http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/labor-acti-tell-wht-happ-11232015055510.html

TIẾNG NÓI TỰ DO DÂN CHỦ

Bà Đỗ Thị Minh Hạnh bị nhiều người đàn ông đánh vào đầu và mặt khi bà đi bảo vệ quyền lợi cho các công nhân ở Đồng Nai.
Một nhà hoạt động trong nước cho biết bà đã bị “bóp cổ” và “đánh vào đầu” khi tới bảo vệ quyền lợi cho các công nhân “thấp cổ bé họng” ở Đồng Nai, giữa bối cảnh nhiều nhà lập pháp Mỹ bày tỏ hoài nghi về TPP, nhất là vấn đề công đoàn độc lập ở Việt Nam.
Bà Đỗ Thị Minh Hạnh cùng ký giả tự do Trương Minh Đức đầu tuần này tới trao đổi với hàng chục công nhân của một công ty nước ngoài hoạt động ở Việt Nam về việc họ bị “chấm dứt hợp đồng và bị sa thải trái pháp luật”, nhưng cuộc gặp đã nhanh chóng bị giải tán.
Bà Hạnh và ông Đức sau đó đã bị áp giải tới một đồn công an và bị câu lưu trong nhiều tiếng đồng hồ, trước khi được các nhà hoạt động khác tới “giải cứu”.
Người phụ nữ từng nhiều lần lên tiếng đòi quyền lợi cho công nhân kể lại sự việc với VOA Việt Ngữ:
“Tôi đã bị giam hơn 13 tiếng đồng hồ ở trong đồn công an ở Đồng Nai, và họ không đưa ra một lý do bắt tôi vào đó. Tuy nhiên, vào một giờ sáng thì họ đưa ra một văn bản vi phạm hành chính và bắt tôi ký vào, nhưng mà tôi dứt khoát không ký vào cái đó. Tôi chỉ là một nạn nhân đang chịu sự bắt bớ trái pháp luật, chịu sự đánh đập trái pháp luật. Khi ở chỗ công nhân, họ đã lôi kéo và cởi áo của tôi ra, nhưng mà may hai cái tay áo còn dính, nên áo của tôi vẫn còn trên cơ thể. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, khi họ áp tải trên xe, một tay họ bẻ quặt ra sau và một tay họ bóp cổ để giữ tôi trên xe. Và song song chiếc xe của tôi có một người khác, liên tục đánh vào đầu, vào mặt tôi. Trên đoạn đường vắng, họ dừng lại, họ bảo đánh tôi mềm ra rồi mới đưa về đồn, và nơi đây tôi đã bị đánh rất dã man của năm người đàn ông”.
VOA Việt Ngữ không thể liên lạc để phỏng vấn với lãnh đạo công an phường Long Bình, Đồng Nai, nơi bà Hạnh và ông Đức bị tạm giữ.
Tin cho hay, tài sản cá nhân cũng như các tờ rơi của tổ chức độc lập có tên gọi Lao Động Việt, mà hai người này là các thành viên sáng lập, đã bị tịch thu.
Sự việc xảy ra hơn một tháng sau khi 12 nước, trong đó có Việt Nam, hoàn tất việc đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP), và được chuyển cho quốc hội các nước xem xét, thông qua.
Toàn văn của hiệp định này đã được công bố hồi đầu tháng này, trong đó có kế hoạch của Mỹ và Việt Nam về việc tăng cường quan hệ thương mại và lao động.
Nhiều nhà lập pháp Hoa Kỳ phản đối TPP vì lo ngại công ăn việc làm của người Mỹ sẽ rơi vào tay người dân các nước khác, cũng như quan ngại về vấn đề quyền lợi của người lao động ở nhiều nước tham gia TPP, trong đó có Việt Nam.
Về vấn đề công đoàn độc lập khi Việt Nam gia nhập TPP, nhà hoạt động xã hội Đỗ Thị Minh Hạnh nói:
“Những điều khoản TPP đã mở ra một thế giới mới cho các liên đoàn độc lập tại Việt Nam, những công đoàn độc lập tại Việt Nam, cho các công nhân, những người thấp cổ bé họng, người ta không thể nào đủ lời ăn, tiếng nói để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người ta, trong khi các cơ quan chức năng như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hay những công đoàn của công ty thì thường đứng về phía giới chủ. Trường hợp của Minh Hạnh bị đánh vào ngày hôm trước là một minh chứng cho việc ngăn cản, tổ chức thành lập các nghiệp đoàn độc lập tại Việt Nam. Sự ký kết của Việt Nam trong hiệp định TPP mực còn chưa khô vậy mà họ đã ra tay, thẳng tay đàn áp công nhân như vậy. Không phải riêng gì Minh Hạnh bị lôi, bị đánh mà những người công nhân bị giật hết tất cả giấy tờ của họ. Thậm chí có những bản hợp đồng của công nhân cũng bị những người này cướp trên tay của công nhân. Đây là một hành động đáng bị lên án”.
Hôm 18/11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời chất vất của các đại biểu quốc hội về vấn đề thành lập “công đoàn độc lập” theo cam kết của TPP.
Người đứng đầu chính phủ Việt Nam được báo chí trong nước trích lời nói: “Việt Nam và tất cả các nước tham gia TPP phải tôn trọng và bảo đảm quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của họ tại cơ sở doanh nghiệp. Các tổ chức này sau khi thành lập có thể lựa chọn gia nhập Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được chính thức hoạt động, và chỉ được hoạt động sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng ký theo một quy trình minh bạch được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật”.
Tuy nhiên, theo bà Hạnh, công cuộc đấu tranh cho quyền lợi của công nhân của các tổ chức công đoàn độc lập ở Việt Nam vẫn còn dài.
“Những điểm tốt đẹp về nghiệp đoàn trong TPP vẫn chưa nói lên được điều gì, và thực tế chưa chứng minh được điều đó”, bà Hạnh nói.
http://www.voatiengviet.com/content/cu-giang-vao-no-luc-tpp-cua-viet-nam/3071558.html


Sáng ngày 22 tháng 11, khoảng 11.30 h khi cô Minh Hạnh cùng với ông Trương Minh Đức đang có mặt tại khu nhà ở của bộ đội cách công ty Yupoong khoảng 7 cây số, khoảng gần 20 công nhân đang cùng luật sư Hào làm giấy uy quyền cho luật sư để giúp công nhân kiện công ty Yupoong vì đã sa thải công nhân bất hợp pháp và bồi thường không xứng đáng thì rất đông công an dân phòng, công an phường, công an khu công nghiệp ập vào, dùng vũ lực lôi cô Minh hạnh lên xe máy, họ ép cô ngồi giữa hai công an và chở cô về phương bất chập sư kháng cự quyết liệt của cô Minh Hạnh. Một công nhân có mặt tại chổ kể lại :
« Tụi em họp gần Câu Lạc Bộ Xanh, bàn bạc nhau để kiện công ty Yupoong nó làm sai luật. Hạnh cũng đến đó để họp tác với bên luật sư. Lúc tụi em đang làm giấy uỷ quyền cho bên luật sư . Hạnh cũng đang chờ tụi em để chụp hình cái thông tin đó thì công an ở đâu nhập vào bắt. Hạnh bảo tụi em về đi nhưng tụi em chưa về được mà tụi em cũng không làm được gì vì tụi nó đông mà tụi em là phụ nữ thôi. »
Lúc đó, họ cũng đòi bắt cả luật sự Hào, nhưng ông ta chống lại và sau đó thì họ không dám bắt, cô công nhân nói
« Nó đòi bắt ông luật sư luôn, nhưng ông luật sư không cho bắt, ổng nói tôi là luật sư bảo vệ người lao động, anh muốn làm gì thì phải có giấy tờ, bọn chúng không có giấy tờ vô bắt nên bọn chúng không bắt được . Còn Hạnh thì bọn nó bắt lên xe, nghe bảo là công an phường hay công an khu công nghiệp gì đó. Thì em nghĩ chắc nó bắt về phường Long Bình.
