Chủ tịch Trương Tấn Sang phát biểu tại buổi ăn trưa cùng ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry hôm 24/07.
Ông Sang nói rằng Việt Nam coi Hoa Kỳ là đối tác quan trọng hàng đầu và hai nước đã và đang hợp tác trên nhiều lĩnh lực.
TIẾNG NÓI TỰ DO DÂN CHỦ
Chủ tịch Trương Tấn Sang phát biểu tại buổi ăn trưa cùng ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry hôm 24/07.
Ông Sang nói rằng Việt Nam coi Hoa Kỳ là đối tác quan trọng hàng đầu và hai nước đã và đang hợp tác trên nhiều lĩnh lực.
Nguyễn Hoàng. BBC tiếng Việt, Washington. 24 tháng 7, 2013
Vào chiều ngày 25/07/2013, sau khi gặp Tổng thống Barack Obama vào buổi sáng, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sẽ có bài thuyết trình tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
BBC tiếng Việt đã phỏng vấn ông Ernest Bower, một chuyên gia theo dõi quan hệ Mỹ Việt lâu năm và hiện là cố vấn cao cấp cho viện nghiên cứu có uy tín này.
Chủ đề liên quan
BBC: Thưa ông, trong chừng mực nào có thể coi chuyến đi của Chủ tịch Sang tới Hoa Kỳ là có giá trị lịch sử?
Tôi cho rằng quan hệ Mỹ-Việt có thể là đã đạt tới gần tầm cao kể từ khi hai nước tái lập quan hệ vào đầu thập niên 1990. Tôi cũng nghĩ rằng việc người đứng đầu nhà nước Việt Nam xuất hiện tại một viện nghiên cứu có tầm cỡ tại Washington với một bài thuyết trình về chính sách, về địa chính trị, về chiến lược là việc mà dường như là từ trước tới nay chưa từng có tại đây.
BBC:Các quyết định có mức độ quan trọng về kinh tế và chính trị cần phải đạt được sự đồng thuận của các thành viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông có nghĩ rằng Chủ tịch Sang có thể tiếp thị được, và tiếp thị có hiệu quả, khi ông trở về nước từ những gì mà Tổng thống Obama chào hàng trong chuyến đi này hay không?
Đó là câu hỏi khó để trả lời. Có thể chỉ có những lá phiếu của Bộ Chính Trị mới có thể trả lời được câu hỏi này. Nhưng đó là câu hỏi hay, và tôi nghĩ rằng Washington đang đặt cược vào tầm quan trọng của việc tạo đà và khích lệ đối với những thành viên của Bộ Chính Trị và Ủy viên Trung ương Đảng muốn đi xa hơn trong quan hệ hai nước và tiến thêm nữa trong những bước cải cách.
Và đó là vì sao Tòa Bạch Ốc, tôi tin chắc rằng, đã tính toán là lúc này là thời điểm đúng để mời Chủ tịch Sang tới Washington.
BBC:Vào đúng ngày Chủ tịch Sang tới Washington chúng ta thấy một số dân biểu Hoa Kỳ họp báo để lên án Hà Nội về thực trạng nhân quyền. Nhưng khó có thể hình dung Tổng thống Obama sẽ rao giảng về nhân quyền khi ông gặp người tương nhiệm phía Việt Nam.
“Washington đang đặt cược vào tầm quan trọng của việc tạo đà và khích lệ đối với những thành viên của Bộ Chính Trị và Ủy viên Trung ương Đảng muốn đi xa hơn trong quan hệ hai nước và tiến thêm nữa trong những bước cải cách.”
Tôi nghĩ là nhân quyền là một phần rất quan trọng trong quan hệ song phương. Tôi đã nghiên cứu và làm việc về các chủ đề liên quan tới quan hệ Mỹ-Việt được khoảng 25 năm qua. Tôi phải nói rằng tôi thấy giới lãnh đạo của Việt Nam đang sẵn lòng hơn trong việc đối thoại và bàn thảo chủ đề nhân quyền và tự do tôn giáo so với trước đây.
Tuy vậy cũng phải nói rằng vẫn còn những vấn đề rất nghiêm trọng. Quan hệ đôi bên nay có thêm nhiều việc cần làm và phải giải quyết, và quan hệ không chỉ là về chủ đề nhân quyền mặc dù nhân quyền luôn luôn là ưu tiên cao nhất của Hoa Kỳ. Tôi nghĩ rằng Việt Nam hiểu điều đó.
Hy vọng là Tổng thống Obama sẽ không trong tâm trạng muốn rao giảng. Tôi nghĩ rằng ông sẽ bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Ông Obama sẽ yêu cầu người đồng nhiệm, Chủ tịch Sang, lắng nghe một cách nghiêm túc và ủng hộ ông cũng như có hành động theo hướng đi như thả một số tù nhân chính trị, là những người bị ngồi tù vì những nỗ lực của họ trên truyền thông cũng như ngồi tù vì tín ngưỡng tôn giáo. Vì vậy đó là chủ đề rất quan trọng.
Tuy nhiên tôi cũng nghĩ rằng chủ đề nhân quyền được đặt trong trong bối cảnh rộng hơn trong quan hệ, theo đó Hoa Kỳ xem Việt Nam là tiếng nói quan trọng trong việc phân tích tình hình trong khu vực và coi Việt Nam là một đối tác quan trọng về mậu dịch.
BBC:Việt Nam đã có hợp tác chiến lược với khá nhiều nước rồi. Vậy một quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ, nếu có, có ý nghĩa gì?
Việt Nam là nước có thể xem đã nhận thức được rằng sự ổn định về kinh tế và an ninh quốc gia phụ thuộc vào sự ổn định và thịnh vượng trong vùng, và có thể là hiểu điều đó còn nhiều hơn nước khác vì Việt Nam quá gần đường biên với Trung Quốc và vì yếu tố lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam hiểu rất rõ rằng bất kỳ động thái nào của Trung Quốc dựa trên sức mạnh kinh tế mới thu lượm được rồi kể như dùng sức mạnh đó để lấn át láng giềng về các chủ đề liên quan tới chủ quyền và tranh chấp lãnh thổ.
“Việt Nam muốn Trung Quốc cùng bàn thảo luật lệ với láng giềng của họ và tuân thủ các luật lệ đó thay vì tự Trung Quốc đặt ra luật lệ riêng”
Tôi cho rằng cả Việt Nam lẫn Nhật Bản đều lo ngại không biết Trung Quốc nghĩ gì và muốn sử dụng sức mạnh của họ thế nào. Và thậm chí Myanmar cũng có những câu hỏi tương tự đối với Trung Quốc. Và khi nhận thức được vấn đề này thì Việt Nam nghĩ về việc cân bằng chiến lược và sự tin cậy. Cá nhân tôi luôn nghĩ rằng Việt Nam có quan điểm rằng họ muốn Trung Quốc tham gia vào khuôn khổ hợp tác trong vùng như Thượng đỉnh Đông Á (Diễn đàn thường niên của 16 nước Đông Á) và các cơ chế hợp tác khác và cùng bàn thảo luật lệ với láng giềng của họ và tuân thủ các luật lệ đó thay vì tự Trung Quốc đặt ra luật lệ riêng.
BBC:Hoa Kỳ có thực sự cần Việt Nam về phương diện kinh tế và quân sự hay không?
Tôi nghĩ rằng Hoa Kỳ có cần Việt Nam. Hoa Kỳ cần Việt Nam vì chiến lược của Hoa Kỳ ít nhất dựa vào một phần đó là ASEAN mạnh mẽ. ASEAN có nền móng vững chắc là điểm tựa cân bằng cho kiến trúc vùng kiểu mới trong Thượng đỉnh Đông Á.
Nếu thiếu vắng yếu tố lãnh đạo mạnh mẽ của Việt Nam cũng như của ASEAN, là khối hợp tác mà Việt Nam tin tưởng, thì chiến lược của Hoa Kỳ sẽ rất yếu. Do đó Việt Nam quan trọng với Hoa Kỳ vì lý do này và nhiều lý do khác nữa.
Phạm Chí Dũng. Gửi cho BBC từ Sài Gòn. 24 tháng 7, 2013
Ông Trương Tấn Sang đã đáp xuống Washington sớm ngày 24/7
Ngay sau khi cuộc gặp Obama – Trương Tấn Sang được Nhà Trắng chính thức thông báo vào ngày 11/7, không khí bình luận trong nước và quốc tế bất chợt sôi động hẳn lên. Người ta nói về và đặt câu hỏi về sự vội vã đáng hoài nghi về chuyến đi của ông Sang.
Lần thứ hai trong năm nay, sau thông báo đột ngột về cuộc diện kiến ông Tập Cận Bình ở Bắc Kinh, cuộc gặp ông Obama của ông Sang là một sự kiện có tính bất ngờ.
Chủ đề liên quan
Cuộc gặp ở Washington này lại chỉ diễn ra sau cuộc gặp tại Bắc Kinh, và sau khi nguyên thủ hai cường quốc của hành tinh đã có tiếp xúc ở California vào đầu tháng Sáu.
Trong bối cảnh đó, liệu có một nhà lãnh đạo nào của Việt Nam đủ dũng khí để đứng ra tuyên bố sẽ ngả hẳn về phương Bắc hay sang phương Tây?
Hiện thời, chưa có ai trả lời được câu hỏi này. Nhưng nếu bạn là người Việt Nam và cảm nhận được vô số điều khó xử của giới chức lãnh đạo cao cấp ở đất nước đầy phức hợp này, có lẽ bạn sẽ không thể tìm thấy đáp số, ít ra trong ngắn hạn.
Phần đông dư luận vẫn nhìn nhận về cuộc gặp Sang – Obama như một cái gì đó có tính xã giao và có thể cả tính quảng bá – tuyên truyền cho một thế đứng chính trị trên trường quốc tế và có thể cả thế “đi dây” mang nội hàm chính thể lẫn lợi ích cá nhân.
Còn nếu nhìn từ hệ quy chiếu của Nhà Trắng, liệu có xảy đến một kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama – Sang?
Với những gì đã được “quy chiếu” bởi trục thương mại Mỹ – Trung với những móc xích khóa chặt giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, cùng hai chuyến diện kiến con thoi như được mặc định của người Việt Nam, gần như chắc chắn sẽ không có kịch bản xấu, bởi điều dễ hiểu là sẽ khó có một mâu thuẫn đủ lớn, ít ra trong ngắn hạn, có thể gây tác động không tốt đến chuyến đi Washington.
Cũng sẽ chẳng có một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và cả tham vọng của Việt Nam.
Những kịch bản lạc quan
“Sẽ chẳng có một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và cả tham vọng của Việt Nam”
Cuộc gặp Việt – Mỹ năm 2007
Vài ngày trước cuộc gặp giữa hai ông Obama – Sang, một nhóm nhân sĩ, trí thức Việt Nam đã gửi thỉnh nguyện thư cho người chuẩn bị bước qua cửa Nhà Trắng.
Không thể nói khác hơn là tâm tư trong bản thỉnh nguyện thư trên, được khởi tả chủ yếu từ các nhân sĩ và trí thức trong nhóm “Kiến nghị 72”, vẫn nặng lòng với vận mệnh dân tộc và vẫn trông đợi, dù chỉ bằng một xác suất rất nhỏ, vào cơ hội “thoát Trung” từ chuyến đi Hoa Kỳ của ngài chủ tịch nước.
Một chuyên gia quốc tế còn nhận định có thể ông Trương Tấn Sang sẽ quyết định “trả một cái giá” để đổi lại sự ủng hộ của người Mỹ trong các vấn đề đối tác chiến lược toàn diện, an ninh khu vực biển Đông và cả những quyền lợi kinh tế liên quan đến Hiệp định TPP.
Một lần nữa, nhiều người lại kỳ vọng vào một sự thay đổi, sau cuộc gặp Nguyễn Minh Triết – George W. Bush cách đây sáu năm mà đã hầu như chẳng tạo ra một hiệu ứng đổi thay nào.
Tất nhiên, hy vọng vẫn là hy vọng, bởi đó là một trong số không nhiều thực tồn có thể tồn tại ở Việt Nam mà không bị đánh thuế.
Những người theo xu thế lạc quan đã vẽ ra một kịch bản tốt nhất có thể, với kết quả cuộc gặp Obama – Sang đi đến thống nhất ký kết những văn bản thỏa thuận ở cấp độ không thấp về sự hỗ trợ hải quân của Hoa Kỳ ở khu vực biển Đông, tiến trình rút ngắn thủ tục cho Việt Nam gia nhập TPP và có thể cả một văn bản hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia – điều mà giới ngoại giao Hà Nội luôn xem là một món quà hậu hĩ.
Có lẽ phần lớn con mắt lạc quan trên thuộc về giới chức Đảng và chính phủ.
Trong trường hợp kém khả quan hơn, những văn bản trên có thể chỉ mang tính khung cảnh mà không đề cập vào chi tiết. Đây cũng là trường hợp mà như người ta thường nói, tất cả cần phải có thời gian, mà thời gian lại phụ thuộc vào sự cố gắng của không chỉ một bên mà cả hai phía.
Nếu kịch bản này xảy ra, sẽ có một chỗ giao thoa về quan điểm giữa “hai phía” khác: chính giới cầm quyền và một bộ phận giới quan sát độc và phản biện độc lập trong nước.
Nhưng bộ phận còn lại của giới phản biện độc lập trong nước, và có lẽ đa số trong giới quan sát quốc tế, lại không mấy kỳ vọng vào sự giải quyết rốt ráo những hiện tồn đang ám ảnh.
Bởi sau mọi mục đích, nội lực để đạt được mục đích lại phụ thuộc rất lớn vào lợi thế so sánh của nhà nước Việt Nam và bản lĩnh chính trị của chính khách Việt.
Vậy chính khách Việt đang có trong tay cái gì?
‘Đường biểu diễn’ nhân quyền
Liệu Việt Nam sẽ nhượng bộ về nhân quyền để xích gần lại hơn với Hoa Kỳ?
Một trong những hiện tồn nặng nề nhất ở Việt Nam là chủ đề “nhân quyền và dân chủ” mà người Mỹ chắc chắn sẽ đặt ra đối với nhà nước cựu thù vào lần gặp gỡ sắp diễn ra.
Quá khứ đã có thể dễ dàng gác lại, và càng có nhiều lý do để bỏ qua vào thời điểm “nhạy cảm” này, nhưng làm thế nào để những người Việt rời Sài Gòn vào ngày 30/4/1975, và trên hết là những người bất đồng chính kiến đang hiện hữu tại Việt Nam, có thể chia sẻ với chính đảng cầm quyền về hệ lụy mà phương Tây luôn căn vặn: đàn áp nhân quyền?
Với những gì mà Hà Nội đã bộc lộ từ sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ vào trung tuần tháng 4/2013 đến nay, điều rõ ràng là chưa có một biểu hiện lộ diện nào về khả năng cải thiện tình hình.
Thậm chí, đường biểu diễn quyền làm người ở Việt Nam còn được chia thành hai phân đoạn khá rõ rệt trong nửa đầu năm 2013: trước và sau tháng Tư năm nay.
Ở phân đoạn trước, giới quan sát quốc tế đã chứng kiến một sự kiện chưa có tiền lệ: chuyến làm việc của Tổ chức ân xá quốc tế tại Việt Nam, lần đầu tiên từ năm 1975, với việc các quan chức của tổ chức này còn được tiếp cận những “đối tượng” do họ đề nghị đích danh. Và có thể, ý nghĩa của lần viếng thăm này còn lớn lao hơn cả một ẩn ý nào đó của chuyến “hành hương” đến Vatican của nhân vật số một trong Đảng – ông Nguyễn Phú Trọng – vào đầu năm 2013.
Cùng trong phân đoạn biểu diễn nhân quyền trên, những kiến nghị chưa từng thấy của nhóm “72” về Hiến pháp và điều 4 độc đảng đã tạo nên một xung chấn đủ mạnh trong đời sống chính trị phi chính thức ở Việt Nam – một hiện tượng tâm lý xã hội được xem như không chỉ phản ánh ý thức đối lập của người dân mà còn dắt dây sang tâm trạng “suy thoái” của một bộ phận không quá nhỏ trong khối đảng viên và công chức nhà nước.
Chỉ có điều, sau phân đoạn sôi trào không khí phản biện như thế lại là một sóng xuống khá trầm lắng.
Ngay sau khi cuộc đàm phán nhân quyền Việt – Mỹ kết thúc tại Hà Nội, trưởng phái đoàn là Dan Baer đã không làm cách nào tiếp xúc được với những nhà hoạt động nhân quyền là bác sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Nguyễn Văn Đài. Cuộc gặp duy nhất mà Dan Baer đạt được chỉ là với linh mục Nguyễn Văn Lý trong nhà tù chế độ. Cha Lý lại là một con chiên nổi tiếng bất đắc dĩ với hình ảnh bị những người không mặc sắc phục bịt miệng tại tòa án.
Hình như Hà Nội vẫn chưa sẵn sàng đối thoại về nhân quyền, dù một số quan chức đã hé mở tâm trạng riêng tư của họ với ngành ngoại giao Cộng đồng châu Âu “hãy cho chúng tôi thêm thời gian”.
“Nếu thời gian đã được chứng nghiệm ở Myanmar với những cam kết đã biến thành hiện thực của Tổng thống Thein Sein … thì ở Việt Nam lại chưa hiện ra một tinh thần tự nguyện nào.”
Song nếu thời gian đã được chứng nghiệm ở Myanmar với những cam kết đã biến thành hiện thực của Tổng thống Thein Sein bằng vào lệnh thả hàng trăm tù chính trị trong hai năm 2011, 2012 và sẽ thả hết trong năm 2013, thì ở Việt Nam lại chưa hiện ra một tinh thần tự nguyện nào.
Từ sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ, làn sóng bắt bớ blogger lại trào lên. Bất kể vì lý do và động cơ gì, vì an ninh quốc gia hay một động lực riêng tư nào đó, việc bắt giữ ba blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy đã làm dấy lên mối nghi ngờ chưa bao giờ kết thúc của giới nhân quyền Mỹ và châu Âu về điều chưa bao giờ được xem là “thành tâm chính trị” của nhà cầm quyền Hà Nội.
Vậy làm sao có thể hy vọng vào một kịch bản tốt đẹp, hoặc tương đối tốt đẹp, trong cuộc gặp Obama – Sang vào lần này, khi nhân quyền và dân chủ lại là đối trọng mà người Mỹ đang đặt ra như một điều kiện cần?
Chỉ có thể nghĩ đến một kịch bản khá trung dung, thậm chí rất bình thường – kịch bản thứ tư – với xác suất xảy ra lớn nhất.
Tức sẽ không có một thỏa thuận nào gây ấn tượng, dù chỉ là thỏa thuận khung, về các vấn đề TPP, an ninh khu vực biển Đông và đối tác chiến lược toàn diện. Thay vào đó, sẽ chỉ là những lời hứa hẹn trên bàn ngoại giao – một loại quỹ ngôn từ không hề thiếu thốn nếu các nhà ngoại giao thấy chưa cần thiết phải làm đầy đặn hơn nữa.
Những nhà ngoại giao Hoa Kỳ lại không hề muốn bị dư luận dân chúng Mỹ và quốc tế đánh giá về một sai lầm tiếp nối của họ, nếu họ “buông” cho Hà Nội vượt vũ môn để tiếp cận một cách quá dễ dàng với những mục đích tự thân về kinh tế và danh vọng.
WTO 6 năm về trước và Hiệp định thương mại Việt – Mỹ cách đây đúng một “con giáp” là những bài học sần sùi khó nuốt của người Mỹ.
Nếu năm 2007 đánh dấu cuộc đối thoại đầu tiên giữa hai nguyên thủ nhà nước Bush – Triết, thì trước đó một năm, nước Mỹ cũng nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách CPC về những quốc gia cần quan ngại đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo. Nhưng cũng kể từ thời gian đó, tình trạng nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại không có dấu hiệu khả quan hơn, nếu không muốn nói là bị đánh giá “thụt lùi sâu sắc”.
Hiển nhiên, bài học về nhân quyền khép kín không tương xứng với độ mở tối đa về kinh tế đã hằn sâu trong não trạng người Mỹ, cho tới giờ và cho cả những năm tháng trong tương lai.
Sự bất tương xứng như thế lại còn như được gia cố bởi mối quan hệ đang có chiều hướng bền vững giữa Bắc Kinh – một hậu duệ mao – ít vốn chẳng mấy quan tâm đến vấn đề quyền con người và mới đây còn bắt luôn cả một luật sư đang bào chữa cho thân chủ hoạt động nhân quyền mới bị bắt của mình – với Hà Nội.
Cái gì mang tính hệ thống luôn có thể dẫn đến chuỗi logic trong hành xử. Mối quan hệ “mười sáu chữ vàng” có thể đã hữu hảo đến mức mà người Mỹ không còn mơ hồ về việc nhà nước Việt Nam sẽ khó tránh khỏi ảnh hưởng của Trung Nam Hải về chính sách nội trị, đối với những gì và những ai không đồng nhất với ý thức hệ và quyền lợi chính trị của họ.

Một hệ quả hầu như chắc chắn là cho dù không xảy ra kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama – Sang, nhưng không phải vì thế mà mọi điều khoản của TPP đều dễ dàng thuận thảo.
Nhận định gần đây của một quan chức châu Âu cho biết khác nhiều với mong muốn của Hà Nội, TPP sẽ không kết thúc lộ trình đàm phán nào vào tháng 10/2013, mà khả năng sớm nhất của hiệp định này là được thông qua bởi Quốc hội Hoa Kỳ vào năm sau. Còn nếu mọi việc thuận lợi, nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể tìm ra lối mở qua TPP sau hai năm nữa, tức vào năm 2015.
Khoảng cách từ đây đến năm 2015 có lẽ lại là quá lâu so với thế nôn nóng của những người đang muốn gỡ gạc nền kinh tế khỏi khủng hoảng.
Mà cũng chưa biết chừng, nền kinh tế ấy hoàn toàn có thể bị hoại thư toàn phần chỉ sau hai năm nữa.
Nhưng vẫn còn một lối mở khác – ngắn hơn, cũng là một lối tắt thu rút con đường hòa hợp và hòa giải quốc tế của giới lãnh đạo Việt Nam. Không còn nhiều lựa chọn, đó phải là một hoặc những biểu hiện của lòng thành tâm chính trị – điều đã được phương Tây ghi nhận ở Myanmar, đối với Thein Sein.
Không có thành tâm chính trị, người ta sẽ không đạt được bất kỳ một mục tiêu và kịch bản tốt đẹp nào, dù cho cá nhân.
Bài phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả, nhà báo hiện sống ở TP HCM.
CSVN Đu Dây?
Trong hơn 20 năm nối lại quan hệ ngoại giao bình thường từ sau khi Tổng Thống Bill Clinton bãi bỏ cấm vận đối với nhà cầm quyền CSVN vào năm 1995, Tòa Bạch Ốc đã đón tất cả 4 nhân vật cao cấp của Hà Nội gồm: ông Phan Văn Khải trong trách vụ Thủ tướng vào năm 2005, ông Nguyễn Minh Triết trong trách vụ Chủ tịch nước vào năm 2007, ông Nguyễn Tấn Dũng trong trách vụ Thủ tướng vào năm 2008, và lần này là ông Trương Tấn Sang trong trách vụ Chủ tịch nước vào ngày 25 tháng 7 năm 2013.
Mặc dù cả bốn nhân vật nói trên được đánh giá là có quan điểm ôn hòa và cấp tiến trong những liên hệ với Hoa Kỳ; nhưng vì đa số các nhân vật trong bộ chính trị CSVN vốn coi Trung Quốc là “đồng minh” quan trọng, nên mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và CSVN luôn luôn bị coi là thứ yếu trong suốt 2 thập niên vừa qua.
Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, tuy đặt vấn đề nhân quyền là một điều kiện trong các quan hệ với CSVN; nhưng trong thực tế, Hoa Kỳ không bao giờ đẩy Hà Nội rơi vào thế kẹt về vấn đề nhân quyền mà đa số là do sự “dãn ra” từ phía CSVN, đến từ ba lý do:
Thứ nhất là lãnh đạo CSVN không tin chính quyền Hoa Kỳ có thực tâm tạo quan hệ bình thường mà qua đó sẽ dùng “diễn biến hòa bình’ để khuynh loát làm sụp đổ chế độ vì Hoa Kỳ bị coi là thủ phạm chính trong các cuộc cách mạng màu từ Đông Âu đến Bắc Phi.
Thứ hai là đa số lãnh đạo CSVN đều coi Trung Quốc là khuôn mẫu và là chỗ dựa tốt nhất, để họ có thể bảo vệ được những quyền lực đang có từ sau khi khối Liên Xô tan rã. Đồng thời chính lãnh đạo Bắc Kinh cũng coi CSVN là một đối tác không thể thiếu để giúp ổn định tình hình phía Nam.
Thứ ba là hầu hết giới lãnh đạo CSVN đã yên vị trong chiếc ghế quyền lực trải dài gần 4 thập niên nên rất ngại thay đổi những gì không nằm trong tầm kiểm soát của họ. Họ chỉ muốn tiếp cận với Hoa Kỳ trên mặt kinh tế nhưng không sẵn sàng học hỏi để tiến đến những hợp tác chiến lược như lãnh đạo Bắc Kinh.
Những lý do nói trên đã khiến cho CSVN có những bước đi khập khễnh trong các trao đổi với Hoa Kỳ. Nhiều người cho rằng Hà Nội đã tìm cách “đu dây” giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn nên mới đi khập khễnh như vậy. Trong thực tế, CSVN không hề chủ trương đu dây.
Hà Nội làm bộ như đu dây để che đậy một thủ thuật cố hữu là khai thác tài nguyên của các quốc gia Phương Tây hầu cung phụng cho nền kinh tế Trung Quốc mà họ đang dựa vào. Tình trạng nhập siêu đối với Trung Quốc, xuất siêu đối với Hoa Kỳ và Âu Châu ngày một gia tăng từ năm 1991 cho đến nay, cho ta thấy rõ vì sao CSVN đã coi Trung Quốc là “đối tác chiến lược toàn diện” trong khi chỉ loay hoay với Hoa Kỳ ở vài cuộc đàm phán, không hề muốn tiến xa.
Tiếp Cận Hoa Kỳ?
Mới đây vào ngày 31 tháng 5, tại Diễn đàn Đối thoại Shangri-La, Tân Gia Ba, với sự tham dự của đại diện nhiều quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương, ông Nguyễn Tấn Dũng đã có một bài phát biểu mà nhiều nhà bình luận cho rằng Hà Nội đã có một số thay đổi quan điểm về Hoa Kỳ.
Trong bài phát biểu, ông Dũng ám chỉ Trung Quốc “đã có những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền”. Trong khi đó, ông Dũng đã chính thức đề cao Hoa Kỳ bên cạnh Trung Quốc là hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất trong khu vực Á Châu và Thế Giới.
Cũng trong bài phát biểu, ông Dũng nói rằng Hà Nội muốn tạo dựng quan hệ đối tác chiến lược với 5 cường quốc trong Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga. Trong 5 cường quốc này, CSVN chỉ chưa xúc tiến quan hệ đối tác với Hoa Kỳ và Pháp mà thôi.
Các nhà bình luận cho rằng, phát biểu của ông Dũng phải là chính sách nhất quán từ Bộ chính trị nên được diễn dịch rằng CSVN đang muốn tạo hình ảnh “đứng thẳng người đối với Bắc Kinh” để tiến gần hơn với Hoa Kỳ và Phương Tây.
Vấn đề đặt ra là ông Nguyễn Tấn Dũng và Bộ chính trị CSVN muốn gì hay sẽ được lợi gì khi có những chuyển hướng qua bài phát biểu của ông Dũng?
Thứ nhất, sợ bị cô lập và coi thường trong khối ASEAN trong lúc Phi Luật Tân sẵn sàng sống chết với Trung Quốc, CSVN đã mang Hoa Kỳ ra ca ngợi để vừa cho thấy Hà Nội sẵn sàng “thân thiện” với Mỹ, vừa chứng tỏ có khoảng cách với Bắc Kinh.
Thứ hai, giải tỏa mặc cảm quá lệ thuộc vào Trung Quốc trên một diễn đàn quốc tế, đặc biệt là trên diễn đàn đối thoại Sangri La, để dùng đó như một thành quả “ngoại giao” nhằm tuyên truyền lên dư luận quần chúng đảng viên trong nước rằng đảng vẫn giữ sự độc lập tự chủ đối với Bắc Kinh.
Thứ ba, gieo vào thành phần trí thức, cựu cán bộ CSVN một sự kỳ vọng rằng lãnh đạo Hà Nội – ít nhất là ông Nguyễn Tấn Dũng – biết suy xét để chọn con đường đi gần với Hoa Kỳ hơn hầu giảm thiểu nguy cơ Hán hóa mà cả nước đang biểu tình chống đối liên tục.
Thứ tư, giải tỏa cho chính chế độ về đường lối đối ngoại mang đầy kịch tính “tiến thoái lưỡng nan” khi bị chỉ trích là đang nô lệ Tàu và đàn áp các nhà dân chủ yêu nước chống Trung Quốc.
Với những lý do được phân tích nói trên, rõ ràng là bài phát biểu của ông Dũng nhắm vào cho chế độ CSVN nhiều hơn là cho dân tộc và đất nước Việt Nam. Nói cách khác, nội dung phát biểu tại Sangri La của ông Dũng hoàn toàn mang tính chất cơ hội và không có chủ trương tiếp cận thật sự với Hoa Kỳ.
Kỳ Vọng Gì Cuộc Gặp Obama – Trương Tấn Sang?
Trong cuộc họp báo vào ngày 22 tháng 7, đúng vào ngày ông Trương Tấn Sang dẫn một phái đoàn sang thăm viếng Hoa Kỳ, ông Danny Russel, tân phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Đông Á – Á Châu Thái Bình Dương, đã có cuộc họp báo, tuyên bố một số điều xem ra khá mâu thuẫn.
Ông Danny Russel cho rằng Hoa Kỳ đang có những quan hệ song phương rất tốt với CSVN và chuyến thăm Mỹ của ông Trương Tấn Sang được coi là dấu mốc lịch sử của mối quan hệ này. Trong khi đó, ông Danny Russel cho biết là trước khi Tổng thống Obama đón tiếp ông Sang tại Tòa Bạch Ốc, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ gặp riêng phái đoàn ông Sang vào chiều ngày 24 tháng 7.
Nhìn vào cách đón tiếp của Tòa Bạch Ốc đối với ông Trương Tấn Sang, rõ ràng là mối quan hệ song phương Việt Mỹ không tốt như ông Danny Russel trình bày, nếu không nói là khá “tẻ nhạt” so sánh với những tiếp đón mà Bắc Kinh dành riêng cho ông Sang trong chuyến viếng thăm Trung Quốc hồi tháng 6 vừa qua.
Đương nhiên mỗi quốc gia có những thủ tục ngoại giao khi đón tiếp khách mời, nhưng qua cách đón tiếp của Tổng thống Obama dành cho ông Trương Tấn Sang, sau khi ông Nguyễn Tấn Dũng đã có những công khai muốn “xích lại” phía Hoa Kỳ, cho thấy là Hoa Kỳ chưa thật sự coi CSVN là một đối tác cần phải tranh thủ mạnh mẽ vào lúc này.
Mặc dù Tòa Bạch Ốc đã thông báo một số nội dung sẽ được Tổng Thống Obama đề cập đến trong lúc gặp ông Trương Tấn Sang, có hai vấn đề được coi là quan trọng chi phối những bước tiến mới trong quan hệ song phương Việt Mỹ là:
1/Quan hệ đối tác an ninh chiến lược; 2/Vấn đề tôn trọng nhân quyền của CSVN.
Hai vấn đề gai góc nói trên không nằm trong trách nhiệm mà Bộ chính trị trao cho ông Trương Tấn Sang. Ông Sang chỉ lo về mảng tư pháp. Ông Nguyễn Phú Trọng phụ trách về quốc phòng nên cầm chịch về quan hệ đối tác an ninh chiến lược. Còn vấn đề nhân quyền thì thuộc trách nhiệm an ninh và đối ngoại của ông Nguyễn Tấn Dũng.
Khi những lãnh vực phụ trách được phân chia trong Bộ chính trị như vậy, cũng như tình trạng kèn cựa quyền lực giữa hai phe Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng trong suốt 2 năm vừa qua, Hoa Kỳ đã nhìn thấy rõ ông Trương Tấn Sang không phải là nhân vật để “mặc cả”.
Tóm lại, chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang từ 23 đến 27 tháng 7, hoàn toàn mang tính ngoại giao và là trái đệm, chuẩn bị cho chuyến thăm viếng Việt Nam của Tổng Thống Obama vào cuối năm, nhân khi ông Obama sang dự Hội nghị Thượng Đỉnh Đông Á tại Brunei vào cuối tháng 11 năm 2013.
Hơn thế nữa, CSVN không hề có những chỉ dấu thay đổi để đến gần hơn với Hoa Kỳ, mà vẫn duy trì thái độ thân thiện với Trung Quốc qua việc đàn áp những người Việt yêu nước chống Bắc Kinh. Điều gì Hà Nội tuyên bố hay ứng xử hiện nay cũng chỉ thể hiện “nói một đàng, làm một nẻo” mà thôi.
Do đó, quan hệ Việt Mỹ cũng sẽ không có một bước gì mới sau chuyến đi này vì ông Trương Tấn Sang không phải là nhân vật để tạo ra những chuyển biến mới, trong khi hai ông Dũng và ông Trọng đang coi Bắc Kinh là chiếc phao quan trọng của họ trong cuộc chạy đua quyền lực tại Đại hội XII vào năm 2016.
Nguồn VRN:
Lý Thái Hùng
Nguồn: http://www.viettan.org/Ky-vong-gi-viec-ong-Truong-Tan.html
Câu chuyện đã cũ nhưng khi ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên phi cơ sang Mỹ vào ngày hôm nay, 22 tháng 7 thì người ta chợt nhớ lại chuyến đi của ông sang Bắc Kinh cách nay một tháng.
Chiều 19/6 sau cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, nguyên thủ hai nước đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác. Có bốn khoản trong 10 văn kiện hợp tác này đáng chú ý vì khi đọc kỹ thì cán cân nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.
Bảng thông báo đã dùng ngôn từ ngoại giao để che đậy sự yếu ớt của Việt Nam trong đó khoản thứ nhất đã khỏa lấp tất cả khi viết: “Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”.
Sự “hợp tác chiến lược toàn diện” phải được hiểu dưới hàm ý giữa “hai đảng” chứ không phải hai nước, hai chính phủ. Chỉ có Đảng cộng sản của hai nước mới có thể có cái nhìn chung về mục tiêu và chính sách vì sự khác biệt sâu xa giữa hai chính phủ không thể hợp tác toàn diện khi Bắc Kinh luôn mang “hải giám” ra để làm tê liệt ý chí Việt Nam qua mũi thuốc gây mê “cộng sản”.
Chấp nhận ký vào chương trình này Việt Nam đã chấp nhận đi chung chuyến xe với Trung Quốc mà tài xế thuộc về người đàn anh mạnh bạo và hung dữ.
Động thái ngoại giao dưới kèo này chỉ có thể giải thích: 10 văn kiện hợp tác này có bốn món quà của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đại diện cho toàn thể Bộ chính trị trao cho Trung Quốc nhằm bảo đảm trung thành, chấp nhận hợp tác không tranh cãi để giữ mối giao tình giữa hai đảng đã từng chung vai đấu cật nhiều chục năm qua.
Chung vai đấu cật vì sự nghiệp cao cả chung của hai đảng nên những cái chết chưa từng giải oan và những cái chết khác trên Biển Đông sắp tới nếu có, chỉ là những hiểu lầm cần được che đậy bằng đồng nhân dân tệ trong các dự án do chính Trung Quốc làm chủ hay thi công.
Điều này được xác định ở các khoản Trung Quốc sẽ hỗ trợ tài chánh. Cái cách mà Việt Nam thường làm mỗi khi muốn phân bua một nhượng bộ nào khó giải thích với quần chúng.
Món quà “Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ Quốc phòng” một lần nữa có hàm ý mê muội hóa người dân “hãy vững tin vào sự hợp tác” mặc dù bài học Biển Đông đang sờ sờ trước mắt và việc cố xóa dấu vết lịch sử trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 của nhà nước Việt Nam vẫn đang gây bức xúc trong xã hội.
“Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển” cũng không ngoài ý đồ cấy ghép niềm tin “ăn liền” cho người ngư dân để họ tiếp tục làm con thiêu thân cho chế độ.
Đường giây đỏ ấy chỉ có trên giấy và không bao giờ xuất hiện. Màu đỏ của máu không tô trên đường giây nóng mà chảy lai láng trên Biển Đông ngay sau khi 10 điều được ký kết.
Ngày 6 tháng Bảy, nửa tháng sau khi ông Sang từ Bắc Kinh quay về Hà Nội, 2 tàu cá với thủy thủ đoàn gần 30 người do ông Võ Minh Vương và Mai Văn Cường ở Lý Sơn, Quảng Ngãi làm thuyền trưởng cùng bị “tàu lạ” có võ trang hung hãn đập phá, cướp bóc.
Ông Sang đã bị đàn anh xỏ lá bỉ mặt trước người dân của mình.
Món quà cuối cùng: “Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4” giữa Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ.
“Lần thứ 4” có nghĩa là chuyện khai thác nguồn lợi dầu khí giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có từ lâu nhưng vùng dầu khai thác ấy nằm ở đâu và trữ lượng bao nhiêu, có dính gì tới chủ quyền biển đảo của Việt Nam hay không thì cả nước hoàn toàn mù tịt.
Thông tin nhỏ giọt không thoát ra khỏi hệ thống báo chí quốc doanh và vì vậy tiết lộ này chỉ làm mạnh thêm giả thuyết chính phủ đã âm thầm nhượng cho Trung Quốc một số vùng nào đó để đánh đổi lại những chiếc ghế trong Bộ chính trị được an toàn hơn trong bối cảnh tranh chấp hiện nay.
Bốn món quà “nhỏ” này có đủ để làm yên lòng Bắc Kinh cho chuyến đi Mỹ của ông Sang hay không chỉ có ông Chủ tịch nước và các vị trong Bộ chính trị biết. Tuy nhiên hệ thống công an có vẻ khá vụng về trong công tác làm hài lòng “đối tác chiến lược và toàn diện” khi tiếp tục cảnh cáo những ai có hành động chống lại Trung Quốc. Bỏ mặc Blogger Điếu Cày tuyệt thực là một điển hình.
Khi ông Chủ tịch nước bước lên máy bay sang Mỹ vào ngày 22 tháng 7 cũng là lúc người blogger chống Trung Quóc nổi tiếng đã tuyệt thực trong tù đúng một tháng trời. Điếu Cày tuyệt thực để chống lại chế độ cai tù hà khắc và cũng nhắc nhở mọi người ghi nhớ bản án của anh: Bản án chống Trung Quốc.
Trong chiếc cặp ngoại giao của ông Sang có nhiều hồ sơ được công an chuẩn bị sẵn để chứng minh họ đối xử rất hợp luật pháp quốc tế đối với những từ nhân chính trị như Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên hay Đinh Nguyên Kha. Những tù nhân này ông Sang có thể không cần biết nhưng blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải thì ông Sang phải biết. Ông biết không phải để trả lời với ông Obama mà vì ông buộc phải biết để kịp thời làm Trung Quốc hài lòng để không lấy cớ chèn ép Việt Nam thêm nữa.
Việc trả lời về vấn đề nhân quyền với ông Obama không phải là cốt yếu vì nước Mỹ không thể là “đối tác chiến lược và toàn diện” với Bộ chính trị Việt Nam. Nước Mỹ ngăn cấm doanh nghiệp của họ hối lộ ở nước ngoài và vì vậy Bộ chính trị khó lòng dùng quà cáp ngoại giao như với Trung Quốc để lót đường cho một mong muốn nào đó.
Nòi chuyện với ông Obama nhưng phải chọn từng lời để không làm phật ý “đối tác chiến lược và toàn diện” là sự khó khăn của ông Sang. Có lẽ vì vậy mà ông dẫn phái đoàn cả trăm người để họ trấn an ông hay chăng?
Đến Mỹ trong tâm thức bất an như vậy thì làm sao nói lời sáng suốt?
Đây là chuyến đi Mỹ đầu tiên của Chủ tịch nước Trương Tấn SangChủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang gặp Bộ trưởng Thương mại và Bộ trưởng Ngoại giao trong ngày đầu công du Hoa Kỳ.
Hôm 24/7, ông Sang đã tiếp xúc với Bộ trưởng Thương mại Penny Pritzker để thảo luận về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), đang được 12 nước tham gia thương lượng.
Hoa Kỳ đã bày tỏ hy vọng sẽ hoàn tất đàm phán với Việt Nam trong năm nay.
Bộ trưởng Penny Pritzker cũng nói về công nghệ hạt nhân dân sự của Mỹ, trong bối cảnh Việt Nam dự định triển khai nhiều lò phản ứng.
Trong ngày hôm nay, ông Sang dự kiến ăn trưa với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và có buổi tiệc tối với các lãnh đạo doanh nhân Mỹ.
Phái đoàn Việt Nam đặt chân xuống sân bay quân sự Andrews thuộc tiểu bang Maryland vào tối thứ Ba ngày 23/7 theo giờ địa phương, tức sáng sớm ngày 24/7 giờ Việt Nam, bắt đầu thăm chính thức Hoa Kỳ.
Theo bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì ông Sang đã được các ông David Shear, đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Nguyễn Quốc Cường, đại sứ Việt Nam tại Mỹ và ‘đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ’ ra đón tại sân bay.
Vị đại diện này là bà đại sứ Capricia Penavic Marshall, phụ trách lễ tân của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Đến nơi vào lúc tối nên hoạt động đầu tiên của ông Sang trên đất Mỹ trong ngày 23/7 là đến nói chuyện tại Đại sứ quán Việt Nam ở Washington DC.
Tại buổi nói chuyện ở Sứ quán, ông Sang được hãng tin nhà nước Việt Nam dẫn lời nói trong thời gian tới mối quan hệ Việt-Mỹ ‘sẽ được nâng cấp’.
Ông Sang mô tả mối bang giao Mỹ-Việt là ‘đối tác tích cực, hữu nghị, xây dựng, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi’.
Trước đó, phát biểu với truyền thông trong nước trước chuyến thăm, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường cũng bày tỏ hy vọng hai nước sẽ ‘xác lập khuôn khổ đối tác mới’ trong chuyến thăm lần này của ông Sang.
“Chúng ta cần phải gửi một thông điệp mạnh mẽ và rõ ràng rằng những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cần được chấm dứt ngay lập tức. Giao thương không thể trả giá bằng nhân quyền.”
Susan Davis, hạ nghị sỹ bang California
Lâu nay vấn đề nhân quyền vẫn là rào cản lớn nhất khiến Washington chưa muốn có quan hệ đối tác chiến lược với Hà Nội.
AFP dẫn lời các quan chức Mỹ nói Tổng thống Barack Obama sẽ tập trung vào chủ đề thương mại trong cuộc hội đàm với nguyên thủ Việt Nam và cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu.
Việt Nam hiện đang muốn tham gia vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quốc gia Đông Nam Á này cũng là một trong 10 nước bị tác động nặng nề nhất của tình trạng ấm lên toàn cầu.
Tuy nhiên, các nhà lập pháp cũng như các nhà hoạt động dân chủ Mỹ đã kêu gọi Nhà Trắng gây sức ép với Hà Nội về hồ sơ nhân quyền của họ.
Một số nghị sỹ đã cảnh báo rằng họ sẽ tìm cách ngăn cản TPP nếu như Việt Nam không cam kết cải thiện nhân quyền.
“Một thỏa thuận thương mại tự do – nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương – cần phải đáp ứng một số chuẩn mực và chúng tôi kêu gọi Tổng thống Obama hãy chuyển thông điệp này vào thứ Năm (ngày hai nguyên thủ gặp nhau),” AFP dẫn lời hạ nghị sỹ Dân chủ Loretta Sanchez nói.
Còn Hạ nghị sỹ Ed Royce thuộc Đảng Cộng hòa, chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, thì mô tả chuyến thăm của ông Sang là ‘cơ hội đặc biệt để truyền cảm hứng cho những người dân Việt Nam hiện đang khao khát tự do’.
“Đối với Obama, vấn đề là làm sao tạo ra thêm nhiều việc làm cho dân Mỹ. Nếu bán được thêm nhiều hàng hóa ở châu Á thì đó là lợi ích lớn hơn cả.”
Chuyên gia về Việt Nam Carl Thayer
Trước thềm cuộc gặp thượng đỉnh tại Tòa Bạch Ốc, một số nghị sỹ cùng Đảng Dân chủ đã đến gặp Tổng thống Obama để yêu cầu ông phải nhấn mạnh vấn đề nhân quyền với chủ tịch Việt Nam.
Bốn hạ nghị sỹ Zoe Lofgren, Susan Davis, Scott Peters và Alan Lowenthal đã ra thông cáo báo chí cho biết Tổng thống Obama đã cam kết với họ là ‘sẽ nêu những quan ngại về nhân quyền với phía Việt Nam’ và đây sẽ là ‘một ưu tiên trong cuộc hội đàm sắp tới’.
“Tôi hài lòng khi hôm nay nghe tổng thống bày tỏ quan ngại về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam và việc ông thừa nhận rằng đã đến lúc phải nêu vấn đề này với Chủ tịch Sang,” dân biểu Alan Lowenthal nói trong thông cáo báo chí.
Còn dân biểu Susan Davis thì nói rằng: “Chúng ta cần phải gửi một thông điệp mạnh mẽ và rõ ràng rằng những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cần được chấm dứt ngay lập tức. Giao thương không thể trả giá bằng nhân quyền.”
Tuy nhiên, ông Carl Thayer, người chuyên theo dõi tình hình Việt Nam tại Đại học New South Wales của Úc, nhận định với hãng tin Mỹ AP rằng ‘dường như vấn đề nhân quyền sẽ được đề cập một cách rất tế nhị’.
“Trong phòng họp kín Obama có thể nêu quan ngại của Mỹ (về nhân quyền),” ông nói, “Nhưng rõ ràng nó không phải là một nội dung quan trọng.”
“Đối với Obama, vấn đề là làm sao tạo ra thêm nhiều việc làm cho dân Mỹ. Nếu bán được thêm nhiều hàng hóa ở châu Á thì đó là lợi ích lớn hơn cả,” ông nói thêm.
Đây là chuyến đi Mỹ đầu tiên của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang gặp Bộ trưởng Thương mại và Bộ trưởng Ngoại giao trong ngày đầu công du Hoa Kỳ.
Hôm 24/7, ông Sang đã tiếp xúc với Bộ trưởng Thương mại Penny Pritzker để thảo luận về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), đang được 12 nước tham gia thương lượng.
Hoa Kỳ đã bày tỏ hy vọng sẽ hoàn tất đàm phán với Việt Nam trong năm nay.
Bộ trưởng Penny Pritzker cũng nói về công nghệ hạt nhân dân sự của Mỹ, trong bối cảnh Việt Nam dự định triển khai nhiều lò phản ứng.
Trong ngày hôm nay, ông Sang dự kiến ăn trưa với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và có buổi tiệc tối với các lãnh đạo doanh nhân Mỹ.
Phái đoàn Việt Nam đặt chân xuống sân bay quân sự Andrews thuộc tiểu bang Maryland vào tối thứ Ba ngày 23/7 theo giờ địa phương, tức sáng sớm ngày 24/7 giờ Việt Nam, bắt đầu thăm chính thức Hoa Kỳ.
Theo bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì ông Sang đã được các ông David Shear, đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Nguyễn Quốc Cường, đại sứ Việt Nam tại Mỹ và ‘đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ’ ra đón tại sân bay.
Vị đại diện này là bà đại sứ Capricia Penavic Marshall, phụ trách lễ tân của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Đến nơi vào lúc tối nên hoạt động đầu tiên của ông Sang trên đất Mỹ trong ngày 23/7 là đến nói chuyện tại Đại sứ quán Việt Nam ở Washington DC.
Tại buổi nói chuyện ở Sứ quán, ông Sang được hãng tin nhà nước Việt Nam dẫn lời nói trong thời gian tới mối quan hệ Việt-Mỹ ‘sẽ được nâng cấp’.
Ông Sang mô tả mối bang giao Mỹ-Việt là ‘đối tác tích cực, hữu nghị, xây dựng, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi’.
Trước đó, phát biểu với truyền thông trong nước trước chuyến thăm, Đại sứ Nguyễn Quốc Cường cũng bày tỏ hy vọng hai nước sẽ ‘xác lập khuôn khổ đối tác mới’ trong chuyến thăm lần này của ông Sang.
“Chúng ta cần phải gửi một thông điệp mạnh mẽ và rõ ràng rằng những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cần được chấm dứt ngay lập tức. Giao thương không thể trả giá bằng nhân quyền.”
Susan Davis, hạ nghị sỹ bang California
Lâu nay vấn đề nhân quyền vẫn là rào cản lớn nhất khiến Washington chưa muốn có quan hệ đối tác chiến lược với Hà Nội.
AFP dẫn lời các quan chức Mỹ nói Tổng thống Barack Obama sẽ tập trung vào chủ đề thương mại trong cuộc hội đàm với nguyên thủ Việt Nam và cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu.
Việt Nam hiện đang muốn tham gia vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Quốc gia Đông Nam Á này cũng là một trong 10 nước bị tác động nặng nề nhất của tình trạng ấm lên toàn cầu.
Tuy nhiên, các nhà lập pháp cũng như các nhà hoạt động dân chủ Mỹ đã kêu gọi Nhà Trắng gây sức ép với Hà Nội về hồ sơ nhân quyền của họ.
Một số nghị sỹ đã cảnh báo rằng họ sẽ tìm cách ngăn cản TPP nếu như Việt Nam không cam kết cải thiện nhân quyền.
“Một thỏa thuận thương mại tự do – nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương – cần phải đáp ứng một số chuẩn mực và chúng tôi kêu gọi Tổng thống Obama hãy chuyển thông điệp này vào thứ Năm (ngày hai nguyên thủ gặp nhau),” AFP dẫn lời hạ nghị sỹ Dân chủ Loretta Sanchez nói.
Còn Hạ nghị sỹ Ed Royce thuộc Đảng Cộng hòa, chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, thì mô tả chuyến thăm của ông Sang là ‘cơ hội đặc biệt để truyền cảm hứng cho những người dân Việt Nam hiện đang khao khát tự do’.
“Đối với Obama, vấn đề là làm sao tạo ra thêm nhiều việc làm cho dân Mỹ. Nếu bán được thêm nhiều hàng hóa ở châu Á thì đó là lợi ích lớn hơn cả.”
Chuyên gia về Việt Nam Carl Thayer
Trước thềm cuộc gặp thượng đỉnh tại Tòa Bạch Ốc, một số nghị sỹ cùng Đảng Dân chủ đã đến gặp Tổng thống Obama để yêu cầu ông phải nhấn mạnh vấn đề nhân quyền với chủ tịch Việt Nam.
Bốn hạ nghị sỹ Zoe Lofgren, Susan Davis, Scott Peters và Alan Lowenthal đã ra thông cáo báo chí cho biết Tổng thống Obama đã cam kết với họ là ‘sẽ nêu những quan ngại về nhân quyền với phía Việt Nam’ và đây sẽ là ‘một ưu tiên trong cuộc hội đàm sắp tới’.
“Tôi hài lòng khi hôm nay nghe tổng thống bày tỏ quan ngại về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam và việc ông thừa nhận rằng đã đến lúc phải nêu vấn đề này với Chủ tịch Sang,” dân biểu Alan Lowenthal nói trong thông cáo báo chí.
Còn dân biểu Susan Davis thì nói rằng: “Chúng ta cần phải gửi một thông điệp mạnh mẽ và rõ ràng rằng những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cần được chấm dứt ngay lập tức. Giao thương không thể trả giá bằng nhân quyền.”
Tuy nhiên, ông Carl Thayer, người chuyên theo dõi tình hình Việt Nam tại Đại học New South Wales của Úc, nhận định với hãng tin Mỹ AP rằng ‘dường như vấn đề nhân quyền sẽ được đề cập một cách rất tế nhị’.
“Trong phòng họp kín Obama có thể nêu quan ngại của Mỹ (về nhân quyền),” ông nói, “Nhưng rõ ràng nó không phải là một nội dung quan trọng.”
“Đối với Obama, vấn đề là làm sao tạo ra thêm nhiều việc làm cho dân Mỹ. Nếu bán được thêm nhiều hàng hóa ở châu Á thì đó là lợi ích lớn hơn cả,” ông nói thêm.
Liệu chuyến công du của Chủ tịch Việt Nam tới Hoa Kỳ có thể mở ra một kỷ nguyên mới trong quan hệ Việt-Mỹ?
Chuyến thăm Nhà Trắng của Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang ngày 25/7/2013 mới chỉ là lần thứ hai một nhà lãnh đạo CS Việt Nam đặt chân đến Washington kể từ khi Hoa Kỳ và Việt Nam bình thường hoá quan hệ năm 1995, trước đó là chuyến thăm năm 2007 của Chủ tịch Nguyễn Minh Triết dưới thời Tổng thống George W. Bush.
Mặc dù chuyến thăm này được ca ngợi là mang tính “lịch sử” nếu xét tới lịch sử chung của hai nước, người ta vẫn phải chờ xem di sản của nó là gì?
Khác xa với những hào nhoáng và lễ lạt vẫn thường bao quanh các chuyến thăm cấp nhà nước, chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Sang tới Nhà Trắng sẽ diễn ra chóng vánh và tương đối tiết chế, nhưng chắc chắn những gì mà ông ta hy vọng đạt được với phía Mỹ là khó khăn.
Hai nhà lãnh đạo sẽ có nhiều chuyện để bàn thảo, từ việc tăng cường quan hệ kinh tế và quân sự cho đến tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Tuy nhiên, khác xa với sự kỳ vọng về những thoả thuận mang tính đột phá, những gì mà người ta có thể hy vọng là sự khởi đầu của một chương mới trong quan hệ Việt-Mỹ.
Kể từ chuyến thăm của Chủ tịch Triết tới Nhà Trắng năm 2007, nhiều thứ đã thay đổi ở Mỹ cũng như Việt Nam. Sáu năm trước, Việt Nam bước vào sân chơi WTO với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, và còn đang tỏa sáng trong số các nền kinh tế Đông Nam Á; trong khi đó thì ở Mỹ, cuộc suy thoái sắp đến là điều mà chưa ai nhìn thấy và chưa ai nghĩ tới.
Giờ đây, Việt Nam đang mạo hiểm đùa bỡn với thảm hoạ kinh tế, sau nhiều năm quản lý kinh tế yếu kém và nạn tham nhũng hoành hành, còn Hoa Kỳ thì vẫn tiếp tục quá trình hồi phục kinh tế kéo dài và chậm chạp.
Kể từ đấy, Hoa Kỳ đã chuyển hướng trọng tâm từ Trung Đông sang Châu Á–Thái Bình Dương theo chiến lược mới “tái cân bằng”, một phần là nhằm tìm kiếm các thị trường mới trong quá trình phục hồi kinh tế quốc nội, và theo đúng nghĩa, đã bắt đầu vun xới mối quan hệ với các đối tác trong khu vực. Không có gì đáng ngạc nhiên khi trục xoay này gặp phải sự hoài nghi của các quan chức Trung Quốc ở Bắc Kinh, những người cũng có mưu đồ riêng với khu vực.
Đối với Việt Nam, sự thay đổi của thời thế cũng đưa đến những thách thức mới, từ sự bất bình của dân chúng trước cách thức điều hành nền kinh tế và nỗ lực sửa đổi hiến pháp của chính phủ, cho đến sự quả quyết của Trung Quốc trên Biển Đông và ở Đông Nam Á. Mặc dù quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vẫn tiến triển kể từ năm 1995, mối quan ngại của Hà Nội trước ý đồ của Trung Quốc trong khu vực lại góp phần thúc đẩy quá trình đó – hay đúng hơn là Việt Nam cần phải làm thế.

