng có khó khăn.

“Con rồng không thể bay lên được vì cái cánh của nó bị trĩu xuống do bao nhiêu khó khăn tiêu cực, cho nên nước Việt Nam phải xem lại mình.”

‘Không bất ngờ’

Còn về phần mình, đánh giá chu kỳ khó khăn mà nền kinh tế đang mắc phải, chuyên gia quy hoạch kinh tế vĩ mô và chiến lược phát triển dài hạn nói:

“Chúng tôi đã tiên lượng được những khó khăn này của nền kinh tế Việt Nam hơn một năm nay rồi, và những gì xảy ra không có gì là bất ngờ.

“Những vấn đề vài năm trước đây tích tụ để lại, từ 4-5 năm nay, thì không thể dễ gì ngày một, ngày hai, có thể gỡ ngay được, nhất là trong tình hình quốc tế và khu vực không hoàn toàn thuận lợi, thậm chí bất lợi nhiều hơn cho việc khôi phục của Việt Nam.

“Chúng tôi dự báo và đánh giá rằng nền kinh tế Việt Nam đang nằm trong vùng trũng mấp mô, vùng trũng là suy giảm tăng trưởng và lạm phát lúc cao, lúc thấp

“Lúc thấp xuống này, có khả năng lại tăng lên, giảm lạm phát, nhưng vẫn bấp bênh vì các chính sách thực hiện chưa giải quyết được về cơ bản mà đối phó là chính, bất ổn vĩ mô chưa giải quyết cơ bản.

‘Tái lập niềm tin’

“Cái gì dễ làm trước, đã hứa thì phải làm, làm tới đâu dứt điểm tới đó, để lấy lại niềm tin, và phải làm thôi, vì nếu không sẽ ngày một lỡ đà và tụt hậu, cũng giống như nợ xấu cứ để thế sẽ bị chồng lên nợ xấu”

Theo chuyên gia, để giải quyết dứt điểm các vấn đề và đưa Việt Nam bước đầu ổn định trở lại, Việt Nam cần phải đợi ít nhất tới năm 2015 và trong quá trình này, một trong các yếu tố quan trọng bên cạnh việc tái cơ cấu kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh cải cách thể chế, trong đó có tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, môi trường luật pháp…, cần phải tái lập lại “niềm tin.”

Chuyên gia nói thêm: “Lòng tin là yếu tố hàng đầu, không có lòng tin, người dân không tin vào thể chế, bộ máy; doanh nghiệp không tin vào chính sách, nhà đầu tư không tin vào thị trường, người tiêu thụ và lao động không tin vào doanh nghiệp, luật pháp không tạo được sự tin cậy, các lời hứa về chính sách không được thực hiện, thì sẽ rất khó cho việc xốc lại động lực của nền kinh tế…

“Và đây là một điều mà Việt Nam cần quan tâm giải quyết, cái gì dễ làm trước, đã hứa thì phải làm, làm tới đâu dứt điểm tới đó, để lấy lại niềm tin, và phải làm thôi, vì nếu không sẽ ngày một lỡ đà và tụt hậu, cũng giống như nợ xấu cứ để thế sẽ bị chồng lên nợ xấu,” chuyên gia nói với BBC.

Hôm thứ Hai, truyền thông Việt Nam trích dẫn kết quả một số điều tra nghiên cứu, Bấm khảo sát của các tổ chức, định chế trong nước phản ánh thực trạng được cho là ‘sức khỏe đáng lo ngại’ của các doanh nghiệp trong nước.

Một số tờ báo phản ánh hiện trạng phá sản, thiểu phát của các doanh nghiệp, nạn Bấm thiếu tiếp cận vốn nhất là ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa và có báo thậm chí cho rằng doanh nghiệp Việt Nam đang ‘ Bấm teo tóp, chết như rạ’.

Các bài liên quan

Vì sao người Việt khó “ra khỏi cuộc chiến”?