Sau khi Minh Hanh bị bắt thì nhờ ông Trương Minh Đức thông báo cho mọi người . Cô công nhân cũng bất lực trước số công an đông đảo.
« Khi Hạnh la lên là anh Đức ơi, anh lên Facebook đi , công an bắt người , nó bắt Hạnh cái áo bung ra thì nó vẫn cứ bắt , áo bung ra mà nó vẫn cứ bắt, tội nghiệp. Tụi em chạy toán loạn, nếu tụi em chông đối với nó thì nó bắt tụi em lên xe luôn »
Nó đòi bắt ông luật sư luôn, nhưng ông luật sư không cho bắt, ổng nói tôi là luật sư bảo vệ người lao động, anh muốn làm gì thì phải có giấy tờ, bọn chúng không có giấy tờ vô bắt nên bọn chúng không bắt được . Còn Hạnh thì bọn nó bắt lên xe, nghe bảo là công an phường hay công an khu công nghiệp gì đó
Một cô công nhân
Khi Minh Hạnh bị bắt, ông Trương Minh Đức nhanh chân chạy qua khu tập thể bộ đội kế cận, tuy nhiên công an cũng xông vào tìm, chủ nhà không cho đòi giấy xét nhà. Sau đó họ đưa giấy xét nhà và xông vào bắt luôn anh Đức, lúc đó khoảng 13.30 h, cô công nhân cho biết tiếp
« Khi anh Đức trốn trong nhà tập thể của nhà bên cạnh thì chúng nó có dân phòng, công an đứng rình rập đâu đó. Chúng nó kêu bộ đội ra nói là chúng nó nghi ngờ người này là phản động, chúng nó có lệnh khám nhà thì sau này chúng bắt luôn anh Đức ».
Trong số công an đó, theo công nhân có những công an là công an khu công nghiệp đã từng theo dõi cô và có cả những người đồng nghiệp đã theo dõi để báo cáo lại với chủ :
« Khi đó cả công an, dân phòng là phải vài chục thằng, nhưng nó mặc áo dân sự là chính, chỉ có 3-4 thằng mặc áo công an thôi. Dân phòng cũng có vài ba thằng. Cũng có thằng mặc áo dân sự, cũng có công an khu công nghiệp, tóm lại nó trà trộn lẫn vào nhau. Hầu như phần lớn là công an khu công nghiệp, chỉ có 1 công an phường để nó đứng ra nó nói là hợp pháp. Nhưng mà chính ra là những thằng công an công nghiệp nó theo dõi chúng em từ hồi nào đến giờ .
Có 3 người công ty em nhưng làm bộ phận khác , họ làm công ty em nhưng làm biệt kích cho bọn đó. Tụi em đang nghi ngờ 3 người này là không ký giấy tờ mà chụp hình văn bản của tụi em ký . Sau này tụi em chẩn đoán là 3 người này là 3 người báo cho công ty, công ty lại báo khu quản lý công nghiệp của công an.
Công ty Yupoong chuyên sản xuất mũ cho Nike, Puma, Adidas…v.v…Do đó, có những công an giả vờ làm khách hàng của công ty đến để lấy thông tin vào báo cáo lại với công ty
« Có một người công an giả vờ khách hàng mặc áo Adidas, chúng em tin tưởng kể cho nó nghe công ty thế này, thế kia, chúng em khổ sở ra sao. Bây giờ chúng em mới khám phá ra chính nó đưa người vào bắt Hạnh luôn, chính nó chụp hình Hạnh »
Như bản tin RFA đã đưa trước đây. Công ty Yupoong lấy cớ hoả hoạn để đuổi gần 2000 công nhân và chỉ bồi thường 1 tháng lương, công nhân bức xúc, muốn kiện công ty. Lao Động Việt đã giúp cho các công nhân này tiếp xúc với luật sư để làm giấy uỷ quyền cho luật sư. Theo công nhân , đó là một việc làm hoàn toàn chính đáng và không chống lại nhà nước . Cô công nhân nói tiếp :
Khi Hạnh la lên là anh Đức ơi, anh lên Facebook đi , công an bắt người , nó bắt Hạnh cái áo bung ra thì nó vẫn cứ bắt , áo bung ra mà nó vẫn cứ bắt, tội nghiệp. Tụi em chạy toán loạn, nếu tụi em chông đối với nó thì nó bắt tụi em lên xe luôn
Một cô công nhân
« Tụi em thì cũng không làm cái gì sai. Trên « phây (facebook. RFA) thì Hạnh chũng chưa nói gì ảnh hưởng đến nhà nước. Sáng nay hạnh có in 1 xấp giấy khoảng 40-50 tờ với nội dung là thông báo với khách hàng là công ty Yupoong làm sai luật thôi chứ không nói gì đến nhà nước hết”
Cô Đỗ thị Minh Hạnh và ông Trương Minh Đức là 2 thành viên của Lao Động Việt, từ mấy tuần nay họ đã đi sát với công nhân của công ty Yupoong để giúp họ đòi lại quyền lợi cho gần 2000 công nhân của công ty này. Ngày sau khi nghe được tin, ông Đoàn Việt Trung, Tổng Thư ký của lao động việt đã lập tực thông báo cho các cơ quan liên hệ , ông Đoàn Việt Trung cho biết;
“Thi ngay sau đó tôi đã thông tin đến 1 nhà báo lớn bên Mỹ và sau đó thông báo cho lãnh sự quán Mỹ . Là vì giữa Việt Nam và Mỹ có một cam kết song phương. Hiệp định TPP là giữa 12 nước , nhưng kế hoạch hành động là giữa Mỹ và Việt Nam và bây giờ chúng tôi chuẩn bị liên lạc với 1 số người Tây phương mà chúng tôi quen lâu nay về vấn đề TPP vì rõ rang là nhà nước một mặt ký kết TPP , hứa hẹn đủ điều, nhưng một mặt thì dùng mọi thủ đoạn để ngăn ngừa những người đang giúp cho quyền lợi của người lao động “
Ông Đoàn Việt Trung lý do mà công an Việt Nam dùng vũ lực bắt cô Minh Hạnh và ông Trương Minh Đức là vì Lao Động Việt mà hai người này là thành viên đang có những nổ lực giúp cho công nhân Việt Nam tự đứng ra bảo về quyền lợi của họ thông qua những ký kết trong TPP giữa Việt Nam và 11 nước thành viên khác. Ông Trung nói:
“Ngay trước mắt là chúng tôi đang giúp cho công ty Yupoong nhưng mà ngoài ra thì chúng tôi cũng làm một số việc khác về quyền lao động lâu nay và nhà nước cũng thừa biết là chúng tôi làm. Họ biết là chúng tôi muốn mở rộng quyền của người lao động dưới TPP . Chính họ hứa hẹn quyền công đoàn trên TPP , thì chính họ nói trên báo chí. Họ biết là chúng tôi biết . Họ cũng biết là chúng tôi đang cố gắng kéo những quyền đó của người lao động. Họ làm những trò như vậy để ngăn ngừa chúng tôi , nhưng mà chúng tôi nghĩ rằng khi chuyện này lên tin tức của báo chí Tây phương thì mọi chuyện sẽ rõ ràng . Vừa đánh vừa đàm, một mặt thì ký kết, một mặt thì dùng những trò như thế này”
Tin giờ cuối chúng tôi được biết Minh Hạnh do bị hành hung nên được đưa vào nhà thương , sau đó khoẻ lại thì đem trở lại đồn công an phường Long Bình, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Hiện anh Huỳnh Ngọc Chênh và chị Thành, vợ anh Trương Minh Đức được phép vào trong đồng công an thăm. Có mặt trong phái đoàn khoảng 20 người đến đồn công an đòi người , anh Lâm cho chúng tôi biết:
“Có đưa lên nhà thương, sau đó đã đưa trở lại đồn, hiện người ta cho 2 người thân vào trong, người ta không cho vào hết. Hiện tại là tình hình như vậy”
Trong khi TPP đã được thông qua ngày 5/10 vừa qua và đang chờ đợi thông qua Quốc Hội, việc công an Việt Nam bắt bớ những người bảo vệ quyền lợi cho người lao động là một xâm phạm trầm trọng đến những điều khoản về quyền lao động được công nhân trong hiệp định TPP.