Bất chấp quan hệ giữa hai nước đã được bình thường hóa năm 1995, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục duy trì chính sách cấm vận trong việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Việc tháo bỏ lệnh cấm vận này tuỳ thuộc vào sự tiến bộ về nhân quyền ở Việt Nam, điều mà Việt Nam vẫn tiếp tục không đáp ứng được. Chính vấn đề Dân chủ và Nhân quyền đã và đang là một trở ngại cho việc thắt chặt quan hệ.
Trong lời phát biểu gần đây về cuộc gặp sắp tới giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Sang, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Cường đã thừa nhận những khác biệt giữa hai nước. Bất chấp những khác biệt, ông hy vọng là cả hai nước sẽ bắt tay vào “mối quan hệ hợp tác bình đẳng và cùng có lợi… và (đồng thời) tôn trọng thể chế chính trị của nhau”.
Chắc chắn là nếu Việt Nam dự định duy trì tình trạng như hiện nay, Việt Nam và Hoa Kỳ có thể bắt tay vào mối quan hệ hợp tác cùng có lợi. Tuy nhiên, nếu Việt Nam dự định tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ và muốn Washington dỡ bỏ chính sách cấm vận vũ khí, Việt Nam phải làm nhiều hơn nữa để tôn trọng và thừa nhận những quan ngại của Hoa Kỳ. Ở thời điểm này, Hoa Kỳ đang nắm tất cả các quân bài.
Mặc dù chính sách xoay trục sang Châu Á–Thái Bình Dương của Mỹ sẽ gặp nhiều thuận lợi nếu quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam trở nên gần gũi hơn, song chính sách đó vẫn không tùy thuộc vào sự hợp tác tích cực của Việt Nam. Hoa Kỳ không hề thiếu đồng minh ở Châu Á–Thái Bình Dương, trong đó phải kể đến Australia ở phía Nam, Philippines và Nhật Bản ở phía Bắc; hay đối tác, chẳng hạn như Indonesia, Malaysia và Singapore.
Tăng cường quan hệ với Việt Nam sẽ giúp mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ; tuy nhiên, mối quan hệ kinh tế lại phập phù ở chỗ nó chỉ tồn tại chừng nào người ta vẫn còn kiếm được cái gì. Để một mối quan hệ lâu bền, nó phải được thiết lập trên một nền móng vững chắc hơn: lòng tin và các giá trị chung.
Ai đó có thể tranh luận rằng Hoa Kỳ sẽ gặp tổn thất trong mối quan hệ tương lai với Việt Nam nếu Hoa Kỳ khẳng định đòi Việt Nam cải thiện nhân quyền. Dĩ nhiên là đúng với nhãn quan “chính trị thực dụng”, nhưng trong trường hợp này, Mỹ chỉ có thể tự hại chính mình nếu làm ngơ trước những thành tích nhân quyền tồi tệ của chính phủ Việt Nam chỉ vì quyền lợi ích kinh tế.
Những công dân Việt Nam mong muốn một xã hội tự do hơn và cởi mở hơn thật khó mà có cái nhìn thiện cảm với những nước đang giúp đỡ chính phủ hạn chế quyền của họ. Việc cho rằng Đảng CS mãi mãi nắm quyền lực sẽ là thiển cận.
Nếu Hoa Kỳ có ý định lãnh đạo thế giới tự do, họ phải hành động tương xứng. Hợp tác với một chế độ vẫn truy bức các bloggers và các nhà hoạt động dân chủ sẽ phát đi một tín hiệu sai.
Chủ tịch Sang đã đúng khi nhận xét rằng những khác biệt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là bình thường. Tuy nhiên, đây lại không phải là điều bình thường khi những khác biệt đó lại là sự vi phạm rõ ràng những quyền phổ quát đã được nêu trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà Việt Nam đã phê chuẩn. Mặt khác, Hoa Kỳ cũng có bổn phận với luật pháp của nước họ, và sẽ làm cho bản hiến pháp và thiện chí của Hoa Kỳ mất uy tín ở nước ngoài một khi Hoa Kỳ tham gia vào những hoạt động xâm phạm các quyền mà hiến pháp Mỹ bảo vệ.
Chuyến công du này có thể không đưa đến các hiệp định hay những tuyên ngôn đột phá từ Chủ tịch Sang và Tổng thống Obama; tuy nhiên, nó lại có thể đặt nền móng cho một chương mới trong quan hệ Việt-Mỹ. Vì thế, hai nguyên thủ quốc gia cần tận dụng cuộc gặp này để thiết lập cơ hội cho các cuộc đối thoại trong tương lai, và rồi để đi đến đàm phán về những khác biệt.
Tự do và Dân chủ gắn liền với Thịnh vượng và Phát triển. Việt Nam khắc khoải quay trở về với thời kỳ hoàng kim, khi nó là một tín hiệu về sự phát triển kinh tế thịnh vượng ở Đông Nam Á, và việc thúc đẩy hoạt động giao thương với Hoa Kỳ có thể giúp Việt Nam phần nào trở lại với thời kỳ huy hoàng về kinh tế trong quá khứ; tuy nhiên, bất kỳ giả thuyết nào cho rằng mọi chuyện rồi sẽ lặp lại như cũ đều chẳng có giá trị gì.
Khi người dân Việt Nam trở nên sung túc và mức sống tăng lên, họ sẽ sớm đòi hỏi ngày càng nhiều cho đến khi chính phủ, trong tình trạng hiện hành, không thể tiếp tục đáp ứng. Việc các công dân Việt Nam tìm đến Internet để bày tỏ thái độ bất mãn về các nhà lãnh đạo và khát khao đa nguyên chính trị, quyền tư hữu đất đai hay những thứ tốt đẹp hơn chỉ là một phần của những vấn đề đó.
Cuộc gặp gỡ này có thể mở đường cho chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Obama vào cuối năm nay và thừa nhận Việt Nam là một đối tác chiến lược – tất cả những điều đó sẽ tuỳ thuộc vào việc liệu Hoa Kỳ và Việt Nam có thể xoá nhoà được những khác biệt hay không.
Những năm tới đây người ta sẽ được chứng kiến một Việt Nam thay đổi. Liệu lớp lãnh đạo hiện thời trong Đảng CS có nhận ra những thay đổi này là tất yếu và phải điều chỉnh để thích nghi hay không là điều còn phải chờ thời gian trả lời. Như với lẽ tự nhiên, nếu Đảng CS không thích nghi được, nó sẽ bị đào thải. Và thay vì tiếp sức cho một thể chế đã tới số, Hoa Kỳ nên chuẩn bị cho một Việt Nam mới.
(Vũ Đức Khanh là luật sư và giáo sư Luật bán thời gian tại Đại học Ottawa. Ông chuyên nghiên cứu chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế và luật quốc tế.)
Nguồn: Asia Sentinel
http://www.asiasentinel.com/index2.php?option=com_content&task=view&id=5588&pop=1&page=0&Itemid=31
Bản dịch Việt ngữ của Blogger Lê Anh Hùng từ Hà Nội cung cấp.
Ngay trước chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Mỹ từ ngày 24 đến 26 tháng 7, đã có rất nhiều trông đợi được đưa ra về sức ép của Mỹ với Việt Nam về nhân quyền nhân chuyến thăm quan trọng này.
Bên cạnh đó là các vấn đề như cần bằng chiến lược của Mỹ và đàm phán hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương xuyên Thái Bình Dương.
Vội vã hay có chuẩn bị trước?
Một trong những bàn thảo sôi nổi nhất trên truyền thông Việt Nam và Mỹ nhiều ngày qua chính là chuyến thăm đầu tiên của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Barack Obama từ ngày 24 đến 26 tháng 7. Chuyến thăm được thông báo đột ngột chỉ vài tuần sau chuyến thăm của ông Sang đến Trung Quốc và vào giữa lúc Hoa Kỳ và châu Âu đang gây sức ép lên Việt Nam về các vấn đề nhân quyền. Bên cạnh đó cả Mỹ và Việt Nam cũng đang ráo riết đàm phán về hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương do Mỹ thiết lập. Những bối cảnh này đã khiến các chuyên gia về quan hệ Việt Mỹ đưa ra những đánh giá khác nhau về chuyến đi lần này của ông Sang tới Mỹ.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, giảng dạy môn quan hệ quốc tế thuộc trường đại học George Mason, Hoa Kỳ, nhận xét đây là cách mà Việt Nam muốn cân bằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc:
Vào lúc này Việt Nam cũng muốn sang Mỹ thì sau khi Việt Nam đã sang Tàu rồi thì ông cũng muốn sang Mỹ để mang tính chất cân bằng quyền lực một chút. Cho nên ý định nhiều nhất là của Việt Nam, dù Obama mời nhưng ý muốn nhiều nhất là của Việt Nam, và ông Mỹ đã đáp ứng.
Việt Nam đã thúc giục Mỹ về chuyến thăm này hơn một năm nay vì nó cũng là khi Việt Nam làm chuyến thăm tới Trung Quốc và như vậy họ có hai chuyến thăm và tạo sự cân bằng mà họ muốn…
– Giáo sư Carl Thayer
Hôm 11 tháng 7, hãng tin AFP loan tin, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ sang thăm Hoa Kỳ vào cuối tháng theo lời mời của Tổng thống Barack Obama. Sau đó vài ngày, báo chí chính thống của Việt Nam đồng loạt đưa tin này. Đây là một thông báo khá đột ngột vì thường các chuyến thăm cao cấp được chuẩn bị khá lâu. Điểm thứ hai là trước đó từ ngày 19 đến 21 tháng 6, Chủ tịch Trương Tấn Sang đã sang thăm Trung Quốc và gặp gỡ người đồng nhiệm Tập Cận Bình. Cũng cùng ngày với thông báo về chuyến thăm của ông Sang tới Mỹ, tờ Đất Việt của Việt Nam có bài viết lên tiếng mạnh mẽ thách thức Trung Quốc nếu có ý đồ muốn thôn tính quần đảo Trường Sa mà Việt Nam đòi chủ quyền. Những diễn biến này khiến Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đặt giả thuyết về sự bằng mặt mà không bằng lòng giữa Việt nam và Trung Quốc trong chuyến thăm vừa rồi.
Khi ông Sang sang thì ký một loạt các hiệp ước, nhưng khi tờ báo này đưa ra thì ta thấy có sự bằng mặt mà không bằng lòng, và nhất là việc gặp gỡ này có tính chất gấp rút, có người nói chuẩn bị lâu rồi, tôi nghĩ là có tính gấp rút và tôi nghĩ đó là ý vọng của Việt Nam nhiều hơn và ông Obama cũng đáp ứng với ý vọng đó vì ông cũng không muốn Trung Quốc có tính toán sai lầm và gây ra những mâu thuẫn có thể cái xẩy nẩy cái ung.
Có cùng quan điểm với giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, nhà cựu ngoại giao Mỹ tại Việt Nam, ông David Brown đưa ra nhận xét trên bài viết mới của mình trên trang YaleGlobal rằng: ‘quyết định gửi Sang đến Washington của Bộ Chính trị cho thấy các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bị lung lay bởi những gì Tập Cận Bình và các đồng sự của ông nói riêng với Sang và sẵn sàng để hợp tác với Mỹ trên một mối quan hệ quốc phòng thân thiết hơn’.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Carl Thayer, thuộc học viện Quốc phòng Úc, trên thực tế chuyến thăm của ông Sang tới Mỹ đã được chuẩn bị từ khá lâu:
Việt nam thu xếp các chuyến đi cấp cao qua cơ chế nội bộ của đảng với nhiều quan điểm và đòi hỏi phải cân bằng giữa các nước mà các lãnh đạo sẽ đến thăm và cân bằng giữa các nhà lãnh đạo sẽ đi nước ngoài. Các nhà báo việt nam đã nói với tôi cả năm nay về chuyến thăm của Trương Tấn Sang tới Mỹ, cho nên quan điểm của tôi là Việt Nam đã thúc giục Mỹ về chuyến thăm này hơn một năm nay vì nó cũng là khi Việt Nam làm chuyến thăm tới Trung Quốc và như vậy họ có hai chuyến thăm và tạo sự cân bằng mà họ muốn…
Giáo sư Carl Thayer cũng cho rằng kết luận về chuyến đi không xuôi chèo mát mái tới Trung Quốc của ông Sang là còn quá sớm.
TPP hay nhân quyền?

Dù không đồng ý với nhau về sự gấp rút trong chuyến đi lần này của Chủ tịch Trương Tấn Sang tới Mỹ, các chuyên gia đều đồng ý cho rằng có ba điểm chính sẽ được chú trọng trong chuyến đi lần này. Đó là nâng cấp quan hệ hai bên lên thành đối tác chiến lược, nhân quyền tại Việt Nam và hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Về hợp tác chiến lược, cả hai nước đã tiến hành những đàm phán để nâng tầm quan hệ giữa hai nước lên đối tác chiến lược từ hai năm qua nhưng chưa đạt được những tiến bộ đáng kể.
Theo bài phân tích của Giáo sư Carl Thayer trên trang blog cá nhân hôm 12 tháng 7, ông cho rằng câu trả lời cho chuyến đi của ông Sang nằm trong chính sách cân bằng của Mỹ và những căng thẳng gần đây trong quan hệ Việt Trung sau chuyến thăm của ông Sang tới Trung Quốc. Việt Nam đang tìm kiếm cân bằng mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Giáo sư Carl Thayer cho rằng chuyến đi của ông Sang kết hợp với chuyến đi của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Bá Tỵ tới Washington vào tháng 6 cho thấy dấu hiệu những tính toán chiến lược có thể nằm đằng sau những sự kiện quan trọng này.
Tuy nhiên theo Giáo sư Carl Thayer, nếu chỉ nhìn hai chuyến thăm của ông Sang tới Mỹ và Trung Quốc theo góc nhìn chiến lược thì chưa đủ.
Cái nhìn của chúng ta vào chuyến thăm của lãnh đạo Việt Nam tới Trung Quốc và Mỹ sẽ bị lệch lạc nếu chỉ nhìn vào vấn đề an ninh mà thôi.
– Giáo sư Carl Thayer
Cái nhìn của chúng ta vào chuyến thăm của lãnh đạo Việt Nam tới Trung Quốc và Mỹ sẽ bị lệch lạc nếu chỉ nhìn vào vấn đề an ninh mà thôi. Vấn đề chính hiện tại đối với Việt Nam, ưu tiên hàng đầu là hòa nhập quốc tế, để chứng minh với các cường quốc trên thế giới. Việt Nam có thặng dư lớn với Mỹ và cần được đảm bảo tiếp cận vào thị trường Mỹ với hàng may mặc, họ không thể đảm bảo điều này vì dự luật nhân quyền được quốc hội Mỹ thông qua và Việt Nam phải nhượng bộ một phần trong vấn đề này. Việt Nam có thâm hụt rất lớn với Trung Quốc và không khoản đầu tư hay trợ giúp lớn nào từ Trung Quốc có thể vượt qua thâm hụt này.
Ngay trước chuyến thăm, cả Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế lẫn Ủy ban tự do tôn giáo Quốc tế thuộc quốc hội Mỹ đã gửi thư thúc giục Tổng Thống Obama phải gây sức ép lên chính quyền Việt Nam để cải thiện tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo.
Quan hệ Việt Mỹ đã có nhiều tiến triển trong các năm qua. Mỹ đang là nước có đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và là đối tác thương mại lớn thứ hai sau Trung Quốc. Việt Nam cũng đang tìm kiếm cơ hội hợp tác chặt chẽ hơn với Mỹ vì theo các chuyên gia cường quốc này giúp Việt Nam tạo cân bằng với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc. Thế nhưng để đạt được điều này, các chuyên gia đều đồng ý rằng Việt Nam sẽ phải nhượng bộ. Nhưng Việt Nam sẽ nhượng bộ cái gì và nhượng bộ bao nhiêu? Câu trả lời còn phải chờ vào kết thúc chuyến đi của Chủ tịch Trương Tấn Sang.
Mục sư Đinh Thiên Tứ từng ngồi tù 26 tháng
Một mục sư Tin Lành, từng bị tù hai năm, được Chủ tịch Trương Tấn Sang mời đi cùng để giải thích với người Mỹ về tình hình tôn giáo.
Mục sư Đinh Thiên Tứ, đang là Giáo hội trưởng của Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc ở TP. HCM, từng bị kết án tù năm 1991.
Sau khi ngồi tù 26 tháng, mục sư Tứ được thả nhờ sự can thiệp của Tổng thống Pháp Francois Mitterrand, tổng thống phương Tây đầu tiên thăm Việt Nam từ sau 1975.
Tổ chức Tin Lành WorldWide Advance nói theo kế hoạch, mục sư Tứ sẽ được gặp Tổng thống Barack Obama khi ông tiếp đón Chủ tịch Trương Tấn Sang ngày 25/7.
Sau đó ông còn tiếp tục ở lại Mỹ để “nói chuyện, thuyết giảng, hoặc gặp những người quan tâm công việc của ông tại Việt Nam,” theo tổ chức này.
WorldWide Advance nói sự có mặt tại Mỹ của mục sư Tứ “là tuyên bố to lớn nhất và nói được nhiều về những thay đổi lịch sử đã diễn ra ở Việt Nam”.
Hội Thánh Liên Hữu Cơ Đốc được chính phủ Việt Nam cấp đăng ký hoạt động tôn giáo năm 2007 và đến tháng 6/2010 được trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo.
Tin cho biết đi cùng ông Sang sang Mỹ có hai chức sắc đại diện đạo Tin Lành, một người Phật giáo và một Công giáo.
Cộng đồng người Việt ở Mỹ đang vận động đòi Tổng thống Obama đề cập cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo khi gặp ông Sang.
Việt Nam nói tại Mỹ, các vị chức sắc tôn giáo Việt Nam sẽ trao đổi “rất thẳng thắn và cởi mở” với nhiều tổ chức phi chính phủ quan tâm đến dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo.
Họ sẽ gặp cả “những tổ chức xưa nay vẫn có cái nhìn thiên lệch về dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam,” theo truyền thông nhà nước.
Hôm 22/7, một số đại diện tôn giáo người Việt ở Mỹ đã gặp Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ-Nhân quyền-Lao động, Tiến sĩ Daniel Baer.
Một tổ chức khác, Ủy Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF), cũng kêu gọi Tổng thống Barack Obama “nêu quan ngại về vi phạm tự do tôn giáo” khi gặp Chủ tịch Sang.
Sáng 23/7, Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez, với sự hỗ trợ của Dân Biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ; Dân Biểu Chris Smith của tiểu bang New Jersey và một số vị dân biểu khác có buổi họp báo để nhấn mạnh về tình hình tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam ngày càng xuống dốc. Có mặt tại chỗ, Vũ Hoàng có cuộc phỏng vấn với 3 vị dân cử trên:
Vũ Hoàng: Thưa D.B Christopher Smith, thông điệp nào ông muốn Tổng thống Obama chuyển tải đến Chủ tịch Việt Nam, ông Trương Tấn Sang ạ?
DB Christopher Smith: Tổng thống cần phải quả quyết, rõ ràng và nhìn thẳng vào mắt chủ tịch Trương Tấn Sang của Việt Nam và nói thẳng rằng Việt Nam cần phải dừng ngay hành động đàn áp nhân quyền vì nhân quyền đang ngày càng tồi tệ. Chúng ta thấy chỉ trong vòng mấy tháng đầu năm nay, Việt Nam đã có nhiều những phiên tòa chính trị xét xử, 40 người, hơn tất cả những phiên tòa xét xử hồi năm ngoái. Tổng thống Obama không thể chỉ có những lời nói ngọt, để qua chuyện mà trong cuộc họp báo, Tổng thống Obama cần phải thật rõ ràng nhắc đến những trường hợp cụ thể mà nhân quyền Việt Nam đang bị đàn áp một cách rõ rệt.
Theo tôi thì những nhà độc tài trên thế giới sẽ nhìn vào cách mà Hoa Kỳ đang hành động để xem đó như một chỉ dấu cho thấy Hoa Kỳ đang thực sự chú trọng đến vấn đề nhân quyền như thế nào và Hoa Kỳ đang biểu hiện rõ thái độ của mình ra sao. Nhưng cho đến lúc này, Tổng thống Obama vẫn chưa làm được điều này.
Tổng thống Obama cần phải thật rõ ràng nhắc đến những trường hợp cụ thể mà nhân quyền Việt Nam đang bị đàn áp một cách rõ rệt.
-DB Christopher Smith
Chúng tôi muốn người Việt Nam biết rằng, chúng tôi những người Mỹ, đặc biệt là những dân biểu trong Quốc Hội Hoa Kỳ thực lòng rất muốn người Việt Nam có được tự do, chúng tôi sẽ không thấy được nỗ lực của mình chừng nào người dân sống tại Việt Nam được hưởng những quyền căn bản mà bất kỳ một ai sinh sống trên trái đất này đều phải có. Tôi đã có cơ hội được gặp rất nhiều những nhà đấu tranh dân chủ, những người bảo vệ nhân quyền, luật sư hay các giới chức tôn giáo dũng cảm, nhiệt huyết, chẳng hạn Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, những người lẽ ra phải được hưởng sự tự do thực sự hơn là đang bị chế độ độc tài kiểm soát.
Vũ Hoàng: Thưa chủ tịch Ed Royce, trong bài diễn văn tôi thấy ông nhắc nhiều đến chuyện lo ngại, vậy một lần nữa, ông có thể chia sẻ lo ngại của ông để thính giả của Đài ACTD hiểu hơn được không ạ?
DB Ed Royce: Điều mà tôi lo ngại là chúng ta ngày càng thấy Đảng Cộng Sản Việt Nam đàn áp các tổ chức tôn giáo, chẳng hạn như đạo Cao Đài hoặc họ bổ nhiệm một vị chức sắc nào đó, để người này nói lên tiếng nói của Đảng Cộng Sản chứ không phải tiếng nói của các giáo dân. Điều này không chỉ xảy ra với một tôn giáo nào đó mà còn xảy ra với nhà thờ Thiên Chúa, Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất, đạo Hòa Hảo.