Thanh Quang, phóng viên RFA. 2013-04-22
dn-305.jpg

Quân Đoàn 1 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng như dân chúng rút khỏi Huế và Đà Nẵng hồi cuối tháng 3 năm 1975. Photo by Trần Khiêm

Thưa quý vị, thế là còn một tuần nữa đến thời điểm đánh dấu biến cố 30 tháng Tư năm 1975, ngày Sài Gòn thất thủ về tay người CS cách nay 38 năm.

Ký ức luôn quay về

Theo blogger Nguyễn Thị Hậu qua bài “Tháng Tư, và bạn và tôi”, thì “Tháng Tư là một khoảng thời gian ‘âm tính’ bởi những ký ức từ gần 40 năm trước luôn luôn quay về, mỗi năm như không hề nhạt bớt với cả bên “thắng cuộc” hay bên “thua cuộc”. Nỗi đau của thế hệ tham chiến bên này lẫn bên kia không chỉ vì sự hy sinh đã không được đáp đền xứng đáng mà còn là nỗi đau của những lý tưởng đã không trở thành hiện thực…”. Vẫn theo tác giả thì “ Ký ức chiến tranh tưởng đã biến mất nhưng thật ra vẫn ẩn sâu trong tâm thức họ, để có khi vào một lần nào đó, nhân một chuyện gì đó, tâm thế bên này bên kia ở họ sẽ vô tình bộc lộ, nhói đau…”. Và tác giả thắc thắc, “Gần 40 năm rồi sao chúng ta vẫn chưa thực sự ra khỏi cuộc chiến…?”

Câu trả lời khá đa dạng và chắc cũng không kém phần phong phú. Chẳng hạn như nhận xét của báo Tổ Quốc hồi trung tuần tháng Tư này thể hiện một trong những trở ngại đáng kể khiến người dân Việt khó “ra khỏi cuộc chiến” ấy, đó là, theo tờ báo, đảng CSVN đương quyền đã cố “bám quá lâu vào một chủ nghĩa không những sai mà còn bị lên án như một tội ác đối với nhân loại”. Tờ báo nhận xét rằng không phải giới lãnh đạo VN hiện nay không nhìn thấy sự sai trái của chủ nghĩa không tưởng Mác – Lênin, nhưng họ cần nó để biện minh cho một chọn lựa không mấy chính đáng khác là “duy trì độc quyền thống trị của đảng”, khiến “lòng tham bất chính đã dẫn đến sự sa đọa của trí tuệ”. Tờ báo lưu ý rằng tất cả sự chính đáng mà ĐCSVN tự gán cho mình chỉ dựa trên những thành tích chiến tranh trong quá khứ và huyền thoại Hồ Chí Minh, dù những thành tích đó và lãnh tụ đó, đàng nào cũng đã xa vời với họ, đã khiến Việt Nam trở thành một trong nhưng nước chậm tiến và nghèo khổ nhất thế giới sau khi người dân Việt đã chịu nhiều tổn thất nhất so với nhiều dân tộc khác, nhất là những dân tộc láng giềng.

dn-11-250.jpg
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa và dân chúng rút khỏi Huế và Đà Nẵng hồi cuối tháng 3 năm 1975. Photo by Trần Khiêm.

Qua bài “Chỉ đổi tên nước để làm gì ?”, TS Tô Văn Trường kể lại việc một nhà trí thức “làm việc ở xứ người nhưng luôn quan tâm đến vận nước”, đó là TS Hoàng Lê Tiến, đã tâm sự qua email, với nguyên văn như sau:

Nhiều khi Tiến tự hỏi, ở nước ta có bao nhiêu người thực sự hiểu chủ nghĩa Mác, rồi vào những năm cuối thể kỷ 20 chắc chúng ta chưa có tiến sĩ về chuyên môn này, thế ai là người hướng dẫn tiến sĩ cho một loạt các tiến sĩ rồi sau đó qua hội đồng phong giáo sư nhà nước (trong hội đồng có bao nhiều người có chuyên môn về chủ nghĩa Mác). Cho nên mới có một loạt GS… như thế! Cho nên phải nhắc lại câu nói của Bác Hồ: đi lên chủ nghĩa xã hội “bò” qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng các chú đâu có hiểu tiếng Nghệ – bác nói bò qua thì các chú lại hiểu là “bỏ” qua, thế mới chết chứ!