Mang một dáng vẻ nghệ sĩ với mái tóc bồng bềnh, không ai nghĩ Han là người đã lập ra công đoàn độc lập đầu tiên ở Trung Quốc đại lục trong biến cố Thiên An Môn lịch sử.
Sau cuộc thảm sát Han bị giam giữ 22 tháng không qua xét xử. Sang Mỹ điều trị một năm sau khi được thả, Han bị Bắc Kinh trục xuất sang Hong Kong trên đường trở về nước, tiếp tục hoạt động về quyền lao động cho công nhân Trung Quốc đại lục ở đó cho đến nay.
Tiếng tăm ở cấp độ quốc tế của Han đến từ kinh nghiệm hoạt động về quyền lao động trong lòng một quốc gia cộng sản ở cả thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung lẫn kinh tế thị trường – điều mà ngay cả các nhà hoạt động từ các nước cựu cộng sản Đông Âu cũng không có được.
‘Biết mình biết người’, Han hiểu tường tận thể chế, con người và văn hóa cộng sản, dựa vào đó để đề ra chiến lược hoạt động. Khi biết tôi đến từ Việt Nam, quốc gia có nhiều đặc điểm tương đồng với Trung Quốc, Han đã có nhiều chia sẻ quý báu mà đáng chú ý là 3 điểm dưới đây:
Một là chiến lược “Ba không”.
Bắt đầu bằng “không chính trị hóa”. Không thể phủ nhận nhiều vi phạm quyền lao động là vi phạm nhân quyền và liên quan mật thiết đến thể chế chính trị. Tuy nhiên, nếu những nhà hoạt động phản ứng theo hướng tiếp cận này mỗi khi vi phạm xảy ra, “họ sẽ đem đến cơ hội bằng vàng cho chính quyền dán nhãn hành vi phản ứng và sử dụng bộ máy an ninh quốc gia vào việc trấn áp.”, Han lập luận.
“Nếu công ty không trả lương, hãy tập trung vào chuyện tiền bạc. Nếu điều kiện làm việc không tốt, hãy tập trung vào chuyện an toàn. Đừng nói về nhân quyền, thể chế chính trị…” , Han ví dụ.
Cái ‘không’ này dẫn đến hai cái không còn lại: ‘không trung ương hóa’ và ‘không quốc tế hóa’. Tuyệt đại đa số vụ vi phạm quyền lao động diễn ra tại các nhà máy ở cấp địa phương. Bởi vậy, một khi được các nhà hoạt động mang lên cấp trung ương, hoặc xa hơn là ra các diễn đàn quốc tế, các vụ việc này sẽ trở nên nhạy cảm chính trị hơn nhiều.
Từ đó, dẫn đến hai hệ quả xấu. Đầu tiên là các chính quyền địa phương – nơi lẽ ra phải chịu trách nhiệm cho các vi phạm, ngay lập tức sẽ phủi trách nhiệm và yêu cầu trung ương phải giải quyết vì đây là vụ việc nguy hiểm về chính trị. Sau nữa, các nạn nhân hoặc những người công nhân tranh đấu (rất có thể đang chịu tù đày) có thể sẽ được quốc tế vinh danh như những người anh hùng bảo vệ nhân quyền, nhưng bỗng sẽ trở nên quá nhạy cảm chính trị đối với những người công nhân khác nên sau đó khó trở thành người thủ lĩnh thực thụ của phong trào công nhân.
Hai, “phong trào quyền lao động là trường học dân chủ”.
Quyền lao động ảnh hưởng sâu sắc tới toàn thể xã hội vì gia đình nào cũng có ít nhất một người lao động. Không chỉ liên quan tới quyền lợi mà còn là quyền lực, phong trào quyền lao động đóng vai trò tối quan trọng trong việc thiết chế hóa nền dân chủ (institutionalize democracy).
“Nếu muốn có một nền dân chủ, hãy bắt đầu bằng một công đoàn dân chủ”, Han nói.
Vậy điều này có mâu thuẫn gì với chiến lược ‘không chính trị hóa’ ở trên không? Hoàn toàn không. Bởi lẽ các sinh hoạt bình thường của công đoàn và phong trào quyền lao động như thương lượng tập thể, bầu chọn người đại diện và đình công nếu được thực hiện thường xuyên liên tục sẽ giúp người lao động hiểu rõ dân chủ là gì thông qua chính việc thực hành nó hàng ngày. Đấy chính là một quá trình chính trị hóa không được nói ra nhưng rất hiệu quả.
Ba, “cẩn trọng với TPP và tự do nghiệp đoàn”.
Han biết rõ nhiều nhà hoạt động Việt Nam đang chờ đón TPP với hi vọng quyền lao động sẽ được cải thiện. Han cũng biết sự tập trung đang được dành cho quyền tự do nghiệp đoàn (freedom of association) và những cơ hội mà nó có thể đem lại, nhưng anh giữ một thái độ thận trọng:
“Thử tưởng tượng, nếu bạn lập được một công đoàn độc lập nhưng chỉ có vài chục người tham gia trong một nhà máy có hàng chục ngàn công nhân thì điều đó có ý nghĩa gì nào?
“Hãy bắt đầu từ nơi làm việc, học hỏi các kĩ năng đấu tranh về tiền lương, điều kiện làm việc. Sau thì mới đến các kĩ năng khác như thương lượng tập thể, tổ chức công đoàn, bầu chọn người đại diện, liên minh liên kết các công đoàn khác.
“Mỗi giai đoạn như vậy có thể mất cả chục năm. Nhưng điều gì dễ đến thì dễ đi. Quyền lao động ở nước nào cũng vậy, đều phải đấu tranh rất khổ cực thì mới giành được.
“Nếu giới hoạt động không tập trung vào các nhu cầu thực chất của công nhân và xây dựng các kĩ năng cần thiết theo đúng trình tự thì chưa hẳn TPP đã tốt cho quyền lao động ở Việt Nam.”
Han, sau mỗi lần nói chuyện, luôn để lại cho tôi rất nhiều nghĩ suy tự vấn. Còn bạn, sau khi nghe kể lại thì sao?
Viết từ Seoul, 11/2015.
Nguyễn Anh Tuấn
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Luật sư Nguyễn Minh Tâm, Phó Tổng thư ký liên đoàn luật sư Việt nam nói rằng việc thành lập một tổ chức công đoàn mới song song với tổ chức hiện có là điều có thể xảy ra trong tương lai.
Phát biểu của ông Tâm được báo Tuổi trẻ trích lời trong bài viết về Tổ chức thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Công đoàn vào ngày hôm nay.
Trong bài viết này hai chuyên gia trong tổ chức Tổng công đoàn lao động của nhà nước là ông Mai Đức Chính và Nguyễn Văn Lai cũng nói rằng Tổ chức Công đoàn của nhà nước hiện nay không đáp ứng nhu cầu của tầng lớp công nhân.