Hiện giờ Đảng CSVN ngày càng thẳng tay bắt bớ những nhà đấu tranh dân chủ trẻ tuổi, những nhạc sĩ sáng tác nhạc, bất kể ai lên tiếng cho nhân quyền, bất kể ai muốn tự do tôn giáo thực thụ. Và đó chính là lý do vì sao chúng tôi muốn nói cho chính phủ Việt Nam rằng chúng tôi muốn xóa bỏ điều 79, điều 88 trong Bộ Luật Hình Sự VN và Chính phủ hãy để người dân có được tự do nhân quyền. Chúng tôi cũng đòi hỏi phải có tự do tôn giáo ở đây, Chính phủ VN phải thả các nhà đấu tranh dân chủ, các tiếng nói đối kháng vì đã đứng lên nói sự thật. Thật là phi lý khi thấy những bản án dành cho các bạn trẻ yêu nước, chỉ vì sử dụng những từ ngữ “dân chủ” “nhân quyền” mà phải chịu những bản án 7 – 8 năm tù giam. Những điều này thật là đi ngược lại Hiến pháp, bởi lẽ ra Việt Nam cần phải ủng hộ, cổ vũ cho tự do thì đằng này Việt Nam lại ngày càng làm khó cho những người muốn có tự do và dân chủ.
Vũ Hoàng: Trong bài diễn văn của bà chúng tôi có thấy bà nhắc đến từ “cơ hội vàng”. Vì sao đây là “Cơ hội vàng” trước cuộc gặp mặt của Tổng thống Obama và Chủ tịch VN Trương Tấn Sang?
DB Loreta Sanchez: Chúng tôi hiểu vấn đề đó,và đã làm việc với 3 nền hành pháp của Hoa Kỳ để bảo đảm vấn đề nhân quyền được nêu lên hàng đầu trong mối quan hệ có thể có với Việt Nam. Lý do là vì chúng tôi yêu mến người dân Việt Nam.
Về hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, thì Việt Nam luôn luôn muốn có quan hệ kinh tế song phương tốt đẹp, sâu rộng, tích cực hơn với Hoa Kỳ. Đây là dịp để Tổng thống Obama nói với lãnh đạo Việt Nam là Hoa Kỳ đã ký nhiều hiệp định kinh tế với Việt Nam nhưng Việt Nam không bao giờ hành động đến cùng trong lãnh vực nhân quyền, người Mỹ cần thấy được những chuyển đổi trong lãnh vực ấy, nếu không, Việt Nam không thể đứng chung trong các hiệp ước kinh tế với Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Bà mong muốn điều gì xảy ra trong chuyến thăm của chủ tịch Việt Nam ở toà Bạch Ốc?
DB Loreta Sanchez: Tôi mong chủ tịch Sang nhận hiểu rằng Cộng đồng Việt Nam hải ngoại luôn luôn yểm trợ nhân dân Việt Nam, tiếp tục thúc đẩy những tiến triển, tiếp tục theo dõi mọi diễn tiến, và muốn nhân dân Việt Nam có được những nhân quyền căn bản. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt vẫn là lực lượng luôn luôn thúc đẩy việc thực hiện nhân quyền ở Việt Nam. họ còn vận động trên khắp thế giới. Tôi thấy ở Australia, Canada, châu Âu, nhiều nhà lập pháp như chúng tôi bắt tay phối hợp với nhau; chỉ là vấn đề thời gian đến khi giới lãnh đạo Việt Nam hiểu rằng thế giới đã thay đổi đối với họ, họ phải cùng thay đổi với chúng tôi, nếu không sẽ không có được trong tay một thoả thuận thương mại kinh tế nào đáng kể.
Ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ lần đầu tiên với tư cách chủ tịch nướcChủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cùng phái đoàn rời Hà Nội để thăm Hoa Kỳ hôm 23/7.
Trong một cử chỉ đặc biệt, chủ tịch Việt Nam mời cả một số chức sắc tôn giáo đi cùng.
Sức ép tôn giáo
Cộng đồng người Việt ở Mỹ đang vận động đòi Tổng thống Obama đề cập cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo khi gặp ông Sang.
Việt Nam nói tại Mỹ, các vị chức sắc tôn giáo Việt Nam sẽ trao đổi “rất thẳng thắn và cởi mở” với nhiều tổ chức phi chính phủ quan tâm đến dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo.
Họ sẽ gặp cả “những tổ chức xưa nay vẫn có cái nhìn thiên lệch về dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam,” theo truyền thông nhà nước.
Hôm 22/7, một số đại diện tôn giáo người Việt ở Mỹ đã gặp Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ-Nhân quyền-Lao động, Tiến sĩ Daniel Baer.
Một tổ chức khác, Ủy Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF), cũng kêu gọi Tổng thống Barack Obama “nêu quan ngại về vi phạm tự do tôn giáo” khi gặp Chủ tịch Sang.
‘Quan hệ mới’
Trong chuyến thăm này, Chủ tịch Việt Nam dự định sẽ kêu gọi Mỹ chấm dứt lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Được hãng tin Mỹ AP hỏi qua email về lệnh cấm, ông Trương Tấn Sang nói “nay là lúc để bình thường hóa đầy đủ quan hệ song phương trong mọi lĩnh vực”.
Chủ tịch Việt Nam nói thêm với AP rằng có khác biệt giữa Washington và Hà Nội về nhân quyền, nhưng điều này “hoàn toàn bình thường”.
Đây mới là lần thứ hai một chủ tịch nước Việt Nam thăm Hoa Kỳ từ sau 1975, với cuộc hội kiến lần đầu ở Nhà Trắng giữa Chủ tịch Nguyễn Minh Triết và Tổng thống George W. Bush năm 2007.
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh có mặt trong chuyến điĐại sứ Việt Nam tại Mỹ, Nguyễn Quốc Cường, nói với báo trong nước “đã đến lúc hai nước cần xác lập khuôn khổ đối tác mới cho quan hệ”.
Ông Cường cho rằng những khác biệt về chính trị “không lớn so với lợi ích và xu thế chung trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ là hợp tác vì ổn định, hòa bình và phát triển”.
Trong khi đó, Đại sứ Mỹ ở Hà Nội, David Shear, cũng vừa có bài viết trên báo Tuổi Trẻ ở TP. HCM, gọi cuộc gặp giữa ông Sang và Obama là “cuộc gặp lịch sử”.
“Mỹ ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập, tôn trọng nhân quyền,” đại sứ Mỹ nói.
Gọi quan hệ kinh tế là câu chuyện “thành công”, ông David Shear nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Đại sứ Mỹ hứa hẹn: “Nếu Việt Nam phê chuẩn hiệp định gồm 12 thành viên này, Việt Nam sẽ được tiếp cận gần như là tự do vào các thị trường TPP mà kết hợp lại chiếm tới 40% GDP toàn cầu và khoảng 1/3 thương mại của toàn thế giới.”
Việt Nam cho biết đi cùng ông Trương Tấn Sang có các bộ trưởng ngoại giao, công thương, giáo dục, nông nghiệp.
Trong đoàn có Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh và Thứ trưởng Bộ Công an Tô Lâm.
Các bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi, Hải Dương, Trưởng ban tôn giáo chính phủ cùng một số quan chức khác cũng đi theo đoàn.
Cuộc hội kiến giữa Tổng thống chủ nhà Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ diễn ra trong ngày 25/7.
Trả lời BBC tiếng Việt tại Hoa Kỳ, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nói chuyến sang Mỹ của ông Trương Tấn Sang lần này là do “Việt Nam chủ động nhiều hơn Mỹ”, nếu xét trong khung cảnh Việt Nam đã nhiều lần mời Mỹ sang.
Giáo sư Hùng nói nếu Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ được hưởng chính sách thuế quan rất thuận lợi.
Chuyên gia về quan hệ quốc tế tại đại học George Mason cũng nhận định về việc Mỹ đưa nhân quyền vào thỏa thuận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
“Nếu Việt Nam mua vũ khí của Nga thì nên nhớ rằng Trung Quốc cũng có thể mua được vũ khí của Nga. Nếu Việt Nam mua được vũ khí tối tân thì Trung Quốc có thể có tiền mua vũ khí tối tân hơn.
“Thế nhưng trong vũ khí, có một số vũ khí của Hoa Kỳ quan trọng hơn Nga,” và chuyện mua vũ khí có tầm quan trọng chiến lược và ngoại giao, theo ông Nguyễn Mạnh Hùng.
Nguyễn Hoàng thực hiện.
Ba ngày trước khi tổng thống Hoa Kỳ đón tiếp chủ tịch nước Việt Nam tại Nhà Trắng, một phái đoàn khoảng 20 người Việt đã tới Washington hôm thứ Hai 22 để gặp Ủy Hội Quốc Tế Mỹ Về Tự Do Tôn Giáo Thế Giới cũng như gặp Bộ Ngoại Giao, qua đó yêu cầu tổng thống Obama nêu vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền đang bị chà đạp ở trong nước khi thảo luận cùng ông Trương Tấn Sang ngày 25 tới đây.
Tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Sau buổi vận động, đại diện hai trong sáu tổ chức tôn giáo, mục sư Y Hin Nie, Hội Thánh Tin Lành Đấng Christ và ông Trần Manh Rinh, Liên Đoàn Khmer Kampuchia Krom, trả lời phần phỏng vấn do Thanh Trúc thực hiện.
Mục Sư Y Hin Nie: Sáng hôm nay sáu tôn giáo chính thức tại Việt Nam, Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Ba Hai, Cồn Dầu, Tin Lành và Khmer Krom Phật Giáo Theravada, chúng tôi cùng nhau lên tiếng kêu gọi tổng thống Obama, sẽ gặp ông Trương Tấn Sang, nói vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Tôi đại diện Giáo Hội Tin Lành Đấng Christ, rất cần là Hà Nội thả tất cả tín đồ, mục sư, truyền đạo, không bắt bớ hoặc hạn chế vì tất cả họ đều đi tìm đức tin và tự do tín ngưỡng tại Việt Nam.
Ông Trần Manh Rinh:Tôi là Trần Manh Rinh, thuộc tổ chức Khmer Kampuchia Krom Federation, tức Liên Đoàn Khmer Kampuchia Krom. Hôm nay chúng tôi đến gặp Ủy Hội Tôn Giáo Hoa Kỳ , gặp ông Scott Flipse để trình bày thêm về những vấn đề có liên quan đến người Khmer Krom, nhất là ngày 16 tháng Năm vừa qua,cộng sản đã bắt nhà sư chùa Pi Chóp tên Lý Chanda, bắt hoàn tục, đánh đập xong bỏ ngoài đường rồi kêu gia đình lại lấy về.
Sáng hôm nay sáu tôn giáo chính thức tại Việt Nam, Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Ba Hai, Cồn Dầu, Tin Lành và Khmer Krom Phật Giáo Theravada, chúng tôi cùng nhau lên tiếng kêu gọi tổng thống Obama, sẽ gặp ông Trương Tấn Sang, nói vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam
Mục sư Y Hin Nie
Chúng tối đã báo cáo với Bộ Ngoại Giáo Hoa Kỳ cũng như Ủy Hội Quốc Tế Mỹ Về Tự Do Tôn Giá. Lần này chúng tôi đến đây nhằm mục đích bổ sung thêm vì một số người hiện nay đang bị khủng bố về mặt tinh thần, kêu lên kêu xuống, hỏi lên hỏi xuống,không thể làm gì được, hăm dọa cho tới nỗi một số người không thể chịu đựng đước đã trốn qua Thái lan. Đó là vấn đề chúng tôi đến đây để cập tình hình của chùa Pi Chóp và chùa Tà Seth.
Thanh Trúc: Thưa mục sư Y Hin Nie, ông nói có nhiều người Hội Thánh Tin Lành Đấng Christ ở Tại Việt Nam bị bắt đi, xin ông cho biết thêm chi tiết?
Mục sư Y Hin Nie: Trong Hội Thánh ở Việt Nam đang có nhiều mục sư truyền đạo và tín đồ đang ở trong tù, từ ba trăm đến bốn trăm. Tại sao có như vậy? Có khi họ bắt nửa đêm rời không trả lại, bây giờ gia đình muốn tìm người đó thì không thấy. Có một số người thì họ cứ điều tra tại xã , ấp, đến nỗi họ không có được tự do ở Việt Nam mới chạy đi Thái Lan. Cho nên chúng tôi rất cần Ủy Ban Tôn Giáo ở Hoa Kỳ lên tiếng và giúp đỡ người từ Thái Lan có thể được tị nạn tại nước thứ ba để có một đời sống như con người mà tất cả mọi người đều cần.
Thanh Trúc: Thưa ông Trần Manh Rinh, ông nghĩ sao về hai cuộc vận động hôm nay, nhất là cuộc nói chuyện với tiến sĩ Scott Flipse tại Ủy Hội Quốc Tế Mỹ Về Tự Do Tôn Giáo Thế Giới?
Chúng tôi đến Bộ Ngoại Giáo và cũng gởi lời y hết về tình hình đã xảy ra. Nếu mà người Mỹ tin Chúa thì phải làm thế nào để Việt Nam có được tự do tôn giáo trong những điều họ có thể làm được
Mục sư Y Hin Nie
Ông Trấn Manh Rinh: Rất bổ ích, ông Scott Flipse đã đưa ra một số khuyến khích một số chỉ dẫn, coi như rất nhiều vấn đề mà người bên ngoài có thể làm được. Ông đã giúp chỉ dẫn những con đường mà mình phải làm, ví dụ liên hệ với các dân biểu các nghị sĩ, liên hệ với phóng viên quốc tế, các đài phát thanh quốc tế chẳng hạn. Có những cái mà Ủy Hội có thể làm được, có những cái không làm được, ông Scott Flipse khuyến khích tiếp xúc với Bộ Ngoại Giao như thế nào để có lợi và đốc thúc Bộ Ngoại Giao bằng cách nào. Đó là những điều tốt mà Ủy Hội về tự do tôn giáo đã khuyên.
Thanh Trúc: Thưa mục sư Y Hin Nie, sau đó thì phái đoàn sáu tôn giáo được đại diện Bộ Ngoại Giao tiếp kiến và lắng nghe. Cảm tưởng của ông ra sao trong cuộc gặp đó?
Mục sư Y Hin Nie: Chúng tôi đến Bộ Ngoại Giáo và cũng gởi lời y hết về tình hình đã xảy ra. Nếu mà người Mỹ tin Chúa thì phải làm thế nào để Việt Nam có được tự do tôn giáo trong những điều họ có thể làm được.
Thanh Trúc: Dưới mắt chính phủ Việt Nam thì người Khmer Krom theo đạo Phật và người Thượng theo đạo Tin Lành là những thành phần thích chống đối, việc đòi hỏi tự do tín ngưỡng chẳng qua chỉ là cái cớ để phá hoại an ninh và trật tự xã hội?
Mục sư Y Hin Nie: Bây giờ trong cái sự tổ chức của Hội Thánh có gọi là Vienamese Baptist Church hoặc Emmanuel Presbyterian Church, đó là tất cả mọi người nêu ra đức tin của họ, là bản chất đặt họ với Chúa chứ không phải là đặt để trình bày chính trị hay là chống nhà nước. Đó là vấn đề sai lầm, vu khống cho Hội Thánh.
Ông Trần Manh Rinh: Một lần nữa chúng tôi xin nói lại là chúng tôi chỉ đòi hỏi nhân quyền, tự do tôn giáo và nhất là tự do của người dân bản địa. Chúng tôi là người dân bản địa ở tại vùng đồng bằng sông Cửu Long hàng ngàn năm, trước khi cộng sản Việt Nam thành lập chính quyền. Cho nên chúng tôi là người bản địa mà đến ngày hôm nay cộng sản chưa công nhận chúng tôi là người bản địa.
Đó là cái chúng tôi cần tranh đấu. ở đâu cũng vậy, người ta có quyền đấu tranh cho dân tộc, không có nghĩa là ly khai không có nghĩa là chống chính phủ. Chúng tôi đòi hỏi nhà nước phải để cho dân tộc chúng tôi có quyền thành lập tôn giáo riêng biệt không dưới sự khống chế của nhà nước . Đó là sự đòi hỏi của chúng tôi, còn chánh phủ nghĩ đòi hỏi đó là chống hay không chống đó là do chánh phủ chứ không phải do chúng tôi.
Thanh Trúc: Chân thành cảm ơn hai vị đã trả lời những câu hỏi của chúng tôi.
Mỹ – Việt giao lưu quân sự nhiều nhưng chưa là đồng minh
Cựu Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Catharin Dalpino nói Mỹ vẫn sẽ chưa đồng ý bán vũ khí cho Việt Nam trong chuyến đi của Chủ tịch Trương Tấn Sang vì không đủ ủng hộ trong chính giới Mỹ.
Bà nói thêm Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và động thái của Trung Quốc trên Biển Đông cũng là hai vấn đề quan trọng trong quan hệ.
Giáo sư Dalpino, hiện là Giám đốc chương trình Chất độc Da cam ở Việt Nam của Viện Aspen, cũng từng là chuyên gia nghiên cứu của Viện Brookings và chuyên về an ninh Đông Nam Á.
Bà cũng là tác giả của ba cuốn sách về chính sách của Hoa Kỳ ở Châu Á cũng như có bài đóng góp cho nhiều sách, báo khác nhau.
Trong chuyến thăm tới Nhà Trắng lần này, Chủ tịch Việt Nam dự định sẽ kêu gọi Mỹ chấm dứt lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Được hãng tin Mỹ AP hỏi qua email về lệnh cấm, ông Trương Tấn Sang nói “nay là lúc để bình thường hóa đầy đủ quan hệ song phương trong mọi lĩnh vực”.
Chủ tịch Việt Nam nói thêm với AP rằng có khác biệt giữa Washington và Hà Nội về nhân quyền, nhưng điều này “hoàn toàn bình thường”.
Trước chuyến đi của Chủ tịch Việt Nam sang Hoa Kỳ, bà Dalpino trả lời ba câu hỏi của BBC qua điện thư.
BBC: Bà có ngạc nhiên trước thời điểm ông Sang thăm Mỹ không khi mà chuyến đi có vẻ diễn ra gấp gáp?
Catharin Dalpino: Tôi không coi khoảng cách ngắn giữa lúc tuyên bố được đưa ra và thời điểm chuyến thăm diễn ra là quan trọng, cho dù khoảng cách hơi ngắn hơn bình thường chút ít.
“Sau chuyến thăm của ông Sang, câu hỏi được đưa ra sẽ là: khi nào Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam.”
Thông thường các chuyến thăm của các nguyên thủ quốc gia được thảo luận trong vài tuần, thậm chí vài tháng trước khi diễn ra nhưng thời điểm chính xác sẽ không được quyết định cho tới trước khi đi một hay hai tuần.
Phối hợp lịch của hai nguyên thủ không phải là điều dễ dàng. Trong trường hợp này, lên lịch cho chuyến thăm của ông Sang vào tháng Bảy là tốt nhất. Tháng Tám là tháng nghỉ hè ở Washington.
Trong tháng Chín, các nhà lãnh đạo thế giới bay tới New York dự phiên họp Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc và cũng có một vài chuyến thăm chính thức nhưng mọi thứ luôn vội vã vì số lượng quá nhiều.
Tới tháng Mười Tổng thống Obama sẽ đi Bali dự hội nghị APEC và Thượng đỉnh Đông Á ở Brunei.
Như vậy cơ hội tiếp theo để tiếp Chủ tịch Sang sẽ là tháng 11.
Sau chuyến thăm của ông Sang, câu hỏi được đưa ra sẽ là: khi nào Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam.
Từ khi trở thành tổng thống ông vẫn chưa sang Việt Nam và sẽ chịu chút sức ép phải làm như vậy trong nhiệm kỳ thứ hai.
BBC: Vấn đề nhân quyền quan trọng tới mức nào trong cuộc gặp ở Nhà Trắng? Hay là cuộc gặp sẽ tập trung vào Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương và động thái của Trung Quốc trên Biển Đông?
Catharin Dalpino: Chính quyền Obama chắc chắn sẽ giữ vấn đề nhân quyền trong nghị trình cuộc gặp giữa Chủ tịch Sang và Tổng thống Obama.
Nhưng Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và động thái của Trung Quốc trên Biển Đông cũng là hai vấn đề quan trọng trong quan hệ. Tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng.
“…Tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng.”
Chính quyền Obama đang chịu sức ép phải kết thúc TPP (mặc dù vẫn có những phức tạp từ phía Hoa Kỳ chẳng hạn Tổng thống vẫn chưa có Thẩm quyền Thúc đẩy Thương mại), nhưng thời hạn Hoa Kỳ tự đặt ra vào tháng Mười là khá tham vọng.
Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ là hai nước trong nhóm lớn hơn các nước đang đàm phán TPP nên cuộc gặp sẽ không giải quyết được hết mọi vấn đề nhưng sẽ là cơ hội để hai bên thảo luận các vấn đề song phương trong khuôn khổ TPP.
Về vấn đề Biển Đông, tôi cho rằng đây sẽ là đề tài được hai bên thảo luận. Nhưng ASEAN và Trung Quốc sẽ có cuộc gặp không chính thức vào tháng Tám và cuộc gặp này sẽ bị ảnh hưởng nếu tuyên bố chính thức từ cuộc gặp giữa ông Sang và ông Obama quá rõ ràng.
Bởi vậy tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng.
BBC: Liệu hai bên có đạt được đột phá nào về quốc phòng trong tương lai gần không? Chẳng hạn như một thỏa thuận cụ thể về Cam Ranh hay bán vũ khí cho Việt Nam?
Việt Nam coi việc bỏ lệnh cấm bán vũ khí mà Washington đang áp dụng với Hà Nội là một phần của bình thường hóa quan hệ
Catharin Dalpino: Dĩ nhiên quan hệ an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lớn hơn Vịnh Cam Ranh hay là bán vũ khí và bao gồm cả những lĩnh vực như đào tạo cho lực lượng gìn giữ hòa bình.
Mặc dù vậy, tôi không tin rằng Hoa Kỳ dự kiến đạt thỏa thuận cụ thể về Vịnh Cam Ranh tương tự như các hiệp định gần đây với Australia (để Thủy quân lục chiến có thể luân phiên tới Darwin) hay với Singapore (để tàu chiến có thể luân phiên tới).
Việt Nam hiện vẫn mở Vịnh Cam Ranh cho hải quân nước ngoài nói chung và sẽ cho phép sử dụng cảng để sửa chữa và tôi nghi ngờ chuyện Lầu Năm Góc muốn nhiều hơn thế trong tương lai gần.
Vấn đề bán vũ khí sẽ liên quan tới cả Quốc hội và chính quyền và Quốc hội thường hay gắn bán vũ khí với nhân quyền.
Nhìn từ phía Hoa Kỳ, không có vẻ là đã có đủ ủng hộ cho việc bán vũ khí.
Thông cáo báo chí của Dân biểu Cộng hòa Ed Royce, đơn vị California cho biết, cuộc họp báo ngoài ông ra còn có Dân biểu Cộng hòa Chris Smith, đơn vị New Jersey; Dân biểu Dân chủ Zoe Lofgren, đơn vị California; và Dân biểu Dân chủ Alan Lowthenthal, đơn vị California.
Một số đại diện của nhiều tổ chức bênh vực nhân quyền và cộng đồng người Việt tại Mỹ cũng sẽ có mặt.
Tuần trước, Dân biểu Royce đã gửi một bức thư cho Tổng thống Obama, nêu ra các thống kê cho thấy tình hình nhân quyền đáng ngại tại Việt Nam.
Bức thư có đoạn nói rằng chuyến thăm của Chủ tịch Sang là cơ hội độc đáo để tạo nguồn cảm hứng cho nhân dân Việt Nam đang khao khát tự do. “Tôi kính mong Tổng thống sử dụng cơ hội này để mạnh mẽ ủng hộ vấn đề nhân quyền.”
Tổng thống Obama sẽ tiếp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào thứ Năm.
Washington, D.C. – Today, U.S. Rep. Ed Royce (R-CA), Chairman of the House Foreign Affairs Committee, released the following letter he sent to President Obama last week urging him to make human rights a top priority during the upcoming visit with the President of Vietnam.
In the letter, Royce cites troubling statistics that reflect an increase in human rights abuses in Vietnam. Royce’s letter concludes, “Mr. President, President Sang’s visit to Washington is a unique opportunity to inspire the Vietnamese people who are yearning for freedom. I respectfully request that you make the most of this chance by vocally supporting a human rights agenda.”
Chairman Royce is the author of H.Res. 218, legislation that calls on the State Department to re-list Vietnam as a “Country of Particular Concern” for its gross religious freedom violations. Royce is also the lead cosponsor of the Vietnam Human Rights Act.
Chairman Royce will join other Members of Congress at a press conference tomorrow, Tuesday, July 23 at 9:15 a.m. at the House Triangle to urge President Obama to make Vietnam’s human rights abuses a top priority when he meets with Vietnam’s President later this week.
The signed letter to the President is available HERE.
The text of the letter follows:
July 18, 2013
The President
The White House
Washington, DC 20500
Dear Mr. President:
I urge you to make human rights a top priority during the upcoming visit of President Truong Tan Sang of the Socialist Republic of Vietnam.
As you know, Vietnam has long been as one of the most oppressive societies in Southeast Asia. Democratic aspirations, human rights advocacy, and grassroots mobilization are met with police brutality and result in show trials where defendants are denied their rights to open and fair proceedings as guaranteed by the Vietnamese Constitution.
In addition, the Vietnamese government has intensified its crackdown on free expression by increasing its efforts to censor the Internet, sponsoring cyber attacks, and blocking access to websites. Hanoi has also targeted the country’s diverse religious communities by confiscating and destroying church property and imprisoning the faithful for following their religious beliefs—even forcing some to renounce their beliefs.
Over 50 Vietnamese human rights advocates have been held in arbitrary detention this year alone. As one witness testified before the Asia Subcommittee earlier this year, “in the first six weeks of 2013, as many people have been convicted in political trials as in the whole of 2012.” These statistics are deeply troubling, and reflect the current intolerable state of human rights in Vietnam.
This further backslide in the Vietnamese Government’s respect for human rights comes as the country is increasing its international engagement. However, if our two countries are to build a strong relationship, Vietnam must honor its citizens’ basic rights, including freedom of association and assembly, freedom of opinion, and freedom of religion. This is the basis upon which all aspects of our relationship should be built.
As you host the Vietnamese President, I respectfully urge you take the following steps to press his government to make meaningful changes that will improve the country’s human rights record:
Mr. President, President Sang’s visit to Washington is a unique opportunity to inspire the Vietnamese people who are yearning for freedom. I respectfully request that you make the most of this chance by vocally supporting a human rights agenda.
Thank you for your consideration of my views.
Sincerely,
EDWARD R. ROYCE
Chairman
Cuộc họp chiều ngày 22/7 giữa đại diện các tôn giáo đang bị đàn áp tại Việt Nam với Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân chủ-Nhân quyền-Lao động, Tiến sĩ Daniel Baer, diễn ra chỉ 3 ngày trước khi Chủ tịch nước Việt Nam, Trương Tấn Sang, tới Mỹ.
Ông Trần Việt Hùng, đại diện phái đoàn Cao Đài tham gia cuộc họp, nói với VOA Việt ngữ:
“Phái đoàn gồm đại diện các tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, phái đoàn Khmer Krôm, phái đoàn người Champa, các tôn giáo ở vùng Cao Nguyên Việt Nam… Điểm chính chúng tôi muốn nêu lên là ở Việt Nam không có tự do tôn giáo, nhờ ông Daniel Baer gửi thông điệp đến Tổng thống Obama để chuyển đạt đến ông Trương Tấn Sang trong cuộc gặp tới đây và yêu cầu can thiệp thả các tù nhân lương tâm.”
Đây là lần đầu tiên một phái đoàn quy tụ đại diện của rất nhiều tôn giáo khác nhau có cuộc họp chính thức với giới chức Bộ Ngoại giao Mỹ để trình bày về tình hình thiếu tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Các thành viên trong phái đoàn nói các báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ còn nhiều thiếu sót, chưa phản ánh đầy đủ những vi phạm về tự do tôn giáo trầm trọng tại Việt Nam.
Ông Trần Việt Hùng:
“Hy vọng tiếng nói của chúng ta về vấn đề tự do tôn giáo sẽ được Hoa Kỳ lắng nghe và họ sẽ hiểu rõ hơn về tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam ra sao, bởi tin tức chính phủ Mỹ nắm được đa số từ nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam chứ không phải là từ các tín đồ tôn giáo độc lập. Chẳng hạn như đối với đạo Cao Đài, họ chưa gặp bất kỳ tín đồ Cao Đài độc lập nào cả.”
Ông Trần Thanh Tùng góp mặt trong phái đoàn đại diện cho những tín đồ Công giáo đang bị đàn áp tại Cồn Dầu, tiếp lời:
“Chúng tôi muốn khi Bộ Ngoại giao Mỹ viết phúc trình, ngoài tham khảo tin tức, ý kiến từ những người ở Việt Nam, từ các cơ quan tôn giáo của Việt Nam, họ cũng nên tham khảo với chúng tôi để bản báo cáo được trung thực. Chúng tôi có nhiều nguồn tin giúp bản tường trình có cái nhìn sâu rộng hơn thay vì họ chỉ thông qua Việt Nam hay tìm hiểu từ các đại diện tôn giáo đa số là quốc doanh tại Việt Nam chịu sự kiểm soát của chính quyền cộng sản. Cái nhìn đó là không trung thực và một chiều.”
Phái đoàn vận động cho tự do tôn giáo Việt Nam nói ngoài mục đích đánh động sự quan tâm của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế về thực trạng đàn áp tôn giáo ở Việt Nam, cuộc gặp lần này với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ còn là một thông điệp mạnh mẽ gửi tới Hà Nội:
“Các tôn giáo đồng thống nhất với nhau có một tiếng nói chung để gửi thông điệp cho nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam biết rằng họ không thể nào đối xử với người dân như vậy. Tín ngưỡng của mỗi người là quyền hết sức thiêng liêng được Thượng đế ban cho. Họ không có quyền hay tư cách gì mà ép buộc người dân Việt Nam không được tự do đeo đuổi những tôn giáo, những tín ngưỡng. Đó là quyền của công dân.”
Song song với cuộc gặp Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Baer, nghị trình vận động hôm nay của phái đoàn liên tôn cũng bao gồm cuộc họp với đại diện Ủy Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF).
Bộ ngoại giao Mỹ trong báo cáo thường niên về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam công bố hôm 20/5 năm nay nhận xét rằng xu hướng chung của chính phủ Việt Nam không có thay đổi nào đáng kể. Nhiều trường hợp đàn áp tự do tôn giáo kể cả các vụ bắt giam và kết án tù.
Trước đó hồi cuối tháng tư, USCIRF một lần nữa đề nghị chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về vấn đề tự do tôn giáo (gọi tắt là CPC).
Trong phúc trình 2013, USCIRF nói Việt Nam vẫn tiếp tục áp dụng các luật mơ hồ về an ninh quốc gia để trấn áp các hoạt động tôn giáo độc lập và giam cầm nhiều nhà hoạt động tôn giáo.
Trong số các trường hợp được lưu ý có các vụ cưỡng chiếm đất đai của nhiều giáo hội, những bản án dài hạn của các nhà hoạt động Công Giáo, các vụ đàn áp ở giáo xứ Cồn Dầu, những vụ bắt bớ-sách nhiễu đối với người thiểu số Tây Nguyên theo đạo Tin Lành hay đối với các tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo và Cao Đài.
Nhân dịp có cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Barack Obama và Chủ Tịch Trương Tấn Sang tại Tòa Bạch Ốc, chúng tôi, đại diện những đoàn thể quần chúng Việt Nam ký tên dưới đây, xin đưa ra trước công luận Tuyên Bố này.
Trong những năm gần đây, CHXHCN Việt Nam đã bị các tổ chức nhân quyền quốc tế có uy tín như Ân Xá Quốc Tế (AI), Hội Theo Dõi Nhân Quyền (HRW), Nhà Tự Do (Freedom House), Ủy Ban Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF), v.v… nhận diện là một trong những nước vi phạm nhân quyền tồi tệ nhất trên thế giới, và là kẻ thù của truyền thông điện tử toàn cầu (CPJ và RSF). Điều này cũng được xác nhận trong “Tuyên Bố của Mạng Lưới Bloggers Việt Nam” do 69 bloggers tại Việt Nam cùng ký tên (tính đến ngày 18/7/2013).
Việc CHXHCN Việt Nam không tôn trọng các quyền tự do căn bản của công dân Việt Nam như đã được bảo đảm trong các văn kiện luật pháp nhân quyền quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia cho thấy Việt Nam không tôn trọng các cam kết quốc tế và không xứng đáng ngồi vào chiếc ghế thành viên Hội Đồng Nhân Quyền LHQ mà Việt Nam đang ứng tuyển.
Từ những nhận định đó, chúng tôi, đại diện những đoàn thể quần chúng trong và ngoài Việt Nam, trước hết hoan nghênh tuyên bố của Tòa Bạch Ốc cho biết Tổng Thống Barack Obama sẽ nêu lên vấn đề nhân quyền trong buổi gặp gỡ Chủ Tịch Trương Tấn Sang. Chúng tôi kêu gọi cuộc thảo luận sẽ không dừng lại ở lời nói, và sẽ dẫn đến kết quả là chính quyền Việt Nam sẽ thực hiện những việc cụ thể như dưới đây:
1/ Hủy bỏ những điều khỏan gọi là “an ninh quốc gia”, đặc biệt là các điều 79,87, 88, 89 và 258 trong Luật Hình Sự hiện nay của Việt Nam.
2/ Thả tất cả các bloggers đang bị giam giữ (35 người theo con số của Reporters Sans Frontieres) chỉ vì đã nói tới những vấn đề đang tác hại đến đất nước, và do đó, không làm gì hơn là thực thi một cách hòa bình quyền tự do tư tưởng và tự do phát biểu ý kiến của họ.
3/ Trả tự do ngay lập tức cho những tù nhân lương tâm sau đây:
4/ Tôn trọng quyền tự do tôn giáo bằng cách hủy bỏ tất cả những luật lệ giới hạn quyền hành đạo, ngưng can thiệp vào công việc nội bộ của các Giáo hội, và ngưng đàn áp các giáo sĩ và tín đồ.
5/ Trả tự do cho tất cả những tù nhân lương tâm hiện bị giam giữ vì lý do tôn giáo, dù họ là Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Thừa, Tiểu Thừa Phật giáo (như trường hợp các tín đồ Phật Giáo Khmer Krom tại tỉnh Sóc Trăng), Công giáo (như trường hợp Cồn Dầu, Đà Nẵng hay các sinh viên Công giáo tại Nghệ An)), các hệ phái Tin Lành (Evangelist, Mennonite, hay Tin Lành tại gia).
Việc Tổng Thống Barack Obama can thiệp một cách nghiêm chỉnh và mang lại kết quả cụ thể cho các tù nhân lương tâm trên đây sẽ cho thấy Hoa Kỳ tuân thủ cam kết của mình, luôn đặt dân chủ và nhân quyền, những hòn đá tảng của nền cộng hòa Mỹ, lên trên những toan tính lợi ích tầm thường, dù thương mại hay quân sự. Thực ra, dân chủ và nhân quyền không hề tác hại đến mối quan hệ lâu dài, mang tính chiến lược, vì một liên minh như thế, muốn được bền vững, phải được xây dựng trên những giá trị và niềm tin cậy chung.
Chúng tôi mong rằng bản Tuyên Bố này được phổ biến rộng rãi trong cũng như ngoài Việt Nam. Chúng tôi kêu gọi các cơ quan truyền thông công cộng hãy giúp chuyển tải thông điệp này đến cộng đồng Việt Nam hải ngọai và cộng đồng quốc tế.
Việt Nam, ngày 22 tháng 7 năm 2013
Những đoàn thể cùng ký tên:
– Đại Việt Cách Mạng Đảng (Đinh Quang Tiến, Đệ nhị Phó Chủ tịch)
– Đảng Dân Chủ Nhân Dân (Đỗ Thành Công, Phát ngôn nhân)
– Đảng Tân Đại Việt (Lê Minh Nguyên, Phó Chủ tịch)
– Đảng Việt Tân (Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch)
– Họp Mặt Dân Chủ (Lâm Đăng Châu, TB Phối Hợp)
– Lực Lượng Dân Tộc Cứu Nguy Tổ Quốc (Trần Quốc Bảo, Chủ tịch)
– Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (Nguyễn Bá Tùng, TB Phối Hợp)
– Nghị Hội Toàn Quốc Người Mỹ Gốc Việt (Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch)
– Tập Hợp vì Nền Dân Chủ (Nguyễn Thể Bình, Đại diện)
– Việt Nam Quốc Dân Đảng (Trần Tử Thanh, Chủ Tịch, Hội Đồng Điều Hợp Trung Ương Hải Ngoại)
– Viện Quốc tế vì Việt Nam (Đoàn Viết Hoạt, Chủ tịch)
– Trung Tâm Nhân Quyền Việt Nam, Paris (Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch)
__________________________________________________
On the occasion of the meeting between US President Barack Obama and SRV President Truong Tan Sang in the White House, we, the undersigned Vietnamese mass organizations, issue to the public this declaration.
In recent years the Socialist Republic of Vietnam (SRV) has been identified by Amnesty International (AI), Human Rights Watch (HRW), Freedom House, United States Commission on International Religious Freedom (USCIRF), etc., as one of the worst perpetrators of human rights violations in the world and especially as an enemy of the Internet (CPJ and RSF, among others)–a finding supported by the latest “Statement from a Network of Vietnamese Bloggers” signed by 69 bloggers inside Vietnam (as of July 18, 2013).
The SRV’s total disregard of the most basic human rights for its citizens as guaranteed in international covenants to which Vietnam is a signatory made a farce of its international commitments and makes it unworthy of a place in the UN Human Rights Council which it is coveting.
In view of the above, we, representatives of the Vietnamese mass organizations both inside Vietnam and in the Vietnamese Diaspora, welcome the announcement by the White House that President Barack Obama will make a point to discuss “human rights” in his upcoming meeting with SRV President Truong Tan Sang. We urge that the discussion will go beyond words and result in the Vietnamese government carrying out the concrete actions as follows
1/ To abolish vague “national security” provisions, especially articles 79, 87, 88, 89 and 258 in Vietnam’s Criminal Code.
2/ To release all bloggers (RSF mentions 35 names) currently in jail simply because they have spoken up on various issues plaguing the country and therefore doing nothing more than exercising peacefully their rights of freedom of opinion and expression.
3/ To immediately release the following prisoners of conscience:
– Dieu Cay Nguyen Van Hai, whose name has been mentioned by President Obama himself at last year’s Press Day and who is undergoing a hunger strike in Camp 6, Nghe An Province, reaching its 25th day as of July 17, 2013;
– Dr. Cu Huy Ha Vu, who completed a 25-day hunger strike on June 21 last;
– Father Nguyen Van Ly, one of the most famous prisoners of conscience in the country;
– Lawyer Le Quoc Quan, a former NED Fellow in Washington and a specialist on Civil Society;
– Mr. Tran Huynh Duy Thuc, an entrepreneur who was given a 16-year jail sentence simply because he refused to admit to crimes allegedly accused by the government;
– Ms. Ta Phong Tan, a former public security officer turned dissident, whose mother had to immolate herself to demand her daughter’s release;
– the three labor activists Doan Huy Chuong, Nguyen Hoang Quoc Hung and Do Thi Minh Hanh, who tried to form independent trade unions to protect the workers’ rights;
– the musicians Viet Khang and Tran Vu An Binh, who did nothing more than compose patriotic songs;
– the students Nguyen Phuong Uyen and Dinh Nguyen Kha, who simply distributed flyers saying “Chinese, Go Home!” ;
– Pastor Nguyen Cong Chính, being imprisoned for 11 years for preaching the Gospel to ethnic groups in Gia Lai, Kontum.
– And especially, Mr. Nguyen Huu Cau, a former ARVN (Army of the Republic of Vietnam) officer who has so far spent 35 years in jail and has gone blind with a variety of very severe ailments.
4/ To respect the freedom of religion by repealing all legislation that are intended to restrict the people’s religious practices; to stop interfering with the internal activities of all religions, and to stop the persecution of clergy and faithful.
5/ To release all prisoners of conscience who are currently in jail because of their faith, whether it be Cao Dai, Hoa Hao Buddhism, Mahayana Buddhism, Theravada Buddhism (as in the case of Khmer Krom Buddhists in Soc Trang Province), Catholicism (as in the case of Con Dau parishioners in Da Nang or Nghe An Catholic students), Evangelism, Mennonite Protestants, or House Church Protestantism.
A serious and effective, result-producing intervention on these prisoners’ behalf by the President will prove that the United States is true to its word, that his administration puts democracy and human rights, the cornerstones of our republic, above many other mundane considerations whether mercantile- or defense-oriented. In fact, democracy and human rights do not undermine long-term alliance, especially of a strategic nature, because such an alliance, to be lasting, must be based on common values and mutual trust.
We wish therefore to publicize this declaration as widely as possible, both in Vietnam and outside of Vietnam, and we call upon the public media to help us carry this message to the Vietnamese Diaspora and to international community.
Vietnam, July 22, 2013
Signed by the following organizations:
– Assembly for Democracy in Vietnam (Lam, Đang Chau)
– International Institute for Vietnam (Doan, Viet Hoat, Chairman)
– National Congress of Vietnamese Americans (Nguyen, Ngoc Bich, Chairman)
– Neo Dai Viet Party (Le, Minh Nguyen – Vice-Chairman)
– Rallying For Democracy ( Nguyen , The- Binh – Representative)
– The Dai Viet Revolutionary Party (Dinh, Quang Tien – 2nd Vice President)
– The People’s Democratic Party (Do, Thanh Cong – Spokesperson)
– The People’s Force to Save Vietnam (Tran, Quoc Bao, Chairman)
– Vietnam Center for Human Rights, Paris (Tran, Thanh Hiep, President)
– Vietnam Human Rights Network (Nguyen, Ba Tung, President)
– Vietnam Nationalist Party (Tran, Tu Thanh, Chairman, Overseas Central Coordinating Council)
– Viet Tan Party (Do, Hoang Diem, Chairman)
Tin tổng hợp – SB-TN nhận được thông báo của cộng đồng Việt Nam vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn với nội dung như sau: Ngày 25 tháng 7 Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington, D.C., Maryland & Virginia với sự tham gia và tiếp tay của các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hải ngoại sẽ tổ chức một cuộc biểu tình tại công viên Lafayette trước Tòa Bạch Ốc để phản đối Trương Tấn Sang, Chủ Tịch Nước Cộng Sản Việt Nam sẽ đến Hoa Kỳ với một phái đoàn trên 100 người và sẽ gặp Tổng thống Obama vào lúc 11 giờ sáng. Cuộc biểu tình để đòi hỏi Tổng thống Hoa Kỳ buộc Việt Nam phải tôn trọng Nhân Quyền, lên tiếng cho Trương Tấn Sang biết là đảng Cộng Sản không xứng đáng cầm quyền vì Ác với Dân và Hèn với Giặc sẽ có cả ngàn người từ khắp nơi về.
Chi phí xủ dụng cho cuộc biểu tình này với các đồng hương từ miền Tây sang miền Đông, từ miên Nam lên miền Bắc Hoa Kỳ, qua đến Canada và có luôn đại diện người Việt Quốc Gia từ Pháp hiện diện rất cần đến sự yểm trợ tài chánh của tất cả quý vị có tấm lòng với quê hương đất nước. Kính xin quý Đồng Hương khắp nơi hãy tích cực giúp đỡ và yểm trợ tài chánh cho cuộc biểu tình này. Mọi đóng góp xin ghi và gửi về: Cộng Đồng Việt Nam Hoa Thịnh Đốn, P.O. Box 5055 Springfield, VA 22150-5055. Chúng tôi vô cùng biết ơn sự ủng hộ của quý vị và xin được gởi đến quý vị lời cảm ơn sâu xa. Trân trọng, Chủ Tịch Cộng Đồng Đoàn Hữu Định và Trưởng Ban Tổ Chức Dược sĩ Nguyễn Mậu Trinh.
Biểu Tình Chống Nguyễn Tấn Dũng
Biểu Tình Chống Nguyễn Minh Triết
Danlambao – Ngay trong sáng nay, 22/7/2013, chị Dương Thị Tân và con trai Nguyễn Trí Dũng sẽ trực tiếp đến trụ sở Viện Kiểm sát tỉnh Nghệ An để gửi đơn khẩn cấp, đồng thời chất vấn về việc tiếp nhận và giải quyết đơn thư tố cáo của blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải.
Liệu nước Mỹ có kỳ vọng vào một cá nhân lãnh đạo nào đó của Việt Nam – người có hy vọng trở thành Thein Sein thứ hai để cứu vãn dân chủ, hòa hợp hòa giải các thế lực và cả các thế hệ, nhưng trên tất cả là vực dậy một nền kinh tế lụn bại đang sa chân vào vực thẳm khủng hoảng?
“A delicate line”
“Một đường đi mỏng manh” (a delicate line) có thể là biểu tượng mô phỏng cho kết quả của chuyến viếng thăm Nhà Trắng của nhân vật số 2 của chính đảng cầm quyền ở Việt Nam, sẽ diễn ra vào ngày 25/7/2013 và mở đầu cho một chu trình mới sau khi vòng tròn sáu năm trước tạm khép lại.
Và đó cũng là một phép thử cho những gì còn lại về lợi ích chiến lược chung đụng giữa Hoa Kỳ và đối tác cựu thù đang cần đến tinh thần chú Sam.
Đã từ lâu, giới chuyên gia sừng sỏ của Hoa Kỳ luôn nói đến các mục tiêu chiến lược, kinh tế và giá trị – một hệ tư tưởng mà giới ngoại giao địa chính trị của Mỹ đã tuân thủ không ít lần ở không ít quốc gia trên thế, chẳng hạn như Arap Saudi.
Xét theo logic có tính biện chứng lịch sử ấy, nếu triển vọng về chiến lược đồn trú tại khu vực biển Đông nói riêng và Thái bình dương nhìn rộng hơn của Mỹ có thể đạt được thông qua một “chiến lược toàn diện” nào đó với Nhà nước Việt Nam, thì lại khá chua chát cho phong trào dân chủ còn phôi thai và những người bất đồng chính kiến lẻ loi ở quốc nội, bởi chủ đề nhân quyền ở một quốc gia ngàn năm văn hiến có thể không còn quá quan trọng trong nhận diện về quyền lợi chiến lược của người Mỹ – như nhận xét của những chuyên gia phản biện không mấy lạc quan vào sự cải thiện của xu thế.
An ninh khu vực biển Đông lại đang hóa thân như một chủ đề then chốt cho cuộc gặp Obama – Sang, hay ngọn nguồn hơn là Sang – Obama vào ngày 25/7/2013. Bởi bất kể quan điểm “đi dây” ra sao giữa Bắc Kinh và Washington của chủ tịch nước, Việt Nam vẫn đang lọt thỏm trong mối nguy hiểm rất cận kề từ lịch sử “ngàn năm Bắc thuộc”.
Trong khi đó, “kẻ thù số 1” lại không còn quá nguy cơ. Về mặt lý thuyết, cảng Cam Ranh ở Việt Nam vẫn có thể hóa thân thành Subic ở Philippines nếu chính sách “bảo vệ người Mỹ ngoài biên giới Mỹ” còn có tác dụng quân sự cũng như tiết giảm nhiều khoản chi phí không cần thiết cho Lầu năm góc.
Thậm chí, người Mỹ còn đang hứa hẹn cho Việt Nam gia nhập TPP trước cả Myanmar, dù rằng Thein Sein được đánh giá là người đi trước Hà Nội nhiều năm về công cuộc chuyển hóa dân chủ êm thấm và kỳ diệu hơn là tránh được một cơn can qua đổ máu vô ích.
Có lẽ chính vì thế mà đại sứ Hoa Kỳ David Shear đã có một lời khẳng định là nếu Việt Nam không có tiến bộ về mặt dân chủ, nhân quyền thì sẽ rất khó để có được sự ủng hộ chính trị ở Quốc hội Mỹ để thông qua hiệp ước TPP.
“Vì đất nước Hoa Kỳ có ưu thế để đưa ra những vấn đề này” – David Shear “tống đạt” một kết luận, được giới bình luận nhận định có giá trị như một lời cam kết.
Dĩ nhiên, lời cam kết này không thể làm cho Hà Nội hài lòng.
“Tôi nói điều này với các viên chức cao cấp của Việt Nam. Tôi nói với Chủ tịch Sang, tôi nói với Thủ tướng Dũng, tôi nói với Tổng bí thư Trọng, tôi nói với Bộ trưởng ngoại giao Minh. Tôi và các nhân viên ngoại giao đoàn nói điều này với tất cả các viên chức Việt Nam nào mà chúng tôi có cơ hội gặp” – David Shear trần thuật trước báo chí vào tháng 5/2013.
Ông cũng không quên nêu ra những điều Hoa Kỳ đã đòi hỏi ở Việt Nam: thả tù chính trị, tăng cường tự do ngôn luận, tự do hội họp, tăng cường tự do tôn giáo và công nhận thêm nhiều tổ chức tôn giáo, thông qua Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc.
Còn thái độ của Hà Nội như thế nào – cho hiện tại và cho cả sáu năm qua, tính từ thời điểm một chủ tịch nước bước qua cửa Nhà trắng bằng con đường ngoại giao?
Một tuần sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ tại Hà thành, đại sứ Liên hiệp châu Âu ở Việt Nam là Franz Jessen kể lại câu chuyện hấp dẫn về một hiện tượng “tâm lý học”: các quan chức Việt Nam hoàn toàn ý thức được các vấn đề mà họ đang đối mặt và đang gây lo ngại cho các đối tác.
Trước đó vào giữa tháng 2/2013, Franz Jessen đã có những cuộc gặp riêng với một số quan chức đầu ngành Việt Nam là tướng Tô Lâm – thứ trưởng công an, và Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn. “Tôi khá ngạc nhiên khi tới đây và thấy sự thông hiểu vấn đề ở các bộ, bao gồm cả Bộ công an. Họ hiểu rõ nhưng vẫn chưa biết phải làm gì với những người, chủ yếu là ở trong nước, bày tỏ những ý kiến mà họ không muốn thấy” – ông kể lại.
Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn còn nói với ông Franz Jessen là “Chúng tôi hiểu nhưng hãy cho chúng tôi thời gian”.
Nhưng đến giữa năm 2013, điều được gọi là ‘thời gian”đã chứng thực giá trị nhân từ của nó: chính quyền bắt một hơi 3 blogger và còn hứa hẹn sẽ “nhập kho” nhiều nhân vật bất đồng chính kiến khác.
Thế là dư luận trong nước lại càng có cớ để truyền tin cho nhau về một thực trạng khác biệt về chính kiến và quan điểm xử lý vấn đề nội chính và cả câu chuyện đối ngoại giữa một số nhà lãnh đạo nào đó.
Tình hình phát triển đến mức mà ngay cả một nhà ngoại giao như David Shear cũng phải tường tỏ. Trong một buổi gặp mặt cộng đồng người Việt ở Little Saigon, Nam California, viên chức này giải thích: “Ý kiến của giới lãnh đạo Việt Nam về Hoa Kỳ rất là phức tạp. Có những người từng tham chiến trong chiến tranh, và họ chưa hoàn toàn thân thiện với Hoa Kỳ. Có những người giáo điều ý thức hệ và lo ngại về những biến đổi về xã hội và chính trị nếu bang giao quá mật thiết với Hoa Kỳ”.
Viên đại sứ này cũng mô phỏng một khái niệm mới mẻ “A delicate line”: “Vâng, họ đang đi một đường rất mong manh, mà phía chúng ta cũng vậy”.
Đã khá rõ ai, hoặc những ai, là kẻ “ném đá dò đường” trong bóng đêm tĩnh mịch.
“Thein Sein thứ hai”?
Chỉ có điều, đã chưa từng xuất hiện thuật ngữ “A delicate line” trong mối bang giao Hoa Kỳ và Trung Quốc từ đầu năm 2013 đến nay, và đặc biệt sau cuộc gặp Obama và Tập Cận Bình tại Nhà trắng vào đầu tháng 6 năm nay. Cũng không có điểm nhấn nào về nhân quyền mà phía Mỹ đặc tả về bầu không khí như bị bóp nghẹt tại Tân Cương, Tây Tạng và phần còn lại của Trung Hoa.