Đến nơi mình không hề biết

Blogger Hạ Đình Nguyên kể lại chuyện cách nay khá lâu, khi ông đang quét dọn căn phòng trọ thì thấy một mảnh nhật báo cũ với câu chuyện rất ngắn tựa đề “nhớ về một chuyện đụng xe” của một nhà văn, khiến nhà văn, sau cùng, kết luận rằng “ ở đời phải biết chỗ đến của mình, nếu đi theo người ta mà không biết về đâu, sẽ rước lấy tai hoạ, có khi phí cả cuộc đời !”. Và câu chuyện ngắn đó làm cho blogger Hạ Đình Nguyên nhớ mãi, vì “tình cảnh này có lẽ không riêng ai, có khi là cả dân tộc ?”.

30 năm chiến tranh kết thúc, độc lập thì “tạm xem như” đã có. Tự do Dân chủ thì chưa.! Nó được thay thế bằng từ ngữ “Chủ nghĩa Xã hội” rất rỗng rang.
-Blogger Hạ Đình Nguyên

Qua bài “Cương quyết không đi theo ai, để đến cái nơi mà mình không hề biết!”, tác giả Hạ Đình Nguyên báo động rằng “ …nhiều thế hệ đã hy sinh đời mình, kể cả những người đang sống sót, cũng không biết CNXH là gì, và họ cũng đã từng ‘chưa quan tâm.” Mà họ ra sức chiến đấu vì mong mỏi sẽ có được “Độc lập, Tự do”; đi theo sự lãnh đạo của đảng suốt 2/3 thế kỷ để đấu tranh mong giành được “độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ” cho nhân dân VN; mong đạt đến một “CNXH tươi sáng” như đảng hứa hẹn; đáp ứng lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh hồi năm 1946 qua Tuyên ngôn Độc lập rằng “Hỡi đồng bào cả nước! Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tư do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”. Nhưng, hậu quả, như tác giả Hạ Đình Nguyên cho biết:

“Và 30 năm chiến tranh kết thúc, độc lập thì “tạm xem như” đã có. Tự do Dân chủ thì chưa.! Nó được thay thế bằng từ ngữ “Chủ nghĩa Xã hội” rất rỗng rang, do Đảng CS hiện nay tiếp tục lãnh đạo, dưới bộ máy chuyên chính vô sản. Suốt chặng đường 38 năm nay, một con đường mờ mịt quanh co, lúng túng không có lộ trình, không biết nơi đến, không rõ khuôn mặt, mà tuyệt nhiên, thực chất, chẳng có ai biết nó ra sao, kể cả mấy anh lớn dẫn đường ! Anh cả Liên Xô thì đã bỏ cuộc, một đi không trở lại. Anh Ba Trung quốc thì thành “Bá quyền”, bầy hầy, lếu láo mà lại phản bội. Bây giờ thì đi đâu ? Hiện nay, không ai biết một nước Việt Nam trong tương lai sắp đến như thế nào!”

dn250.jpg
Quân Đoàn 1 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút khỏi Huế và Đà Nẵng hồi cuối tháng 3 năm 1975. Photo by Trần Khiêm.