Ông Trần Ngọc Vinh, Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho biết là Công đoàn Việt nam cần đổi mới cách thức hoạt động, nếu không thì người lao động sẽ không tham gia.
Ông Vinh có đề cập đến việc thành lập các tổ chức đại diện cho người lao động trong tương lai tại các nhà máy. Theo ông thì người lao động có quyền thành lập các tổ chức này và phải được cơ quan nhà nước công nhận thì mới được hoạt động.
Tuy nhiên ông nói thêm là vai trò của Tổng Công đoàn lao động Việt nam hiện nay được qui định trong Hiến pháp, vì vậy vai trò của tổ chức này trong tương lai cũng không hề thay đổi. Nhưng ông cũng nói là một khi TPP được phê duyệt thì chính phủ sẽ nghiên cứu sửa đổi các văn bản qui phạm pháp luật như là nghị định của chính phủ, quyết định của Thủ tướng, cho phù hợp.
Quốc hội Việt Nam dành ba ngày chất vấn kết thúc nhiệm kỳ của Chính phủ cũng như bản thân Quốc hội. Tuy vậy những ai quan tâm tới thời cuộc đã chú mục vào buổi chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 18/11/2015.
Qua trực tiếp truyền hình và tường thuật của báo chí, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã vượt qua các câu hỏi bằng cách đi đường vòng và không trả lời trực tiếp những câu hỏi được dư luận quan tâm. Theo Tuổi Trẻ Online, VietnamNet, Thanh Niên Online, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhận được 24 ý kiến chất vấn trực tiếp và 20 câu hỏi của 9 đại biểu. Tuy vậy người đứng đầu chính phủ chỉ trả lời gộp một số nội dung và hứa giải đáp sau bằng văn bản, mặc dù ông còn dư rất nhiều thời gian. Do vậy phiên họp Quốc hội sáng 18/11/2015 đã kết thúc sớm hơn một giờ so với dự kiến.
Một cán bộ về hưu ở Hà Nội, Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang tỏ ra không hài lòng về cách thức mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn. Ông nói:
Bản thân tôi trông chờ, sau phát biểu của Thủ tướng thì Thủ tướng sẽ nghe và trả lời trực tiếp những câu hỏi cụ thể của các đại biểu Quốc hội. Nhưng điều này đã không xảy ra, đó là điều đáng tiếc mà nhiều người dân, nhiều cử tri đã trông chờ.
-Nguyễn Đăng Quang
“Bản thân tôi trông chờ, sau phát biểu của Thủ tướng thì Thủ tướng sẽ nghe và trả lời trực tiếp những câu hỏi cụ thể của các đại biểu Quốc hội. Nhưng điều này đã không xảy ra, đó là điều đáng tiếc mà nhiều người dân, nhiều cử tri đã trông chờ.”
Trong số những chất vấn ấn tượng được báo chí trích dẫn, các đại biểu Nguyễn Anh Sơn đơn vị Nam Định, Lê Nam tỉnh Thanh Hóa có câu hỏi liên quan tới việc bảo vệ giữ vững chủ quyền biển đảo, trong bối cảnh Trung Quốc bồi đắp đảo nhân tạo và xâm lấn nghiêm trọng hơn trên biển Đông. Ngoài ra còn báo cáo của Ủy ban Dân nguyện gởi Quốc hội, ghi nhận ý kiến cử tri 28 tỉnh thành mong muốn Việt Nam sớm khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế về vấn đề Biển Đông.
Chất vấn của Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đơn vị TP.HCM được báo Thanh Niên Online trích thuật khá đầy đủ. Tóm tắt, LS Trương Trọng Nghĩa cho rằng Việt Nam phụ thuộc sâu vào kinh tế Trung Quốc và bị đe dọa chủ quyền. Theo lời vị đại biểu, thực tế ở các nước cho thấy Trung Quốc nổi tiếng về việc mang đồng tiền đi trước để chi phối về chính trị. Do vậy, ông thu thập ý kiến cử tri và họ đề nghị không vay tiền không nhận viện trợ từ Trung Quốc, trong giai đoạn hiện nay bởi vì Trung Quốc đang tranh chấp, thậm chí đang xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam.
Ý kiến của cử tri mà đại biểu Trương Trọng Nghĩa dùng làm câu hỏi dành cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được LS Trần Quốc Thuận, nguyên phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội từ Saigon chia sẻ:

“Đúng ra hiện nay hai bên, hai nhà, hai cá nhân đang tranh tụng. Giữa cá nhân với nhau thì liên quan đến tài sản tiền của tranh chấp về quyền sở hữu, còn đây là tầm quốc gia là biển đảo, lãnh thổ mà mình lại đi nhận tiền người ta cho thì nghe nó không ổn. Tục ngữ Việt Nam có câu anh ‘xây chùa nghĩa miễn’ thì cách đó nó không thuận lắm.”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua truyền hình và báo chí đã chỉ trả lời một cách chung chung, lập lại các chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Theo đó Việt Nam vừa hữu nghị hợp tác bình đẳng với Trung Quốc vừa đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, lãnh thổ quốc gia; bảo vệ lợi ích quốc gia theo đúng các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, cũng như Hiến chương Liên Hiệp Quốc, luật pháp quốc tế, đặc biệt là Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Cảm nhận chung được ghi nhận, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không nói được điều mà cử tri muốn nghe và đại biểu đã hỏi. Đó là Chính phủ đã làm gì khác ngoài những lời nói suông, không có hành động tích cực đối với việc mất chủ quyền biển đảo. Thủ tướng cũng không trình bày quan điểm của ông đối với vấn đề lệ thuộc kinh tế Trung Quốc và mong muốn của cử tri là không nhận viện trợ, không vay tiền Trung Quốc trong lúc này. Người đọc báo có cảm nhận, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã lập lại những điều mà Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nói hàng ngày với báo chí.
Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội theo dõi phiên chất vấn qua truyền hình đã bày tỏ sự thất vọng của mình. Ông nhấn mạnh tới sự kiện đại biểu Quốc hội phải nghỉ sớm gần 1 tiếng rưỡi vì Thủ tướng không trực tiếp trả lời các câu hỏi.
Còn thời gian mà Thủ tướng không trả lời mà hứa trả lời bằng văn bản trên Cổng thông tin chính phủ. Lúc đó nó không dẫn đến tranh luận và toàn dân đã không được nghe các ý kiến. Tôi cũng rất buồn là trả lời chất vấn cuối nhiệm kỳ của Thủ tướng không được trọn vẹn.
-LS Trần Quốc Thuận
“Thủ tướng trả lời toàn dẫn nghị quyết Liên Hiệp Quốc, tiêu chí giảm nghèo, mục tiêu thiên niên kỷ. Những điều cụ thể đại biểu quốc hội hỏi thì không thấy trả lời, trong đó có câu hỏi của đại biểu Trương Trọng Nghĩa, 3 câu hỏi của đại biểu Trần Du Lịch. Ngoài ra còn 46 đại biểu Quốc hội hỏi mà chưa trả lời, trong đó không biết bao nhiêu câu là dành cho Thủ tướng. Tổng kết ra thì 18 đại biểu hỏi với trên 20 câu hỏi. Tôi thấy Thủ tướng không trả lời thẳng vào những vấn đề đó, cho nên cũng hơi buồn. Ngoài ra còn thời gian mà Thủ tướng không trả lời mà hứa trả lời bằng văn bản trên Cổng thông tin chính phủ. Lúc đó nó không dẫn đến tranh luận và toàn dân đã không được nghe các ý kiến. Tôi cũng rất buồn là trả lời chất vấn cuối nhiệm kỳ của Thủ tướng không được trọn vẹn.”