Còn với Việt Nam thì sao? Liệu ứng xử của người Mỹ với Hà Nội về vấn đề nhân quyền có mềm dẻo như được thể hiện với Bắc Kinh?
Hay ngược lại – cứng rắn?
Có lẽ đây là một ẩn số trong phương trình Bắc Kinh – Washington mà Hà Nội rất muốn giải mã. Tuy thế, dường như não trạng một số lãnh đạo vẫn chưa thật cảm thông với quy luật những ẩn số chính trị vào thời chiến tranh lạnh lại hầu như được quyết định bởi phương trình kinh tế.
Vào năm 2012, kim ngạch thương mại của Trung Quốc – nền kinh tế lớn thứ hai thế giới – đã lần đầu tiên vượt Mỹ, trở thành nước có tổng kim ngạch thương mại lớn nhất thế giới.
Các số liệu công bố của cả giới chức Trung Quốc và Mỹ cho thấy trong năm 2012, tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc đạt 3.866,76 tỷ USD, trong khi kim ngạch trao đổi buôn bán của Mỹ thấp hơn một chút – 3.862,86 tỷ USD.
Nếu năm 2009, Trung Quốc đã trở thành quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, thì vào năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đạt đến 2.048,93 tỷ USD so với mức 1.563,58 tỷ USD của Mỹ.
Trong khi đó, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam, dù đã được “nâng lên một tầm cao mới” sau hơn một thập kỷ, vẫn chỉ vỏn vẹn 24 tỷ USD, chiếm có 2,4% tổng kim ngạch thương mại giữa Hoa Kỳ và khối EU trong năm 2012.
Không có gì để đối sánh với quan hệ Trung – Mỹ, điều hoàn toàn có thể chắc chắn là tương quan chính trị Việt – Mỹ sẽ không tránh khỏi nhiều điều kiện ràng buộc từ ông chủ Nhà trắng.
Nền kinh tế Việt Nam lại đang ở vào thế gần như suy kiệt về cái được định nghĩa là “nội lực”.
Từ năm 1975 đến nay, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam lại rơi vào tình trạng bấp bênh nguy hiểm như giờ đây, với quá nhiều hệ lụy từ hệ thống ngân hàng và các thị trường đầu cơ như bất động sản, vàng, chứng khoán, cùng khối nợ xấu khổng lồ có thể lên đến trên 500.000 tỷ đồng và nợ công quốc gia và nợ nước ngoài có thể lên đến 95 – 106% GDP nếu tính theo tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc, trong đó có đến vài chục tập đoàn kinh tế quốc doanh đang quá khó có khả năng thu hồi vốn từ đầu tư trái ngành những năm trước và quá khó có khả năng trả nợ cho Nhà nước từ tình trạng chúa chổm hiện nay.
Tất cả đều như dẫn đến độc đạo khủng hoảng kinh tế và cả khủng hoảng xã hội trong không bao lâu nữa.
Nhưng với mối tương quan kinh tế quá dị biệt giữa hai quốc gia vốn là cựu thù, giới phân tích quốc tế lại càng ngạc nhiên về tâm thế lắng tiếng hoàn toàn không bình thường của chính quyền Obama, ít ra trong nửa đầu năm 2013 và vào nhiệm kỳ cuối cùng của một tổng thống – được quy định bởi hiến pháp Hoa Kỳ?
Phải chăng đó là một tâm thế bị động của giới chính trị Mỹ trước những chính khách cựu thù đang cực kỳ chủ động tìm kiếm mối quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện”?
Còn nếu đó chỉ là một thái độ lắng tiếng giả tạo, liệu người Mỹ đang suy ngẫm gì về một “chiến lược mới” đối với Việt Nam?
Khác với cuộc gặp Bush – Triết vào năm 2007, giới lãnh đạo đương thời ở Việt Nam đang được xem là “phức tạp” – như ẩn ý của đại sứ Hoa Kỳ David Shear, hoặc ở vào thế “đa cực” mà không còn “nhất trí cao” trong cách nhìn của giới phân tích chính trị phương Tây.
Cách nhìn đó lại như mô tả một ốc đảo, trên đó mỗi người lại nhìn về một góc trời đối ngẫu.
Có lẽ đã xa hẳn rồi cái thời đồng thuận đồng nghĩa với tinh thần minh triết.
Trong những tháng tới đây, cùng với những chuyển động về TPP, không khí tiềm ẩn sắc tố quân sự trên biển Đông, và cả những dấu hiệu khác như hoạt động “lobby” của Việt Nam cho một ghế nhân quyền tại Liên hiệp quốc, người Mỹ sẽ chờ đợi và trông đợi gì đối với giới lãnh đạo Việt Nam?
Từng thấm trải kinh nghiệm và bài học từ một Myanmar quân phiệt và chuyên chế, liệu nước Mỹ – với tầm nhìn và cả với “giác quan thứ sáu” của họ – có kỳ vọng vào một nhân tố mới hay cụ thể hơn vào một cá nhân lãnh đạo nào đó của Việt Nam – người có hy vọng trở thành Thein Sein thứ hai để cứu vãn dân chủ, hòa hợp hòa giải các thế lực và cả các thế hệ, nhưng trên tất cả là vực dậy một nền kinh tế lụn bại đang sa chân vào vực thẳm khủng hoảng?
Không ít lần trong lịch sử, khủng hoảng vẫn có thể được xử lý bằng chính khủng hoảng. Nếu quả thực có được “giác quan thứ sáu”, người Mỹ sẽ làm gì để linh cảm chuyển hóa thành hiện thực?
Theo thông cáo báo chí mới đây của Tòa Bạch Ốc thì Chủ tịch Trương Tấn Sang của VN sẽ chính thức viếng thăm Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 7 này theo lời mời của Tổng thống Barack Obama, chuyến đi mà báo Tổ Quốc lưu ý rằng “Ít ai còn hy vọng gì ở ông Trương Tấn Sang sau những gì ông đã thay mặt lãnh đạo CSVN thỏa thuận với Trung Quốc trong chuyến đi Trung Quốc vừa rồi; câu hỏi đặt ra là ông, đúng ra là lãnh đạo Việt Nam, còn có gì để nói với Hoa Kỳ không ?”. Tờ báo phân tích:
Rất ít về mặt ngoại giao, vì Việt Nam không còn tiếng nói độc lập sau khi đã cam kết “điều phối” và “phối hợp” với Trung Quốc, nghĩa là nhận chỉ thị của Trung Quốc, trong quan hệ đối ngoại. Càng ít về hợp tác quân sự vì sau thỏa thuận gắn bó hai quân đội Trung Quốc và Việt Nam chuyển giao vũ khí và kỹ thuật cho Việt Nam tương đương với chuyển giao cho Trung Quốc, điều mà Hoa Kỳ và các nước dân chủ không thể chấp nhận. Họ đang nhìn Trung Quốc như một thách thức.
Bản thông báo ngắn của tòa Nhà Trắng về chuyến viếng thăm này đã chỉ nói tổng thống Obama mong muốn thảo luận với ông Sang về các chủ đề nhân quyền, môi trường, khí hậu và hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương mà nhiều nước đang cố gắng để hoàn tất. Không thể đơn giản hơn. Thông cáo này cũng có nói tới hợp tác Mỹ – ASEAN nhưng Việt Nam không còn tư cách để nói chuyện về đề tài này bởi vì Việt Nam không còn là một thành viên bình thường của ASEAN nữa; dưới mắt đa số các thành viên ASEAN, Việt Nam đã trở thành tai mắt của Trung Quốc…
Qua bản thông cáo “không thể đơn giản hơn” ấy của Toà Bạch Ốc, theo tác giả Tư Ngộ của bài “Ông Trương Tấn Sang đi Mỹ kiểu ‘đồng sàng dị mộng’ ”, Tổng thống Obama muốn hạn chế cuộc gặp mặt mà Hà Nội rất mong mỏi là “tìm cách củng cố đối tác về các vấn đề chiến lược khu vực và làm sâu sắc hơn sự hợp tác của Hoa Kỳ với ASEAN”, “muốn Mỹ bỏ cấm vận bán võ khí sát thương, muốn Mỹ đừng quá gắt về điều kiện đàm phán Hiệp định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)…”. Tác giả trích dẫn lời các chuyên gia đề cập tới việc lãnh đạo VN cần sang Mỹ để tìm kiếm “sự chống lưng” của Washington về nhiều phương diện, từ kinh tế đến quốc phòng, nhằm ra sức duy trì chế độ:
CSVN muốn có cái dù của Mỹ che chở mạnh hơn trong tranh chấp Biển Đông, muốn Mỹ hiện diện quân sự thường xuyên hơn ở khu vực để cản sự lộng hành của Bắc Kinh, muốn có những điều lợi hơn trong quan hệ mậu dịch thương mại và đầu tư, nhưng lại ngày càng tồi tệ hơn về nhân quyền.
Như vậy là một trở ngại để 2 nước cựu thù này trở thành đối tác chiến lược chính là thành tích nhân quyền ngày càng tồi tệ của VN, cũng như việc Hà Nội không tuân thủ các Công ước Quốc tế dù đã ký kết. Blogger Tư Ngộ nhân tiện lưu ý rằng giới chuyên gia không tin đề tài nhân quyền là cái mà Hà Nội muốn nghe tại phiên họp thượng đỉnh Việt-Mỹ sắp tới; và khi “bị nghe” về nhân quyền, thì hẳn ông Tư Sang đã thủ sẵn những lý lẽ chống chế như những lãnh đạo Hà Nội đã từng làm, bất chấp sự thật tại VN ra sao.
Vẫn theo tác giả Tư Ngộ thì nhu cầu và ưu tiên số một của Ba Đình là, bằng mọi giá, phải duy trì cái chế độ độc tài, tham nhũng để tiếp tục “đục khoét”, bòn rút túi ngày càng teo tóp của dân đen. “Khẩu hiệu của guồng máy công an ‘còn đảng còn mình’ diễn tả đầy đủ lý do tại sao chế độ Hà Nội bằng mọi giá giữ chặt lấy quyền lực chính trị. Bởi vậy, họ không ngần ngại bỏ tù những ai lên tiếng đả kích các sai trái của chế độ hay đòi đa nguyên đa đảng”.
Nhận xét về chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang, blogger J.B. Nguyễn Hữu Vinh từ Hà Nội “không đặt một kỳ vọng nào lớn lắm về những chuyến viếng thăm như vậy”:
Đây là một quá trình dài chứ không phải là một cá nhân hay một nhân vật hay một chuyến đi thăm của một ông Chủ tịch nước, một ông Tổng bí thư hoặc ông nọ, ông kia mà nó có thể tạo ra một sự thay đổi để mà hy vọng. Chúng tôi không có hy vọng như vậy bởi vì đây là sản phẩm của một chế độ, một thể chế, một chính sách của một đảng lãnh đạo chứ không phải một cá nhân nào làm nên điều đó.
Lực bất tòng tâm?

Nêu lên câu hỏi rằng “Trương Tấn Sang làm gì ở Mỹ?”, blogger Lê Diễn Đức lưu ý rằng ngoại trừ giai đoạn Lê Đức Anh nhờ “sau lưng” có hậu thuẫn của tình báo quân đội, Chủ tịch nước của CHXHCN Việt Nam thực chất chỉ là một chức vị “ít có thực quyền”, khiến vai trò của các chủ tịch tiền nhiệm Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết trong cán cân quyền lực mờ nhạt. Bây giờ tới phiên chủ tịch Trương Tấn Sang, có muốn thay đổi nhưng “lực bất tòng tâm” như từng “thấy rõ” qua cuộc xung đột, tranh giành ảnh hưởng mới đây với ông Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị 6 và Hội nghị 7 Trung ương Đảng, khiến “Tư Sang chùng hẳn”. Do đó, theo blogger Lê Diễn Đức, thực ra, “Tư Sang không có quyền hạn nào trong chính sách đối ngoại. Chính sách đối ngoại được chỉ đạo bởi Bộ Chính Trị, nơi mà Tư Sang không có đủ hậu thuẫn cần thiết. Tư Sang chỉ làm công việc giao liên. Cho nên Hoa Kỳ khó có thể hy vọng gì nhiều từ cá nhân Tư Sang”. Nhà báo Lê Diễn Đức phân tích tiếp:
Việt Nam đang rất cần Hoa Kỳ, đó là điều không thể chối cãi. Trước hết, Hoa Kỳ là một thị trường rất lớn, chỉ kém chút ít so với Liên minh Âu châu và Trung Quốc… Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ…dự kiến sẽ đạt mức kỷ lục 12,5 tỉ USD trong năm 2013. Trong khi đó, Trung Quốc trở thành thị trường Việt Nam nhập siêu lớn nhất, giai đoạn 2002 – 2010, nhập siêu Việt Nam từ Trung Quốc tăng khoảng tám lần và không có dấu hiện suy giảm, ở mức … 16,7 tỷ USD năm 2012. Đáng lo ngại là Uỷ ban châu Âu đã cảnh báo có tới 58% sản phẩm đồ chơi, hàng tiêu dùng, hàng dệt may Trung Quốc là hàng nhái và nguy hiểm đến sức khoẻ…
Ngoài việc hợp tác với các nước trong khối Asean, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, sự hợp tác chặt chẽ với Hoa kỳ, một siêu cường về quân sự và kinh tế, mới có thể chống lại sự quyết đoán ngang ngược đang phát triển của Trung Quốc trong mộng bành trướng bá quyền trên Biển Đông. Chuyến đi của Tư Sang không thể nằm ngoài chủ đề quan trọng này. Nhưng đây là chủ đề khó khăn. Làm thế nào để hợp tác với Hoa Kỳ sâu rộng hơn mà không làm mất lòng Trung Quốc đã bị lệ thuộc?
Blogger Lê Diễn Đức không quên nhấn mạnh rằng “Quả đắng trong chuyến công du của Tư Sang là Tổng thống Obama ‘cũng mong muốn thảo luận về nhân quyền’ ” trong khi các nhà lập pháp Mỹ trong thời gian gần đây hầu như liên tục “nhắc nhở, đòi hỏi, buộc” tổng thống Obama không thể không đề cập nhân quyền với phía VN giữa lúc tình hình nhân quyền của VN hiện là một “thảm hoạ”. Tuy nhiên, theo nhà báo Lê Diễn Đức, không có hy vọng “Tư Sang nhượng bộ về nhân quyền”; mà nếu có chăng thì chỉ là những lời hứa suông hoặc chống chế rằng “VN không có tù chính trị”, chỉ có những thường phạm mà thôi, như tội “trốn thuế” của các blogger Điếu Cày, Lê Quốc Quân hay tội “2 bao cao su đã qua sử dụng” của TS Cù Huy Hà Vũ…
Qua bài “Nhân Quyền Với Tư Sang”, nhà báo Trần Khải nhận xét rằng “Các khái niệm nhân quyền là một ngôn ngữ lạ với Chủ Tịch Trương Tấn Sang – và thực tế cho thấy cũng là “tiếng nói lạ đối với toàn bộ Chính Trị Bộ” cho dù thế giới đã ghi rất cụ thể vào Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền LHQ”. Và “ngôn ngữ lạ” ấy cũng diễn ra với Bắc Kinh dù Hoa Lục ra sức “chơi nổi” bằng “Giải thưởng Nhân quyền Khổng Tử”!
VN, theo tác giả Trần Khải, chưa “chơi nổi” được như đàn anh TQ nên đành rán “đánh bóng tư tưởng Hồ Chí Minh” mà xem chừng như đang “lộ ra” chuyện muốn trao giải nhân quyền này trong khu vực !
Hà Nội không muốn hiểu?