Giữa lúc “cái cột mốc vĩ đại Tổ quốc Cách mạng Liên Xô” giờ chỉ còn là một “phế tích” trong khi “sự thật đã quá lõa lồ” thì, theo tác giả Hạ Đình Nguyên, những “người dẫn đường” của VN hiện nay “vẫn cương quyết dẫn đường!” vì khi dẫn đường, “họ được tự do gấp vạn lần tự do của nhân dân, được tham nhũng thoải mái có luật pháp của mình che chắn, được ăn uống tất cả các thứ mà con người có thể ăn uống được…”; họ nhân danh nhân dân, chính nghĩa để lao trở lại “một quá khứ tối tăm”, và nhân danh sự bình đẳng ấy vốn đang được đề cao với một thứ “triết lý bọc thép”, như blogger Hạ Đình Nguyên tóm tắt:

“Công giành được giang san này là của Đảng, do đó đất nước này là sở hữu của Đảng, dân tộc này là thuộc quyền điều khiển của Đảng, nhờ Đảng mà có, do Đảng mà sống, nên Đảng có quyền muốn dẫn đi đâu thì dẫn? Hiểu khác là đồng nghĩa với phản bội, là phủ nhận “công ơn” của đảng. Phải chăng hình mẫu đặc sắc của VN mà Đảng muốn là mô hình Bắc Triều Tiên, ở đó nhân dân chịu lép một bề dưới quyền cai trị của một nhóm người? Lối suy nghĩ này thuộc về thời tiền sử, tồi tệ hơn phong kiến, thực dân và đế quốc cộng lại mà ĐCS trước đây luôn luôn tuyên bố chống lại nó!”

Qua bài “Cương quyết không đi theo ai, để đến cái nơi mà mình không hề biết!” như vừa nêu, tác giả Hạ Đình Nguyên không quên nhắc lại “món nợ còn nguyên” gần 70 năm qua của Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp 1946 của VN, khi, cũng cùng thời điểm phát xuất ấy, nước Nhật từ đống tro tàn đã trở thành cường quốc nhờ Bản Hiến pháp Dân chủ tiến bộ; nhờ nước Nhật với Minh Trị Thiên Hoàng và nhà tư tưởng Fukuzawa “Xây dựng và bảo vệ tự do của một quốc gia là thông qua việc xây dựng và bảo vệ tự do của mỗi công dân”.

Thế còn VN thì sao? Theo tác giả, “Xét cho cùng, nhân dân Việt Nam lấy cái gì để tự hào và lên giọng, ngoài cái hy sinh 30 năm xương máu, và 38 năm đi quanh quẩn cùng với các khẩu hiệu và cờ trống ? Ăn vào quá khứ, vơ vào mình những công lao moi lên từ những nấm mồ, mà không làm nên được một đột phá nào để thoát tình cảnh lùng bùng và tụt hậu hôm nay. Đúng là điều sỉ nhục của trí tuệ và lương tri, là biểu hiện của những lời huênh hoang”.

Trong khi đó, blogger Quê Choa, tức nhà văn Nguyễn Quang Lập, cảm thấy “vui vui là câu chuyện Bauxite Tây Nguyên nó na ná câu chuyện xây dựng CNXH ở nước ta vậy, cả hai đều là những cái chết được báo trước”, mà theo nhà văn Nguyễn Quang Lập, “ai cũng hiểu chỉ có mấy ông lú là không hiểu”.

Qua bài “Bauxite Tây Nguyên & CNXH”, nhà văn Nguyễn Quang Lập nhận xét rằng thoạt kỳ thủy, CNXH không những là “chủ trương lớn của Đảng ta”, mà nó còn là lý tưởng, là kim chỉ nam cho dân tộc. Nhưng trải qua hơn nửa thế kỷ, blogger Quê Choa lưu ý, “càng đeo lấy CNXH, đất nước càng lụn bại, khi nào Đảng buông CNXH thì đất nước lại khấm khá lên, lắm khi như chết đi sống lại vậy”. Rồi tác giả so sánh với “Chủ trương lớn của đảng” về Bauxite Tây Nguyên, quả quyết rằng “Cũng giống như Bauxite Tây Nguyên, nhìn thấy rất rõ xây dựng CNXH chẳng lợi lộc gì, chẳng những không lợi lộc mà hết sức nguy hiểm”.