Đối với vấn đề cử tri 28 tỉnh thành mong muốn Nhà nước sớm khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về việc xâm lấn Biển Đông. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gây thất vọng lớn cho những ai chờ đợi một câu trả lời thẳng thắn. Đọc Thanh Niên Online và nhiều báo điện tử khác, người đọc báo có cảm tưởng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cẩn thận ngôn từ bằng lời hoa mỹ và không quên khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi xin trích nguyên văn: “Phải tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của cộng đồng quốc tế về chân lý lẽ phải của Việt Nam. Gìn giữ hòa bình ổn định, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Nhận định về vấn đề liên quan, cựu Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang từ Hà Nội phát biểu:
“Nói về ý nguyện của người dân, thực ra mà nói người dân đã mong muốn phải thực hiện việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế từ lâu rồi. Nhưng điều này chưa được Nhà nước thực hiện. Vừa rồi có một số ý kiến là đã đến lúc phải đưa Trung Quốc ra tòa, vì đấu tranh pháp lý cũng là đấu tranh hòa bình, cần tận dụng vì Việt Nam đang rất thuận lợi trong cuộc đấu tranh pháp lý này. Chưa tận dụng được là một điều đáng tiếc. Bản thân tôi cũng có ý kiến là lúc này cần kiện Trung Quốc ra các tòa án của Liên Hiệp Quốc, nhiều người trong ngoài nước ủng hộ ý kiến này… Theo tôi hiểu các cơ quan chuyên môn luật pháp, các ngành đã chuẩn bị tư liệu sẵn sàng nhưng chưa được bật đèn xanh.”
Theo dõi thông tin về ba ngày chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội Việt Nam khóa 13, cũng là hoạt động chất vấn cuối nhiệm kỳ mà Tuổi Trẻ Online gọi là “Hoàng hôn nhiệm kỳ,” có thể thấy rằng Quốc hội Việt Nam có sự thay đổi đáng kể về điều gọi là “Cách chất vấn mới tốt, nhưng trả lời chưa sâu.”
Bên cạnh những vấn đề cụ thể mà đại biểu quốc hội hỏi, thành viên chính phủ trực tiếp trả lời, phong cách mới trong chất vấn và trả lời chất vấn ở Quốc hội cũng là dịp để báo chí cười xả láng về những phát ngôn không thể ngờ của một số Bộ trưởng trong chính phủ. VietnamNet và nhiều báo điện tử khác cùng ghi nhận sự kiện nghị trường cười nghiêng ngả, khi Bộ trưởng Văn hóa Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh nói rằng, sản phẩm du lịch thượng hạng của Việt nam là chiếc nón lá và món phở… còn trách nhiệm về sự yếu kém của ngành du lịch Việt Nam xin để cho bộ trưởng kế tiếp trả lời vì ông hết nhiệm kỳ rồi.

Chủ tịch đảng Việt Tân khẳng định Mặt Trận Hoàng Cơ Minh “không hề chủ trương và cũng không liên quan” đến việc sát hại các ký giả người Việt hồi thập niên 1980.
Nước Pháp và cả thế giới một lần nữa chấn động bởi bọn khủng bố không biết tanh máu người. Một trăm hai mươi chín thân xác gục xuống dưới những viên AK47 tàn bạo nhắc nhở loài người một sự thật luôn đi kèm với đời sống bất cứ ở nước nào trên thế giới này: không bao giờ có hòa bình vĩnh cửu cho nhân loại.
Những viên đạn làm cháy lên các viên đạn khác khắp nơi, từ Iraq tới Yemen cho tới Syria hay Afganistan. Chiến dịch săn đuổi khủng bố tổng lực của Pháp và Mỹ không làm cho người ta yên tâm hơn mà trái lại câu hỏi bén như dao vẫn làm cho chính phủ các nước dân chủ mất ăn mất ngủ: liệu chính sách mở cửa cho người tỵ nạn có giúp làm cho bọn khủng bố thêm đất đai để tiếp tục giết hại chính người mở cửa cho chúng tràn vào?
Phương Tây vẫn không ngừng lớn tiếng tranh đấu cho những con người khốn khổ vì chiến tranh, vì bất công đày đọa. Phương Tây không mở cửa sẽ bị chính người dân của họ phản đối và những phản đối ấy kéo theo các phản ứng dây chuyền khác của kẻ chống người bênh. Ngay cả việc nghe lén điện thoại vì lý do an ninh cũng bị phản ứng dữ dội và sinh ra con quái vật Snowden, đẩy sự chống đối việc nghe lén lên tới đỉnh điểm.
Người Pháp có thể đặt câu hỏi: Còn bao nhiêu vụ bắn giết nữa xảy ra trên đất nước này khi mà sự căm thù của bọn Nhà nước Hồi giáo ngày một tăng cao tỷ lệ thuận với những chuyến không kích vào sào huyệt của chúng.
Chúng ở ngay nước Pháp, dưới chân tháp Eiffel, dưới những trạm xe điện ngầm và ngay cả trong Vương cung thánh đường Notredam de Paris. Người dân Paris nếu được hỏi có nên cô lập tất cả các sắc dân từ các vùng có quân khủng bố đang sinh sống tại Pháp hay không thì chắc chắn câu trả lời sẽ là không. Bởi, bọn chúng không đại diện cho tất cả các sắc dân mang cùng tôn giáo hay quốc tịch với chúng. Nạn nhân của chúng là những tấm lòng đã mở ra gói chúng vào trong và họ không hề tin rằng một hôm nào đó những con rắn cõng kinh Coran trên lưng ngoác rộng miệng ra cắn vào chính người nuôi dưỡng chúng.
Đặc điểm của sự mâu thuẩn này không bao giờ có lời giải đáp toàn vẹn cũng như bất cứ giải pháp nào nhằm chống lại những con người đang tỵ nạn trong lòng nước Pháp đều sẽ làm dấy lên hỗn loạn. Nhân quyền sẽ được mang ra và đấy cũng là cái cớ cho bọn khủng bố tận dụng chống lại hệ thống dân chủ của Tây phương: Nhân quyền bị chà đạp vì nhân danh bảo vệ cho người dân chính quốc, sẽ là câu slogan khiến giới tả khuynh nắm chặt trong tay như bùa, và lá bùa ấy vừa làm cho nước Pháp được vinh danh vừa tưới thêm máu người dân lên dân chủ, nhân quyền vốn là ánh sáng dẫn đường cho dân tộc Pháp.
Nhân quyền càng thắm máu thì giá trị của nó lại càng tăng cao.
Ý thức nhân quyền của công dân trong các nước dân chủ thực sự có vượt qua được cuộc chiến với khủng bố IS hay không cón phải chờ thời gian trả lời. Sự mệt mỏi vì bị tấn công trường kỳ có thể làm biến dạng cách mà các chính phủ tôn trọng nhân quyền nhưng chắc chắn sẽ không vì vậy mà biến thái hay méo mó như những chính phủ độc tài vẫn áp dụng cho người dân của họ. Nhân quyền vẫn sẽ là thước đo cho từng biện pháp đối phó với khủng bố kể cả phải cô lập một cộng đồng, một khuynh hướng cũng phải không được bất cẩn với hai chữ nhân quyền.