Có lẽ vì Hà Nội không hiểu – hay cố tình không muốn hiểu – nhân quyền theo ý nghĩa và giá trị phổ quát toàn cầu của nó vốn là tiêu chuẩn chung cho nhân loại, nên, nhà báo Trần Khải nhận thấy, “hễ ai sang Mỹ du học về nhân quyền là tuần tự bị kẹt, nghĩa là Hà Nội theo dõi rất kỹ, hễ hở ra là chụp mũ, vây bắt ngay” và cho “ nếm mùi nhà tù CSVN”, như trường hợp Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân…Thậm chí Nguyễn Tiến Trung chỉ gặp Tổng thống Bush cũng bị “công an kiếm chuyện”, mà tới bây giờ vẫn còn ở tù ! Blogger Trần Khải khẳng định:
Tất nhiên là Tư Sang không hiểu nổi ngôn ngữ nhân quyền kiểu Mỹ. Bởi vì thực tế, nhà nước Hà Nội dường như chỉ hiểu nổi nhân quyền kiểu Giải Thưởng Nhân Quyền Khổng Tử…Có một cách để Tư Sang xuất chiêu nhân quyền, học y chang kiểu Bắc Kinh năm xưa.
Tư Sang nên chỉ thị cho Hà Nội lập Giải Thưởng Nhân Quyền Hồ Chí Minh…Nhưng nếu Tư Sang không lấy võ nhân quyền (kiểu Bắc Kinh) để đỡ chiêu nhân quyền (thế giới), thì không lẽ lấy võ công an và côn đồ ra xài?”
Chuyến công du sắp tới của ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang sau chuyến “phụng mệnh chiếu chỉ Thành Đô II” của ông ở Trung Nam Hải, theo GS Tương Lai, là “mối bận tâm của rất nhiều người đang trĩu nặng suy tư về vận nước”. Bài viết của GS Tương Lai tựa đề “Đôi điều suy nghĩ nhân chuyến công du Hoa Kỳ sắp tới của ông Chủ tịch Nước” có đoạn lưu ý rằng “Những hoạt động đối ngoại gắn liền máu thịt với hoạt động đối nội, mà về thực chất, thì nội lực của dân tộc, thế đứng của đất nước là nhân tố quyết định chiến lược và sách lược đối ngoại. Tiếng chuông đánh ở nước người vang đến đâu là tùy thuộc vào sự dồn sức, góp lực của cả toàn dân. Đương nhiên, khôn khéo và thông minh để nắm bắt thời cơ, khai thác và phát huy tối đa hợp lực được tạo ra từ hoạt động đối ngoại với nhận thức rằng, bỏ lỡ thời cơ là sự bỏ lỡ đáng tiếc nhất để rồi cái giá mà dân tộc phải trả là không sao tính xuể! Chẳng thế mà Nguyễn Trãi từng căn dặn ‘Thời! Thời! Thực không nên lỡ’ ”.
Trong khi blogger Trần Khải lưu ý rằng “có thể đây là cơ hội cuối để VN bắt tay thân hơn với Mỹ ? Và nếu lỡ cơ hội này, có thể VN sẽ sớm trở thành một Tây Tạng thứ 2 ?”, thì chuyến Mỹ du sắp tới của ông Trương Tấn Sang – nói theo lời blogger Lê Diễn Đức – “ hứa hẹn một sự đón tiếp ‘nồng nhiệt’ của cộng đồng người Việt tự do” hải ngoại. Vẫn theo nhà báo Lê Diễn Đức thì chuyện biểu tình hẳn nhiên là sinh hoạt dân chủ bình thường tại Mỹ, thế nhưng có lẽ chưa có nguyên thủ quốc gia nào – như của VN trong giai đoạn hiện nay – viếng thăm chính thức Hoa Kỳ mà lại vào Toà Bạch Ốc bằng…cổng sau !
Các nhân sỹ trí thức đã nhiều lần lên tiếng về các vấn đề quan trọng của đất nước
Nhóm nhân sỹ trí thức 80 người vừa gửi thư cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khuyến cáo ông nắm thời cơ ‘giải Hán và thực thi dân chủ’ trong chuyến đi Mỹ.
Ông Sang sẽ công du chính thức Hoa Kỳ từ 24/7-26/7, trong đó có cuộc hội kiến với Tổng thống Barack Obama ở Nhà Trắng hôm thứ Năm 25/7.
Cuối tuần vừa qua, nhóm nhân sỹ trí thức từng gửi nhiều thư khuyến cáo Chính phủ và Đảng Cộng sản Việt Nam trong các sự kiện quan trọng, đã có thư “bày tỏ với Chủ tịch nước nhân chuyến công du Hoa Kỳ sắp tới một số suy nghĩ”.
Trong số những người ký tên có Giáo sư Tương Lai, Nhà văn Nguyên Ngọc, Tiến sỹ Nguyễn Quang A…
Văn bản bức thư mà BBC có trong tay phân tích bối cảnh của chuyến thăm cấp nhà nước lần này, đặc biệt nhấn mạnh các hành động mới đây của Trung Quốc trong việc khẳng định chủ quyền của nước này tại Biển Đông.
Lá thư nói những việc làm của Trung Quốc là “hành động có tính toán thể hiện rõ âm mưu và thủ đoạn xảo quyệt của giới cầm quyền Bắc Kinh”, và khuyến cáo không thể “tin vào giới cầm quyền Trung Quốc khi họ nói một đằng, làm một nẻo”.
Thư viết: “Vì vậy, tuyệt đối không thể để cho những ‘cam kết’, những ‘tuyên bố’ với Trung Quốc trong thời gian vừa qua phủ bóng và ảnh hưởng xấu tới cuộc công du của Chủ tịch Nước đến Hoa Kỳ lần này”.
“Chừng nào các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn lướng vướng trong vòng kiềm tỏa của “mười sáu chữ”, “bốn tốt” nhằm che đậy thủ đoạn của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, chừng ấy Việt Nam vẫn bị đẩy vào quỹ đạo Trung Quốc, đất nước sẽ vẫn còn trầm luân.”
Khía cạnh thứ hai của chuyến thăm, mà những người ký tên gọi là cơ hội lớn cần nắm bắt, là trong lĩnh vực dân chủ-nhân quyền.
Lá thư nói chuyến công du của ông chủ tịch diễn ra “trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn. Thực trạng kinh tế rất đáng lo ngại”.
“Ông cha ta từng răn dạy, bỏ lỡ thời cơ là sự bỏ lỡ tệ hại nhất mà rồi cái giá mà dân tộc phải trả là không sao lường hết.”
Thư của các vị trí thức
“Nhiều giải pháp tháo gỡ đang được đặt ra và xúc tiến mạnh mẽ, trong đó việc tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) cần được xem như một hướng ra, một giải pháp quan trọng. Đây là vấn đề được đưa ra trong chương trình nghị sự của Chủ tịch Nước với người đồng cấp Hoa Kỳ.”
Thư phân tích rằng điều kiện tham gia TPP không đơn thuần chỉ là “cam kết về kinh tế mà bao gồm cả những vấn đề dân chủ và nhân quyền”.
Những người viết thư chỉ trích giới cầm quyền trong nước “tăng cường bắt bớ, trấn áp người yêu nước; những người bày tỏ chính kiến một cách ôn hòa chống Trung Quốc xâm lược vẫn bị khủng bố, đe dọa theo điều 258 của Bộ luật Hình sự, điều đó đã tạo một áp lực đè nặng lên tâm trạng xã hội”.
Họ cho rằng các vi phạm dân chủ-nhân quyền ở trong nước có thể “làm cho việc tham gia vào TPP không thể thuận buồm xuôi gió được”.
Những người ký tên kêu gọi Chủ tịch Trương Tấn Sang nắm thời cơ “để thể hiện bản lĩnh của người gánh vác trọng trách trước Tổ quốc và nhân dân”.
“Ông cha ta từng răn dạy, bỏ lỡ thời cơ là sự bỏ lỡ tệ hại nhất mà rồi cái giá mà dân tộc phải trả là không sao lường hết….Chúng tôi hy vọng rằng Chủ tịch sẽ không phụ lòng mong mỏi của ông cha để xứng đáng với đòi hỏi của nhân dân đang chăm chú dõi theo chuyến công du quan trọng này.”
Chưa rõ bức thư có được chuyển tới tay Chủ tịch nước hay không và phản ứng của ông như thế nào.
_________________________
|
Ngày 3/6/2013 những người soạn thảo và ký bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 mang chữ ký của 72 người (thường gọi tắt là Kiến nghị 72) đã gửi cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và một số Đại biểu Quốc hội bản Phản đối Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 5. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Bauxite Việt Nam |
Chúng tôi, những người soạn thảo và ký bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 mang chữ ký trực tiếp của 72 người (thường gọi tắt là Kiến nghị 72) đã được trao tận tay Uỷ ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp (UBDTSDHP) ngày 4-2-2013, cùng với những người đã nêu những ý kiến khác với bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được Quốc hội công bố để lấy ý kiến của nhân dân từ ngày 2-1-2013, kiên quyết phản đối bản Dự thảo Hiến pháp ngày 17-5-2013 (DTHP) do UBDTSĐHP trình tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIII, vì những lý do sau đây:
1- Về nội dung, trong khi nhân dân mong đợi một sự đổi mới thể chế chính trị theo hướng thật sự dân chủ, tạo sức mạnh cho sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất nước, thì bản DTHP mới này hầu như không thay đổi so với Dự thảo lần đầu đưa ra lấy ý kiến nhân dân, mà còn có điểm kém hơn, thậm chí thụt lùi rõ nét so với Dự thảo đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong tháng 4-2013.
DTHP vẫn khăng khăng bám giữ thể chế toàn trị của một đảng gắn với ý thức hệ và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, một học thuyết tuy đã có vai trò lịch sử nhất định trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc nhưng nay đã bị thực tế chứng minh rõ là không tưởng và có nhiều sai lầm được coi là nguyên lý xây dựng xã hội mới, dẫn tới sự sụp đổ chế độ chính trị-xã hội ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa cách đây hơn hai mươi năm, và vì vậy đã bị loài người tiến bộ bác bỏ.
Việc hiến định sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với xã hội và nhà nước là biểu hiện rõ nét nhất của tinh thần phản dân chủ; tự nó đã khiến cho những điều ghi trong DTHP về quyền lực của nhân dân và của các tổ chức do dân bầu cũng như các quyền cơ bản của con người và của công dân chỉ là cái vỏ, không có thực chất, như đã thể hiện rõ trong thực tế nước ta nhiều năm qua.
Duy trì sự độc quyền toàn trị của giới cầm quyền nhân danh ĐCSVN chi phối toàn bộ quyền lực nhà nước và hệ thống chính trị là nguyên nhân cơ bản khiến cho đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và đang bị thách thức trầm trọng về nhiều mặt như hiện nay. Sự độc quyền toàn trị cũng là nguyên nhân gốc hủy hoại vai trò lãnh đạo của ĐCSVN.
DTHP đi ngược lại xu thế tiến bộ của loài người về những quan điểm cơ bản của thể chế chính trị trong thời đại ngày nay như quyền lập hiến thuộc về nhân dân, nhà nước tam quyền phân lập, đa sở hữu tư liệu sản xuất kể cả đất đai… Việc giải trình DTHP nhằm phản bác những quan điểm ấy đều theo lối mòn, dựa vào những lập luận giáo điều, khoác cái áo gọi là sự đồng thuận của đông đảo nhân dân.
Trải qua nhiều thập kỷ không nề hy sinh, gian khổ đấu tranh giành độc lập, thống nhất để xây dựng xã hội tự do, dân chủ, dân tộc ta không thể chấp nhận một Hiến pháp phản khoa học, phản tiến bộ và phản dân chủ như vậy.
2- Quá trình tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, như UBDTSDHP trình bày trước Quốc hội, được đánh giá “thực sự là đợt sinh hoạt chính trị – pháp lýdân chủ, sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị; đã có hơn 26.091.000 lượt ý kiến góp ý của nhân dân với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức; ý kiến của nhân dân đã được tập hợp, tổng hợp đầy đủ, kịp thời, khách quan, trung thực”. Nhưng trong thực tế, ai cũng thấy cuộc sinh hoạt chính trị kiểu này mang nặng tính hình thức, áp đặt và quá tốn kém. Mọi ý kiến về những điều cốt yếu khác với quan điểm hoặc ý muốn của cơ quan lãnh đạo đều không được chấp nhận, thậm chí không được công bố và thảo luận công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà chỉ bị phê phán, quy kết một chiều. Không những các ý kiến hợp lý mang tính xây dựng của các tầng lớp nhân dân, mà cả một số quan điểm sát thực tế, hợp lòng dân từ phía Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đều bị bỏ qua.
Tóm lại có thể nói rằng: Sự bảo thủ đến ngoan cố của một bộ phận trong giới lãnh đạo đang biến công việc hệ trọng về sửa đổi Hiến pháp thành một màn kịch chính trị.
Chúng tôi mong các đại biểu Quốc hội thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình về những điều quan trọng của Hiến pháp đang còn ý kiến khác nhau, yêu cầu UBDTSĐHP và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cùng với lãnh đạo ĐCSVN và Chính phủ tôn trọng các ý kiến khác với Dự thảo, thẳng thắn công bố các ý kiến ấy trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức thảo luận thật sự dân chủ, bình đẳng, công khai trên các diễn đàn, qua tranh luận mà xác định chân lý và tạo sự đồng thuận, từ bỏ cách lấy ý kiến theo kiểu áp đặt tư duy, quy kết tùy tiện.
Chúng tôi đề nghị Quốc hội làm mọi việc cần thiết tạo ra sự đồng thuận lớn nhất trong nhân dân theo tinh thần dân chủ về những vấn đề trọng đại cần phải đạt được trong Hiến pháp sửa đổi lần này và sớm quyết định tổ chức trưng cầu ý dân về những vấn đề cốt lõi của Hiến pháp để có thời gian chuẩn bị và làm tốt công việc quan trọng và mới mẻ này. Đất nước đang rất cần một hiến pháp dân chủ để sớm thoát khỏi tình trạng bế tắc đầy nguy hiểm hiện nay, mở ra một thời kỳ phát triển mới vì một Việt Nam độc lập – tự do – hạnh phúc. Vì thế không nên câu thúc về thời gian, mà cần bảo đảm thật sự quyền quyết định của nhân dân đối với Hiến pháp. Nếu làm vội chỉ cốt thông qua DTHP như đã trình Quốc hội thì sẽ là tai họa cho đất nước. Nhân dân trông đợi các đại biểu Quốc hội hãy đại diện cho nguyện vọng của cử tri, nói lên tiếng nói của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp.
Chúng tôi tin tưởng đồng bào trong và ngoài nước nhận rõ việc sửa đổi Hiến pháp lần này là cơ hội thuận lợi để cải cách thể chế chính trị, đòi hỏi phải kiên trì đấu tranh để từng bước dân chủ hóa xã hội, xây dựng một nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Quá trình đấu tranh này cũng là quá trình hòa giải, hoà hợp dân tộc, khép lại quá khứ, vượt qua mọi định kiến, hướng tới tương lai của đất nước và dân tộc. Mỗi người chúng ta, tùy theo cương vị và hoàn cảnh của mình hãy góp sức một cách thiết thực và hiệu quả vào quá trình vận động dân chủ bằng các hình thức đấu tranh ôn hòa, công khai, minh bạch.
Chúng tôi mong đợi mọi người có lương tri trong hệ thống chính trị hiện nay nhận rõ sự thật, đứng về phía nhân dân, ủng hộ nhân dân trong sự nghiệp vinh quang và khó khăn này.
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI KÝ TÊN
Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Hoàng Dũng, PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TP HCM
Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
Phan Hồng Giang, TSKH, nhà nghiên cứu văn hoá, Hà Nội
Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
Hà Thúc Huy, PGS TS, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP HCM
Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TPHCM, TP HCVM
Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
Hoàng Xuân Phú, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TP HCM
Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên văn hóa, TP HCM
Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
Hoàng Tuỵ, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
Nguyễn Hữu Vinh (anhbasam), cử nhân luật, doanh nhân, Hà Nội
Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội
Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
© Đàn Chim Việt
Lần gặp trước bên lề APEC
Thứ Năm tới đây, 25/7, Chủ-tịch nước VNCS Trương Tấn Sang sẽ sang gặp Tổng-thống Obama với một phái-đoàn mà theo tin giờ chót sẽ có khoảng 70 người, bao gồm “nhân viên nhà nước, nhân viên an ninh, y tế, báo chí, doanh nghiệp, giáo dục, quốc phòng và đặc biệt” một phái-đoàn tôn-giáo gồm 4 người (2 Tin Lành, 1 Phật-giáo và 1 Công-giáo) (theo Hải Huỳnh của Dânlàmbáo).
Hãy tạm gác sang bên vấn-đề “đối-tác chiến-lược” mà đôi bên đều xem là mục-đích chính của chuyến đi, thông-báo của Phòng Báo chí Toà Bạch Ốc hôm 11/7/2013 cho biết: “Tổng thống [Obama] cũng mong muốn thảo luận về nhân quyền… và… việc hoàn thành một thỏa ước về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương ở tiêu chuẩn cao.”
Ráp hai nguồn tin thì ta có thể đoán là:
– Chuyện “thảo luận về nhân quyền” chắc chắn là sẽ có chứ không phải chỉ ở mức độ “mong muốn.”
– Chuyện này đã được chính-thức thông-báo trước cho Hà-nội, và
– Hà-nội ít nhất cũng trông chờ là vấn-đề “tự do tôn-giáo” thế nào cũng được nêu ra, do đó mà Hà-nội đã chuẩn-bị sẵn một tiểu-phái-đoàn tôn-giáo 4 người nhằm trả lời những chỉ-trích, nếu có, về vấn-đề này.
Tóm lại, Hà-nội đang sợ có thể bị đưa trở lại trong danh-sách CPC (các quốc gia đáng quan-tâm đặc-biệt), một điều sẽ ngăn chặn nhiều chương-trình lớn nhỏ tiến tới trong việc làm ăn buôn bán giữa hai nước, kể cả chuyện vào TPP (Trans-Pacific Partnership, “quan-hệ đối-tác xuyên Thái Bình Dương”), nhất là “ở tiêu chuẩn cao” (“high standard TPP”). Vì nếu không sợ thì Hà-nội đã không cần đem theo tiểu-phái-đoàn tôn-giáo đi cùng với ông Sang.
Tại sao sợ?
Có những người như bình-luận-gia Lữ Giang cho rằng cuộc tranh đấu cho nhân-quyền của cộng-đồng VN hải-ngoại, nhất là ở Mỹ, là vô vọng. Theo một bài ông viết hôm 20/7, ông cho rằng người ta “nói Mỹ đòi 3 quyền lợi, nhưng [theo ông] chỉ có 2 mà thôi, đó là quyền lợi về chiến lược và quyền lợi về kinh tế, còn ‘dân chủ và nhân quyền’ chỉ là chiêu bài được dùng để đòi hỏi các quyền lợi khác.” (Tác-giả LG nhấn mạnh)
Nhưng tôi nghĩ khác. Như lấy trường-hợp Miến-điện (Myanmar), phải chăng Mỹ cũng đã chỉ đòi nới rộng tự do, dân-chủ và nhân-quyền (cho bà Aung San Suu Kyi và dân-tộc Miến) như một “chiêu bài”? Nếu hiểu thế thì làm sao giải thích được chuyện Mỹ đã đón bà Aung San Suu Kyi sang làm thượng-khách (nói chuyện trước Lưỡng Viện Quốc-hội) rồi sau đó, cũng tiếp cả Tổng-thống Thein Sein, người được xem là đã nới rộng được một phần không-gian tự do, dân-chủ ở Miến?
Chính tiền-lệ Miến-điện phải cho Hà-nội thấy là mở rộng không-gian dân-chủ, tự do ở Việt-nam có những lợi-ích cụ-thể và trông thấy được trong “quan-hệ đối-tác chiến-lược” với Mỹ. Đó là một chuyện.
Một lý-do nữa để cho Hà-nội sợ thật, đó là Luật về Tự do Tôn-giáo Quốc-tế của Mỹ là một luật có thật, đã được Quốc-hội Mỹ thông qua từ lâu (1998), và có mang theo nó biện-pháp chế tài (như có thể bị liệt-kê vào danh-sách CPC). Đây là khác hẳn các dự-luật về Nhân-quyền ở Việt-nam mà đã vài lần được Hạ-viện thông qua với một đa-số áp-đảo nhưng rồi bị chặn lại, không vượt qua được ngưỡng cửa các tiểu-ban trên Thượng-viện (nhất là Tiểu-ban Ngoại-giao mà trước đây do ông John Kerry gác cửa) để ra biểu quyết ở khoáng-đại Thượng-viện nên đã không thành luật. Mà đã không thành luật thì có gì mà Hà-nội phải e ngại?
Nay tình-hình đã đổi thay. Ông Kerry đã sang làm ngoại-trưởng và không còn ở Thượng-viện để chặn được các dự-luật về nhân-quyền (như của TNS John Cornyn ở Texas đệ-trình) nữa. Vậy khả-năng Dự-luật về Nhân-quyền VN do Dân-biểu Chris Smith đưa ra năm nay (HR 1798) có rất nhiều khả-năng được thông qua Hạ-viện một cách vẻ vang để được đưa lên Thượng-viện và ở đây, cũng có khả-năng đi qua các tiểu-ban để ra khoáng-đại cho các TNS biểu quyết. Và nếu chuyện này xảy ra thì chúng ta sẽ có thêm một vũ-khí để buộc Hà-nội phải tôn trọng những tiêu-chuẩn nhân-quyền mà ngày nay đã quá phổ-thông trong thế-giới văn-minh của loài người.
Bảy hướng áp-lực
Lần này cũng khác ở điểm trong quá-khứ, chúng ta có thể có lẽ phải ở về phía ta nhưng chúng ta đã vụng tranh đấu. Vụng trước nhất là vì chúng ta biết nhiều chuyện, có nhiều tin tức nhưng lại có tật chỉ thích “mình nói với mình,” có nghĩa là chỉ người Việt lên tiếng trên các diễn-đàn, phương-tiện truyền-thông của người Việt cho những người Việt khác nghe. Mãi gần đây ta mới có thói quen nói với người bản-xứ để tranh thủ được sự đồng-tình của họ. Một tỷ-dụ, ta phải đợi gần 38 năm rồi mới biết sử dụng sức mạnh của tuổi trẻ giỏi vi-tính và quần-chúng để gởi những thỉnh-nguyện-thư vào Toà Bạch Ốc mà tháng 3 năm nay đã lên đến hơn 150.000 chữ ký trong vòng hơn một tháng. Cho đến bây giờ, ta vẫn chưa tranh thủ được sự tiếp tay của các báo đài chính-mạch trong cuộc vận-động cho nhân-quyền VN, do vậy mà câu chuyện nhân-quyền bị chà đạp ở VN chưa lên mặt báo tiếng Anh bao nhiêu và cũng do đó chưa nằm trong ý-thức của đại-chúng để họ có thể ủng-hộ chúng ta.
Tuy-nhiên, tình-hình này đang mau chóng đổi thay. Ngày nay, tuổi trẻ VN hải-ngoại rất ý-thức về vấn-đề nhân-quyền ở VN, và những chương-trình động-viên qui-mô không thể xảy ra được nếu đã không có sự tham-gia của các anh chị em trẻ. Phong trào thỉnh-nguyện-thư hồi tháng 3, phong trào do Boat People S.O.S. của anh Nguyễn Đình Thắng và cựu-Dân-biểu Cao Quang Ánh phối-hợp hồi đầu tháng 6 vừa rồi thu hút gần 600 người về vận-động hành-lang trên Quốc-hội, phong trào “Triệu Con Tim, Một Tiếng Nói” của SBTN, phong trào nhạc đấu tranh (như Hưng Ca, Hùng Ca, Hùng Sử Ca v.v.) đang dồn dập lôi cuốn hàng ngàn, hàng vạn người vào hàng ngũ đấu tranh… thay vì chỉ lác đác có một số người “chuyên-viên” như trong quá-khứ. Đó là một hướng áp-lực ngày càng đông đảo và hứa hẹn thành một lực-lượng khó rập tắt!
Bên cạnh đó, các tổ-chức chính-trị lớn và cộng-đồng của người Việt hải-ngoại cũng vừa ra một “Tuyên-bố nhân cuộc viếng thăm tới đây của ông Trương Tấn Sang đến Toà Bạch Ốc” đưa ra những đòi hỏi cụ-thể và đích-danh liên-hệ đến những tù-nhân lương-tâm và chính-trị hiện đang ngồi bóc lịch ở Việt-nam.
Hướng áp-lực thứ hai, như trên đã nói, là Quốc-hội, tức bên Lập pháp Hoa-kỳ. Nếu trong quá-khứ Hạ-viện vẫn ở bên ta thì nay khả-năng Thượng-viện cũng dần dần về hùa là không thể gạt ra được. Mà không chỉ là Quốc-hội liên-bang! Các luật và nghị-quyết Cờ vàng trên khắp nước là một bằng-chứng chúng ta đã tạo được cho cộng-đồng chúng ta một thế đứng trong lòng xã-hội Hoa-kỳ. Gần đây, Nghị-quyết 455 của Tiểu-bang Virginia công-nhận một ngày “Nam Việt Nam” cũng báo trước một khuynh-hướng có thể lan rộng, lôi cảm-tình của các đại-nghị-viện địa-phương và người dân Mỹ về phía chúng ta! (Như Dân-biểu tiểu-bang Hubert Võ đã vận-động thành công cho một nghị-quyết tương-tự ở Austin, Texas, hay hạt Tarant, cũng ở Texas, cũng đã ra một nghị-quyết tương-tự!)
Hướng áp-lực thứ ba là các tổ-chức phi-chính-phủ về Nhân-quyền như Ân-xá Quốc-tế (AI, tắt cho Amnesty International), Hội Theo dõi Nhân-quyền (HRW, tắt cho Human Rights Watch), Nhà Tự do (Freedom House), Ủy-ban Bảo-vệ Ký-giả (CPJ, Committee to Protect Journalists) ở Mỹ, Phóng-viên không biên-giới (RSF, tức Reporters sans Frontières) ở Pháp, tổ-chức Bảo vệ những người bảo vệ nhân-quyền (Defend the Defenders) ở Ái-nhĩ-lan, Sáng-hội Rafto (Rafto Foundation) ở Na-uy, cơ-quan Minh bạch Quốc-tế (Transparency International) ở Đức, hay Văn-bút Quốc-tế (P.E.N. International) trên trường quốc-tế… Đa-phần các tổ-chức này có bản tường-trình hàng năm về nhân-quyền ở trên thế-giới, trong đó có VN, hay những bảng đánh giá, trong đó VNCS thường gần lọt xuống đáy sổ về các thứ tự do (ngôn-luận, báo chí, tôn-giáo, hội họp v.v.).
Hướng áp-lực thứ tư đến từ các quốc gia tự do trên thế-giới. Như Liên-hiệp Âu-châu (mà trong nước quen gọi là “E-U,” tắt cho hai chữ “European Union”) đã hơn một lần ra những nghị-quyết lên án sự thiếu tự do và nhân-quyền ở VN khuyến-cáo “E-U” và các quốc gia ở Âu-châu phải đặt nhân-quyền lên hàng đầu khi nói chuyện làm ăn buôn bán với VNCS. Mới hôm 11/7 vừa qua, 34 dân-biểu ở nhiều nước trong “E-U” đã có thư cho bà Catherine Ashton, Phó-chủ-tịch về Chính-sách Ngoại-giao và An-ninh, với phó-bản cho ông Ủy-viên về Thương mại, khuyến-cáo 4 điều (phải thả một số người đích-danh, đỡ đầu cho các xã-hội dân-sự ở trong VN, đòi hỏi Hà-nội phải cải-tổ chế-độ luật pháp lạc hậu của họ và gắn liền nhân-quyền với các quan-hệ trong những lãnh-vực như thương mại v.v.). Riêng Ngoại-trưởng Úc Bob Carr hôm rồi đi họp ASEAN ở Brunei đã gặp và nói thẳng với Bộ-trưởng Ngoại-giao Phạm Bình Minh của Hà-nội là phải thả ba người tranh đấu cho quyền lao-động ở VN là Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh.
Ở Mỹ, Dân-biểu Frank Wolf mới đây đã thẳng thừng lên án chính-sách nhân-quyền thất bại của chính-quyền Obama, Dân-biểu Ed Royce mới có thư cho TT Obama nêu trường-hợp các bloggers bị bỏ tù, ngược-đãi, hạch sách và ở trong Quốc-hội hiện đang luân-lưu hai lá thư, một gửi cho ông Trương Tấn Sang và một gửi lên TT Obama đòi hỏi những tiến-bộ cụ-thể về nhân-quyền ở VN trước khi nên tiến xa hơn trong việc đón nhận Hà-nội làm “đối-tác chiến-lược.” Hai Thượng-nghị-sĩ John McCain và Joseph Lieberman đã sang tận Hà-nội để nói thẳng với giới lãnh-đạo VNCS là “không có cải thiện về nhân-quyền thì đừng hòng mua loại vũ-khí sát thương thượng-thặng của Mỹ được”–loại mà Hà-nội rất cần trong lúc này.
Hướng áp-lực thứ năm đến từ các báo đài lớn trên thế-giới. Nếu trong quá-khứ vấn-đề nhân-quyền ở VN chỉ thỉnh thoảng được nhắc đến trong các báo chuyên-ngành hay loại dành cho các thành-phần trí-thức (như những tờ Atlantic Monthly hay Dissent) thì gần đây, New York Times đã có bài dài về Cù Huy Hà Vũ, Washington Post có bài về Luật-sư Lê Quốc Quân, ABC cũng có phóng-sự về ông, thậm chí đến đài Al Jazeera Quốc-tế của Ả-rập cũng đã phỏng vấn tôi về tình-hình lao-động, buôn bán phụ nữ ở VN v.v.
Hướng áp-lực thứ sáu đến từ những cơ-quan lo về Nhân-quyền trong Liên-hiệp-quốc. Như Báo-cáo-viên về Tự Do Tôn Giáo của LHQ (U.N. Rapporteur on Religious Freedom) đã sang tận VN điều tra và báo-cáo về trường-hợp Giáo-hội Phật-giáo VN Thống nhất bị chèn ép, đàn áp như thế nào. Như Nhóm Công-tác về Bắt giữ tùy tiện (U.N. Working Group on Arbitrary Detention) đã ra nhận-định và kết-luận về trường-hợp Cù Huy Hà Vũ là ông nằm trong số những người bị bắt giữ bất hợp pháp.
Cuối cùng và có lẽ còn quan-trọng hơn cả là áp-lực từ ngay những tù-nhân lương-tâm ở trong các trại tù ở VN ngay trong lúc này. Chúng tôi đang muốn nói đến cuộc tuyệt thực 25 ngày mới đây (25/5 đến 21/6) của Tiến-sĩ Cù Huy Hà Vũ ở Thanh-hoá và cuộc tuyệt thực hiện còn đang tiếp-diễn của blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải ở Nghệ-an và đã đạt đến ngày thứ 28.
Không thể nói là ngần ấy áp-lực sẽ không đem lại kết-quả gì. Nhất là khi tên của anh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã được chính Tổng-thống Obama nhắc đến vào Ngày Báo Chí (Press Day) năm ngoái như một trường-hợp bị tù vì những lời phát biểu hoàn-toàn hoà-bình và xây dựng của Anh (“Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt-nam”). Trong khi Hà-nội đang cần Mỹ như một cái cầu phao để cân bằng ảnh-hưởng quá nặng nề của Trung-Cộng, tôi gần như chắc chắn là Hà-nội, tức ông Trương Tấn Sang, nếu không nể mặt Tổng-thống Hoa-kỳ thì ít ra cũng phải nể mũi của ông Obama một chút… để mà có một số nhượng bộ về nhân-quyền.
© Nguyễn Ngọc Bích
© Đàn Chim Việt
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
Tin của Vietnamnet hôm nay xác nhận ông Trương Tấn Sang đi thăm Hoa Kỳ từ ngày 24 tới ngày 26 tháng 7 thể theo lời mời của Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama. Mục đích của chuyến đi là để thảo luận về hướng đi tương lai của các quan hệ song phương.
Vietnamnet trích lời người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị hôm qua nói rằng chuyến đi Mỹ khẳng định “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, tích cực hội nhập quốc tế” của Việt Nam.
Trong khi đó, trên trang mạng của Đại học Yale, YaleGlobal, một nhà cựu ngoại giao Mỹ và giờ là một nhà báo, tải lên một bài viết với hàng tít “Vietnam Between Rock and a Hard Place”, nói lên vị thế rất tế nhị của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Tác giả David Brown nêu nghi vấn: “Liệu có phải nỗi thất vọng với Trung Quốc là nguyên do khiến Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vội vã lên đường sang Washington?”
Ông David Brown là một nhà ngoại giao đã phục vụ tại Việt Nam trong nhiều năm. Ông nhận định rằng các chuyến đi thăm của các nguyên thủ quốc gia thông thường cần nhiều tháng để chuẩn bị, nhưng chuyến đi của Chủ tịch nước Việt Nam lần này được loan báo vội vã, và sau một cuộc tiếp xúc với lãnh đạo Trung Quốc “rõ rệt đã gây sốc” cho giới lãnh đạo tại Hà nội.
Bài báo đặt câu hỏi phải chăng ông Trương Tấn Sang và giới lãnh đạo hàng đầu khác của Việt Nam đã quyết định “trả cái giá mà Hoa Kỳ đã đòi để thiết lập quan hệ chiến lược?”
Trong một cuộc điều trần trước một tiểu ban quốc hội Hoa Kỳ hồi đầu tháng 6, các giới chức Bộ Ngoại giao Mỹ nói việc siết chặt các quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là việc bán vũ khí cho Việt Nam, sẽ được hoãn cho tới khi nào có những “cải thiện lâu dài, có thể chứng minh được trong tình hình nhân quyền tại Việt Nam.”
Tác giả nhận định rằng làm như thế, các giới chức chính phủ Mỹ đã công khai ghi lại những vấn đề họ đã đặt ra trong các cuộc tiếp xúc riêng tư, không ồn ào, với các giới chức Việt Nam trong vài năm qua.
Thông điệp đưa ra trong cuộc điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ dường như không được Hà nội lắng nghe. Theo hãng tin AP, nội trong năm nay, 43 nhân vật bất đồng chính kiến đã bị bắt giữ, gấp đôi số người bị bắt giữ trong năm 2012.
Ngoài ra, còn có chứng cớ cho thấy cánh an ninh mạng của cảnh sát Việt Nam đã tung ra công nghệ theo dõi mạng FinFisher, để cài đặt phần mềm theo dõi hoạt động của dân mạng khi họ truy cập các trang blog của các nhân vật bất đồng.
Hà nội vẫn tỏ thái độ bực dọc trước lời kêu gọi của Hoa Kỳ, hối thúc Việt Nam cải thiện nhân quyền. Tác giả cho rằng một số thành phần trong Đảng Cộng Sản Việt Nam đã cản trở việc nới rộng các quyền dân chủ vì lo sợ mục tiêu tối hậu của Hoa Kỳ là lật đổ chế độ đương quyền.
Chiến dịch đàn áp và bắt bớ giới blogger, không ngừng gia tăng trong thời gian qua, theo ông Brown, dường như biểu hiện xu hướng ngả về Trung Quốc, trong khi giới bất đồng trong mấy năm gần đây ngày càng lớn tiếng đả kích điều mà họ cho là sự thất bại của nhà cầm quyền tại Hà nội trong việc bảo vệ các lợi ích của quốc gia trước thái độ gây hấn của Bắc Kinh trong cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Nhà cựu ngoại giao Mỹ nói rằng mặc dù các lực lượng không quân và hải quân của Việt Nam không phải là không đáng kể, nhưng còn lâu mới có thể được coi là đối thủ của các lực lượng hải, không quân Trung Quốc. Do đó, thay vì tăng nguy cơ xảy ra xung đột trong cuộc tranh giành lãnh thổ lãnh hải với Trung Quốc, nhà cầm quyền tại Hà nội đã tìm cách kiềm hãm thái độ khiêu khích của Trung Quốc bằng cách dựa vào các đối tác khu vực trong khối ASEAN, và thiết lập “các quan hệ chiến lược” với Hoa Kỳ và các cường quốc ngoài khu vực khác.
Tác giả nhận định kết quả của các nỗ lực ngoại giao đó của Việt Nam cho tới nay, tương đối khiêm nhường. 10 nước hội viên ASEAN vẫn chưa thành lập được một mặt trận thống nhất để đương đầu với những đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Trước tình hình đó, Washington và đa số các nước ASEAN khác tuyên bố “không ngả về phe nào”, và tìm cách lảng tránh, không trực tiếp thách thức tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong các vùng biển giữa Hong Kong tới Singapore.
Trước tình hình ngày càng cấp bách, một số nhân vật ngoài Đảng và một phe phái đáng kể trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã hối thúc Hà nội hãy thiết lập quan hệ kinh tế và quân sự –trên thực tế- với Hoa Kỳ.
Mặc dù nhiều giới chức cao cấp trong Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tỏ thái độ hoài nghi trước “những động cơ ”của Washington, nhưng trong 4 năm trở lại đây, các cuộc tham khảo giữa Hà nội với các lực lượng quân sự Mỹ đã gia tăng một cách có thể nói là ngoạn mục. Chẳng hạn, hồi tháng 6, các giới chức quân sự cấp cao Việt Nam đã đi tham quan các căn cứ quân sự Mỹ.
Ông David Brown nhận định rằng sau chuyến đi thăm Trung Quốc, ông Trương Tấn Sang đã không mang về thành quả nào, ngoại trừ lời hứa Trung Quốc sẽ đề ra những bước hành động “hiệu quả và triệt để để giải quyết sự bất quân bình trong cán cân thương mại song phương” tới 16 tỉ đôla, nghiêng về hướng có lợi cho Trung Quốc.
Tác giả gợi ý rằng quyết định của Bộ Chính Trị, gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang Hoa Kỳ là dấu hiệu cho thấy lãnh đạo Việt Nam đã bị chấn động vì những gì Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói với ông Trương Tấn Sang trong vòng riêng tư, và đó là lý do đã khiến Hà nội tỏ ra sẵn sàng hơn trong cố gắng xích lại gần Hoa Kỳ, với mục đích “thiết lập các quan hệ quốc phòng mật thiết hơn với Washington”.
Tuy nhiên tác giả cảnh báo rằng Tổng Thống Obama sẽ không hài lòng với những cử chỉ thiện chí có tính cách hời hợt, như hoãn lại vụ án xét xử một nhân vật bất đồng nổi tiếng, luật sư Lê Quốc Quân, vì như chính phủ Mỹ đã thừa nhận trước diễn đàn quốc hội hồi tháng trước, “nhân dân Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ việc nâng cấp các quan hệ song phương với Việt Nam, trừ phi có những tiến bộ có thể chứng minh được trong lĩnh vực nhân quyền.”
Nguồn: Yale Global, Vietnamnet, Asia Sentinel, Time
Vụ nổ gây ra hoảng loạn ở sân bay Bắc Kinh
Một vụ nổ đã xảy ra tại nhà ga số 3 thuộc sân bay quốc tế Bắc Kinh, trong lúc truyền thông nhà nước nói một người đàn ông ngồi xe lăn kích nổ thiết bị tự chế.
Bức ảnh đăng trên trang mạng Weibo của Trung Quốc cho thấy một người đàn ông tóc đen giơ một gói màu trắng trên không, ngay trước vụ nổ.
Truyền thông nhà nước nói người đàn ông này bị thương và được đưa đến bệnh viện.
Theo Tân Hoa Xã, người đàn ông dường như đi khiếu kiện và đã phát các tờ rơi trước vụ nổ.
Người này phàn nàn về việc bị các nhân viên bảo vệ đánh đập trong một vụ việc trước đó ở miền nam Trung Quốc mà không được nhà chức trách xem xét, xử lý.
Hình ảnh sau đó từ sân bay cho thấy một phần của chiếc xe lăn, và các nhân viên y tế điều trị cho người đàn ông ngay trên sàn nhà.
Truyền hình Trung Quốc chiếu cảnh nhân viên y tế cấp cứu ở hiện trường
Khói lan trong nhà ga sân bay sau khi vụ nổ xảy ra vào trước 18:30 giờ địa phương, gần một trong những cửa đến của nhà ga.
Không có ai khác bị thương trong vụ nổ.
Tân Hoa Xã chiếu cảnh một số nhân viên y tế khẩn cấp xuất hiện tại chỗ, và nhiều cảnh sát cũng hiện diện ở hiện trường.
Người đàn ông được truyền hình Trung Quốc, CCTV, xác định là 34 tuổi, đến từ tỉnh Sơn Đông ở mạn đông bắc của Trung Quốc.
Thiết bị nổ bao gồm thuốc súng từ pháo hoa, theo truyền hình Trung Quốc.
Các quan chức nói trật tự đã được khôi phục tại sân bay và không có gián đoạn nào với các chuyến bay.
_________________
Vụ nổ gây ra hoảng loạn ở sân bay Bắc Kinh
Người gây ra vụ nổ ở sân bay Bắc Kinh đã khiếu kiện nhiều năm và “mất hy vọng vào xã hội”, theo tin mới nhất.
Ông Ký Trung Tinh, ngồi xe lăn, đã kích hoạt thiết bị tự chế, gây hoảng loạn ở sân bay hôm 20/7.
Kênh tivi Phượng Hoàng ở Hong Kong cho biết ông bị bắt, đưa vào bệnh viện, nơi các bác sĩ cắt bỏ tay trái của ông.
Đài này nói ông “mất hy vọng vào xã hội” sau nhiều năm khiếu kiện không thành.
Là một người lái xe ôm ở thành phố Đông Quản, tỉnh Quảng Đông, ông bị công an đánh thành tàn tật năm 2005, theo nhiều bản tin chưa được kiểm chứng độc lập.
Tin tức nói ông và gia đình lên Bắc Kinh năm 2009 để xin chính phủ trung ương cứu xét.
Gia đình ông không biết về kế hoạch nổ bom, theo một thông cáo của cảnh sát ở thị trấn quê nhà của ông.
Tân Hoa Xã nói: “Suốt 10 năm, ông đã khiếu kiện về cáo buộc bị ngược đãi, làm ông thành tàn tật, theo một cuộc điều tra.”
Vụ đánh bom chứng tỏ khiếm khuyết trong hệ thống khiếu kiện, theo lời Willy Lam, một nhà phân tích ở Hong Kong.
Truyền hình Trung Quốc chiếu cảnh nhân viên y tế cấp cứu ở hiện trường
“Những người cho rằng họ là nạn nhân của bất công lớn không còn biết đi đâu, và đôi khi dùng đến bạo lực để quần chúng quan tâm,” ông nói với hãng tin AFP.
Thông cảm
Trong nhiều trường hợp, chính quyền các tỉnh đưa người lên Bắc Kinh bắt người khiếu kiện, thậm chí giam giữ họ ở những “nhà tù đen” bất hợp pháp.
“Những người cho rằng họ là nạn nhân của bất công lớn không còn biết đi đâu, và đôi khi dùng đến bạo lực để quần chúng quan tâm.”
Willy Lam
Hồi tháng trước, một người thất nghiệp đi khiếu kiện đã cho nổ bom một xe buýt tại Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, làm chết 47 người.
Trong vụ ở sân bay Bắc Kinh, ông Ký Trung Tinh nhận được không ít sự thông cảm trên mạng.
Người ta ghi nhận việc ông đã cảnh báo hành khách ở sân bay trước khi kích hoạt thiết bị nổ.
Một công an chạy đến hiện trường là người thứ hai bị thương, ngoài ông Ký.
“Có ai ở nước này sẵn sàng đứng lên và nói họ ngay thẳng hơn ông ấy?” Zhao Xiao, một giáo sư ở Viện Công nghệ Bắc Kinh viết trên trang blog Weibo.
“Khi cảnh báo mọi người chạy đi, ông ta là người tốt…Tôi hy vọng giới chức sẽ thông cảm, nếu không họ sẽ mở đầu chu kỳ xấu xa,” luật sư Yuan Yulai viết.
Thủ tướng Hun Sen là một trong những nhà cai trị lâu nhất ở Đông Nam Á
Ít ai nghi ngờ viễn cảnh ông Hun Sen vẫn tiếp tục làm Thủ tướng Campuchia sau ngày bầu cử 28/7, tuy vậy phe đối lập cũng hy vọng có thêm ghế trong quốc hội.
Đây là cuộc bầu cử lần thứ năm tại Campuchia kể từ 1993.
Có tám đảng phái tham gia, nhưng thực chất đây là cuộc đua song mã giữa đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của ông Hun Sen và Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) của Sam Rainsy.
Ông Sam Rainsy đã chấm dứt cuộc sống lưu vong sau khi Thủ tướng Hun Sen yêu cầu nhà vua xá tội cho ông.
Nhưng ông đã bị loại khỏi danh sách đăng ký bầu cử và không thể vận động như một ứng cử viên trong cuộc bầu cử ngày 28/7.
Ưu thế
Ông Hun Sen, người từng đứng trong lực lượng Khmer Đỏ trước khi chạy sang Việt Nam sau cuộc thanh trừng nội bộ, đã cai trị Campuchia từ khi Khmer Đỏ bị lật đổ năm 1979.
Đảng CCP của ông đã xây dựng một bộ máy tranh cử và tiềm lực tài chính hùng hậu. Họ còn có lợi thế gồm truyền thông dễ bảo, và hệ thống bầu cử có nguy cơ bị chính phủ can thiệp.
Thủ tướng Hun Sen tuyên bố muốn cầm quyền cho đến ngày về hưu sau tuổi 70, và đã thăng chức cho ba con trai trong đảng và quân đội.
Người con út, Hun Many, 30 tuổi, đang ra tranh cử quốc hội lần đầu tiên, và đang đứng đầu phong trào sinh viên quốc gia.
Người con thứ hai, Tướng Hun Manith, làm phó lãnh đạo đơn vị tình báo quân đội.
Đặc biệt, người con cả, được Hun Sen thương mến nhất, Tướng Hun Manet, đang là phó chỉ huy lực lượng vệ sĩ cho cha và đứng đầu đơn vị chống khủng bố quốc gia.
“Họ cũng giống như lớp cũ, chỉ khác là học cao hơn,” theo lời Henri Locard, một sử gia Pháp ở Đại học Hoàng gia tại Phnom Penh.
Ông này nói: “Nếu mọi sự tiếp tục như hiện nay, bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy sự chấm dứt của Hun Sen.”
Một nghị sĩ của đảng cầm quyền CPP, Sok Eysan, phủ nhận cáo buộc Hun Sen ưu ái các con.
“Đảng có chính sách thúc đẩy vai trò thanh niên, gồm một số học ở phương Tây và trong nước.”
“Chúng tôi quan tâm tất cả, thanh niên là thế hệ kế tiếp,” ông này nói.
Đối lập trông chờ
Ông Sam Rainsy được hồi hương nhưng không thể ra tranh cử
Đảng CNRP, do hai đảng đối lập sát nhập hồi năm ngoái, hy vọng giành được nhiều hơn 29 ghế mà họ có từ cuộc bầu cử 2008.
CNRP được cổ vũ nhờ việc lãnh đạo của họ, Sam Rainsy, được hồi hương mặc dù không thể ra tranh cử.
Dưới thời ông Hun Sen, Campuchia đã chuyển đổi từ quốc gia bị chiến tranh tàn phá thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á.
Nhưng tăng trưởng cũng đi kèm với căng thẳng xã hội tại một đất nước mà một phần ba dân số vẫn sống nhờ 65 xu Mỹ mỗi ngày.
Tại vùng nông thôn, vốn là nền tảng ủng hộ cho CPP, ngày càng có thêm giận dữ vì việc dành đất cho các công ty nước ngoài và đem lại lợi nhuận cho các đồng minh của ông Hun Sen.
Một nông dân 61 tuổi, Om Vanthoeun, nói với hãng tin Reuters rằng ông lo ngại việc lấy đất và điều mà ông xem là làn sóng nhập cư từ Việt Nam.
“Tôi chỉ muốn thay đổi, ngay cả em bé cũng muốn thay đổi,” ông này cho biết dự định sẽ bầu cho phe đối lập.
Một số người nói phe đối lập có thể có đủ ghế để buộc ông Hun Sen phải lập chính phủ liên minh.
Nhưng đa số phân tích gia tin rằng CPP sẽ vẫn giành đa số dù có thể ít hơn số lượng 90 ghế hiện thời tại Quốc hội 123 ghế.
“CPP gần như chắc chắn chiếm đủ đa số ghế ở quốc hội, bảo đảm sự liên tục chính sách và ổn định chính trị căn bản cho giới đầu tư nước ngoài,” Giulia Zino, phân tích gia của hãng tư vấn Control Risks ở Singapore, nói.
Thân nhân Trần Huỳnh Duy Thức biểu tình hụt
Saturday, July 20, 2013 11:25:00 AM
SÀI GÒN 19-7 (NV) .- Vợ, cha, và các thân nhân khác của tù nhân chính trị Trần Huỳnh Duy Thức đã biểu tình bất thành ở Sài Gòn với hy vọng đánh động lương tâm ông chủ tịch nước.
![]() |
| Bị cản không cho ra khỏi nhà, gia đình ông Trần Văn Huỳnh đứng chụp hình trước bàn thờ mẹ của ông Trần Huỳnh Duy Thức vừa mất với khẩu hiệu đòi trả tự do cho ông. (Hình: Dân Làm Báo) |
Buổi sáng Thứ Bảy 20/7/2013, bà Lê Đinh Kim Thoa là vợ, ông Trần Văn Huỳnh, là cha của tù chính trị Trần Huỳnh Duy Thức, cùng một số thân nhân trong gia đình, dự tính đến biểu tình trước tư thất của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ở Sài Gòn nhân dịp ông Sang sắp công du Hoa Kỳ chỉ vài ngày nữa.
Mục đích là họ muốn kêu oan cho ông Trần Huỳnh Duy Thức hiện đang bị tù ở một nhà tù tỉnh Đồng Nai với bản án 16 năm.
Tuy nhiên, một lực lượng lớn an ninh CSVN đã được điều động tới ngăn chận chung quanh nhà của ông Trần Văn Huỳnh (ở đường Phan Văn Trị quận Gò Vấp) cũng như nhà của bà Kim Thoa (quận 5), xông vào nhà họ cản không cho họ bước ra đường.
Nhà bà Lê Đinh Kim Thoa còn bị “kẻ xấu” cột chốt khóa bằng dây kẽm từ bên ngoài để họ bị nhốt bên trong như tù.
“Sáng nay, tôi mở cửa đi ra đường thì không mở được. Ráng đẩy thật mạnh mới mở hé được một ít thì thấy bị ai đó cột dây kẽm chốt khóa. Tôi lấy đồ cắt dây kẽm sút ra mới mở được”. Bà Lê Đinh Kim Thoa kể lại sự việc với báo Người Việt qua điện thoại.
Bà cho hay căn nhà bên cạnh cũng bị cột dây kẽm như vậy. Mở được cửa thì bà thấy có một nhóm Công an ùa tới và lại còn có cả đại diện “Hội phụ nữ của Phường 6 Quận 5 tới thăm”.
Theo lời bà kể, nhóm Công an lăng xăng “chụp hình, đo dây kẽm” làm biên bản về việc nhà bà bị “kẻ xấu” nhốt bên trong.
“Công an nói cái trò cột dây kẽm như thế này xảy ra nhiều nơi trong thành phố”, bà Thoa kể. “Nhưng đây là lần đầu tôi thấy có chuyện như vậy chứ không có nhiều.”
Theo lời bà cho biết thì “Họ kéo dài chuyện lập biên bản hỏi thăm chuyện nọ chuyên kia rình rang nhất định không cho tôi ra khỏi nhà dù tôi nói tôi có việc phải đi qua chú út có đám giỗ nhưng mãi tới khoảng 12 giờ trưa họ mới rút đi.”
Họ nói với bà là “Chị thông cảm ở nhà” nhưng mục đích là họ cản bà đi tới nhà cha chồng để cùng đi tới tư gia ông chủ tịch nước biểu tình kêu oan cho chồng.
Cùng một thời gian ngăn chặn không cho bà Lê Đinh Kim Thoa ra đường, nhà ông Trần Văn Huỳnh cũng bị một lực lượng đông đảo Công an vây bọc và xông vào nhà ép ông không được bước chân ra đường.
“Có thể công an đã nghe lén điện thoại về dự định của gia đình sẽ trực tiếp đến nhà riêng của ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang để đưa đơn kêu oan cho Trần Huỳnh Duy Thức”.
Ông Trần Văn Huỳnh nói trong một số cuộc phỏng vấn.
Ông Huỳnh, từ tháng 4 năm 2011 đến nay, đã gửi đơn trước sau đã 4 lần đến chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu oan cho con trai ông và một số tù nhân chính trị khác. Ông không hề được hồi âm.
Ông Trần Văn Huỳnh là thầy dạy luật ở khoa luật cho ông Trương Tấn Sang ở đại học tổng hợp Sài Gòn giai đoạn 1990-1995. Đây là khóa đầu tiên của 3 khóa chương trình đào tạo thử nghiệm Cử nhân Luật ở Đại học Tổng hợp Sài Gòn trong chế độ Cộng Sản mô phỏng theo chương trình cử nhân luật của Đại học Luật Khoa Sài Gòn trước Tháng Tư-1975. Chương trình đào tạo thử nghiệm này chỉ thực hiện được ba khóa thì bị lệnh ngừng lại.
Trần Huỳnh Duy Thức, 47 tuổi, bị nhà cầm quyền CSVN vu cho tội “âm mưu lật đổ chính quyền…” và kết án 16 năm tù trong một phiên xử bất công ngày 20/1/2010. Cùng một vụ nhưng Lê Công Định chỉ bị 5 năm tù, Lê Thăng Long bị 3 năm rưỡi tù, Nguyễn Tiến Trung bị 7 năm tù. Hiện các ông Lê Công Định và Lê Thăng Long đã được thả.
Theo nhóm “Con Đường Việt Nam” cho hay trong một bản thông cáo báo chí, một số thành viên khác của nhóm này (do Trần Huỳnh Duy Thức thành lập) cũng đã bị công an địa phương bao vây, “sách nhiễu, giam lỏng” tại nhà.
Ngày Chủ nhật 30/6/2013, tù nhân ở Phân trại 1 trại tù Xuân Lộc Z30A đã nổi loạn để phản đối các sự đối xử khắc nghiệt và ngược đãi tù nhân. Họ bắt giữ giám thị của trại làm con tin trong khi điều đình.
Một số tù nhân chính trị bị giam chung trong phân trại này như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Phan Ngọc Tuấn, Nguyễn Ngọc Cường và Huỳnh Ngọc Trí đã bị đưa tới một nhà tù khác cách đó khoảng 40 km cũng thuộc tỉnh Đồng Nai.
Trong tù, ông Trần Huỳnh Duy Thức đã tranh đấu chống sự ngược đãi nên đã bị biệt giam một số lần.(TN)

Vào ngày 22/07/2013 tới đây, một phái đoàn người Việt sẽ họp với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ba ngày trước khi tổng thống Barack Obama tiếp chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang tại Nhà trắng ngày 25/07/2013. Phái đoàn gồm khoảng 20 người am tường về tình hình của các tôn giáo bị áp ở Việt Nam, như Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo, Phật Giáo Thống Nhất, Tin Lành, Hồi Giáo. Không những vậy họ còn đại diện cho các sắc dân bản địa Khmer Krom, Tây Nguyên, Hmong và Chăm.
Cuộc họp này đã được sắp xếp từ trước, trong khuôn khổ theo kế hoạch vận động chính giới Hoa Kỳ kéo dài hai năm 2013-2014 để họ lưu tâm đến vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Nhưng chuyến đi của chủ tịch Trương Tấn Sang đến Hoa Kỳ là dịp để các tổ chức, hội đoàn người Việt kêu gọi tổng thống Barack Obama lên tiếng mạnh mẽ về tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam.
Ban Việt ngữ RFI mời quý thính giả và các bạn theo dõi bài phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc tổ chức BP SOS.
|