Theo blogger Quê Choa thì trên thế giới này, hệ thống CNXH đã sụp đổ, sụp đổ vì nó “trái quy luật chứ chẳng vì ai cả, kẻ có chỉ số IQ bằng không cũng biết chắc như vậy, không cần phải người thông minh”. Và “Cũng như Bauxite Tây Nguyên, mấy ông lú cũng biết CNXH chẳng lợi lộc gì, càng làm càng thua lỗ, càng giữ càng nguy hiểm… nhưng vẫn không ai dám bỏ”. Như vậy, tác giả nêu lên câu hỏi, ” Đi theo CNXH để làm gì, cần thiết cho ai, có lợi cho ai?”; và nhà văn Nguyễn Quang Lập “nói cho nó nhanh” rằng “…có lợi cho Đảng, cần thiết cho Đảng, chỉ có cần thiết cho Đảng có lợi cho Đảng mà thôi”.

Tạp chí Điểm Blog tạm dừng ở đây. Thanh Quang kính chúc quý vị mọi điều như ý.

Tin, bài liên quan

Anh em Tsarnaev ‘định tấn công tiếp’

Cảnh sát phong tỏa Boston để truy bắt nghi phạmBoston đã trải qua một chiến dịch truy lùng lớn chưa từng thấy

Hai anh em bị tình nghi đánh bom cuộc chay marathon quốc tế ở Boston có lẽ đang lên kế hoạch tấn công tiếp, cảnh sát trưởng của thành phố này cho biết.

Ông Ed Davis nói với kênh truyền hình CBS rằng hai nghi phạm Dzhokhar và Tamerlan Tsarnaev đang mang theo bom mìn tự chế trên người để ném vào cảnh sát khi bị truy đuổi.

“Chúng tôi có lý do để tin, dựa trên những chứng cứ mà chúng tôi tìm thấy ở hiện trường là các chất nổ và các thiết bị nổ vẫn chưa dùng và hỏa lực mà họ có, rằng họ đang có kế hoạch tấn công nữa,” ông Davis nói trên chương trình Face the Nation của CBS.

Các quan chức giờ đây đam tìm cách truy tìm tất cả các vũ khí mà hai anh em này đã sử dụng, cảnh sát trưởng Boston cho biết, và đây là một ‘nội dung quan trọng của cuộc điều tra’.

Ông cho biết cảnh sát đã tìm thấy 250 đầu đạn đã sử dụng ở hiện trường và trên sàn nhà ‘đầy những thiết bị nổ chưa nổ’.

Kẻ tình nghi thứ hai Dzhokhar Tsarnaev hiện đang được các cảnh sát có vũ trang canh giữ cẩn mật ở Viện Y khoa Beth Israel Deaconess, nơi các nạn nhân của vụ đánh bom cũng được chữa trị.

Hắn đã được các bác sỹ cho dùng nhiều thuốc an thần và trong cổ họng có đặt ống thở.

Nhưng hắn vẫn chưa thể nói chuyện được để lấy lời khai. Thị trưởng Boston Tom Menino nói trên kênh ABC hôm Chủ nhật ngày 21/4 rằng: “Chúng tôi không biết liệu có thể thẩm vấn được nghi phạm hay không.”

Thị trưởng Menino cũng nói rằng các bằng chứng cho thấy hai anh em Tsarnaev tự mình hành động và rằng người anh trai 26 tuổi đã ‘tẩy não người em’ để cùng với y tham gia vụ đánh bom.

Ông Deval Patrick, thống đốc bang Massachusetts, nói rằng các hình ảnh từ camera giám sát khẳng định chắc chắn rằng Dzhokar Tsarnaev có mặt tại hiện trường của vụ nổ đầu tiên.

“Dường như đã rất rõ rằng nghi phạm cởi ba lô, đặt xuống đất, không hề phản ứng khi vụ nổ đầu tiên xảy ra và sau đó bước đi khỏi chiếc ba lô kịp thời trước vụ nổ thứ hai,” Patrick nói trên kênh truyền hình NBC.