Thế giới phương Tây có lúng túng cách nào vẫn có thể đối phó với khủng bố được bởi ý thức của từng người dân và sự tôn trọng sự đóng góp của họ trong tinh thần dân chủ. Lo ngại việc khủng bố trà trộn vào dân chúng, vào các cộng đồng hồi giáo dù có làm cho dân chúng sợ hãi nhưng sẽ không làm cho họ phản ứng như đối với kẻ thù. Lý do là họ đang sống chung với những cộng đồng có cùng lo âu như họ và không ai nỡ mang xiềng xích vây bủa làng xóm mà mình biết chắc là lương thiện như mình.
Chỉ có độc tài mới cho rằng mọi biện pháp đều cần thiết, kể cả việc chà đạp nhân quyền hay dân chủ cũng tốt miễn là đạt được mục đích cuối cùng.
Khủng bố tại các nước cộng sản như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên hay Việt Nam đều mang dạng thức chà đạp nhân quyền để đạt mục đích được rêu rao là giữ gìn an ninh công cộng. Những cái chết âm thầm trong trại giam, những con người bị lôi sềnh sệch tại Tây Tạng, Tân Cương hay Hà Nội đều giống nhau vì họ tranh đấu cho nhân quyền, cho quyền làm người phổ quát mà ai cũng được quyền hưởng. Họ tập trung vì bất cứ lý do gì cũng được xem như chống lại nhà nước và vì vậy nhà nước dùng biện pháp khủng bố lên tinh thần họ để gìn giữ an ninh cho đám đông mà nhà nước cho là cần phải được bảo vệ.
Đám đông mỗi nơi một khác nhưng tại Việt Nam mọi đám đông đều được nhìn như nhau, được định nghĩa là tụ tập với hàm ý xấu và do đó cách đối phó không khác gì nhau.
Anh đi biểu tình chống Trung Quốc hay chỉ là dự định đi biểu tình chống lại công an không công bằng với những luật sư nạn nhân của côn đồ đều giống nhau. Luật Sư Trần Vũ Hải không khác với kỹ sư Trần Bang, một người bị khủng bố bê bết máu trên mặt một người bị khủng bố bê bết vết nhơ giả dối trên hồ sơ hành nghề. Hai cách khủng bố không chết ai ấy nhưng lại có tác dụng như IS trong lòng Paris: làm cho người dân Việt Nam tê cứng trong sợ hãi.
Cái giá của dân chủ nhân quyền không bao giờ là nhỏ và cách ứng xử của người dân mỗi nước vì vậy cũng khác nhau. Pháp thừa hưởng dân chủ nhân quyền đầy đủ và công dân của Xanh Trắng Đỏ sẽ tỉnh táo nhưng không khoan nhượng với IS. Trong khi đó, người dân Việt sẵn lòng im lặng khi bị khủng bố bởi họ nằm trong chiếc kén kiên cố của những chú nhộng không bao giờ thành bướm, và những con nhộng ấy không hề có cảm giác chiếc kén của mình ngày một nhỏ hơn bởi chính sách đàn áp của chính quyền mỗi ngày một căng phồng ra.
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
BBC Tiếng Việt http://www.boxitvn.net/bai/39307

Luật sư Trần Vũ Hải ngồi làm việc với báo Petrotimes ngày 20/11
Nhóm luật sư ở Hà Nội, trong có luật sư Trần Vũ Hải, vừa tới làm việc với ban biên tập báo PetroTimes tại văn phòng của báo này.
Khoảng 13 giờ chiều 20/11, luật sư Trần Thu Nam đăng tải trên Facebook cá nhân một đoạn video cho thấy Tổng biên tập báo Petrotimes ngồi làm việc với ông Trần Vũ Hải và các luật sư đi cùng “về các bài báo đã đăng về anh Hải”.
Trong video, ông Nguyễn Như Phong phát biểu: “Tôi nghĩ rằng là chúng tôi đã nói đến các luật sư thì có hai cách nói, một là theo tình, hai là theo luật.
Nếu theo luật thì chúng tôi viết sai thì chúng tôi phải đính chính, chúng tôi phải xin lỗi theo đúng quy định luật báo chí.
Để có căn cứ chẳng hạn, chúng tôi cũng đề nghị anh Hải gửi cho chúng tôi một văn bản phân tích tất cả các cái sai trong các bài báo.
Sau khi anh phân tích xong thì chúng tôi sẽ có cái của chúng tôi”.
Ngay sau buổi gặp, luật sư Trần Vũ Hải đã viết trên trang cá nhân “Chiều nay, tôi và các đồng nghiệp làm việc với ông Phong. Sau khi thấy mặt tôi, ông thừa nhận thông tin trên không chính xác, ra lệnh gỡ bài ngay và đính chính”.
Ông Hải cũng đề cập đến “năm bài của báo điện tử Petrotimes” viết về ông trong vụ ông bị áp giải lên công an phường Xuân La.
Ông viết: “Tôi khẳng định những nội dung trong các bài này không đúng sự thật về tôi và ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của tôi. Ông Phong đồng ý gỡ 5 bài này ngay. Hai bên đồng ý nếu sau này có kết luận của cơ quan chức năng về sự việc của tôi, báo Petrotimes sẽ có quyền đăng theo kết luận đó”.
Trước đó, sáng thứ Sáu 20/11, báo PetroTimes đăng bài đặt nghi vấn ông Hải đã “trốn đi Mỹ”.
Báo này nói một nguồn tin riêng của PetroTimes cho hay, sau lần bị “áp tải” về Công an phường Xuân La [hôm 12/11], ông Trần Vũ Hải đã sang Mỹ.

Ông Trần Vũ Hải ngoài trụ sở công an phường Xuân La hôm 12/11
Tuy nhiên khi BBC gọi tới số điện thoại thường dùng của ông, thì ông Hải cho biết vẫn đang ở Hà Nội, và ở một vị trí “chỉ cách tòa soạn PetroTimes mấy trăm mét”.
Ông cho hay cũng không rõ tại sao tờ báo của chủ bút Nguyễn Như Phong lại đăng bài như vậy.
Báo PetroTimes gần đây đăng nhiều bài công kích luật sư Trần Vũ Hải.
Ông Trần Vũ Hải là luật sư có tên tuổi ở Hà Nội, tham gia nhiều vụ án bị cho là “nhạy cảm”.
Hôm 12/11 ông đã bị công an tới nhà áp giải lên công an phường Xuân La, hành vi mà ông nói là “bắt giữ trái pháp luật và xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm danh dự của công dân”.
PetroTimes còn cho biết thêm: “Về thông tin này, một lãnh đạo PC45 cho hay, Cơ quan CSĐT Công an Hà Nội đã áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm xuất cảnh để phục vụ điều tra. Ông Trần Vũ Hải không chỉ bị điều tra về dấu hiệu lừa đảo mà còn liên quan đến một số vụ việc đang được Cơ quan CSĐT Bộ Công an thụ lý”.
Luật sư Hải nói ông đã mời một số đồng nghiệp tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong vụ bị bắt giữ hôm 12/11 và quá trình xử lý đang được tiến hành.
Nguồn: http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/11/151120_tranvuhai_petrotimes
Đã qua rồi cái thời nói xa, nói xôi, nói bóng, nói gió, nói nhưng còn… “ngậm hột thị” vì lo bị “nhập kho”, lo mất chúc, lo mất quyền lợi, sổ hưu, lo cho tương lai, số phận của vợ con, họ hàng…ở giữa cái thể chế thù ba đời con cháu này…
Tất cả những ai có tí chút văn hóa và nhất là từ khi Internet đã đến được từng gia đình thì ai cũng biết: Đứng đầu một quốc gia mà bị nhân dân châm biếm, đả đảo, kể tội tham ô, chơi bời trác táng, thậm chí bị dân chúng cho ăn cả cà chua, trứng thối….để đến nỗi phải rút lui, từ chức (có khi cả một nội các), thậm chí tự sát, không phải là chuyện hiếm thấy trên thế giới của các chế độ dân chủ…
Riêng ở cái nước “Việt Nam không chịu tiến lên” này, kể từ khi có các ông cộng sản độc quyền lãnh đạo thì…dù có biết chắc mười mươi mấy ông “kễnh” từ xã, huyện, tỉnh đến Trung ương, thi nhau cướp của, giết người công khai xây lầu son, gác tía trước mắt dân đen quanh năm thiếu đói, nhưng ai có gan cóc tía chạm đến là..có ngày tiêu vong.. Kỷ luật về bảo vệ Đảng và đường lối cực kỳ cứng rắn của cái Đảng gọi là “cộng sản”này: Không được phép viết và nói cái gì (dù đó là sự thật) ”không có lợi cho Đảng…”, cho đến nay vẫn là “bất di bất dịch”!.