Con trai blogger Điếu Cày, tức ông Nguyễn Văn Hải, nói ông tuyệt thực để đòi chính quyền giải quyết đơn khiếu nại về quyết định biệt giam.
Ông Nguyễn Văn Hải hiện đã tuyệt thực sang ngày thứ 29 và ở trong tình trạng ‘rất yếu’.
Con trai ông Hải, anh Nguyễn Trí Dũng, vừa có cuộc tiếp xúc kéo dài chưa đầy 5 phút với cha mình hôm thứ Bảy 20/7 tại trại giam số 6, xã Hạnh Lâm, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Anh cho BBC hay ông Hải tuyệt thực là để phản đối việc Viện Kiểm sát Nhân dân Nghệ An không giải quyết đơn khiếu nại của ông. Lý do khiếu nại là ông Nguyễn Văn Hải bị ‘quản lý trại giam ép ký vào một bản nhận tội và khi ông không ký thì bị quyết định biệt giam ba tháng”.
“Quyết định như vậy là hoàn toàn trái pháp luật,” anh Nguyễn Trí Dũng nói.
Theo anh, chỉ có thể biệt giam nếu tù nhân bị tâm thần, bị bệnh truyền nhiễm hay vi phạm kỷ luật nhiều lần; mà cả ba lý do đó ông Hải đều không phạm phải.
Con trai ông cho biết ông Hải sẽ chỉ ngừng tuyệt thực khi chính quyền giải quyết đơn khiếu nại của ông.
Anh Nguyễn Trí Dũng nói với BBC từ Sài Gòn rằng sau một thời gian chờ đợi rất lâu anh và mẹ anh, bà Dương Thị Tân, mới đước phép vào trại thăm ông.
“Thế nhưng chỉ em được gặp cha, còn mẹ em bị tách riêng ra.”
Anh Dũng mô tả cha mình rất yếu, không đứng dậy vẫy tay chào con như mọi lần, mà phải chống tay lên bàn mới ngẩng đầu lên nói chuyện được.
“Trí óc cha em vẫn rất minh mẫn, có điều sức yếu nên không nói dõng dạc được.”
“Da cha em cũng rất xanh, ngả sang màu tím, chứng tỏ sức khỏe rất đáng lo ngại.”
Hồi tháng 9/2012, ông Nguyễn Văn Hải bị xử 12 năm tù giam vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự.
Phiên phúc thẩm tháng 12/2012 giữ nguyên bản án này.
Trước đây, ông đã phải chịu án 30 tháng tù vì tội Trốn thuế và vẫn bị giam từ khi mãn hạn tháng 10/2010.
Chính phủ một số nước phương Tây và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế đã bày tỏ quan ngại trước bản án đối với ông Nguyễn Văn Hải cũng như những nhà hoạt động ở Việt Nam vốn chỉ bày tỏ quan điểm của mình một cách ôn hòa.
Ông Nguyễn Văn Hải, tức blogger Điếu Cày, hiện đã tuyệt thực sang ngày thứ 29 và ở trong tình trạng ‘rất yếu’.
Con trai ông Hải, anh Nguyễn Trí Dũng, vừa có cuộc tiếp xúc kéo dài chưa đầy 5 phút với cha mình hôm thứ Bảy 20/7 tại trại giam số 6, xã Hạnh Lâm, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Anh cho hay ông Hải tuyệt thực là để phản đối việc Viện Kiểm sát Nhân dân Nghệ An không giải quyết đơn khiếu nại của ông. Lý do khiếu nại là ông Nguyễn Văn Hải bị ‘quản lý trại giam ép ký vào một bản nhận tội và khi ông không ký thì bị quyết định biệt giam ba tháng”.
“Quyết định như vậy là hoàn toàn trái pháp luật,” anh Nguyễn Trí Dũng nói.
Con trai ông cho biết ông Hải sẽ chỉ ngừng tuyệt thực khi chính quyền giải quyết đơn khiếu nại của ông.
Chủ tịch Sang thăm Ấn Độ: Hà Nội tích cực thúc đẩy quan hệ với cả DehliMột ví dụ là Việt Nam đã tích cực lôi kéo Ấn Độ vào dự án khai thác năng lượng ở Biển Nam Trung Hoa. Chỉ tuần này, Ngoại trưởng Việt Nam, ông Phạm Bình Minh đã đến Dehli, gặp người tương nhiệm Salman Khurshid.
Trong cuộc gặp, ông Minh nhấn mạnh Ấn Độ có quyền tham gia khai thác năng lượng ở vùng biển có tranh chấp vì đó là điểm nằm bên trong Khu vực Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Hà Nội cũng tăng cường quan hệ với Tokyo vốn cũng đang là bên có tranh chấp lãnh hải ở vùng biển Hoa Đông [với Trung Quốc]… Hôm thứ Tư (10/7), Nhật Bản và Việt Nam vừa nêu lại cam kết tăng cường quan hệ quân sự, theo sau chuyến thăm Tokyo của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam trong tháng 4.
Mới tháng trước, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Toshimitsu Motegi đến thăm Việt Nam và hứa sẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế. Hai nước cũng tuyên bố năm 2013 là năm Hữu nghị Việt – Nhật.
Cuối cùng, Việt Nam đang tiếp tục thúc đẩy quan hệ quốc phòng đã lâu năm với Nga.
Năm 2009, Moscow và Hà Nội ký hợp đồng bán cho Việt Nam sáu chiếc tàu ngầm, trị giá cả thẩy 3,2 tỷ USD… Hai chiếc tàu ngầm sẽ được trao cho Việt Nam vào tháng 9 này…
Bình luận được đăng trên trang Bấm The Diplomat.com
Cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines về chủ quyền ở Biển Đông có thêm diễn biến mới hôm 18/7, khi một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines nói rằng Trung Quốc phải chứng tỏ cho thế giới thấy thấy rằng họ tôn trọng luật pháp, nếu muốn được cộng đồng quốc tế xem là một quốc gia hành động có trách nhiệm.
Tại cuộc họp báo ở Manila hôm 18/7, phát ngôn viên Raul Hernandez nói rằng Trung Quốc có thể chấm dứt cuộc tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông bằng cách định nghĩa thế nào là vấn đề cốt lõi.
Ông Hernandez giải thích việc Trung Quốc nói rằng họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với con đường 9 khúc, là một đòi hỏi quá đáng, vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế.
Trong khi đó, tại Bắc Kinh tờ báo China Daily bằng tiếng Anh của nhà nước Trung Quốc nói rằng, lập luận của Philippines thiếu cơ sở khi cho rằng Trung Quốc có lập trường cứng rắn, buộc Philippines phải dùng đến biện pháp phân xử của trọng tài quốc tế.
Tờ báo còn nói rằng Philippines đang đóng vai “nạn nhân” để thu phục cảm tình của quốc tế.
Cũng tại Bắc Kinh, một bài xã luận của Tân Hoa Xã nói rằng quan hệ giữa Trung Quốc và Philippines sẽ khó lòng khá hơn vì người dân Philippines ở hải ngoại định tổ chức biểu tình tại nhiều thành phố trên thế giới.
Bài xã luận đưa ra lý do kiều dân Philippines có thái độ cứng rắn như vậy là vì Philippines và Hoa Kỳ vừa có thỏa thuận nới rộng hợp tác quân sự.
Nguồn: Xinhua, GMA News, China Daily
Hôm nay, 19/07/2013, Đài quan sát về việc bảo vệ những nhà tranh đấu cho nhân quyền có trụ sở tại Genève, cùng với Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam (VCHR), trụ sở tại Paris – ra thông báo bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình trạng sức khỏe của blogger Nguyễn Văn Hải (biệt danh Điếu Cày), đang tuyệt thực ít nhất từ 25 ngày nay.
Bản thông cáo chung ghi nhận ông Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) là một blogger nổi tiếng và người sáng lập « Câu lạc bộ nhà báo tự do Việt Nam », được biết đến với nhiều bài viết trên mạng, kêu gọi tôn trọng nhân quyền và ủng hộ các cải cách dân chủ. Hiện tại ông Hải bị giam tại trại số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, miền trung Việt Nam.
Ngày 16/07 vừa rồi, bà Dương Thị Tân, vợ cũ của ông Điếu Cày, khi đến thăm ông, đã không được cho vào. Một viên chức quản giáo chỉ nói rằng ông Hải đang « bị kỷ luật vì làm rối trật tự »… Chỉ sau khi người tù lương tâm Nguyễn Xuân Nghĩa, cũng bị giam giữ tại trại này, nói với người vợ vào thăm, thì tin ông Nguyễn Văn Hải tuyệt thực đến ngày thứ 25 mới được bên ngoài biết đến.
Thông cáo của Đài quan sát về việc bảo vệ những nhà tranh đấu cho nhân quyền và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam (VCHR) nhấn mạnh rằng nhà tù, nơi ông Nguyễn Văn Hải bị giam giữ, nằm ở một vùng núi hẻo lánh, cách Vinh, thành phố gần nhất, tới 70 km. Điều này khiến các cơ sở bảo vệ nhân quyền nói trên rất lo ngại, vì nếu ông Hải rơi vào tình trạng nguy kịch sau thời gian tuyệt thực kéo dài, sẽ không kịp đưa ông đi cấp cứu.
Năm 2009, ông Nguyễn Văn Hải bị kết tội « trốn thuế », sau nhiều cáo buộc với đủ chứng cứ tạo dựng. Sau khi mãn hạn tù, thay vì được trả tự do, blogger Điếu Cày lại phải ra tòa lần thứ hai, vì bị truy tố theo điều 88, Bộ luật Hình sự, điều luật thường dùng để đàn áp những người bất đồng chính kiến. Lần này ông Hải bị án tù 12 năm. Cuối năm 2011, ông Nguyễn Văn Hải từng tuyệt thực 29 ngày để phản kháng các điều kiện giam cầm khắc nghiệt.
Đài quan sát về việc bảo vệ những nhà tranh đấu cho nhân quyền là một chương trình phối hợp của Liên đoàn quốc tế về nhân quyền (FIDH) và Tổ chức thế giới chống tra tấn (OMCT). Chủ tịch của FIDH Karim Lahidji kêu gọi chính quyền Việt Nam « trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho blogger Điếu Cày và những nhà tranh đấu nhân quyền, cũng những blogger bất đồng chính kiến ở Việt Nam ». Tổng thư ký Tổ chức thế giới chống tra tấn Gerald Staberock khẳng định, đã đến lúc chính quyền Việt Nam « chấm dứt các đàn áp chống lại các nhà tranh đấu trên mạng và những nhà bảo vệ nhân quyền ». Còn chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam Võ Văn Ái nhận định việc chính quyền Việt Nam giam giữ ông Hải là « bất hợp pháp và đáng hổ thẹn ».
Mạng lưới blogger Việt Nam – Vào 2h chiều ngày thứ tư, 24/7/2013, một số blogger đã có cuộc gặp với Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội để trao bản Tuyên bố của Mạng lưới Blogger Việt Nam, gọi tắt là Tuyên bố 258.
Có bốn blogger là Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Vũ Hiệp, Lê Dũng và Lã Việt Dũng. Phía Đại sứ quán Mỹ có hai quan chức cấp cao. (Đại sứ David Shear đang ở Mỹ để đón Chủ tịch Trương Tấn Sang).
Tại cuộc gặp, bốn blogger đã trao Tuyên bố 258 cùng danh sách hơn 100 người ký tên chung. Có thể coi bản Tuyên bố này là hành động tập thể đầu tiên của giới blogger chính trị ở Việt Nam nhằm nói lên quan điểm của mình trước việc Nhà nước Việt Nam tranh cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016.
Bốn blogger cho biết, họ gồm hai người làm kinh doanh và hai sinh viên hiện đang sinh sống ở Hà Nội. Họ chỉ là những công dân Việt Nam bình thường, mong muốn được góp tiếng nói vào bản Tuyên bố để từ đó vận động sự giúp đỡ, ủng hộ của Liên Hợp Quốc, của nước Mỹ và các tổ chức quốc tế, bạn bè quốc tế trong việc thúc đẩy Chính phủ Việt Nam cải thiện các quyền tự do của nhân dân.
Phía Sứ quán nói rằng Washington hiểu tình hình nhân quyền tại Việt Nam hiện nay đang như thế nào, cũng như hiểu không khí chính trị thời điểm này rất nhạy cảm với những vấn đề Việt Nam gặp phải. Họ cũng đề cập cả tới tình trạng của blogger Điếu Cày. (Ông Điếu Cày hiện đã tuyệt thực sang tới ngày thứ 32 trong tù). Theo quan chức của Đại sứ quán, Washington từng nhiều lần đề cập tới chuyện nhân quyền khi làm việc với Việt Nam. Hai ông bày tỏ hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn cho Việt Nam.
Có thể coi đây là một sự kiện rất ý nghĩa, bởi nó diễn ra đồng thời với chuyến thăm Washington của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Sau cuộc gặp hôm nay với cơ quan đại diện ngoại giao Hoa Kỳ, trong thời gian tới, Mạng lưới blogger dự kiến sẽ tiếp tục đến gặp các đại sứ quán khác ở Việt Nam, cũng như các tổ chức quốc tế về nhân quyền, để trao tận tay Tuyên bố 258.
Kính gửi Ban Điều Hành Đàn Chim Việt,
Xin gửi đến Ban Điều Hành Đàn Chim Việt đơn kêu oan của tôi gửi đến Chủ tịch nước. Mong Ban Điều Hành Đàn Chim Việt giúp đăng tải và phổ biến đến độc giả.
Kính chào và cảm ơn Ban Điều Hành Đàn Chim Việt,
Trần văn Huỳnh.
—————————————————————————
GIỚI THIỆU ĐƠN KÊU OAN LẦN 4
Trần Huỳnh Duy Thức
Đã 4 năm trôi qua kể từ ngày Trần Huỳnh Duy Thức, con trai tôi bị bắt và giam cầm. Đó cũng là quãng thời gian gia đình tôi đã nỗ lực hết mình để tìm lại tự do cho Thức, sau khi đã tỏ tường và nguyện chung lòng cùng một lý tưởng và con đường con trai tôi đã chọn. Xét cho cùng, điều Thức mong mỏi là một Việt Nam phú cường, độc lập; người dân có quyền và có cơm ăn áo mặc; xã hội khai trí, giàu bản sắc dân tộc và ổn định – đó cũng là ước muốn tự nhiên của bất kỳ công dân có trách nhiệm nào.
Thời gian qua, trong quá trình vận động, gia đình tôi đã nhận được sự ủng hộ, động viên từ các chính phủ, các tổ chức nhân quyền quốc tế, cùng bạn bè trong lẫn ngoài nước. Đó là một niềm vinh hạnh, đồng thời cũng là nguồn tiếp thêm sức mạnh đáng kể cho gia đình tôi trên bước đường minh oan, đòi lại tự do cho Thức. Ở trong nước, năm 2011, tôi đã nhiều lần gửi các đơn kêu oan, đề nghị giám đốc thẩm và thỉnh nguyện thư đến các đại diện và người đứng đầu nhà nước, cụ thể:
– Ngày 5/4/2011 gởi đơn kêu oan đến Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết lần thứ 1.
– Ngày 4/5/2011 gởi đơn kêu oan đến Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết lần thứ 2.
– Ngày 1/6/2011 gởi đơn đề nghị giám đốc thẩm đến Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Quốc hội, Viện Trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao.
– Ngày 20/6/2011 gởi đơn kêu oan đến Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết lần thứ 3.
– Ngày 27/7/2011 gởi thỉnh nguyện thư nhân dân đến Chủ tịch Quốc hội và tất cả các đại biểu quốc hội toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa thấy hồi đáp hay động thái nào từ những người nhận. Ngược lại, trong vòng 10 tháng qua, Thức đã 2 lần bị đưa vào biệt giam với lần gần đây nhất trong những điều kiện đối xử khắc nghiệt, đi ngược lại với pháp luật trong nước lẫn các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Và thật đáng buồn khi các điều kiện đối xử như vậy lại diễn ra không chỉ riêng tại trại giam Xuân Lộc mà còn ở các trại giam khác trên cả nước, đặc biệt đối với những người tù bị kết án theo các điều luật 79 và 88 Bộ luật hình sự.
10 ngày biệt giam vừa qua của Thức như giọt nước làm tràn ly cho gia đình tôi. Ròng rã 4 năm trời, bản án oan sai vẫn còn đó, thứ đã giáng xuống con trai tôi – một công dân lương thiện và vô tội – 16 năm tù nghiệt ngã. Lời Thức nói ngày nào vào cuối phiên tòa mà người cha không được phép ở cạnh bên con mình trong phòng xét xử vẫn còn vang vọng từng chữ trong tâm trí tôi: “Tôi không lật đổ chính quyền gì cả. Tôi chỉ chống cường quyền và tôi sẽ còn chống nó đến khi nào còn thấy nó.” Tôi tin với bản tính của Thức, khó khăn trong tù không dễ làm Thức dao động. Tôi thấy ngọn lửa của niềm tin và lòng kiên định vào con đường đã chọn vẫn còn đó, chắc chắn và không lay chuyển trong cái ôm siết chặt và ánh mắt con trai tôi.
Mỗi buổi thăm gặp gia đình, Thức thường dành một phần thời gian hỏi thăm về tình hình kinh tế – thời sự đất nước. Những lần giữa cuộc trò chuyện, Thức đưa mắt nhìn xa xăm, hay ánh mắt thoảng nét muộn phiền, tôi biết lúc đó lòng con mình đang trĩu nặng. Đằng sau những câu đùa vui hay cái cười động viên, tôi nhìn thấy niềm khắc khoải của Thức khi phải phí hoài năm tháng trong chốn lao tù vào thời điểm mà đất nước đang thật sự cần một hướng đi đúng đắn. Là một người cha, tôi đau cùng niềm đau của con mình. Và không riêng tôi, đó cũng là nỗi đau chung của gia đình các tù nhân lương tâm đang phải chịu án oan sai trên khắp đất nước.
Ngày 23/11/2012, Nhóm Công tác chống Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc (WGAD) đã kết luận chính thức việc kết án và giam giữ Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung và Lê Thăng Long là tùy tiện và vi phạm luật pháp quốc tế. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc nhất để con tôi được trao trả tự do. Ngoài ra, WGAD cũng đã có kết luận tương tự đối với một số công dân Việt Nam khác đang chịu án oan sai.
Vì vậy, tiếp nối những nỗ lực vận động trong thời gian qua, gia đình tôi đã gửi Đơn kêu oan lần 4 đến chủ tịch nước nhằm kêu gọi trao trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm đã có kết luận của WGAD. Có thể sẽ có ý kiến cho rằng sau những lần đệ trình không hồi đáp, lá đơn lần này sẽ không làm nên sự thay đổi. Còn với chúng tôi, kết quả của lá đơn ra sao không quan trọng. Giữa buông tay lặng im và tiếp tục bước tới, chúng tôi chọn cách thứ hai, bởi đó là cách để chúng tôi “giữ ánh lửa qua giông bão”. Và trên hết, sự trong sạch, tính chính nghĩa luôn trụ vững trước thời gian, tôi tin chắc một ngày con trai tôi cùng các anh chị em tù nhân lương tâm khác sẽ được minh oan và trở về.
Kính gởi:
Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang
V/v:
Kêu oan cho Trần Huỳnh Duy Thức cùng các công dân Việt Nam đang chịu án oan sai khác đã có kết luận của Nhóm Công tác chống Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc (UNWGAD)
Kính thưa Chủ tịch Nước,
Tôi là Trần Văn Huỳnh, là cha của Trần Huỳnh Duy Thức – người đã bị kết án oan sai 16 năm tù và 5 năm quản chế vì tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Với một niềm tin kiên định Trần Huỳnh Duy Thức không có tội như bản án đã tuyên, trong 3 năm qua gia đình tôi đã nhiều lần gởi đơn kêu oan và đơn yêu cầu giám đốc thẩm cho con tôi đến các đại diện nhà nước.
Qua các lá đơn và thỉnh nguyện thư, tôi đã nêu đầy đủ các vấn đề pháp lý để chứng minh cho sự oan sai con tôi đã chịu hơn 4 năm qua. Tôi cũng đưa ra những bằng chứng chứng minh quyển sách Con đường Việt Nam của Thức đang viết dở dang – một tài liệu mà cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án cho là một kế hoạch tổng thể nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và kết tội con tôi – là một cuốn sách hoàn toàn cho mục đích xây dựng và phát triển đất nước thông qua những kiến nghị cải cách để chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh, xã hội công bằng, thịnh vượng, ổn định.
Liên quan đến bản án dành cho con tôi cùng các anh Lê Công Định, Lê Thăng Long và Nguyễn Tiến Trung, ngày 23/11/2012, trong một thông cáo của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Nhóm Công tác chống Giam giữ Tùy tiện (UNWGAD) đã kết luận: “việc tước đoạt tự do của Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, và Lê Thăng Long là tùy tiện và vi phạm điều 9, 19 và 21 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam là một thành viên ký kết”. Theo đó, Nhóm Công tác này yêu cầu Việt Nam trao trả tự do cho 4 công dân trên và bồi thường cho họ theo điều 9, đoạn 5 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị.
Vậy mà cho đến nay, vụ án của con tôi vẫn chưa được xem xét lại. Không những thế, trong tù con tôi còn phải chịu những điều kiện giam giữ vô cùng khắc nghiệt, tàn nhẫn. Từ tháng 8/2012 đến tháng 4/2013, Thức đã bị giam giữ riêng biệt trong một phòng nhỏ đóng kín cửa liên tục, chỉ trừ thời gian trại giam phát bữa ăn. Gần đây, trong liên tiếp 10 ngày từ 24/5 đến 2/6/2013, con tôi bị đưa vào biệt giam trong một buồng rất nhỏ chỉ 4m2, không có ánh sáng, rất dơ bẩn và tiềm ẩn nhiều mầm bệnh do nhiều năm không được lau dọn vệ sinh, mỗi ngày chỉ được 2 chén cơm trắng không có thức ăn và chỉ được 1 lít nước cho mọi nhu cầu ăn uống, sinh hoạt. Gia đình chúng tôi cho rằng các điều kiện đối đãi như trên là bất công, không nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người và vi phạm điều 5 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, điều 7 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cùng các quy định thuộc Quy chế Tổ chức trại giam (ban hành kèm Nghị định số 60-CP ngày 16-9-1993 của Chính phủ). Tuy nhiên, các điều kiện đối đãi như trên lại đang tồn tại phổ biến ở nhiều trại giam trên khắp cả nước.
Kính thưa Chủ tịch,
Nay tôi viết đơn này nhằm khẩn thiết kính mong Chủ tịch cứu xét lại vụ án, giải oan cho con tôi cùng các công dân Việt Nam đang chịu án oan sai khác đã có kết luận của Nhóm Công tác chống Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc (UNWGAD) để con tôi và những công dân có trách nhiệm với Tổ quốc khác sớm được đoàn tụ với gia đình và đóng góp sức mình cho sự phát triển bền vững và phồn vinh của đất nước. Nhằm tiện cho việc tham khảo, tôi xin đính kèm đơn này danh sách các công dân Việt Nam đang chịu án oan sai khác đã có kết luận của UNWGAD.
Gần đây, Phong trào Con đường Việt Nam đã thu thập, biên tập các thông tin, tư liệu từ những bài viết của nhóm nghiên cứu Chấn và nội dung quyển sách Con đường Việt Nam mà con tôi đang viết dang dở để cho ra đời cuốn sách có tựa đề “Trần Huỳnh Duy Thức và Con đường nào cho Việt Nam”. Tôi xin được gởi đến Chủ tịch quyển sách này và kính mong Chủ tịch dành chút ít thời gian quý báu của mình xem xét. Qua cuốn sách, tôi mong rằng Chủ tịch sẽ hiểu được tấm lòng yêu nước của Thức, qua việc trăn trở trước hiện trạng xã hội – kinh tế – chính trị Việt Nam với những nguy cơ, thách thức, đòi hỏi phải có những cải cách toàn diện, thực chất và đề xuất về một con đường phát triển đất nước dựa trên nền tảng đề cao dân chủ và nhân quyền theo đúng quy luật tự nhiên và xu hướng tiến bộ của nhân loại.
Tôi tin rằng trả lại sự trong sáng cho con tôi và những công dân đang chịu án oan sai khác không những cũng cố được niềm tin của người dân mà còn mang lại những hy vọng mới tốt đẹp cho đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn.
Địa chỉ liên lạc của tôi: 439F8 Phan Văn Trị, Phường 5, Quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 0903350117.
Kính đơn,
Trần Văn Huỳnh
—————————————————
Đính Kèm:
Danh sách các công dân Việt Nam đang chịu án oan sai đã có kết luận của Nhóm Công tác chống Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc (UNWGAD)
1. Linh mục Nguyễn Văn Lý
2. Thiền sư Thích Quảng Độ
3. Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày)
4. Nguyễn Xuân Nghĩa
5. Trần Huỳnh Duy Thức
6. Nguyễn Tiến Trung
7. Đỗ Thị Minh Hạnh
8. Đoàn Huy Chương
9. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng
10. Cù Huy Hà Vũ (người đang được UNWGAD xem xét)
Một trong những nội dung của lịch trình Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đến Hoa Kỳ lần này là đề cập đến Hiệp định thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà cả Việt Nam và Hoa Kỳ hiện đang là các đối tác đàm phán.
Vậy nội dung này sẽ có ý nghĩa ra sao trong chuyến viếng thăm của ông Trương Tấn Sang, Vũ Hoàng trao đổi với ông Ernest Z. Bower, Cố vấn cao cấp, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Trước hết cám ơn ông đã dành thời gian cho đài RFA, theo ông khi chủ tịch VN Trương Tấn Sang đến Hoa Kỳ liệu vấn đề TPP có phải là phần cốt lõi nhất hay không?
Earnest Bower: Quan điểm của Washington là Việt Nam ngày càng trở thành một trong những quốc gia có tầm chiến lược trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam có những cam kết cấp cao về thương mại cũng như tăng cường sức mạnh cho khối ASEAN, vì thế, TPP có vai trò rất quan trọng trong chuyến thăm này của chủ tịch Trương Tấn Sang tới Hoa Kỳ.
Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng quan điểm là cần thiết phải tạo ra sự gắn kết chặt chẽ hơn nữa trong khu vực ASEAN, và đây cũng là một trong những nỗ lực để Trung Quốc thấy rằng khi họ tạo ra luật lệ cho các nước trong khu vực thì họ cũng phải tuân thủ những luật đó, chứ không thể áp đặt quan điểm của họ lên vùng chủ quyền lãnh thổ ngoài biển Đông. Tôi nghĩ rằng điều này cũng tạo ra một cảm giác an toàn về mặt kinh tế và chính trị trước Trung Quốc. An toàn trước Trung Quốc là những điều kiện cần thiết cho hòa bình và thịnh vượng cho khu vực Châu Á – TBD, Hoa Kỳ và Việt Nam đều chia sẻ quan điểm này.
Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng quan điểm là cần thiết phải tạo ra sự gắn kết chặt chẽ hơn nữa trong khu vực ASEAN.
– Earnest Bower
Cũng trên quan điểm đó, theo tôi, các chính trị gia của cả Hà Nội và Washington cần phải nỗ lực hơn để đưa ra những quyết định khó khăn về TPP, để hiệp định này có thể được thông qua trong vòng 2 năm tới.
Vũ Hoàng: Báo chí cũng như nhiều luồng thông tin từ cả Việt Nam và Hoa Kỳ cho là hai phía đang ráo riết muốn kết thúc các vòng đàm phán vào tháng 10 năm nay. Theo ông liệu điều đó có khả thi không?
Earnest Bower: Theo tôi hiện tại Tòa Bạch Ốc đang rất muốn hoàn tất hiệp định về TPP trong năm nay, tuy vậy, tôi không biết liệu điều này có diễn ra vào tháng 10 năm nay hay không, là thời điểm mà Hội nghị thượng đỉnh Đông Á sẽ được tổ chức tại Brunei. Tôi nghĩ là Tổng thống Obama và Đại diện Thương mại mới là ông Mike Froman đang cam kết để Hiệp định này được Quốc Hội bước đầu thông qua vào năm 2014, ngay trước khi cuộc bầu cử giữa kỳ tại Mỹ diễn ra.
Hiện tại, thì chính phủ Hoa Kỳ, Việt Nam cũng như các nước đàm phán khác đang nỗ lực để kết thúc các vòng đàm phán càng sớm càng tốt, đó là mục tiêu thực sự.
Vũ Hoàng: Một trong những yếu tố thường được các đối tác đàm phán khi nhắc tới Việt Nam là “một nền kinh tế phi thị trường”, vậy quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Earnest Bower: Tôi nghĩ ở một khía cạnh nào đó, Việt Nam đang sử dụng TPP như một động lực để thúc đẩy hơn nữa tiến trình cải cách kinh tế của mình, cả Chính phủ lẫn đảng Cộng sản Việt Nam đang cố gắng đưa nền kinh tế của mình trở nên cạnh tranh hơn nữa. Thật khó để cải cách khối doanh nghiệp Nhà nước, là khu vực đang có vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc gia nếu không có sự ủng hộ về mặt chính trị. Tôi nghĩ dưới góc độ này, TPP sẽ là một đòn bẩy quan trọng để cả Đảng Cộng sản và Chính phủ thay đổi khu vực doanh nghiệp NN trước những sức ép đòi hỏi từ bên ngoài, kể cả việc thu hút sự quan tâm của các dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Vũ Hoàng: Cũng liên quan đến chuyện này, hồi tháng 3, chúng tôi có được đọc bản tin của CSIS, ông nhận xét khá nhiều về khối doanh nghiệp Nhà nước VN, vậy, mối quan hệ của khu vực này trong việc đàm phán TPP của Việt Nam ra sao rồi thưa ông?
Earnest Bower: Các doanh nghiệp NN của Việt Nam cũng giống với Trung Quốc là đang kéo nền kinh tế quốc gia đi xuống. Tôi nghĩ là tất cả các nhà kinh tế Việt Nam đều cho rằng khối doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới. Vì thế, một lần nữa đàm phán TPP sẽ mang lại cơ hội chiến lược, cộng với sức ép đổi mới từ bên ngoài và những đòi hỏi đổi mới chính trị kinh tế từ các nước đối tác đàm phán, buộc Việt Nam phải thay đổi khối doanh nghiệp này.
Ngoài ra, thông qua TPP cũng khiến Việt Nam hội nhập hơn nữa với Châu Á, ý tôi muốn nói là những nỗ lực về hội nhập kinh tế, đảm bảo Việt Nam tiếp tục tiến lên chứ không bị tụt hậu, nhất là khi Việt Nam muốn trở nên cạnh tranh hơn và đối mặt với những sức ép ngày càng tăng từ Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Thưa ông, TPP ngoài các điều khoản về đàm phán “nền kinh tế thị trường” thì còn nhiều yếu tố khác nữa như bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền người lao động rồi cả tham nhũng nữa. Vậy đến lúc này, những điều khoản trên đã được đàm phán ra sao rồi?
Các doanh nghiệp NN của Việt Nam cũng giống với Trung Quốc là đang kéo nền kinh tế quốc gia đi xuống. Tôi nghĩ là tất cả các nhà kinh tế Việt Nam đều cho rằng khối doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới.
– Earnest Bower
Earnest Bower: Tôi chỉ muốn nhắc anh cũng như muốn để thính giả hiểu rằng, việc đàm phán không chỉ là giữa 2 quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ mà là giữa 11 quốc gia đàm phán. Tôi nghĩ các vòng đàm phán bao gồm cả những cam kết về tính minh bạch và quản lý hay giám sát để tăng cường những cam kết về lao động và môi trường nữa.
Nếu để ý chúng ta có thể thấy người dân Việt Nam rất quan tâm đến việc cải thiện những lĩnh vực như chống tham nhũng, nước sạch, môi trường, an toàn lao động, an toàn thực phẩm…và đây cũng là những mối quan tâm giống với mọi quốc gia khác. Tôi nghĩ rằng Chính phủ Việt Nam đã truyền tải và đưa những mối quan tâm này của người dân vào trong tiến trình đàm phán và như vậy là chính phủ Việt Nam đang mang lại cuộc sống tốt hơn cho người dân.
Vũ Hoàng: Vâng cám ơn lời nhắc nhở của ông về 11 nước đang tham gia đàm phán, câu hỏi cuối cùng của chúng tôi chỉ liên quan đến 2 đối tác Hoa Kỳ và Việt Nam là: Việt Nam đặt trọng tâm nhiều đến việc đàm phán lĩnh vực may mặc và giày dép khi xuất sang Hoa Kỳ trong khi đó, Hoa Kỳ lại ưu tiên đến hàng nông sản khi xuất sang thị trường Việt Nam. Vậy đánh giá của ông về việc điều hòa những khác biệt trong các ưu tiên này ra sao?
Earnest Bower: Hoa Kỳ, Việt Nam cũng như mọi quốc gia đàm phán khác đều có những quan tâm cụ thể đến từng lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn, Việt Nam quan tâm nhiều đến tiếp cận thị trường cho hàng dệt may, giày dép và cá tra. Tôi nghĩ đặt các ưu tiên khác nhau cũng là bản chất của quá trình đàm phán, nếu Hoa Kỳ muốn thấy được Hiệp định TPP vào mùa thu năm nay thì Hoa Kỳ cần phải hiểu được những yêu cầu trong chính trị nội bộ Việt Nam là họ đang cần những gì. Nói thực lòng, ngay cả tôi hay bất cứ một người nào khác ở thời điểm này, đều không biết được khi kết thúc đàm phán thì Hiệp định sẽ ra sao. Những người đàm phán và cả các nhà lãnh đạo quốc gia đều hiểu rằng cả 2 phía phải có những hi sinh nhiều hơn những gì mà họ muốn để có thể có được Hiệp định TPP thành hình.
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông rất nhiều.
Giáo sư Tương Lai. Gửi cho BBC từ TP HCM. 18 tháng 7, 2013
Chủ tịch Việt Nam sắp thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên
Sau chuyến thăm Trung Quốc thì chuyến công du sắp tới của ông Chủ tịch nước là mối bận tâm của rất nhiều người đang trĩu nặng suy tư về vận nước.
Những hoạt động ngoại giao dồn dập trong thời gian qua càng làm cho mối bận tâm ấy thêm bức xúc trước những diễn biến mới của thời cuộc trong nước và thế giới.
Những hoạt động đối ngoại gắn liền máu thịt với hoạt động đối nội, mà về thực chất thì nội lực của dân tôc, thế đứng của đất nước là nhân tố quyết định chiến lược và sách lược đối ngoại. Tiếng chuông đánh ở nước người vang đến đâu là tùy thuộc vào sự dồn sức, góp lực của cả toàn dân.
Đương nhiên, khôn khéo và thông minh để nắm bắt thời cơ, khai thác và phát huy tối đa hợp lực được tạo ra từ hoạt động đối ngoại với nhận thức rằng, bỏ lỡ thời cơ là sự bỏ lỡ đáng tiếc nhất mà rồi cái giá mà dân tộc phải trả là không sao tính xuể! Chẳng thế mà Nguyễn Trãi từng căn dặn “Thời! Thời! Thực không nên lỡ”.
Vả chăng, chúng ta lại đang sống trong một thế giới đầy biến động.
Cuộc cách mạng thông tin với mạng lưới internet phủ sóng khắp nơi đã khiến cho thế giới rộng lớn được thu hẹp lại trong “ngôi nhà toàn cầu”, làm cho nhất cử, nhất động của mỗi một ai đó, nhất là của các “chính khách” đều hiện rõ mồn một trước đôi mắt tinh anh của công luận.
Chính cái đó đem lại một sức mạnh mới, cách suy nghĩ mới cho mỗi con người. Người ta hiểu ra rằng, kiểu tư duy tuyến tính theo lối mòn không bắt kịp với thời đại mà chuẩn mực chính là sự thay đổi.
Những tri thức cũ, kinh nghiệm cũ, dù quý báu đến đâu, cũng không còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía trước. Không thể không có tri thức mới, kinh nghiệm mới để hình thành một kiểu tư duy tương thích với nhịp sống đương đại của nền văn minh trí tuệ đang làm cho tiến trình phát triển đưa tới những bước hợp trội, tạo ra những đột biến không thể nào dự báo trước được.
Hiện tượng Myanmar là một ví dụ thật hấp dẫn.
Ngoài ra, những bài học trị nước và cứu nước của ông cha ta vẫn ẩn chứa những nguyên lý ứng xử với dân với nước, với bạn với thù theo lối “mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích” (cái đầy gọi cái vơi, võng xuống thì được làm cho đầy trở lại,) vẫn có ý nghĩa sâu sắc trong hoạt động đối nội và đối ngoại.
Dòng sông cuộc sống đang đẩy con thuyền đất nước đi vào đoạn nước xoáy, người lèo lái chỉ một chút sơ sẩy, thiếu bản lĩnh, thiếu hiểu biết sẽ khiến cho dân tộc phải trả giá đắt. Vì xét đến cùng, cái quyết định vẫn ở con người.
Thì chẳng thế sao? “Đại Việt Sử ký toàn thư. Kỷ nhà Trần” có chép lời tên tướng Ô Mã Nhi nhận xét về Đỗ Khắc Chung, người được vua Nhân Tông cử đến trại giặc dò xét tình hình: “Có thể nói là [người này] không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được”.
Tên tướng Tàu này quả là biết xét đoán người và hiểu được thời cuộc để thực thi đường lối cổ truyền nhất quán của chúng: không khuất phục, mua chuộc được đối phương thì tìm cách mà trừ đi! Bản lĩnh hiên ngang không biết cúi thấp đầu của Đỗ Khắc Chung là biểu hiện khí phách dân tộc, làm nên sức mạnh Việt Nam đánh tan tác kẻ thù từng xéo nát nhiều vùng lãnh thổ từ Á sang Âu ở thế kỷ XIII.
Người thực thi mệnh [lệnh] của nước của dân ở thế kỷ XXI này, vì thế, phải biết học cha ông, không để nhục quốc thể.
Có một điều phải suy nghĩ thêm khi báo chí ta gần đây hay nói đến chuyện ứng xử giữa nước nhỏ với nước lớn. Điều ấy có cái lý của nó. Nhưng cũng lại phải thấy cho ra một điều nữa là, một nước đứng thứ 13 thế giới về dân số, cũng đã từng được cả thế giới biết đến như là một dân tộc từng đánh thắng những thế lực ngoại xâm khổng lồ ở thế kỷ XIII, XV, XVIII và XX để hiên ngang tồn tại bên bờ Thái Bình Dương rộng lớn, có một vị thế trong khối Asean, mà cứ vẫn mang tâm lý “nước nhỏ” trong ứng xử thì e cũng có chỗ chưa thỏa đáng.
“Điều chua chát đáng nói nhất khi sử dụng khái niệm “nước nhỏ” chính là sự nếm trải vị đắng của thân phận một dân tộc từng là một quân cờ trên bàn cờ trong cuộc chơi giữa các “nước lớn”!”
Hàn Quốc với diện tích 100.032 km vuông, dân số 48 triệu người, là “nước nhỏ” nhưng xem ra thế ứng xử của họ trên trường quốc tế thì cũng không “nhỏ” như người ta tưởng. Rồi Singapore, với diện tích 697.7km2, chỉ bằng diện tích huyện Cần Giờ của TPHCM và dân số chỉ 5,1 triệu người vào năm 2010 thì đúng là nhỏ, rất nhỏ. Nếu tính từ ngày tuyên bố độc lập năm 1965 thì họ chỉ mới có gần 50 năm phát triển từ một nước hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Nhưng cũng chính vì thế, họ nhanh nhạy đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức và theo dự tính thì đến 2018 Singapore sẽ là một đầu mối của mạng lưới năng động trong nền kinh tế châu Á và toàn cầu với tính đa dạng nhạy bén trong hoạt động kinh doanh. Thế đứng của đất nước này, vì thế, đâu kém những nước diện tích lớn, dân số đông!
Còn ta, vì sao Việt Nam ta từ đỉnh cao chiến thắng lại trở thành lạc hậu và lạc điệu với thế giới?
Đây là câu chuyện dài nhưng không thể không thẳng thắn và sòng phẳng chỉ ra nguyên nhân của nó.
Muốn thế, phải đặt vận mệnh của tổ quốc lên trên hết và trước hết, thực hiện sự hòa giải và hòa hợp dân tộc, gạt bỏ những mâu thuẫn về lợi ích riêng tư, chấm dứt những hành vi và thủ đoạn tranh giành quyền lực để đồng tâm hiệp lực xây dựng đất nước. Có như vậy mới tạo nên được một thế đứng Việt Nam trong những mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau của các mối quan hệ quốc tế, vấn đề có ý nghĩa sống còn trong hoạt động đối ngoại, tránh được nguy cơ thao túng của nước lớn.
Điều chua chát đáng nói nhất khi sử dụng khái niệm “nước nhỏ” chính là sự nếm trải vị đắng của thân phận một dân tộc từng là một quân cờ trên bàn cờ trong cuộc chơi giữa các “nước lớn”!
Bản lĩnh và khí phách của dân tộc trước kẻ thù ngoại xâm đã giục giã nhiều thế hệ Việt Nam lên đường cứu nước, không ngại hy sinh. Máu người không phải nước lã. Và máu đã chảy thành sông, xương đã chất thành núi từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Vì thế, quyết không để cho mạng sống của người Việt, vận mệnh của tổ quốc bị lợi ích của những nước lớn với đủ thứ “nhân danh” để biến thành những quân cờ trong cuộc chơi của họ.
Quân cờ ấy, khi cần thiết thì người ta đánh bóng mạ kền, hoặc thổi lên thành một chiếc bong bóng sặc sỡ sắc màu huyền thoại để mà vui vẻ nhận lãnh những vinh quang vô ích: “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa, Vui gì hơn làm người lính đi đầu”.
Để rồi, trong “niềm vui” ấy, những núi xương, sông máu của “người lính đi đầu” đổ ra tạo thành khoảng cách an toàn cho Mao “đại nhảy vọt” và đến một ngày đẹp trời thì Chu (Ân Lai) vui vẻ bắt tay Richard Nixon ở Thượng Hải để mặc cả trên đầu người bạn láng giềng “núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông” về nước cờ “thí tốt, đẩy xe”, bật đèn xanh cho B52 rải thảm Hà Nội.

Chiếc bong bóng sặc sỡ kia vỡ tan, nhưng không chỉ là một ảo ảnh tan vỡ mà là một hệ lụy lịch sử nặng nề với những vết thương hằn sâu trong lòng dân tộc khi non sông đã quy về một mối.
Thay vì làm lành vết thương, người ta lại khoét sâu thêm do bị chủ nghĩa giáo điều cầm tù, mà nguy hiểm nhất là tiếp tục thực thi quan điểm”đấu tranh giai cấp là động lực của sự phát triển ” để rồi tạo ra một xã hội bất an và xáo động, hệ thống giá trị bị đảo lộn, văn hóa dân tộc với cốt lõi là nền văn hóa làng, cái nôi của tâm hồn Việt, bị băng hoại. Đó chính là hệ lụy nặng nề vừa nhắc đến.
Liều thuốc chữa trị cho sự bất an ấy, bi đát thay, lại là một chế độ toàn trị phản dân chủ đang được đẩy tới ngày càng hung hãn như không có điểm dừng. Cái gọi là “nhà nước pháp quyền” được rao giảng là “của dân, do dân và vì dân” đang quay lưng lại với dân. Cán cân công lý chao đảo trước vòng xoáy lợi ích của các nhóm quyền lực với những bản án bỏ túi theo Nghị quyết. Đó là lý do giục giã những “bàn chân nổi giận” của nông dân, của thanh niên sinh viên, của trí thức rầm rập xuống đường bất chấp mọi thủ đoạn trấn áp và sự xuyên tạc, lừa mị.
Chưa bao giờ người ta thấy cái nguyên lý khủng khiếp vận hành trong xã hội từng được trí tuệ loài người đúc kết : “Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn độ quyền lực, và hầu như không có điểm dừng. Nhưng “quyền lực lại có xu hướng tham nhũng và quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối” (Power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely).
“Thế giới văn minh làm sao chấp nhận một thứ luật rừng trong ứng xử với dân?”
Chế độ toàn trị phản dân chủ là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện “quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối ” ấy.
Vì vậy, nếu chỉ chĩa mũi nhọn vào một số người, cho dù là cần thiết đi chăng nữa, thì chỉ là bôi thuốc chữa mụn ngoài da để mong đẩy lùi căn bệnh đã ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng. Cho nên, nỗi bức xúc lớn đang chứa chất trong lòng xã hội là cải cách thể chế để lập lại trật tự và thúc đẩy kinh tế phát triển, cải thiện đời sống của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân và bà con dân tộc ở vùng sâu, vùng xa.
Dân chủ là liều thuốc đặc trị để chống tham nhũng và các tật bệnh nói trên có hiệu quả nhất vào lúc này.
Dân chủ là phương thuốc hiệu nghiệm cho căn bệnh tưởng như vô phương cứu chữa là bộ máy nhà nước đang ngày càng phình to.
Dân chủ cũng là phương thuốc hiệu nghiệm nhất để Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng chính trị lớn nhất, có mạng lưới rộng khắp cả nước, tự chỉnh đốn mình nhằm đáp ứng đòi hỏi bức xúc của dân và của cả đông đảo đảng viên của Đảng.
Chuyện này chẳng có gì mới, sở dĩ phải nêu lên đây vì chúng liên quan mật thiết với gương mặt đất nước trước thế giới. Nói cách khác, liên quan đến sức mạnh của dân tộc, thế đứng của đất nước trong hoạt động đối ngoại.
Thế giới văn minh làm sao chấp nhận một thứ luật rừng trong ứng xử với dân? Làm sao xây dựng được niềm tin chiến lược với các đối tác trên trường quốc tế khi Việt Nam tuy đã công nhận Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là giá trị phổ dụng, đã ký cam kết tuân thủ Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị,Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc nhưng trong ứng xử thực tế thì làm ngược lại?
Cái chuyện nhân danh “đặc thù” của mỗi nước về văn hóa, chính trị để phủ nhận những chuẩn mực chung về văn minh mà thế giới tôn trọng đã trở nên kệch cỡm và lạc điệu. Cần quan niệm rằng thực thi dân chủ, cải thiện điều kiện để quyền con người được thực hiện một cách công khai và lành mạnh, chính là đòi hỏi của sự phát triển, tăng cường nội lực chứ không phải là do sức ép của bên ngoài, càng không thể là một sự áp đặt.

Một cơ hội bị bỏ lỡ cho việc đưa đất nước đi vào quỹ đạo của thế giới tiến bộ và văn minh là thời điểm lấy ý kiến toàn dân về sửa đổi Hiến Pháp. Biết bao tâm huyết và trí tuệ chân thành, thẳng thắn góp vào chuyện quốc gia đại sự này đã bị lãng phí một cách vô ích mà Kiến nghị của giới trí thức, nhân sĩ (gọi tắt là Kiến nghị 72) góp vào xây dựng Hiến Pháp là một bằng chứng sống động.
Phải chăng người ta muốn noi theo cách hành xử của Tập Cận Bình khi ông ta khẳng định: “Tôi cho rằng điều kiện hiện nay cũng giống trước kia, thời cơ vẫn chưa chín muồi. Tình hình trong và ngoài nước hiện nay chỉ cho phép chúng ta dùng “liệu pháp giữ nguyên”, hơn nữa duy trì được hiện trạng cũng là tốt lắm rồi, thực ra duy trì được cũng không phải dễ dàng. Bởi vậy, tôi chỉ có thể nhắc lại “ba tin tưởng” [tin vào đường lối, tin vào lý luận, tin vào chế độ] mà thực sự không thể đụng tới cải cách thể chế chính trị hoặc ít nhất hiện nay không được đụng tới”.
Không được đụng tới vì chính đây là tử huyệt của chế độ toàn trị phản dân chủ đang thống trị Trung Quốc.
Nếu điều dẫn ra ở trên đúng là tư tưởng của người giữ vai trò nguyên thủ của đất nước Trung Hoa thì rất đáng phải suy nghĩ về tác động không nhỏ của tư tưởng này đối với một số ai đó đang nuôi dưỡng ảo mộng “đi với Trung Quốc thì bảo vệ được đảng, giữ được chế độ XHCN”!
Họ không dám nhìn thẳng vào sự thật là khi Trung Quốc diễu võ dương oai bên ngoài là nhằm đánh lạc hướng những mâu thuẫn gay gắt bên trong, nhằm che lấp những giằng xé đấu đá trong nội bộ đảng cầm quyền, những mâu thuẫn trong xã hội, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo đang ngày càng gay gắt, đẩy tới nguy cơ bùng nổ. Ngoài ra, những chỉ số giảm sút về tăng trưởng kinh tế và sự kiện hệ thống ngân hàng tiếp tục tài trợ cho các dự án quốc doanh thua lỗ nặng đã cho thấy Trung Quốc đang trên đà suy thoái khó lòng cứu vãn.
Như vậy, vội vã hớp lấy “liệu pháp giữ nguyên” của Trung Quốc, để rồi “thực sự không thể đụng tới cải cách thể chế chính trị hoặc ít nhất hiện nay không được đụng tới”, chính là ngăn chặn sự phát triển của đất nước, duy trì sự lạc hậu và lạc điệu với thế giới để “ông bạn láng giềng”dễ bề thao túng chứ không có gì khác.
Đây là ý đồ thâm hiểm của một bộ phận trong giới cầm quyền Bắc Kinh đang thực thi âm mưu bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán.
Nếu tìm được người cùng hội cùng thuyền, cùng chung cái gọi là “ý thức hệ” thì “dễ mưu tính” như cách Ô Mã Nhi xưa kia mưu toan, sẽ không phải điều binh khiển tướng hết sức tốn kém, lại phải đương đầu với cả thế giới, nhưng vẫn tháo gỡ được cái xương đang mắc ngang cổ họng khiến khó nuốt trôi được cả vùng tài nguyên và con đường huyết mạch ở Biển Đông và khu vực Đông Nam Á.
Lựa chọn “liệu pháp giữ nguyên” của Trung Quốc cũng là quên mất rằng một khi “điểm tựa duy nhất” này sụp đổ chế độ ăn theo cũng sẽ không thể thoát khỏi cùng chung số phận.
Nếu Việt Nam quyết liệt cải cách thể chế, thực thi dân chủ hóa, định hình một mô hình phát triển,sẽ tạo ra một nội lực hùng hậu, nhân tố quyết định thành công của hoạt động đối ngoại và làm phá sản thủ đoạn “bất chiến tự nhiên thành” trong mưu đồ nham hiểm của Trung Quốc. Vì thế, Trung Quốc sẽ ra sức ngăn cản Việt Nam thực hiện điều này.
“Chỉ có thể tạo được thế đứng khi Việt Nam thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, vứt bỏ cái mũ kim cô mà chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang cố thít chặt để dễ bề kiềm tỏa và thao túng. “
Giáo sư Tương Lai
Ngăn cản còn là vì họ không muốn có hình ảnh một quốc gia quyết tâm cải cách thể chế, thực thi dân chủ ở sát nách họ! Hình ảnh này sẽ khơi gợi và thúc đẩy thêm phong trào đấu tranh dòi dân chủ và nhân quyền trong đất nước họ. Một Mianma láng giềng là đã quá đủ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc đang cố duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ.
Cho nên, nếu soi kỹ những phản ứng của họ tại Diễn đàn Shangri-La vừa rồi sẽ hiểu rõ chúng ta cần phải làm gì trong những hoạt động đối ngoại sắp tới.
Đương nhiên, không chịu làm một quân cờ trên bàn cờ quốc tế trong cuộc chơi của các nước lớn không có nghĩa là co mình lại, không dám chủ động tạo ra một thế liên kết mới trên trường quốc tế. Chính mối liên kết đó sẽ tạo nên một thế đứng Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á-Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
Chỉ có thể tạo được thế đứng ấy khi Việt Nam thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, vứt bỏ cái mũ kim cô mà chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang cố thít chặt để dễ bề kiềm tỏa và thao túng. Chẳng thế mà Trung Quốc đã không úp mở vừa dụ dỗ vừa đe dọa khi Việt Nam thiết lập một quan hệ mới với Mỹ và các nước phương Tây cho dù Việt Nam đứng vững trên tư thế độc lập để thực thi một chính sách đối ngoại thân thiện và bình đẳng với tất cả các nước, trong đó có Trung Quốc.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã từng thực hiện việc “giải Hán hóa” một cách khôn ngoan để gìn giữ bản sắc văn hóa Việt. Ấy vậy mà, đúng như Trần Quốc Vượng nhận xét, “cuộc đấu tranh giữa mô hình dân tộc và mô hình kiểu Tàu cho đến khi phong kiến hết thời vẫn chưa chấm dứt…”. Trong cuộc đấu tranh ấy, “tìm về dân tộc” và “thân dân” là phương cách hiệu nghiệm nhất để thực hiện việc “giải Hán hóa”, và hôm nay là việc thoát ra khỏi cái quỹ đạo Trung Quốc để đến với thế giới văn minh, tiến bộ.
Vì thế, xin mượn cách diễn đạt (và chỉ là cách diễn đạt thôi) của Lê Quý Đôn trong “Quần thư khảo biện” nhằm thâu tóm những nghĩ suy và dẫn giải dài dòng trên đây nhân chuyến công du sắp tới của ông Chủ tịch Nước để chỉ dồn vào một chữ, như Lê Quý Đôn đã viết:
“Kinh Dịch nói: Biến động trong thiên hạ chính đáng chỉ có một [lý] thôi. Chí lý thay chữ ‘một’. Lấy chữ ‘một’ ấy mà xuyên suốt mọi việc thì dù bốn bể chín châu cách trở, ngàn xưa trăm đời xa xôi, mọi trao qua đổi lại, mọi xem xét đánh giá đều vẫn rõ ràng như bày ra trước mắt, rành rọt như trỏ bàn tay vậy”!
Chữ “một” đây chính là “DÂN CHỦ”.
Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong riêng của tác giả, cựu Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam.