Làm cách nào bắt sống nghi phạm khủng bố?

Việt-Long, RFA. 2013-04-20

 Email  Ý kiến của Bạn  Chia sẻ  In trang này
thermal-pic-305

Ảnh tầm nhiệt cho thấy nghi phạm nằm duỗi trong chiếc ca-nô, bên dưới tấm bạt

Massachusetts police video screen capture

Hôm nay cảnh sát trưởng thành phố Watertown, Massachussetts cho biết thêm một số chi tiết quanh vụ vây bắt nghi can khủng bố Dzhokhar Tsarnaev.

Diễn tiến thời gian vụ vây bắt dựa theo phóng sự mà chúng tôi tường trình ngày hôm qua, nay thêm những chi tiết mới nhất và chính xác hơn:

18:30:  Nhà chức trách cho lệnh giải toả tạm thời tình trạng nghiêm trọng, cho phép người dân trong khu vực được cho là nghi can lẩn trốn có thể ra ngoài nhưng phải hết sức cẩn thận.

Máy ảnh tầm nhiệt và robot

18:45: Một cư dân ở gần căn nhà số 67 đường Franklin, Watertown ra khỏi nhà sau khi có lệnh giải toà. Ông lập tức báo cảnh sát ông thấy tấm vải bạt che chiếc ca-nô ở sân sau của ngôi nhà này có vết máu, và dường như có người nhúc nhích ở bên trong.

19:00:  Nhiều xe chở cảnh sát và cảnh sát biệt kích, cùng FBI đã chạy tới bố trí chặt chẽ xung quanh căn nhà. Các tổ bắn sẽ được bố trí cả trên các nóc nhà quanh đó. Trực thăng bay qua lại trên căn nhà số 67 nhiều lần.

Trực thăng dùng máy quay phim tầm nhiệt phát hiện một thân hình con người nằm duỗi ở phía đuôi chiếc ca-nô, phủ bên trên là tấm vải bạt che tàu.

19:20: Cảnh sát kêu đích danh Dzhokhar Tsarnaev và khuyến dụ ra đầu hàng. Không trả lời. Tiếp tục thuyết phục.

19:37: Cảnh sát bắn vài loạt đạn (không nói có nhắm chiếc tàu hay chỉ bắn doạ).  Robot được chở tới, chạy vào sân lục soát tìm chất nổ. Robot leo cả lên nóc tấm bạt, và chuyển hình ảnh cho thấy thân người nằm im trong đó, không có chất nổ hay lựu đạn.

19:50: Có nhiều tiếng nổ, do cảnh sát ném khoảng 10 trái nổ, có thể là  loại không sát thương, để cướp tinh thần nghi phạm. Dzhokhar vẫn không trả lời.

20:05: Cảnh sát bắn thêm nhiều loạt súng liên thanh, dường như nhắm bên dưới và xung quanh chiếc ca-nô.

20:45: Dzhokhar ra hàng cảnh sát, chậm chạp và yếu ớt, đã bị thương từ 20 giờ đồng hồ trước,  trong lúc đấu súng với cảnh sát. Bị thương ở cổ ở đầu và chân tay, mất nhiều máu, tình trạng trầm trọng nhưng không nguy kịch.

airview-pic
Một tấm không ảnh cho thấy hoạt động của cảnh sát để đưa nghi can ra hàng – MA police video screen capture.

21:07: Nghi can lập tức được đưa tới bệnh viện Mt. Auburn. Đoàn xe chở nghi can và cảnh sát hộ tống chạy ra giữa tiếng hoan hô của hằng trăm người dân đứng hai bên đường theo dõi suốt cuộc bao vây. Đoàn xe chậm lại, Dân nhảy tới các xe để bắt tay và “high five” với cảnh sát.