Mặc mẹ mọi sự tiến bộ của loài người, những ông “vua cộng sản Việt” vẫn chẳng coi cả thế giới này chả là cái con tôm, con tép gì khi dám đưa ra những luật lệ hù dọa người dân “không được đưa tin xâm hại đến quyền lợi và danh dự hợp pháp của cá nhân, của tổ chức…” để sẵn sàng truy tố tất cả ai dám tố cáo, chạm đến cái lông mũi của mấy thằng ăn cắp có phe, có cánh, có “chính sách riêng” yểm trợ… mà việc truy tố Tổng Biên Tập Báo “Người Cao Tuổi” Kim quốc Hoa là một “cú dằn mặt” của bọn bảo vệ đến cùng đồng bọn đối với những ai dám đập cái “bình quí” lúc nhúc những chuột đồng chí, đồng chóe của những “tập đoàn lợi ích”được Thiên Triều Đại Hán bảo hộ…Chẳng có cái chuyện “phe đảng”,” phe chính phủ”…Cũng chẳng có cái chuyện gì về “lý tưởng, lý sự, lý luận khác nhau nên chống đối nhau” gì xất!
Sự ngạo mạn, ngang ngược coi thường người dân bị trị của cái khóa “đảng-chính phủ 11” này lên đến cao độ khi bộ mặt hàng phục, bán nước cho Thiên Triều Đại Hán Đế ngày càng lộ rõ, và được… thú nhận. Đặc biệt khi cái mặt nạ đồng chí 4 tốt của bọn Tầu bành trướng đã tự rơi xuống khi trước thế giới, chúng tuyên bố công khai là “toàn vùng biển, đảo Nam Trung Hoa là của chúng từ thời cổ đại”…và quyền tôn tạo, xây dựng sân bay, hải đăng, đặt tên, là quyền của chúng. không cho phép bất cứ kẻ nào xâm phạm …Kèm theo là các sách giáo khoa, các bản đồ đường lưỡi bò được chúng công khai phổ biến khắp thế giới,… gây nên một sự phản đối của hàng loạt nước lớn, nhỏ …thì….phía những tên bị gọi là “con hoang” của Thiên Triều…lại mời các bố Tầu sang để nhận chiếu chỉ mới và khấu đầu tạ tội nhận làm cái đột phá khẩu mở ra từ cửa Vịnh Bắc Bộ cho “con đường tơ lụa trên biển, bắt đầu từ Biển Đông vào Ấn Độ Dương, sang châu Phi, qua Trung Đông, vô thẳng Địa Trung hải, xâm nhập qua vùng biển Caspienne vào thị trường châu Âu.. . “Giấc mộng Đại Hán Đế ngàn đời” nay đang được những tên tay sai gọi là “đồng chí hướng” hua-ra “xếp lại dị đồng, giữ nguyên hiện trạng” nâng cốc chúc mừng nhau “hướng về tương lai”, “cùng nhau khai thác một vành đai, một con đường, 2 hành lang”!!! Nghĩa là Tam Sa cứ giữ nguyên là Tam Sa, Hoàng Sa là của Thiên Triều từ năm 1974, các đảo Gạc Ma, Chữ Thập tại Trường Sa,…., các đảo ngầm mới tôn tạo thành sân bay, hải đăng….cứ giữ nguyên, “Không một nước nào nên can thiệp vào cho thêm phức tạp tình hình”(?!)
Nói trắng ra là: “Cái gì thiên triều đã ra chiếu chỉ là của thiên triều thì người Việt chúng tôi xin thiên triều cứ….giữ nguyên hiện trạng”!
bản đồ mới về Biển đảo Nam Trung Hoa là của người Trung Hoa từ thời cổ đại đã được in mới và phổ biến khắp thế giới.
“con đường tơ lụa trên biển”, giấc mơ bành trướng ngàn đời của Đại Hán Đế nay đã được tay sai Việt Gian mở vịnh Bắc Bộ làm cánh cửa đầu tiên.
Riêng chuyện “không thay đổi hiện trạng” mà hiện trạng theo bọn xâm lược là “Biển Nam Trung Hoa là của nước Trung Hoa từ thời cổ đại” thì rõ ràng “cái bẫy hiện trạng” của kẻ xâm lược đã xập xuống đầu những kẻ cố tình hoặc thực sự đại ngu nên không thấy được họ sẽ “giữ nguyên hiện trạng” như thế này:
Báo Newsweek dẫn lời một quan chức Trung Quốc giấu tên nói “còn 209 thực thể đất đai ở Biển Đông vẫn “còn trống” và chúng tôi có thể chiếm tất cả chúng. Chúng tôi có thể chiếm lấy chúng trong vòng 18 tháng?”.
Muốn đọc toàn văn xin đọc ở đây
Vừa rời cái quận Lạc Việt của Đại Hán Đế, như để khẳng định lại một chuyện đã chẳng còn gì phải bàn bạc nữa rồi, họ Tập vội lên tiếng nhắc lại cái chân lý của hắn: Biển Nam Trung Hoa là của dân tộc Trung Hoa từ thời cổ đại, tôi nhắc đây để mấy anh Phi anh Mã anh Indo hãy theo gương cậu em Việt mà đừng thắc mắc lôi thôi!
Trong lúc người Phi, người Mã và cả Indo đều lên tiếng phản đối dọa đưa ra tòa như người Phi đã làm thì…mấy anh thái thú Việt miệng câm như bị đổ keo con voi! Báo chí anh Huynh, sau khi lần đầu được chạm cốc cười cầu tài với bố Tập cũng được lệnh của anh,…im re….Mãi sau …. khi Tập vương đã về đến thiên Triều thì một vài tờ báo mới được phép “đưa tin cấm bình luận” về cái hiện thực không thể tranh cãi (nhưng rất sợ tranh cãi) là… Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam”!
Thật nhục nhã! Thật hèn nhát! Và…mặt nạ của những tên tay sai dưới chiêu bài “đồng chí hướng, chung vận mệnh” đã tự động rơi xuống !Đặc biệt nghiêm trọng là khi kẻ cầm quyền đã thẳng tay đàn áp những người yêu nước xuống đường phản đối sự có mặt của Tập đã bị đàn áp thẳng tay và máu cũng đã đổ….
CÚC CUNG TẬN TỤY NGHE GIẶC TẦU- ĐÁNH VỠ ĐẦU ĐỔ MÁU NGƯỜI DÂN VIÊT YÊU NƯỚC…VẬY BỌN ĐÓ LÀ BỌN GÌ? NẾU KHÔNG PHẢI LÀ BỌN VIỆT GIAN BÁN NƯỚC CHO TẦU!