Vào ngày 22/07/2013 tới đây, một phái đoàn người Việt sẽ họp với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ba ngày trước khi tổng thống Barack Obama tiếp chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang tại Nhà trắng ngày 25/07/2013. Phái đoàn gồm khoảng 20 người am tường về tình hình của các tôn giáo bị áp ở Việt Nam, như Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo, Phật Giáo Thống Nhất, Tin Lành, Hồi Giáo. Không những vậy họ còn đại diện cho các sắc dân bản địa Khmer Krom, Tây Nguyên, Hmong và Chăm.
Cuộc họp này đã được sắp xếp từ trước, trong khuôn khổ theo kế hoạch vận động chính giới Hoa Kỳ kéo dài hai năm 2013-2014 để họ lưu tâm đến vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Nhưng chuyến đi của chủ tịch Trương Tấn Sang đến Hoa Kỳ là dịp để các tổ chức, hội đoàn người Việt kêu gọi tổng thống Barack Obama lên tiếng mạnh mẽ về tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam.
Ban Việt ngữ RFI mời quý thính giả và các bạn theo dõi bài phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc tổ chức BP SOS.
|
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng 18/07/2013
|
Thỉnh nguyện thư do Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS khởi xướng trên trang Change.org của Tòa Bạch Ốc kêu gọi chính quyền của Tổng thống Obama yêu cầu Việt Nam phải cải thiện nhân quyền trước khi mở rộng giao thương với Hà Nội.Thỉnh nguyện thư do Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS khởi xướng trên trang Change.org của Tòa Bạch Ốc nhấn mạnh đã đến lúc chính quyền của Tổng thống Obama phải đảo lại trật tự ưu tiên, yêu cầu Việt Nam phải cải thiện nhân quyền trước khi mở rộng giao thương với Hà Nội.
Thỉnh nguyện thư trên trang Democracy for Vietnam kêu gọi Tổng thống Obama, với quyết tâm cổ võ dân chủ trên toàn cầu, hãy đứng về phía những nhà hoạt động nhân quyền dũng cảm tại Việt Nam như tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, nhạc sĩ Việt Khang, blogger Điếu Cày, nhà hoạt động chống Trung Quốc Nguyễn Phương Uyên hay Đinh Nguyên Kha, những người bị giam cầm tùy tiện chỉ vì dám bày tỏ quan điểm bất đồng chính kiến.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc điều hành BPSOS, cho biết:
“Tổng thống Obama đã nói sẽ nêu vấn đề nhân quyền với ông Trương Tấn Sang khi hai nguyên thủ quốc gia gặp nhau vào ngày 25/7. Mục đích của chúng tôi là vận động để ông Obama trình bày một số trường hợp rất cụ thể thay vì chỉ nói chung chung về vấn đề nhân quyền Việt Nam. Chúng tôi muốn Tòa Bạch Ốc có một danh sách cụ thể các tù nhân lương tâm và thỉnh nguyện thư này kêu gọi Tổng thống Obama yêu cầu Chủ tịch Việt Nam trả tự do cho một số tù nhân trong danh sách đó. Hiện nay chúng tôi đang muốn thúc đẩy cho ba trường hợp nổi bật là tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cày, và Tạ Phong Tần.”
Các thỉnh nguyện thư tố cáo Hà Nội thời gian gần đây không ngừng leo thang đàn áp những tiếng nói bất đồng quan điểm với nhà nước, bắt bớ rất nhiều blogger và những nhà hoạt động chính trị cũng như tăng cường kiểm soát internet, giới hạn quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, và tự do tụ tập của công dân.
Chỉ tính riêng từ đầu năm tới nay đã có gần 50 nhà cổ xúy dân chủ tại Việt Nam bị giam cầm.
Thỉnh nguyện thư trên trang Democracy for Vietnam.Những người ký tên trong các thỉnh nguyện thư yêu cầu nhà lãnh đạo nước Mỹ dùng chuyến thăm sắp tới của Chủ tịch nước Việt Nam làm cơ hội đề ra các điều kiện rõ ràng buộc Hà Nội phải có tiến bộ trong lĩnh vực bảo vệ quyền làm người. Họ cho rằng một quan hệ Mỹ-Việt bền vững, lâu dài cần đặt nền tảng trên nhân quyền và công bằng xã hội.
Ngoài các thỉnh nguyện thư trên mạng, còn có chiến dịch kêu gọi mọi người viết thư tay gửi thẳng đến các lãnh đạo cao cấp của Hoa Kỳ đề nghị nêu cao vấn đề nhân quyền trong cuộc gặp cấp cao Việt-Mỹ tại Tòa Bạch Ốc vào tuần tới.
Cùng với các thỉnh nguyện thư, hàng loạt các cuộc vận động trong nước Mỹ và quốc tế vận khác cũng đã được khởi động trước chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang đến Mỹ, bao gồm kêu gọi Quốc hội tổ chức thêm các buổi điều trần về nhân quyền Việt Nam.
“Có hai nỗ lực song hành nữa. Thứ nhất, vận động để quốc hội Mỹ lên tiếng trực tiếp với Tổng thống Obama. Bên cạnh đó, chúng tôi phối hợp với các tổ chức nhân quyền của Mỹ và quốc tế để đồng loạt lên tiếng trên công luận cùng đốc thúc Tổng thống Mỹ hãy đòi hỏi những điểm rất cụ thể, mà cụ thể nhất là danh sách tù nhân lương tâm mà Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam trả tự do để chứng tỏ thiện chí cải thiện nhân quyền vốn quá tồi tệ hiện nay làm cản bước tiến hợp tác Việt-Mỹ. Thứ ba tuần tới, sẽ có buổi họp báo ở Quốc hội Mỹ. Hai hôm trước khi ông Sang gặp ông Obama, sẽ có hai văn thư gửi cho Tổng thống. Một từ Hạ viện và chúng tôi hiện đang vận động để có một văn thư tương tự từ các thượng nghị sĩ gửi cho ông Obama để nhắc nhở và đôn đốc.”
Tổ chức BPSOS nói thời gian gần đây, họ đã tiếp xúc với rất nhiều dân biểu và thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thúc đẩy cho Luật nhân quyền Việt Nam được đưa ra biểu quyết sớm ở quốc hội Mỹ, kêu gọi đặt điều kiện nhân quyền vào Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương mà Hoa Kỳ đang thương lượng với Việt Nam.
Ngày 22/7 một phái đoàn khoảng 20 người đại diện cho các tôn giáo khác nhau đang bị đàn áp tại Việt Nam sẽ gặp gỡ giới chức tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ để trình bày về tình trạng đàn áp tôn giáo của Hà Nội và yêu cầu hành pháp Mỹ thúc đẩy Việt Nam trả tự do cho các tù nhân tôn giáo.
Ngoài ra, các kế hoạch tổ chức biểu tình ngay trước Tòa Bạch Ốc trong lúc hai nhà lãnh đạo Việt-Mỹ gặp nhau cũng đang được chuẩn bị. Dự kiến, hàng ngàn người từ khắp các tiểu bang trên nước Mỹ và từ Canada sẽ kéo về thủ đô Washington DC dịp này để phản đối các vi phạm nhân quyền của chính phủ Việt Nam và đánh động sự quan tâm của công luận quốc tế về thành tích nhân quyền xuống cấp của Hà Nội.
Đây là lần đầu tiên ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong cương vị Chủ tịch nước, và cũng là lần thứ hai một Chủ tịch Việt Nam tới Washington.
Vào tháng sáu năm 2007, cựu Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã có chuyến thăm ‘lịch sử’ tới Hoa Kỳ. Trong tất cả các chặng dừng chân của ông Triết tại Mỹ dịp đó đều diễn ra các cuộc biểu tình phản đối, đông đảo nhất là ngay trước Tòa Bạch Ốc.
Vào ngày 25 tháng 7 tới đây, chủ tịch nước Việt Nam ông Trương Tấn Sang sẽ có chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ. Thông cáo của Nhà trắng cho biết cuộc gặp này là cơ hội để hai bên thảo luận nhằm thắt chặt hơn nữa quan hệ đối tác liên quan đến các vần đề chiến lược trong khu vực và cải thiện hợp tác giữa Mỹ và khối Asean. Cũng như vấn đề về nhân quyền, thay đổi khí hậu và thảo thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương cũng sẽ được thảo luận.
Giới blogger và các nhà dân chủ trong nước đánh giá sao về chuyến đi này của chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang? Chia sẻ với chúng tôi, blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, từ Hà nội cho rằng ông không đặt nhiều kỳ vọng lớn lắm cho cuộc gặp này vì khó lòng để có được 1 sự thay đổi sau chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang:
Theo cách nghĩ của tôi , việc ông Trương Tấn Sang đi thăm Mỹ thì chúng tôi là những người trong nước và chúng tôi cũng biết được việc viếng thăm của các ông ấy nhưng chúng tôi cũng không đặt một kỳ vọng nào lớn lắm về những chuyến viếng thăm như vậy.
Tôi còn nhớ năm 2007, ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ, thậm chí người ta còn đề cập đến những phiên tòa như phiên tòa xử “bịt mồm linh mục Thadeus Nguyễn Văn Lý”. Và ông ta khẳng định những phiên tòa mà bịt mồm như thế là không thể chấp nhận được. Thế rồi trở lại Việt Nam thì có những phiên tòa không chỉ bịt mồm mà có bịt tất cả các lối vào các phiên tòa ấy. Cho nên những vấn đề ấy vẫn như thế đối với những bloggers, những người phát biểu những chính kiến không vừa lòng nhà nước vẫn bị bắt bớ và bắt bớ hàng loạt.
Chúng tôi là những người trong nước và chúng tôi cũng biết được việc viếng thăm của các ông ấy nhưng chúng tôi cũng không đặt một kỳ vọng nào lớn lắm về những chuyến viếng thăm như vậy.
– JB Nguyễn Hữu Vinh
Đây là một quá trình dài chứ không phải là một cá nhân hay một nhân vật hay một chuyến đi thăm của một ông Chủ tịch nước, một ông Tổng bí thư hoặc ông nọ, ông kia mà nó có thể tạo ra một sự thay đổi để mà hy vọng. Chúng tôi không có hy vọng như vậy bởi vì đây là sản phẩm của một chế độ, một thể chế, một chính sách của một đảng lãnh đạo chứ không phải một cá nhân nào làm nên điều đó.
Do vậy việc ông Trương Tấn Sang sang Mỹ hay như vừa rồi ông sang Trung Quốc, tôi cảm thấy càng ngày càng thấy nản hơn vì chính sách đối ngoại như thế nên tôi không quan tâm để mà hy vọng có một cái gì đó cho vấn đề nhân quyền hay những vấn đề khác.
Bà Bùi Thị Minh Hằng, một tiếng nói đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam cũng đồng quan điểm như blogger JB Ngyễn Hữu Vinh, bà cho rằng với chuyến thăm Hoa Kỳ lần này, người dân trong nước cũng không có một động thái gì để tin tưởng rằng sẽ có mục tiêu tốt đẹp, bà cho biết:
Liên tiếp trong những ngày vừa qua thì những nhà lãnh đạo của Việt Nam thi nhau đi công du các nước. Trước chuyến đi Mỹ của chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì ông ta đã qua thăm Trung Quốc trước.
Rõ ràng người dân Việt Nam thấy rất thất vọng bởi vì ngay sau chuyến viếng thăm Trung Quốc thì đã có câu trả lời cho nhân dân Việt Nam : đấy là những cuộc tấn công của những tàu Trung Quốc vào ngư dân Việt Nam. Điều đó cho ta thấy là nhà cầm quyền Việt Nam đã bị lún quá sâu vào sự quị lụy đối với nhà cầm quyền Trung Quốc.
Theo đánh giá của tôi thì chuyến đi của ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam và cân bằng quan hệ với Trung Quốc.
– LS Nguyễn Văn Đài
Trong chuyến đi Mỹ tới đây, nhân dân Việt Nam ở trong nước có lẽ sẽ không có một động thái gì để mà tin tưởng là sẽ có một mục tiêu tốt đẹp; sẽ không có một sự thay đổi nào đối với xã hội Việt Nam trong tình cảnh hiện nay. Những động thái cho thấy là họ hoàn toàn không muốn thay đổi theo cái hướng dân chủ và tốt đẹp đối với người dân. Do vậy trước chuyến đi của chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì người dân đều có những dư luận phán đoán nó sẽ là những cuộc mặc cả về dân chủ thì đúng hơn là sự cải thiện về dân chủ.
Đối với những người hoạt động nhân quyền như LS Nguyễn Văn Đài thì ông mong rằng chuyến đi này của ông Trương Tấn Sang sẽ giúp cải thiện nhân quyền cho Việt Nam, ông chia sẻ:
Theo đánh giá của tôi thì chuyến đi của ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam và cân bằng quan hệ với Trung Quốc. Như chúng ta đã biết, một trong những trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt nam và Hoa Kỳ là vấn đề nhân quyền. Trong suốt từ năm 2007 đến nay thì mỗi một năm trôi qua, Việt Nam lại gia tăng đàn áp nhân quyền đối với người dân rất là cao.
Đặc biệt trong những tháng đầu năm nay thì đã có đến khoảng 40 người bị xét xử và cầm tù, có ngưới với mức án cao nhất là chung thân và tổng cộng lên đến hàng trăm năm tù. Đối với những người hoạt động nhân quyền và thúc đẩy tiến trình dân chủ ở Việt Nam như chúng tôi thì chúng tôi cũng mong rằng việc ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm mang lại sự cải thiện tình trạng nhân quyền ở Việt Nam, nhằm giúp cho tất mọi người dân Việt Nam có được bầu không khí chính trị cởi mở hơn và từ đó sẽ là bước đệm để mở ra một kỷ nguyên mới cho Việt Nam trong việc hội nhập quốc tế cũng như là cải cách dân chủ.
Được biết nhân chuyến thăm Hoa Kỳ lần này, đã có ít nhất 2 thỉnh nguyện thư đã được phát động trên mạng, nhằm thu hút chữ ký của hàng ngàn người cả trong lẫn ngoài nước, để kêu gọi TT Hoa Kỳ đặt nhân quyền Việt Nam là ưu tiên trên các vấn đề về mậu dịch với Việt Nam. Ngoài các thỉnh nguyện thư trên mạng, còn có chiến dịch kêu gọi mọi người viết thư tay gửi thẳng đến các lãnh đạo Hoa Kỳ, đề nghị nêu vấn đề nhân quyền trong cuộc gặp cấp cao Việt-Mỹ tại Tòa Bạch Ốc vào tuần tới.Đây là lần đầu tiên ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong cương vị Chủ tịch nước, và cũng là lần thứ hai một Chủ tịch Việt Nam tới Washington.
Chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng, trong phát biểu bế mạc kỳ họp lần thứ 5, quốc hội khóa 13 vào chiều ngày 21 tháng 6 vừa rồi thông báo là sẽ tiếp nhận góp ý về Hiến pháp cho đến ngày 30 tháng 9 năm nay.
Liệu sẽ có đóng góp như đợt vừa qua hay không?
Không lắng nghe
Vào cuối năm ngoài, ông Phan Trung Lý, chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật quốc hội, trưởng ban biên tập sửa đổi hiến pháp năm 1992 lên tiếng kêu gọi toàn dân góp ý kiến cho lần sửa đổi hiến pháp kéo dài từ đầu tháng giêng cho đến ngày cuối tháng 3. Ông nhấn mạnh rằng trong lần góp ý này sẽ không có ‘vùng cấm nào’ cả.
Ngay sau khi có lời kêu gọi như thế, một nhóm 72 nhân sĩ trí thức của Việt Nam đã đưa ra một kiến nghị góp ý dự thảo sửa đổi hiến pháp mà nhiều người thường gọi tắt là Kiến nghị 72.
Sau đó một nhóm gồm 15 vị đại diện của 72 nhân sĩ trí thức vào ngày 4 tháng 2 đã đến tại nơi được gọi là Địa điểm tiếp nhận ý kiến của nhân dân góp ý cho dự thảo sửa đổi hiến pháp tại Văn phòng Quốc hội để trao bản kiến nghị đã được soạn thảo. Bản kiến nghị 7 điểm được giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học- Xã hội Việt Nam cho là được soạn thảo một cách công phu và đầy tâm huyết:
Ông TBT Nguyễn Phú Trọng, rồi CTQH Nguyễn Sinh Hùng có những phát biểu công khai cho rằng việc đòi hỏi đa nguyên-đa đảng, tam quyền phân lập như thế là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng… Truyền thông chính thống của Nhà nước cũng được huy động để làm suy yếu nhóm 72 nhân sĩ trí thức.
Chuyện góp ý xây dựng Hiến pháp, chúng tôi trong Kiến nghị 72 cũng dày công lắm. Chúng tôi phải soạn đi, soạn lại để đề ra 7 điểm sửa đổi. Ngoài ra, chúng tôi cũng đề ra một Hiến pháp mà theo quan niện của chúng tôi dựa vào thành tựu của nền văn minh mà loài người đã đạt được về mặt pháp luật để soạn ra bản mang tính chất tham khảo. Như vậy việc làm của chúng tôi rất thành tâm, rất nghiêm túc.

Tiếp theo đó là những thư góp ý của một số lãnh đạo tinh thần tôn giáo như của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Rồi Tuyên bố của những công dân tự do đòi hỏi phải có một hiến pháp đúng nghĩa, trong đó không còn sự độc tôn của đảng cộng sản, tam quyền phải phân lập và người dân phải được quyền phúc quyết hiến pháp.
Không chỉ các tổ chức mà ngay cả một số cá nhân cũng có thư ngỏ gửi đến các đại biểu quốc hội như của nhà giáo tự do Nguyễn Hữu Hoàn ở thành phố Hồ Chí Minh.
Những đóng góp được cho là mạnh mẽ, triệt để và tâm huyết như thế làm cho những người quan tâm khá nức lòng. Tuy nhiên, chính những vị lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng như ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, rồi chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng có những phát biểu công khai cho rằng việc đòi hỏi đa nguyên- đa đảng, tam quyền phân lập như thế là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng… Truyền thông chính thống của Nhà nước cũng được huy động để làm suy yếu nhóm 72 nhân sĩ trí thức. Và rồi tại kỳ họp quốc hội khóa 5 kéo dài từ ngày 20 tháng 5 đến 21 tháng 6, Ban biên tập đã trình quốc hội một bản dự thảo hiến pháp sửa đổi mà nhiều người cho là không có gì mới; thậm chí còn có những điểm thụt lùi.
Tiến sĩ Hoàng Dũng, thuộc Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, hồi ngày 7 tháng 6 sau khi có bản dự thảo trình quốc hội nói về bản dự thảo đó như nhau:

Có thể nói dự thảo trình cho quốc hội ‘lạ lùng’. Có những người trong ban dự thảo như ông Trần Du Lịch nói công khai không biết chuyện đó. Ngày hôm qua tôi gặp nhà văn Nguyên Ngọc cũng nói với tôi là ông Dương Trung Quốc la lên không biết chuyện đó. Cả hai ông Trần Du Lịch và Dương Trung Quốc đều là thành viên Ban Dự thảo; vậy bản dự thảo đó ai quyết định? Họ làm việc theo nguyên tắc nào mà thành viên trong Ban dự thảo lại không biết?
Tôi biết trước rằng người ta khó có thể chấp nhận một điểm nào trong 7 điểm đó chứ chưa nói cả 7 điểm. Nhưng tại sao chúng tôi làm? Chúng tôi làm vì đây là biểu thị thái độ và muốn đóng góp trí tuệ, tâm huyết của người trí thức đối với vận mệnh của đất nước
giáo sư Tương Lai
Trách nhiệm góp ý
Diễn tiến đó đúng như nhận định của giáo sư Tương Lai. Ông nhắc lại những vị nhân sĩ trí thức đưa ra bản kiến nghị vì ý thức được trách nhiệm của người trí thức đối với đất nước như câu nói tại Việt Nam ‘Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách’; chứ khả năng được lắng nghe trọn vẹn theo ông cũng không cao lắm. Ông nói:
Tôi biết trước rằng người ta khó có thể chấp nhận một điểm nào trong 7 điểm đó chứ chưa nói cả 7 điểm. Nhưng tại sao chúng tôi làm? Chúng tôi làm vì đây là biểu thị thái độ và muốn đóng góp trí tuệ, tâm huyết của người trí thức đối với vận mệnh của đất nước. Và đó là sứ mạng cao nhất của người nếu tự nhận là người có học để có chút ít tri thức để đóng góp cho đất nước. Chúng tôi là rất nghiêm túc, và không ảo tưởng chút nào; nên chúng tôi không mấy ngạc nhiên khi bị từ chối thẳng thừng.
Hệ quả
Tuy vậy vào ngày 3 tháng 7, nhóm các nhân sị trí thức cùng ký tên trong Kiến nghị 72 và những vị khác có thư góp ý tiếp về hiến pháp và luật đất đai. Trong thư mới này những vị nhân sĩ trí thức đưa ra hai điểm chính: thứ nhất là hiến pháp cần phải được toàn dân phúc quyết; thứ hai trong hiến pháp mới vấn đề đất đai cần phải được qui định sở hửu đa thành phần.
Theo góp ý mới không nên vội vàng trong việc sửa đổi hiến pháp mới qua qui định hạn cuối như từng đưa ra lâu nay mà phải làm khi có mọi sự chuẩn bị sẵn sàng.
Phía những người dân thì lại có ý kiến quốc hội chẳng nghe trong đợt góp ý vừa qua thì nay góp ý thêm cũng chẳng được gì.
Một người dân từng có thư ngỏ gửi cho các đại biểu quốc hội trước kỳ họp thứ 5 vừa rồi, ông Nguyễn Hữu Hoàn, sau khi quốc hội kết thúc khóa họp tỏ ra chán nản vì những lời góp ý chân thành cho tình hình đất nước không được mảy may quan tâm:
Chán rồi chẳng muốn góp ý gì; các ông muốn làm sao thì làm chứ. Bây giờ quyền trong tay ‘các ông’ ấy; đảng lãnh đạo nên muốn làm gì thì làm; tôi cũng chẳng quan tâm nữa. Nói chẳng được gì, nói như đấm bị bông
ông Nguyễn Hữu Hoàn
Chán rồi chẳng muốn góp ý gì; các ông muốn làm sao thì làm chứ. Bây giờ quyền trong tay ‘các ông’ ấy; đảng lãnh đạo nên muốn làm gì thì làm; tôi cũng chẳng quan tâm nữa. Nói chẳng được gì, nói như đấm bị bông.
Ngoài thái độ chán nản, mặc kệ như thế, theo giáo sư Tương Lai hiện đã manh nha ‘sự nổi giận’ của người dân khi những quyền lợi căn bản của họ bị tước đoạt một cách bất công, nhất là đất đai. Ông cho biết:
Sắp tới đây khi mà Quốc hội thông qua Hiến pháp, tôi đang sợ có một điểm nữa là Luật đất đai mà vừa rồi trước áp lực của công luận; nhất là nguyện vọng của người nông dân- những ‘bàn chân nổi giận’ của người nông dân đã xuống đường khiếu kiện và nhiều nơi người ta biểu tỏ một thái độ rất quyết liệt không nhân nhượng trong chuyện để người ra cướp đất để dành vào những qui hoạch nào đó, mà theo người ta dành ưu tiên cho một số người nào đó đang có quyền và đang có lợi ích.
Những bàn chân nổi giận đó khiến cho quốc hội vừa rồi không thông qua Luật Đất đai; nhưng nếu không có tiếng nói mạnh mẽ, người ta sẽ nhập nhằng thông qua vào dịp thông qua Hiến pháp.
Giáo sư Tương Lai cho rằng nếu tỏ ra thất vọng, buông xuôi là một thái độ thụ động, sai trái. Mọi người cần thức tỉnh, và hiểu rằng công cuộc đấu tranh phải lâu dài. Một khi dân trí được nâng cao, tất cả cùng ý thức và đoàn kết lại thì chắc chắn họ sẽ đạt được nguyện vọng đổi thay như mong đợi
Đợt góp ý cho dự thảo sửa đổi hiến pháp từ ngày 2 tháng giêng cho đến ngày 31 tháng 3 vừa qua đã kết thúc và những ý kiến của những nhóm và tổ chức trong xã hội vẫn không được lắng nghe; thế nhưng hồi ngày 8 tháng 5, một công dân đảng viên 93 tuổi, từng là một trung đoàn trưởng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một cán bộ với chức vụ cao nhất là Cục trưởng- ông Đặng Văn Việt, lại có thư ngỏ góp ý về sửa đổi hiến pháp Việt Nam kỳ này.
Bức thư ngỏ của ông nhận được nhiều phản hồi tích cực cả trong và ngoài nước.
Điểm không tiến bộ của hiến pháp
Gia Minh hỏi chuyện ông Đặng Văn Việt về một số ý chính trong thư ngỏ góp ý của ông. Trước hết ông cho biết nhận xét về những điểm tích cực trong hiến pháp đầu tiên của Việt Nam so với hiến pháp 1992:
Tôi không phải là nhà chính trị, tôi không đi sâu vào vấn đề chính trị nhưng tôi có đọc bản hiến pháp đầu tiên của Việt nam và thấy thế này: thời kỳ đó Bác Hồ và một số người nghiên cứu soạn ra hiến pháp đó và thông qua quốc hội; hiến pháp đó có đặt vấn đề một cách sâu sắc về vấn đề đảng can thiệp vào nội bộ của hiến pháp. Nhưng từ năm 1992 trở đi vai trò của đảng ở trong nước càng mạnh, cho nên những nhà lãnh đạo đảng cộng sản thêm điều 4 vào hiến pháp, và đặt quốc hội dưới sự kiểm soát của đảng.
Điều nghiêm trọng của hiến pháp năm 1992 có điều nghiêm trọng ở chỗ: tự nhiên hiến pháp của một nước là luật chung cho cả một thời đại của cả một nước ở một giai đoạn dài lại có một đảng chen vào và khống chế mọi hoạt động của quốc hội. Đó là điểm không tiến bộ của hiến pháp sau so với hiến pháp đầu là ở chỗ ấy.Trong bài tham luận của tôi vừa rồi tôi có nói: bỏ điều 4 đi vì điều 4 không hợp hiến và không hợp pháp. Vì lòng thành thực đối với chế độ và tương lai của đất nước mà tôi đã góp ý cho sửa đổi hiến pháp.
Gia Minh: Theo ông vì sao người ta lại đưa ra lời kêu gọi mọi người dân góp ý cho bản dự thảo sửa đổi hiến pháp lần này?

Ông Đặng Văn Việt: Về mặt bề sâu tôi không rõ; nhưng theo tôi nghĩ đây là một chủ trương của đảng và nhà nước khi mà tình hình trong nước có những thay đổi, biến động, nhiều dư luận trong quần chúng, cho nên những người lãnh đạo nhà nước đặt vấn đề bổ sung và sửa đổi hiến pháp. Vấn đề chính là thế thôi: vấn đề chính trị đòi hỏi phải có những thay đổi trong hiến pháp.
Gia Minh: Nhưng sau một thời gian thu thập ý kiến đóng góp, bản dự thảo sửa đổi trình cho quốc hội đợt vừa rồi không có gì thay đổi hết, thậm chí còn có những điểm còn bị cho là lạc hậu hơn hiến pháp cũ. Vậy theo ông, chuyện thực tâm nghe ngóng các ý kiến đóng góp là thế nào?
Ông Đặng Văn Việt: Theo tôi dân chủ, một đất nước có dân chủ là rất quan trọng. Dân chủ tức lấy ý kiến của đông đảo mọi người, những trí tuệ lớn nhất của dân tộc góp ý cho sửa đổi hiến pháp. Những người lãnh đạo phải có đầu óc sáng suốt nghiên cứu và tiếp thu vận dụng. Còn nếu như góp hằng triệu ý kiến mà đâu lại vào đấy thì thật là vô duyên, làm một việc lãng phí vô ích, không coi trọng cá ý kiến. Tất nhiên, đa số những người không biết gì vẫn không biết gì; nhưng đối với thiểu số những người có trí tuệ nhất phải suy nghĩ cái nào đáng tiếp thu, cái nào không đáng tiếp thu.
Sự tồn tại của chế độ này là có biết tiếp thu tiến bộ để sửa đổi hay không. Nếu không tiếp thu nổi, tự mình đi vào con đường tiêu hủy, diệt vong.
Ông Đặng Văn Việt
Nếu nói ý kiến của đa số đồng ý như cũ, mà đa số đó là những công nhân, nông dân. Họ là những người không có kiến thức gì mấy về hiến pháp. Nếu kết luận ý kiến đa số đồng ý như cũ; không nên làm việc này làm gì; vừa mất thì giờ, vừa tốn tiền, tốn của, tốn sức!
Sự tồn tại của chế độ này là có biết tiếp thu tiến bộ để sửa đổi hay không. Nếu không tiếp thu nổi, tự mình đi vào con đường tiêu hủy, diệt vong. Xã hội có qui luật chứ không phải ai muốn gì cũng được đâu. Những triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn đều có những ông vua khai quốc công thần là những vị anh hùng hào kiệt; đến cuối triều đại do những người thừa hưởng không qua rèn luyện, không qua thử thách, rồi hưởng thụ nhiều quá, biến chất thoái hóa.
Chế độ càng thoái hóa, càng suy sụp và đi đến chỗ sụp đổ. Như nhà Lê, nhà Lý rất thịnh vượng, nhân dân rất sùng bái. Nhưng cuối triều Lê, Lê Chiêu Thống mời quân Thanh sang xâm lăng đất nước; thì Quang Trung phất cờ giải phóng dân tộc; nhân dân quay sang ủng hộ Nguyễn Huệ mà không ủng hộ nhà Lê nữa. Đó là qui luật, và thời đại ngày nay cũng vậy. Chế độ cộng sản có nhiều công trong việc giải phóng dân tộc; nhưng hiện nay có nhiều điều lạc hậu và thoái hóa; nhân dân góp ý để đảng sửa đổi những điều lạc hậu để giữ được vai trò lãnh đạo; chứ không phải tự rời vai trò, ‘ghế’ lãnh đạo. Nếu những người lãnh đạo có ý thức muốn giữ vai trò lãnh đạo thì phải nghe những ý kiến đúng, tiếp thu những ý kiến đúng để sửa đổi. Và là một cơ hội cho đất nước Việt Nam từ lạc hậu thành một nước tiền tiến về chính trị và đưa đất nước tiến lên.
Gia Minh: Xin cám ơn ông.
Bang giao Mỹ-Việt đang có những chuyển động đáng chú ý với sự kiện nổi bật vừa được xác nhận : Nhà Trắng sẽ đón chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vào ngày 25/07/2013. Chuyến đi này được cho là thời cơ thuận lợi để Việt Nam tăng cường quan hệ với Mỹ, nhất là trong lãnh vực an ninh quốc phòng vào lúc Washington tỏ rõ trở lại thái độ quan ngại trước các hành động o ép láng giềng – trong đó có Việt Nam – mà Bắc Kinh vẫn tiến hành ở Biển Đông.
Hôm 11/07/2013, do một trùng hợp ngẫu nhiên hay tính toán ngoại giao kỹ lưỡng, Nhà Trắng Hoa Kỳ cùng lúc chính thức nêu bật thái độ quan tâm đến vùng châu Á với thông báo về việc Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ đón tiếp chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, bên cạnh cảnh báo Trung Quốc là không nên sử dụng các biện pháp cưỡng ép hay hù dọa trong tranh chấp biển đảo với các lân bang.
Trong bản thông cáo về chuyến công du của ông Trương Tấn Sang, Thư ký Báo chí phủ Tổng thống Mỹ đã nêu bật nội dung các vấn đề sẽ được hai bên bàn bạc nhân cuộc gặp thượng đỉnh ngày 25/07 tại Nhà Trắng : « Cách thức tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác (song phương) về các vấn đề chiến lược trong khu vực và tăng cường hợp tác với ASEAN ; nhân quyền ; những thách thức đang nổi lên như biến đổi khí hậu ; và tầm quan trọng của việc hoàn tất một thỏa thuận Đối tác xuyên Thái Bình Dương với tiêu chuẩn cao ».
Trong cùng một ngày, Nhà Trắng cũng công bố bản lược ghi về phát biểu của Tổng thống Obama trong buổi hội kiến đặc biệt với Phó Thủ tướng Trung Quốc Uông Dương và Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc đặc trách đối ngoại Dương Khiết Trì, nhân dịp hai nhân vật này đến Washington đồng chủ trì cuộc Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung thường kỳ.
Đáng chú ý trong các vấn đề được nêu lên với hai lãnh đạo Trung Quốc là lời kêu gọi của Tổng thống Mỹ đối với Bắc Kinh liên quan đến việc giải quyết tranh chấp biển đảo tại châu Á : « Tổng thống (Hoa Kỳ) thúc giục Trung Quốc xử lý các tranh chấp trên biển với các láng giềng một cách hòa bình, không dùng đến các biện pháp cưỡng ép hay hù dọa ».
Động thái của Hoa Kỳ quan tâm trở lại đến Biển Đông đã được giới quan sát đặc biệt chú ý vì lẽ một vài tháng sau khi Ngoại trưởng John Kerry lên thay thế bà Hillary Clinton, ngành ngoại giao Mỹ như đã có dấu hiệu tương đối lơ là khu vực Đông Nam Á trước sức ép của các hồ sơ nặng ký khác như các hành động hung hăng của Bắc Triều Tiên, tình hình căng thẳng Trung-Nhật trên Biển Hoa Đông, và nhất là các vấn đề nóng bỏng tại vùng Trung Cận Đông.
Một loạt những cuộc tiếp xúc cấp cao Mỹ Việt trong hai tháng
Riêng đối với Việt Nam, sau một vài tháng im ắng, Hoa Kỳ đã có những biểu hiện tích cực hơn, với những cuộc gặp song phương giữa các lãnh đạo bên lề các hội nghị khu vực.
Cụ thể là vào ngày 31/05/2013, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã có cuộc tiếp xúc với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng bên lề Đối thoại Shangri-la tại Singapore. Theo các nguồn tin báo chí, trong số những hồ sơ được hai bên đề cập đến, có vấn đề quan hệ quốc phòng quân sự Mỹ-Việt.
Quan hệ giữa hai quân đội sau đó cũng đã được Tổng tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam bàn bạc với phía Mỹ vào hạ tuần tháng Sáu 2013, nhân dịp Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ được tiếp đón tại Lầu Năm Góc Mỹ. Được biết là tháp tùng theo tướng Đỗ Bá Tỵ nhân chuyến ghé thăm Lầu Năm Góc đầu tiên của một người đứng đầu Quân đội Nhân dân Việt Nam, còn có hai lãnh đạo cao cấp ngành Tình báo Quân đội và Hải quân Việt Nam.
Trên bình diện ngoại giao cũng thế, đầu tháng Bẩy 2013, như thông lệ từ thời cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton, ông John Kerry đã đến Brunei tham gia các Hội nghị Ngoại trưởng thường niên do khối ASEAN tổ chức. Và cũng như thông lệ từ thời bà Clinton, cùng với năm đồng nhiệm Việt Nam, Lào, Cam Bốt, Thái Lan và Miến Điện, tân Ngoại trưởng Mỹ đã tham gia liên tiếp hai cuộc họp của nhóm Sáng kiến vùng Hạ nguồn Mêkông (Lower Mekong Initiative) và nhóm Bạn của khối Sáng kiến vùng Hạ nguồn Mêkông (Friends of Lower Mekong Initiative), được tổ chức bên lề Hội nghị Ngoại trưởng Đông Nam Á.
Riêng đối với Việt Nam, ngày 02/07/2013, bên lề hội nghị ngoại trưởng của Diễn đàn An ninh Khu vực ARF ở Brunei, ông John Kerry đã có cuộc hội đàm riêng với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh để thảo luận về các vấn đề song phương cũng như khu vực và thế giới. Trước đó, Ngoại trưởng Mỹ còn cho biết là sắp tới đây, ông sẽ công du Việt Nam.
Chủ tịch Việt Nam đến Nhà Trắng vào lúc Mỹ tái khẳng định mối quan tâm đến Biển Đông
Chuyến công du Hoa Kỳ sắp tới đây của chủ tịch nước Việt Nam phải được lồng vào trong bối cảnh Washington tái khẳng định mối quan tâm đối với khu vực Đông Nam Á, với tình hình ổn định ngoài Biển Đông nói chung, và với Việt Nam nói riêng như kể trên.
Theo ghi nhận của giáo sư Ngô Vĩnh Long, thường xuyên theo dõi các vấn đề quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và Trung Quốc, đặc biệt trong tương quan với hồ sơ tranh chấp Biển Đông, lúc này, Việt Nam đang có thời cơ thuận lợi để củng cố thêm quan hệ với Mỹ nhằm giải tỏa sức ép của Bắc Kinh, đặc biệt nặng nề trên vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo.
Trả lời phỏng vấn của RFI, giáo sư Long trước hết nêu bật vi trí địa lý chiến lược quan trọng của Việt Nam trong chính sách xoay trục qua châu Á Thái Bình Dương đang được chính quyền Obama triển khai.
« Vùng Đông Nam Á rất quan trọng đối với chính sách đối ngoại của Mỹ. Về dân số, Việt Nam lại là nước lớn thứ hai, thứ ba, và là một nước có lãnh thổ, lãnh hải dài nhất trong khu vực Biển Đông. Cho nên khi Mỹ muốn ‘xoay trục’, hay là có một chính sách tích cực hơn ở Á Đông, thì nhất định vai trò của Việt Nam rất quan trọng đối với Mỹ và các nước ở Á Châu… »
Trung Quốc đang trong thế cần đến Mỹ
Cho dù trong những tháng qua, Hoa Kỳ đã liên tiếp tung tín hiệu cho thấy chủ trương thiết lập một quan hệ hòa hoãn hơn với Trung Quốc – mà biểu hiện rõ nhất là cuộc họp thượng đỉnh Obama-Tập Cận Bình thượng tuần tháng Sáu vừa qua tại California – giáo sư Long cho rằng Việt Nam cần tranh thủ thực tế có thể gọi là « Trung Quốc cần Mỹ » vào lúc này để thúc đẩy mạnh mẽ hơn quan hệ với Hoa Kỳ. Ông giải thích :
« Hiện nay Trung Quốc « quậy » rất nhiều ở Biển Đông, và trong khu vực, làm cho hầu hết các nước Á châu lo ngại, trong đó có cả các đồng minh của Mỹ như Nhật, Philippines, và cả Thái Lan, nước gần gũi với Trung Quốc. Gần đây, Indonesia cũng tỏ ra lo ngại.
Trong bối cảnh này và trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc đang bị khó khăn – GDP đang xuống, xuất khẩu chậm lại, đặc biệt đối với Mỹ và Châu Âu – Bắc Kinh cần có quan hệ tốt với Mỹ, vì vậy khó mà bắt nạt các nước khác muốn có quan hệ tốt với Mỹ.
Nếu Việt Nam muốn có quan hệ tốt với Mỹ, và Mỹ muốn có quan hệ tốt với Việt Nam, thì những động thái khiêu khích của Trung Quốc sẽ không có lợi cho họ.
Thật ra từ 2008 đến nay, Hoa Kỳ rất kiên nhẫn với Trung Quốc. Một trong những lý do là vì Hoa Kỳ phải từ từ lo về vấn đề kinh tế trong nước. Hiện nay, kinh tế Mỹ đang hồi phục, mà có thể nói là trong các nước phát triển kinh tế Mỹ đang hồi phục tốt hơn các nước khác.
Mỹ bắt đầu rảnh tay để nghĩ đến châu Á
Lý do thứ hai là Mỹ bận tay ở Trung Đông, đặc biệt là ở Afghanistan. Tôi nghĩ bây giờ là Mỹ đã quyết định rút sớm khỏi Afghanistan. Vì Mỹ có thể rút khỏi Trung Đông, hay dàn xếp được các vấn đề Trung Đông, Mỹ sẽ rảnh tay lo vấn đề Á Châu.
Do đó, Mỹ bây giờ muốn nói với các đồng minh của mình, cũng như với Trung Quốc là Mỹ muốn có ổn định trong khu vực, để khu vực phát triển và điều đó sẽ có lợi cho Mỹ. Nếu Trung Quốc quá khích, Mỹ phải nói rõ cho Trung Quốc biết.
Gần đây Trung Quốc đã quá khích, cho nên tôi nghĩ rằng Mỹ muốn răn đe Trung Quốc, nói rằng ‘anh làm như thế thì lợi ích của tất cả mọi người trong khu vực sẽ bị khó khăn’. »
Xin nhắc lại là hôm 11/07 vừa qua, chính Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có tuyên bố thẳng thắn với Phó Thủ tướng Trung Quốc Uông Dương và lãnh đạo ngành đối ngoại Trung Quốc Dương Khiết Trì, theo đó Bắc Kinh không nên có biện pháp « cưỡng ép hay hù dọa » đối với các nước đang tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.
Để châu Á đừng tưởng lầm là Mỹ ‘đi đêm’ với Trung Quốc
Theo giáo sư Long cho rằng mục tiêu của Washington khi lưu ý Bắc Kinh về tranh chấp biển đảo là nhằm xóa bỏ cảm giác sai lầm của các nước khác tưởng rằng Mỹ « đi đêm » với Trung Quốc.
« Hoa Kỳ không muốn cứng rắn, mà cũng không muốn dọa nạt Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc lại muốn Hoa Kỳ có quan hệ đặc biệt với Trung Quốc, và chứng tỏ quan hệ đó với Trung Quốc.
Trung Quốc đã đe dọa Philippines, gây thêm căng thẳng như bắn vào tàu cá Việt Nam hai, ba lần từ đó đến nay, nếu Mỹ im lặng thì các nước khác trong khu vực và các đồng minh của Mỹ tưởng là Mỹ bây giờ đã ‘đi đêm’ với Trung Quốc, đã đồng ý là có quan hệ đặc biệt với Trung Quốc, không có lợi cho các nước khác trong khu vực, nhất là các nước nhỏ như Philippines, Việt Nam v.v…
Thành ra Mỹ bắt buộc phải nói rõ cho mọi người biết – hay là muốn chứng minh – là không có việc đó, không có việc đi đêm với Trung Quốc, rằng nếu Trung Quốc muốn có quan hệ tốt với Mỹ, thì cũng phải để cho các nước khác có quan hệ tốt với Mỹ… »
Chính sách xoay trục không thay đổi
Đối với giáo sư Long mối quan tâm của Chính quyền Mỹ hiện nay đối với châu Á và Đông Nam Á vẫn cao, không có gì thay đổi so với thời bà Hillary Clinton làm Ngoại trưởng. Riêng Việt Nam còn có thêm hai yếu tố thuận lợi là cả Ngoại trưởng lẫn bộ trưởng Quốc phòng Mỹ hiện thời đều là những nhân vật rất có thiện cảm với Việt Nam :
« Để có thể rảnh tay để tăng cường quan hệ với Đông Nam Á hay là với khu vực Á Châu, Mỹ phải giải quyết các vấn đề khác, những vấn đề cần giải quyết nhanh như ở Trung Đông, hay là một số vấn đề khó khăn với các đồng minh ở Âu Châu – mà Châu Âu bao giờ đối với Mỹ cũng là quan trọng hàng đầu.
Tại Á Châu thì có Nhật. Có lúc Mỹ không lưu ý đến Nhật nhưng bây giờ do vấn đề Nhật Bản căng thẳng với Trung Quốc, Mỹ phải lưu ý đến vấn đề khó khăn của Nhật cũng như khó khăn của Á Châu.
Theo tôi, chính sách của Mỹ, nếu nói trước sau như một thì không đúng, nhưng có bài bản. Chính sách xoay trục qua Á Châu đã được phân tích kỹ trong nhiều năm, chứ không phải là mới…
Nhưng phải nhớ rằng Kerry là người có quan hệ rất tốt đối với Việt Nam trong nhiều năm và đã cùng với nhiều người khác thúc đẩy vấn đề mở cửa với Việt Nam.
Ngoài ra còn có Chuck Hagel. Ông Chuck Hagel cũng là một người ngày xưa đi lính bên Việt Nam, cũng lưu ý đến Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Khi hai người, một ngoại trưởng và một bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ đang nhậm chức có quan hệ tốt với khu vực Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng chính sách của Mỹ không những không thay đổi, mà sẽ phát triển thêm.
Ông Hagel đã đi dự Đối thoại Shangri-la và đã có một số tuyên bố mà theo tôi, mặc dầu cẩn thận, nhưng rõ ràng là nói cho mọi người biết là chính sách của Mỹ không thay đổi. »
Chủ tịch nước Việt Nam phải cố tranh thủ công luận Hoa Kỳ
Trong bối cảnh như kể trên, Việt Nam cần phải khéo tranh thủ thời cơ thuận lợi, thúc đẩy cho quan hệ Việt-Mỹ được tiến triển thêm nhân chuyến đi thăm sắp tới đây của chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Giáo sư Long đặc biệt lưu ý đến nhu cầu tranh thủ được công luận Hoa Kỳ :
« Trước hết ông Trương Tấn Sang là người có trách nhiệm về Quốc phòng Việt Nam, thì lẽ dĩ nhiên chính phủ Mỹ sẽ chú trọng đến việc này. Tôi nghĩ đây là một cái bước thêm vào quan hệ quốc phòng hai nước.
Nhưng theo tôi, là một nguyên thủ quốc gia, ông Sang nên tiến thêm một số bước nữa trong quan hệ kinh tế với Mỹ, và trong các lãnh vực khác. Tôi nghĩ rằng ông Trương Tấn Sang có thể bàn thêm với Mỹ về hồ sơ nhân quyền, và chứng minh với dân chúng Mỹ – vì đây là cơ hội rất tốt – rằng Việt Nam là một nước tôn trọng nhân quyền.
Bởi vì trong vấn đề ngoại giao, thì ngoài ngoại giao giữa hai nước, còn có ngoại giao nhân dân, mà Mỹ là nước dân chủ, cho nên sức ép hay sự ủng hộ của nhân dân rất quan trọng đối với chính phủ Mỹ trong vấn đề ngoại giao.
Thành ra nếu một nguyên thủ, một lãnh tụ nước ngoài khi đến nước Mỹ mà có thể chinh phục được sự ủng hộ của dân chúng Mỹ, thì sẽ là một việc rất quan trọng, không những cho Việt Nam, mà còn cho cả khu vực…
Việt Nam, như chúng ta mới vừa nói, là nước lớn thứ nhì, thứ ba trong khu vực, cho nên phải tỏ rõ vai trò lãnh đạo của mình hay ít ra là vai trò thúc đẩy quan hệ tốt hơn cho khu vực. »
Tóm lại đối với giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyến đi thăm Nhà Trắng của nguyên thủ Nhà nước Việt Nam săp tới đây có thể được coi là một thành công của ngành ngoại giao Việt Nam. Do tình hình đặc thù của Việt Nam, vấn đề là toàn thể giới lãnh đạo tại Hà Nội phải thống nhất được ý kiến trên sự cần thiết phải tăng cường quan hệ với Mỹ.
Theo giới phân tích, nếu chuyến đi thăm Mỹ của chủ tịch nước Trương Tấn Sang thành công, khả năng Tổng thống Mỹ Barack Obama đi thăm Việt Nam trong thời gian ngắn sắp tới đây là một điều có thực.
Nguyễn Hùng, bbcvietnamese.com, 14 tháng 7, 2013