Em cán anh, chạy thoát

Về cuộc chạm súng khuya thứ năm rạng sáng thứ sáu giữa hai anh em nghi can với khoảng từ 6 tới 10 cảnh sát, một cư dân Watertown, Andrew Kitzenberg, cho biết cảnh sát và nghi phạm bắn nhau liên tục trong nhiều phút. Có lúc một xe SUV của cảnh sát lao về phía chiếc Mercedes của hai nghi phạm đánh cướp của dân, nhưng lạc tay lái và đâm vào hai xe khác trên đoạn đường lái xe vào garage nhà Andrew. .

Nghi phạm châm ngòi một trái nổ giữa lúc chạm súng, quăng về phía cảnh sát nhưng rớt ở gần nửa đường, chừng 20 mét.

Cảnh sát trưởng Watertown thuật tiếp: sau đó Tamerlan đột nhiên nhảy ra xông về phía cảnh sát vừa chạy tới vừa bắn. Hai bên bắn nhau rất gần,  còn cách có ba bốn mét thì Tamerlan hết đạn.  Hai ba cảnh sát phóng ra đè Tamerlan xuống để còng tay. Chợt một cảnh sát la lên “Coi chừng, coi chừng” Họ nhìn lên và thấy Dzhokhar phóng chiếc SUV Mercedes vào giữa đám người có cả anh của đương sự. Cảnh sát nhảy tránh kịp. Tamerlan bị em ruột cán lên người, đưa vào nhà thương thì chết. Dzhokhar chạy thoát.

Một cảnh sát bị đạn trúng vào háng, rất nguy kịch. Cảnh sát phải chia hai, một toán đưa người bị thương và Tamerlan vào bệnh viện, nơi người ta thấy nghi phạm đã buộc chất nổ quanh người, và Tamerlan chết tại bệnh viện. Toán còn lại đuổi theo Dzhokhar nhưng nghi phạm mất tăm. Mãi sau, trong đêm, mới tìm thấy chiếc Mercedes để lại ở thành phố Watertown. Cảnh sát mở cuộc bao vây, dẫn đến việc bắt giữ được như đã kể trên.

Andrew còn cho biết hai nghi can để lại nhiều túi đựng chất nổ bên cạnh chiếc xe (có lẽ là chiếc xe mà họ lấy chất nổ chuyển qua xe Mercedes). Một toán gỡ bom đã tới vô hiêu hoá và tịch thu hết. Cảnh sát trưởng thành phố Watertown còn cho biết trong lúc đuổi bắt hai nghi phạm ném 2 trái lựu đạn và 3 trái nổ đựng trong ống về phía sau, trước mặt xe cảnh sát đang đuổi. Trong 5 trái thì 3 trái phát nổ, không gây thiệt hại, 2 trái không nổ.

Đến nay tình trang của Dzhokhar Tsarnaev đã ổn định. Bác sĩ cho biết bệnh nhân chưa thể nói chuyện lâu được, nên chưa thẩm vấn được.

Cha mẹ của hai anh em hung phạm, ông bà Anzor Tsarnaev và Zubeidat Tsarnaeva ở Makhachkala, Dagestan vẫn nói Dzhokhar là một thiên thần thật sự. Ông bà cho là FBI đã gài hai anh em phạm tội. Họ cho biêt sẽ đi Mỹ để lo bảo vệ pháp lý cho Dzorkhar. Ông bà vẫn cương quyết nói Dzhokhar không thể là kẻ khủng bố, chỉ là bị gài và trở thành phạm tội. Người chú của hai nghi can ở Maryland, từng kịch liệt lên án hai anh em, nay cũng nói sẽ lo xin tội cho cháu.

ma-governor
Thống đốc Massachussetts Deval Patrick trả lời báo chí sau khi bắt sống được Dzhokhar – Screen capture

Suốt ngày thứ bảy là ngày người dân Boston và Watertown cũng như các thành phố phụ cận ăn mừng, nhất là sinh viên trường đại học M.I.T., Massachusetts Intitute of Technology, ở thành phố Cambrige, một trong những trường đại học nổi tiếng nhất trên thế giới.

Tin, bài liên quan