Tin Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ bước vào Nhà Trắng vào ngày 25/7 tới đây được các chuyên gia nhìn nhận với những cách khác nhau nhưng dường như hầu hết đều trông đợi hai nước cựu thù sẽ nâng quân hệ lên tầm cao mới.
Bốn mươi năm sau Hòa đàm Paris, vốn chấm dứt sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam, đây mới chỉ là chuyến thăm chính thức thứ hai của một nguyên thủ quốc gia Cộng sản tới Washington.
Khi tới thủ đô Hoa Kỳ và New York đưa tin về chuyến thăm của Chủ tịch Nguyễn Minh Triết hồi mùa hè năm 2007, tôi có cảm giác nước chủ nhà có sự tế nhị nhất định khi tiếp đón nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam tới thăm.
Những xe với loa cỡ lớn của khoảng vài trăm người Việt Nam biểu tình phản đối ông Triết tại điểm dừng chân đầu tiên của ông ở New York diễn ra khá xa khách sạn nơi ông và phái đoàn ở và không loại trừ khả năng ông Triết không biết tới cuộc biểu tình đó.
An ninh cho người đứng đầu nhà nước Việt Nam cũng được thắt chặt với những xe hộ tống mà trên đó là lực lượng đặc nhiệm với súng ống đầy mình.
Nhưng khi đó Hoa Kỳ cũng gửi tín hiệu rất rõ ràng cho Việt Nam rằng nhân quyền cho người dân Việt Nam và tiếng nói của người Việt ở Hoa Kỳ đóng vai trò quan trọng trong tiến trình bình thường hóa và nâng cấp quan hệ.
Hơn ba tuần trước khi đón ông Triết vào Nhà Trắng hôm 22/6/2007, Tổng thống George W. Bush và Phó Tổng thống Dick Cheney cũng đã gặp gỡ bốn nhà hoạt động trong cộng đồng người Việt hải ngoại ở chính Tòa Bạch Cung.
Bấm Nhóm bốn người bao gồm cả ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch Đảng Việt Tân mà Việt Nam có ý coi là một nhóm ‘khủng bố’.

Ngay trong ngày ông Triết hội đàm với ông Bush ở Nhà Trắng, người Việt từ rất nhiều bang ở Hoa Kỳ đã tới biểu tình đình đám ở ngay phía bên kia đường nhìn sang phủ tổng thống.
Trong khi đó chủ tịch Việt Tân và các nhà hoạt động vì nhân quyền của Việt Nam khác lại được mời vào Nhà Trắng lần hai để được thông báo về nội dung hội đàm giữa ông Bush và ông Triết chỉ năm ngày sau khi cuộc gặp lịch sử diễn ra.
Cách đây sáu năm, tin ông Triết sẽ đi thăm Hoa Kỳ được đưa ra trước khi ông tới Mỹ vài tháng và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ đã có thời gian dài chuẩn bị trước khi ông tới nơi.
Nay tin Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ vào Nhà Trắng vào ngày 25/7 được công bố chỉ hơn hai tuần trước khi sự kiện diễn ra.
“…Việt Nam cần có những tiến bộ liên tục để tuân theo các cam kết và nghĩa vụ nhân quyền quốc tế.”
Phát ngôn từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hồi tháng Tư
Đây không phải là chuyến thăm làm việc mà là thăm viếng chính thức và chắc chắn hai bên đã phải đồng ý được với nhau về nguyên tắc những gì sẽ ký kết ở tầm quốc gia và ở những mức độ nhỏ hơn kể cả các hợp đồng đầu tư và buôn bán.
Các nhà quan sát vẫn không loại trừ khả năng Tổng thống Barack Obama sẽ có chuyến thăm đáp lễ tới Việt Nam trước khi ông kết thúc nhiệm kỳ.
Như vậy có thể thấy quan hệ theo kiểu ‘ông đưa chân giò bà thò chai rượu’ giữa Hà Nội và Washington vẫn đang ấm áp thêm bất chấp những cái gai nhân quyền.
Chỉ mới tháng Tư năm nay, Việt Nam đã Bấm ra mặt cản giới ngoại giao Hoa Kỳ gặp một số nhà bất đồng chính kiến, điều khiến Hoa Kỳ bực tức.
Trước đó một cuộc điều trần về tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam đã diễn ra tại Quốc hội Hoa Kỳ mà tại đó, không khác mấy so với hồi năm 2007, người ta thấy có những kêu gọi đòi đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt do thiếu tự do tôn giáo CPC.
Trả lời phóng viên hôm 15/4 về việc Phó Trợ lý Ngoại trưởng Dan Baer bị ngăn gặp hai nhà hoạt động ở Hà Nội, quyền phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Patrick Ventrell Bấm nói: “Điều này thực sự nhấn mạnh chuyện Việt Nam cần có những tiến bộ liên tục để tuân theo các cam kết và nghĩa vụ nhân quyền quốc tế.”
Người đứng đầu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hiện nay, ông John Kerry, là cựu binh cuộc chiến mà Việt Nam cũng gọi là ‘Kháng chiến Chống Mỹ’.
Ông Kerry, cùng với một cựu binh Cuộc chiến Việt Nam khác và giờ là Bộ trưởng Quốc phòng, Chuck Hagel, được cho là thuộc nhóm ‘bồ câu’, thay vì ‘diều hâu’, trong cách nhìn Việt Nam.

Đã từng tham chiến, hai cựu binh này không nhìn Việt Nam như một cuộc chiến như người ta hay nói, mà như một quốc gia mà Hoa Kỳ cần có quan hệ tốt vì những lý do cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Họ là những người, theo lời Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên ở Việt Nam Douglas Pete Peterson, bản thân cũng là một cựu binh, muốn “bắc cầu qua dòng sông đau khổ” ngăn cách hai nước.
Và với một Tổng thống thuộc Đảng Dân chủ như ông Barack Obama, có nhiều hy vọng quan hệ giữa Hà Nội và Washington sẽ có những cải thiện trong vài năm tới.
Người theo dõi quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong nhiều năm qua, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng thuộc Đại học George Mason, nói hiện giờ chưa phải là thời điểm mà Hoa Kỳ có thể giảm nhẹ tầm quan trọng của nhân quyền để tăng cường quan hệ kinh tế, quốc phòng… với Hà Nội.
Ông cũng nói so với những đồng minh toàn trị truyền thống của Hoa Kỳ trước đây như Ai Cập hay Arab Saudi, Việt Nam không quan trọng bằng, kể cả về mặt địa chính trị và khả năng chiến lược, và do vậy Hà Nội không thể mong đợi Washington lờ đi vấn đề quyền con người.

Giáo sư Hùng cũng nói quyền con người đã quan trọng hơn nhiều sau khi Hoa Kỳ đã trở thành nước có ảnh hưởng bậc nhất thế giới (thay vì phải chia sẻ với Liên Xô như trước đây).
Việt Nam, trong khi đó, đang có vẻ có chính sách ngoại giao theo kiểu ‘bán anh em xa mua láng giềng gần’.
Các lãnh đạo Việt Nam thăm viếng Trung Quốc thường xuyên hơn và quan hệ kinh tế giữa hai bên cũng đáng kể hơn nhiều so với Hoa Kỳ bất chấp các diễn biến trên Biển Đông.
Nhìn xa hơn vào lịch sử, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc hồi năm 1991, 12 năm sau Cuộc chiến Biên giới 1979 và chỉ ba năm sau Hải chiến Trường Sa trong đó Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma từ tay Việt Nam.
Trong khi đó Hà Nội và Washington chính thức nối lại quan hệ vào năm 1995, 22 năm sau khi Hoa Kỳ ngừng tham chiến ở Việt Nam.
Nếu thu nhỏ quan hệ của Hà Nội với Bắc Kinh và Washington về chiếc kiềng ba chân gồm kinh tế, quốc phòng và nhân quyền, người ta có thể thấy nó sẽ luôn khập khiễng trong tương lai gần.
Trung Quốc không bao giờ ra mặt chỉ trích Việt Nam về nhân quyền và quan hệ kinh tế hai bên khá tốt nhưng họ lại là mối đe dọa thường trực và hiển hiện nhất về quốc phòng đối với Việt Nam.
Trong khi đó Việt Nam muốn đẩy mạnh quan hệ với Washington về kinh tế và quốc phòng nhưng nhân quyền, theo cách nhìn từ Hà Nội, lại ‘thọc gậy bánh xe’.
Trước thềm chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Nước Việt Nam ông Trương Tấn Sang, luật sư Nguyễn Văn Đài nói về xu hướng chính quyền ưa bắt giữ giới luật sư như một chính sách với hy vọng ‘dập tắt tiếng nói’ của những thành lũy cuối cùng bảo vệ công lý.
Trao đổi với BBC từ Hà Nội, luật sư Đài cho rằng chính sách này của chính quyền không những không làm giới luật sư vì công lý im tiếng mà trái lại làm cho phong trào bất đồng chính kiến có những phát triển được cho là mạnh hơn.
Luật sư Đài tổng kết điểm giống, khác của các vụ án mà chính quyền bắt giữ các luật sư, từ trước cho tới thời kỳ nhóm Nguyễn Văn Đài – Lê Thị Công Nhân bị bắt giữ, xử tù, đến các vụ khác như với các luật sư, luật gia Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ v.v… và gần nhất là Lê Quốc Quân, một luật sư theo công giáo từng tu nghiệp tại Mỹ.
Nhân dịp này ông Đài cũng bình luận về điều được cho là “sai lầm” mà luật sư Lê Công Định đã mắc phải khi bị chính quyền bắt giữ vài năm trước đây.
Theo lời mời chính thức của Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama, Chủ tịch Việt Nam, ông Trương Tấn Sang sẽ sang thăm Mỹ vào ngày 25 tháng 7 tới. Đây là chuyến thăm đầu tiên tới Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Chuyến thăm diễn ra chỉ vài tuần sau chuyến thăm Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang. Ý nghĩa của chuyến đi này với Việt Nam và Mỹ là gì? Mời quý vị tìm hiểu vấn đề này trong cuộc phỏng vấn giữa phóng viên Việt Hà và Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, giảng dạy môn quan hệ quốc tế tại trường đại học George Mason.
Trước hết nói về lý do Tổng thống Obama mời Chủ tịch Trương Tấn Sang tới Mỹ lần này, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cho biết:
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ là trước hết là Việt Nam muốn sang thăm Mỹ và muốn ông Tổng thống Mỹ sang Việt Nam thì đã nói đi nói lại nhiều lần rồi và Việt Nam muốn ông Obama sang mà ông Obama chưa sang được thì lúc này là dịp để mời ông Sang thăm Mỹ trước khi ông Obama sang Việt Nam khi điều kiện cho phép. Nhất là vào lúc này Việt Nam cũng muốn sang Mỹ thì sau khi Việt Nam đã sang Tàu rồi thì ông cũng muốn sang Mỹ để mang tính chất cân bằng quyền lực một chút. Cho nên ý định nhiều nhất là của Việt Nam, dù Obama mời nhưng ý muốn nhiều nhất là của Việt Nam, và Mỹ đã đáp ứng.
Việt Hà: Theo ông thì vấn đề nhân quyền có tầm quan trọng thế nào trong cuộc nói chuyện giữa hai vị lãnh đạo quốc gia lần này?
Nhất là vào lúc này VN cũng muốn sang Mỹ thì sau khi VN đã sang Tàu rồi thì ông cũng muốn sang Mỹ để mang tính chất cân bằng quyền lực một chút.
-GS Nguyễn Mạnh Hùng
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Rất quan trọng vì từ thời ông Carter đến thời ông Bush thì nhân quyền đã trở thành rất quan trọng, nhất là áp lực bên quốc hội về vấn đề nhân quyền cũng khá nhiều. Trong việc thảo luận giữa Việt Nam và Mỹ về nâng cao tầm quan hệ chiến lược, rồi Mỹ bán vũ khí cho Việt Nam thì Mỹ đã nhắc nhiều lần cả hành pháp lẫn lập pháp là chuyện đó không xảy ra nếu vấn đề nhân quyền không được cải thiện. Vì thế đó là vấn đề quan trọng. Nó được đưa ra trong lúc này vì gần đây có nhiều sự bắt bớ các bloggers và những cái mà người Mỹ gọi là xâm phạm quyền tự do phát biểu trên Internet, vì thế áp lực nội bộ của Mỹ về vấn đề nhân quyền Việt Nam làm cho vấn đề nhân quyền trở thành vấn đề nổi cộm.
Việt Hà: Thưa giáo sư, trong tình hình hiện nay tại châu Á Thái Bình Dương, thì Mỹ cũng chuyển trọng tâm chiến lược về khu vực châu Á Thái Bình Dương, trong đó có sự quan ngại về sự lớn mạnh của Trung Quốc. Có những lo ngại được đặt ra là liệu Mỹ sẽ bỏ qua vấn đề nhân quyền ở Việt Nam để đưa Việt Nam trở thành đối tác chiến lược. Giáo sư có nhận xét thế nào?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Bỏ qua thì không bỏ qua hoàn toàn được, tất nhiên quyền lợi về chiến lược và kinh tế quan trọng hơn quyền lợi về nhân quyền. Nhưng mà ở trong chính sách ngoại giao Mỹ, cơ chế ngoại giao Mỹ giữa cân bằng quyền lực, kiểm soát lẫn nhau giữa hành pháp và lập pháp thì vấn đề nhân quyền không thể được bỏ qua, nhất là nếu Việt Nam muốn mua vũ khí thì vấn đề đó không thể bỏ qua được. Nhưng điều đó không có nghĩa là Mỹ đòi Việt nam phải dân chủ hoàn toàn hay phải có thành quả nhân quyền đặc sắc. Nhưng không thể bỏ qua được. Chính sách của Mỹ thời bà Madeleine Albright khi ông Tổng thống Bill Clinton muốn liên hệ với Trung Quốc thì có đặt ra hai điểm quan trọng, chúng tôi có nhiều vấn đề tổng quát, nhưng khi nói về nhân quyền thì không thể bắt những vấn đề khác trở thành con tin của nhân quyền được. Điều này cũng đang được áp dụng với chính quyền của Obama tức là nó quan trọng nhưng nó không thể nào yếu tố áp đảo các quan hệ khác.
Nếu VN có một số nhượng bộ thỏa đáng thì tôi nghĩ trong thông cáo chung sẽ có thể phản ánh được một sự tiến bộ hoặc là một sự gì đó trong quan hệ đối tác chiến lược giữa Mỹ và VN.
-GS Nguyễn Mạnh Hùng
Việt Hà: Như ông biết thì trước kia khi Việt Nam muốn vào WTO và cải thiện quan hệ với Mỹ thì Việt Nam cũng có dễ dàng hơn trong vấn đề nhân quyền theo yêu cầu của cộng đồng quốc tế, nhưng khi họ đạt được mục đích của họ rồi thì họ lại tiếp tục đàn áp nhân quyền. Vậy Mỹ đã học được bài học gì trong quá khứ để lần này khi Mỹ cần bằng chiến lược tại châu Á Thái Bình Dương, đưa Việt Nam thành đối tác chiến lược, có thể mặc cả với Việt Nam về vấn đề nhân quyền?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Vấn đề nhân quyền là quan trọng nhưng không quan trọng bằng vấn đề quan hệ chiến lược. Còn bài học mà Mỹ học thì chuyện đó người Mỹ cũng biết. Vấn đề lúc này là muốn tăng đối tác chiến lược thì Việt Nam phải có một số nhượng bộ về nhân quyền. đây là về lúc này, còn chuyện đạt được về sau thì lại trở thành một chuyện khác.
Việt Hà: Theo Giáo sư đánh giá thì khả năng Việt Nam trở thành đối tác hợp tác chiến lược với Mỹ trong thời gian sớm sắp tới thế nào?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ có hai điều mình có thể đưa ra dự đoán tương đối. Thứ nhất trong chuyến đi này Việt Nam đã có chuẩn bị tức là khi ông Sang sắp sang đây, thì tất cả các vụ bắt bớ bloggers rồi tin từ Việt Nam đưa ra là bắt thêm 20 người nữa thì những chuyện đó đã không xảy ra. Như vậy là họ đã để ý đến quan tâm của người Mỹ và họ đã có chuẩn bị cho chuyến đi của ông Sang. Điểm thứ hai là Việt Nam rất muốn đẩy cao tầm quan hệ chiến lược với Mỹ bởi vì ông tuyên bố ông muốn thiết lập đối tác chiến lược với tất cả 5 quốc gia thường trực hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc thì họ đã làm được 3 rồi, chỉ còn ông Pháp và ông Mỹ thôi. Ông Mỹ rất quan trọng. Việt Nam rất tha thiết. Nếu Việt Nam có một số nhượng bộ thỏa đáng thì tôi nghĩ trong thông cáo chung sẽ có thể phản ánh được một sự tiến bộ hoặc là một sự gì đó trong quan hệ đối tác chiến lược giữa Mỹ và Việt Nam.
Việt Hà: Xin cảm ơn giáo sư.
Ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ lần đầu tiên với tư cách chủ tịch nước
Chính phủ Hoa Kỳ ra thông cáo nói Tổng thống Barack Obama sẽ tiếp Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vào ngày 25/7 tại Nhà Trắng.
Thông cáo của Thư ký Báo chí Nhà Trắng viết: “Tổng thống [Obama] sẽ nhân cơ hội này thảo luận với Chủ Tịch Sang làm thế nào để củng cố hơn nữa quan hệ đối tác giữa hai nước trong các vấn đề chiến lược của khu vực và tăng cường hợp tác với khối Asean”.
Thông cáo cho biết thêm rằng ông Obama mong muốn thảo luận với ông Sang các chủ đề “nhân quyền, các thách thức đang nảy sinh như thay đổi khí hậu, và tầm quan trọng của việc hoàn tất Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) tiêu chuẩn cao”.
Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ thăm chính thức Hoa Kỳ vào tuần cuối tháng Bảy. Đây là chuyến thăm Mỹ đầu tiên của ông trong cương vị chủ tịch nước, và ông Sang là chủ tịch nước thứ hai của Việt Nam thăm đất nước cựu thù.
Năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã có chuyến thăm ‘lịch sử’ kéo dài gần một tuần tới Hoa Kỳ.
Có tin cho hay lần công du này, ông Trương Tấn Sang cũng sẽ thăm Canada.
Việc thông cáo ngắn gọn của Tòa Bạch Ốc đặt nhân quyền lên hàng đầu trong các chủ đề thảo luận cho thấy nước chủ nhà trông đợi một sự giải thích từ phía Chủ tịch Việt Nam về các cáo buộc vi phạm trong lĩnh vực vẫn được coi là còn nhiều khác biệt này.
Hà Nội bị chỉ trích vì đã bắt và cầm tù nhiều nhà hoạt động một cách ôn hòa, thời gian gần đây là các blogger bất đồng chính kiến.
Một số nhà quan sát chính trị Đông Nam Á, như Murray Hiebert và Phoebe De Padua từ tổ chức Sumitro Chair for Southeast Asia Studies thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) tại Washington DC, cho rằng chuyến đi của ông Trương Tấn Sang là một phần trong chiến dịch ngoại giao của lãnh đạo Việt Nam.
Gần đây ông chủ tịch đã đi thăm Trung Quốc và Indonesia, trong khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có bài phát biểu được đánh giá cao tại Diễn đàn an ninh Shangri-La ở Singapore.
Hai nhà nghiên cứu trên nhận định trong một bài viết: “Việc lãnh đạo Việt Nam đua nhau đưa ra các ý tưởng và cạnh tranh về độ uy tín không phải là điều dở cho các nước đối tác, trong đó có Hoa Kỳ”.
Tuy nhiên, họ cũng cho rằng đề xuất hình thành quan hệ đối tác chiến lược chưa thực hiện được vì một số lý do.
Một trong các lý do đó, theo Hiebert và De Padua, là cánh bảo thủ trong Đảng CSVN không muốn đi quá xa với Hoa Kỳ vì lo ngại làm phật lòng Trung Quốc.
Thứ hai, tại Mỹ các dân biểu đang tăng áp lực lên chính phủ đòi phải đề cập với phía Việt Nam về tình trạng nhân quyền, mà họ cho là đang xấu đi.
Một số học giả như Giáo sư Carlyle Thayer từ Canberra, Úc châu, cho rằng “nhân quyền phải là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn của Mỹ, nhưng không nên trở thành trọng tâm làm kìm hãm tiến bộ trong hợp tác ở những lĩnh vực khác”.
Thế nhưng cũng có người như Phó Giáo sư Jonathan London từ City University of Hong Kong thì cho rằng nhân quyền là một trong những rào cản trong quan hệ Việt-Mỹ.
Ông London nói Việt Nam cần có bước đột phá trong quan hệ với Hoa Kỳ, và để làm điều này thì Đảng CSVN phải có những đổi thay thực sự.
Ông nói thay đổi hữu hiệu nhất mà lãnh đạo Việt Nam có thể làm là “cho phép toàn dân tham gia vào cuộc sống chính trị của đất nước một cách công bằng, chấm dứt đàn áp, và phát triển thể chế dân chủ ở trong nước”.
Trong khi đó, một dân biểu lâu nay tích cực vận động cho nhân quyền Việt Nam kêu gọi Mỹ nỗ lực hơn nữa để khuyến khích chính phủ Hà Nội tôn trọng nhân quyền.
Dân biểu theo công hòa từ tiểu bang Virginia, ông Frank Wolf, chỉ trích chính quyền Obama là đã làm tình hình nhân quyền ở Việt Nam ‘tồi tệ hơn’.
Ông Wolf mạnh dạn nhận định rằng chính sách đối với Việt Nam của Mỹ “đã làm tất cả người dân Việt Nam và người Mỹ gốc Việt quan tâm tới nhân quyền và tự do tôn giáo thất vọng”.
Việt Nam được chính quyền ông Bush cho ra khỏi danh sách các quốc gia gây quan ngại về nhân quyền và tự do tôn giáo (CPC) năm 2006 vì cho là đã có nhiều tiến bộ.
Dân biểu Wolf nhận định rằng tình hình ở Việt Nam đã trở nên tồi tệ hơn, ông dẫn nguồn kênh ABC News cho hay chỉ riêng năm 2013 đã có “hơn 50 người bị kết tội và bỏ tù trong các phiên xử chính trị”.
Theo ông, không chỉ không giúp giải quyết được vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, chính phủ Hoa Kỳ còn lặng thinh không bênh vực những tiếng nói chỉ trích các vi phạm đó.
Thông cáo báo chí của Nhà trắng ngày 11 tháng 7 cho hay Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama sẽ tiếp Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng vào ngày 25 tháng 7 tới.
Thông báo của Nhà Trắng nói cuộc gặp là cơ hội để hai bên thảo luận nhằm thắt chặt hơn nữa quan hệ đối tác liên quan đến các vấn đề chiến lược trong khu vực và cải thiện hợp tác giữa Mỹ và khối ASEAN. Các vấn đề khác dự định được thảo luận giữa hai nguyên thủ quốc gia bao gồm nhân quyền, thay đổi khí hậu và thảo thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam đã có nhiều tiến triển trong các năm qua. Hiện Mỹ là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam, sau Trung Quốc. Thặng dư thương mại của Việt Nam trong năm 2012 với Mỹ là hơn 15 tỷ đô la.
Quan hệ quốc phòng hai nước cũng phát triển trong những năm trở lại đây. Hồi cuối tháng trướng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ đã tới thăm Bộ Quốc phòng Mỹ. Hoa Kỳ cũng đã từng lên tiếng quan ngại về căng thẳng tại biển Đông nơi Việt nam và Trung Quốc có tranh chấp về chủ quyền.
Vào tháng trước chủ tịch Trương Tấn Sang đã có chuyến viếng thăm Trung Quốc.
http://youtu.be/SubvswaZfhw
BBBc, Carlyle A. Thayer. Giáo sư Danh dự, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra., 11 tháng 7, 2013
Chuyến thăm TQ của ông Sang làm cho Mỹ đổi thái độ?
Hồi đầu tháng Sáu, Thủ tướng Việt Nam tuyên bố tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore rằng Việt Nam muốn thiết lập quan hệ chiến lược với tất cả năm thành viên thường trực của Liên Hiệp Quốc.
Tới nay Việt Nam đã có quan hệ chiến lược với Trung Quốc, Nga và Anh.
Giờ Việt Nam phát tín hiệu rằng họ muốn nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ và Pháp.
Vào giữa năm 2010 khi Ngoại trưởng Hillary Clinton thăm Hà Nội, bà tuyên bố rằng đã có đủ điều kiện để đưa quan hệ song phương Hoa Kỳ-Việt Nam lên tầm cao mới.
Nhưng, bà cảnh báo, trước hết Việt Nam cần cải thiện về nhân quyền. Kể từ chuyến thăm của bà Clinton, tình hình nhân quyền ở Việt Nam đã xấu đi, nhất là trong nửa đầu năm nay.
Vào cuối năm 2011, các nhà ngoại giao ở Hà Nội nói đàm phán về quan hệ chiến lược đã bị đình trệ vì chuyện vấn đề nhân quyền cần được đề cập tới như thế nào trong dự thảo.
Phía Hoa Kỳ muốn có một điều khoản riêng về nhân quyền trong khi Việt Nam muốn nhân quyền chỉ nằm trong điều khoản nói về quan hệ chính trị.
Tới cuối năm 2012, Hoa Kỳ bất ngờ rút khỏi đối thoại nhân quyền thường niên với Việt Nam.
Đối thoại được nối lại đầu năm nay nhưng không có cải thiện nhân quyền đáng chú ý nào.
Hồi tháng Sáu, hai quan chức cao cấp của chính quyền Obama điều trần trước Quốc hội về quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam và cả hai đều nhấn mạnh rằng cần phải có những thay đổi tích cực về nhân quyền ở Việt Nam.
Chính vì thế tin được hãng thông tấn Pháp AFP đưa hôm 11/7 rằng Tổng thống Barack Obama đã mời người tương nhiệm Trương Tấn Sang thăm Washington vào cuối tháng là điều ít nhiều gây ngạc nhiên.
Hai ngày trước đó Việt Nam tuyên bố hoãn phiên xử của nhân vật bất đồng chính kiến có liên hệ với Hoa Kỳ, ông Lê Quốc Quân.
Tại sao Hoa Kỳ lại có vẻ thay đổi quan điểm về nhân quyền và mời chủ tịch Việt Nam tới thăm Hoa Kỳ? Câu trả lời có thể nằm ở chính sách tái cân bằng và tiến triển gần đây trong quan hệ Việt – Trung theo sau chuyến thăm của ông Sang tới Bắc Kinh.
Việt Nam cũng đang tìm cách cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Hà Nội đã vận động trong ít nhất một năm trở lại đây để Tổng thống Obama tới thăm. Hồi tháng Sáu, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng tham mưu trưởng quân đội thăm Washington cùng phái đoàn cao cấp.
“Có lẽ mục tiêu của Việt Nam là đẩy mạnh quan hệ trong những tháng tới để Tổng thống Obama có thể có chuyên thăm bên lề tới Việt Nam nơi hai nước sẽ ký hiệp định hợp tác chiến lược.”
Liệu cả hai phía đã đồng ý được về một sự trao đi đổi lại?! Việt Nam có thể đang tìm cách đẩy mạnh quan hệ quốc phòng với Hoa Kỳ trong khi Washington muốn thâm nhập sâu thêm vào Việt Nam.
Một số nhà lãnh đạo Việt Nam dường như đã kết luận rằng nếu bế tắc trong quan hệ với Hoa Kỳ không được khai thông, họ sẽ không có nhiều con bài trong quan hệ với Trung Quốc.
Việt Nam muốn Hoa Kỳ xóa bỏ Quy định về Buôn bán Vũ khí Quốc tế (ITAR) mà theo đó hiện nay Việt Nam chỉ được phép mua vũ khí không sát thương tùy từng trường hợp. Mặc dù vậy, quy định này có lẽ sẽ không được xóa bỏ.
Nhưng gần đây ITAR cũng đã được sửa đổi và cho phép bán các công nghệ và thiết bị lưỡng dụng (quân-dân sự).
Khó mà có thể đoán được sự thay đổi cách nhìn của Hoa Kỳ đối với ITAR nhưng điều chắc chắn hơn là Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam trong cam kết đầu tiên của họ đối với sứ mệnh gìn giữ hòa bình dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã công bố quyết định tham gia vào các sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại đối thoại Shangri-La.
Chuyến thăm của ông Sang tới Hoa Kỳ là một phần cố gắng của Hà Nội nhằm có được hiệp định hợp tác chiến lược với Washington.
Tổng thống Obama sẽ cố gắng để có được những cam kết thêm nữa từ phía Việt Nam nhằm tăng cường quan hệ kinh tế thông qua Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương.
Chuyến thăm của Chủ tịch Sang hứa hẹn sẽ đưa quan hệ Việt – Mỹ lên tầm cao mới trước Thượng đỉnh Á Đông tại Brunei vào tháng Mười năm nay.
Có lẽ mục tiêu của Việt Nam là đẩy mạnh quan hệ trong những tháng tới để Tổng thống Obama có thể có chuyến thăm bên lề tới Việt Nam nơi hai nước sẽ ký hiệp định hợp tác chiến lược.
Việt Nam sẽ được lợi vì hiệp định được ký trên đất của họ trong khi Hoa Kỳ cũng có lợi vì Tổng thống Obama sẽ tới Đông Nam Á thúc đẩy chiến lược tái cân bằng.
Hai nguyên thủ đã từng tiếp xúc bên lề hội nghị Apec 2011Tin cho hay Tổng thống Barack Obama đã chính thức mời Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang đi thăm Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Hãng tin Pháp AFP dẫn nguồn từ Washington nói chuyến thăm dự tính diễn ra trước cuối tháng này, và quan chức hai bên đang nỗ lực chuẩn bị cho thời điểm có thể là tuần cuối tháng Bảy.
Hiện các kênh chính thức của hai bên chưa phát biểu gì về lịch trình này.
Một nguồn tin chưa thể kiểm chứng độc lập còn cho hay cuộc gặp giữa hai nguyên thủ sẽ diễn ra hôm 25/7 tại Tòa Bạch Ốc.
Các chủ đề chính trên nghị trình sẽ là thúc đẩy quan hệ an ninh và thương mại giữa hai nước.
Tuy nhiên, giữa Việt Nam và Mỹ còn tồn tại một số khác biệt, nhất là trong lĩnh vực nhân quyền.
Đây là lần đầu tiên ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong cương vị chủ tịch nước, và cũng là lần thứ hai kể từ 1975 một chủ tịch Việt Nam tới Washington.
Lần trước, vào tháng Sáu 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã có chuyến thăm ‘lịch sử’ tới Hoa Kỳ và hội kiến Tổng thống George W. Bush.
Việt Nam và Mỹ trong những năm gần đây đã đẩy mạnh quan hệ trong nhiều lĩnh vực.
Mỹ hiện là bạn hàng thương mại số hai của Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc. Nhưng khác với Trung Quốc, thặng dư thương mại nghiêng về phía Việt Nam. Năm 2012, con số này là 15,6 tỷ đôla.
Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam.
Thương mại hai chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng từ 1 tỷ đôla năm 2001 tới 26 tỷ vào năm ngoái.
Hai bên cũng đang gấp rút bàn thảo về việc Việt Nam đàm phán gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong thời gian tới.
Để hoàn tất đàm phán TPP vào tháng 10 năm nay, Mỹ và Việt Nam còn nhiều nội dung cần trao đổi để đi đến thống nhất.
Giới chuyên gia nhận định quá trình đàm phán của Việt Nam còn khó khăn tuy thời gian không còn nhiều.
“Nếu như hai bên muốn có quan hệ kinh tế thân cận hơn, nếu như hai bên muốn ký được TPP, nếu muốn tăng mạnh quan hệ ngoại giao… [thì phải hiểu] các nỗ lực đó sẽ không thể được ủng hộ chính trị từ phía người dân Mỹ nếu không có các tiến bộ trông thấy về nhân quyền ở Việt Nam.”
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear
Cải thiện nhân quyền là một trong các đòi hỏi của không chỉ Hoa Kỳ mà còn của nhiều quốc gia Phương Tây để tăng cường hợp tác kinh tế.
Thông thường trước mỗi chuyến đi quan trọng như thế này, Việt Nam đều có các động thái nhân nhượng như trả tự do cho một số tù nhân.
Trong một Bấm cuộc trao đổi mới đây giữa Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear và tổ chức Asia Foundation tại San Francisco, ông Shear thừa nhận : “Cả Việt Nam và Mỹ đều đòi hỏi lẫn nhau khá nhiều nên quá trình đàm phán (TPP) rất thách thức”.
“Điều đáng tiếc, một điểm chúng tôi luôn luôn bất đồng với phía Việt Nam là về nhân quyền và tự do tôn giáo.”
Ông đại sứ bày tỏ rằng một trong các thông điệp trọng tâm của ông tới Việt Nam là “nếu như hai bên muốn có quan hệ kinh tế thân cận hơn, nếu như hai bên muốn ký được TPP, nếu muốn tăng mạnh quan hệ ngoại giao… [thì phải hiểu] các nỗ lực đó sẽ không thể được ủng hộ chính trị từ phía người dân Mỹ nếu không có các tiến bộ trông thấy về nhân quyền ở Việt Nam”.
Đại sứ David Shear cũng đề cập tới tình trạng hạn chế internet và kiểm duyệt các blog, mà ông cho là ảnh hưởng nặng nề tới việc sử dụng Facebook, mạng xã hội thịnh hành nhất ở Việt Nam.
Ông cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ chia sẻ nhiều mối quan tâm chung, đặc biệt là ở Biển Đông.
“Chúng tôi muốn hợp tác với Việt Nam để duy trì ổn định tại đây, chúng tôi muốn hợp tác với Việt Nam trong tư cách thành viên Asean, và chúng tôi cũng muốn hợp tác với Trung Quốc về các vấn đề này và khuyến khích các bên giải quyết chúng thông qua đường ngoại giao.”
Thời gian gần đây, với tình hình ngày càng phức tạp trên Biển Đông và chính sách xoay chuyển về châu Á của Washington, Việt Nam và Hoa Kỳ cũng tăng cường quan hệ an ninh.
Mới nhất, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam Đỗ Bá Tỵ thăm Mỹ trong nhiều ngày hồi tháng trước.
Việt Nam mong muốn Mỹ sẽ hỗ trợ trong việc duy trì ổn định và hòa bình tại khu vực.
Hà Nội và Washington cũng đang xem xét nâng quan hệ lên mức đối tác chiến lược.
Thế nhưng chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang lần này cũng gặp phản đối từ một số giới.
Các nhóm vận động nhân quyền cho Việt Nam ở Mỹ chỉ trích ông Obama đã chìa tay hợp tác với Hà Nội cho dù chưa được bằng chứng cải thiện về nhân quyền và tự do tôn giáo.
Trong năm qua, chính phủ Việt Nam đã bắt và bỏ tù hàng chục nhà hoạt động, blogger, những người mà bản thân chính phủ Mỹ coi là chỉ trích gia một cách ôn hòa.
Cũng đang có tranh luận về quan hệ tay ba Mỹ-Việt-Trung.
Tháng Sáu vừa qua, Chủ tịch Trương Tấn Sang cũng đã có chuyến công du đầu tiên tới Trung Quốc, trong đó hai bên ký 10 văn kiện hợp tác.
Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1995.
AFP cho biết Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry có kế hoạch đi Hà Nội sớm.
RFA 11.07.2013
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã chính thức mời Chủ tịch Việt Nam, Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong tháng này. Nhật báo Phố Wall trích nguồn tin từ những người dàn xếp chuyến đi cho biết như vậy hôm nay.
Tuy nhiên phát ngôn viên Nhà Trắng nói rằng Nhà Trăng không có bất cứ thông tin gì để công bố về chuyến đi vào lúc này.
Quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam đã có nhiều tiến triển trong các năm qua. Hiện Mỹ là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam, sau Trung Quốc. Thặng dư thương mại của Việt Nam trong năm 2012 với Mỹ là hơn 15 tỷ đô la.
Quan hệ quốc phòng hai nước cũng phát triển trong những năm trở lại đây. Hồi cuối tháng trướng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ đã tới thăm Bộ Quốc phòng Mỹ. Hoa Kỳ cũng đã từng lên tiếng quan ngại về căng thẳng tại biển Đông nơi Việt nam và Trung Quốc có tranh chấp về chủ quyền.
Nếu chuyến viếng thăm thành hình thì đây là chuyến thăm Mỹ đầu tiên của ông Trương Tấn Sang kể từ khi ông nắm giữ chức vụ Chủ tịch nước vào tháng 7 năm 2011.
http://youtu.be/SubvswaZfhw