Tớ, một lão già hơi có tí tự hào là con mọt của Internet vì suốt ngày bị đóng đanh tại chỗ, không đi đâu được, thời gian qua, mình đã đọc hàng trăm bài viết, bài phỏng vấn của các loại nhân vật trong xã hội, từ ông đảng viên lão thành đến nhà trí thức danh tiếng,… từ các nguyên quan chức đảng-nhà nước đến những người trẻ tuổi đang sôi sục máu căm giận lũ “hèn với giặc, ác với dân”, bịt tai, bịt mũi nhắm mắt nuốt cái “đại cục” bip bợm để thêm nhiều “tiểu cục” cho con cháu khuân ra nước ngoài….
Mình thành thật phấn khích khi cả một cuộc đời, đến lúc sắp xuống lỗ lại được chứng kiến SỰ BẮT ĐẦU CỦA MỘT CUỘC ĐẤU TRANH CHO TỰ DO, DÂN CHỦ LẠI RẦM RỘ, KIÊN QUYẾT, THẲNG THỪNG ĐẾN NHƯ THẾ!
Đặc biệt là khi các nhà trí thức, học giả thứ thiệt, lâu nay rất thận trọng trong cách viết, cũng không nín nổi mấy câu chửi bình dân, chẳng còn “nể nang- tế nhị” gì nữa.
Hãy nghe cụ Nguyễn Khắc Mai nè:
“… có thể nói Tuyên bố Việt Trung vừa rồi là rất phản dân, hại nước. Một thứ thái độ, một thứ ý kiến nó không rõ ràng, không rành mạch. Hai bên tôn trọng, Hai bên không làm gì bọn Tàu. Lão Tập Cận Bình nó cũng chẳng mong gì hơn Việt Nam nói như vậy. Có thể nói đây là một sự thua thiệt, một sự thất bại nhục nhã, một sự đầu hàng nhục nhã của Ban lãnh đạo khi tiếp Tập Cận Bình.
Nhưng mặt trái của nó là nhân dân thấy được bộ mặt thật của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam là phản dân, hại nước….
Còn giáo sư Chu Hảo thì hỏi vỗ mặt ngay những tên chóp bu đảng phản quốc kia (mà ông lại vẫn còn ở trong cái đảng ấy):
QUÝ VỊ ĐÓN KẺ XÂM LƯỢC RỒI CHO NÓ ĐĂNG ĐÀN QUỐC HỘI, QUÝ VỊ CÓ THẤY HỔ THẸN VỚI TIỀN NHÂN KHÔNG?
Riêng tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang thì như một công tố ủy viên tối cao, sau khi phân tích về tội phản quốc đã thẳng thừng đề nghị như sau:
“Còn để những Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh ngày nào trong bộ máy lãnh đạo thì nguy cơ mất nước còn hiển hiện. Hãy kịp thời đuổi ngay họ ra khỏi Đảng.
Rồi ông nhấn mạnh đến vai trò của Trọng được bọn “phản động” âm mưu “giữ lại”:
Vậy mà, bọn gián điệp Phương Bắc, bọn chân gỗ, hay chính Nguyễn Phú Trọng đang tìm cách áp đặt phương án giữ NPT thêm nửa nhiệm kỳ TBT. Đây là tai họa khôn lường.
Sự mơ hồ Nguyễn Phú Trọng chỉ có thể giải thích bằng sự ngu xuẩn hoặc giả ngây giả ngô, làm nội ứng để xẻ thịt cắt da tổ quốc dâng cho giặc.
Cuối cùng ông giõng dạc kết tội:
Xét các sai lầm nghiêm trọng đã thành hệ thống:
– Nhân danh Tổng Bí thư, không phán ánh đúng tinh thần Bộ Chính trị, tự tiện đưa ra chủ trương song phương hóa tranh chấp Biển Đông Việt Nam – Trung Quốc…
– Nhân danh Tổng Bí thư, không phản ánh đúng tinh thần Bộ Chính trị, tự tiện mời công an Trung Quốc vào chế ngự Việt Nam (xem bài viết tháng 5 năm 2013 “Mấy nghi vấn đối với bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc do ông Nguyễn Phú Trọng kí kết” trong thư viện trên).
– Nhân danh Tổng Bí thư, không phản ánh đúng tinh thần Bộ Chính trị, tự tiện thừa nhận Biển Đông của Việt Nam thuộc vào thành phố Tam Sa của Trung Quốc.
…..
Đề nghị Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN ra quyết định đình chỉ công tác để làm kiểm điểm, tiến tới truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Phú Trọng.
Riêng với tiến sỹ Trần Nhơn, nguyên thứ trưởng Bộ Thủy lợi thì kết luận bằng mấy câu thơ, mà đọc lên có những kẻ không biết nộp đơn xin về vườn hay khá hơn là…nhảy lầu mà chết thì quả là các vị ấy xứng làm tổ sư của lũ mặt dày!
“Đóng cửa, hiệp thương với “Cướp ngày,
Giữa kỷ nguyên hội nhập Đông Tây.
Phải chăng hồn ma Lê Chiêu Thống
Nhập vào Nguyễn Phú Trọng hôm nay?!”
Nhìn 3 cái bộ mặt tay sai phản quốc bán nước hại dân đang hể hả chuốc rượu đại vương Tập của chúng nó mà muốn tức hộc máu
NHÌN CÁI MẶT HẢ HÊ CỦA 3 TÊN TAY SAI NÂNG LY CHÚC ĐẠI HÁN ĐẾ TẬP ĐẠI VƯƠNG ĐẠI ĐẠI THÀNH CÔNG MÀ TỨC ỨA MÁU-
Còn tớ, để kịp thời biểu hiện tình cảm tư tuởng đang muốn bung ra bằng một tràng chửi bậy, ngay ngày 6/11, tớ quẳng lên Facebook một Status ngắn, kèm một tấm ảnh hiếm chộp được trên BBC, nhìn mà muốn “tức đến hộc máu như sau:
Tập đại đế chiếm đóng biển đảo của VN, tuyên bố với toàn thế giới “Biển đảo Nam Trung Hoa là của chúng nó từ thời cổ đại . Vậy mà lại cúi đầu mời nó đến để cảm ơn công lao “dưỡng dục sinh thành”, để nó ra lệnh “cầu đồng tồn dị, xếp lại bất đồng”, “giữ nguyên hiện trạng”, “hướng tới….tai ương”,…Chỉ còn thiếu quì lạy: “Cảm ơn các bố! Kể từ nay, biển trời nước Việt thật là may mắn đã được sáp nhập vào Trung Hoa Hán Đế Vĩ Đại và chúng con đây đã được làm thái thú của Thiên Triều!”
Con nít đến người già đều gọi bọn này là Việt gian liệu có nặng quá không nhỉ?
Chỉ riêng câu cuối cùng đặt vấn đề trong tình huống không dứt khoát đã bị nhận nhiều cú nhéo nhẹ như:
“Bác nói thế là còn thương lũ chúng nó quá đấy!
“Xem ra, cụ vẫn chưa hết cái bệnh “nửa vời”….vv
Hơi có tí ngượng, tớ quyết định viết thêm mấy trang nhật ký nữa để khẳng định:
BỌN NÀY KHÔNG THỂ KHÔNG DỨT KHOÁT GỌI CHÚNG LÀ BỌN ĐẠI VIỆT GIAN (hơn mấy ông kể trên một chữ “đại”)
Ai có thời giờ xin mời nghe thêm những lời nói đầy căm giận quân cướp nước và bọn bán nước của giáo sư Tương Lai ở đây: https://www.facebook.com/video.php?v=1691865674429182
T.H
Nguồn: http://to-hai.blogspot.com/2015/11/nhat-ky-mo-lan-156-en-luc-can-chi-ung.html
1. An ninh điều tra bế tắc trong vụ án Anh Ba Sàm
Châu Văn Thi
“Theo hướng kỹ thuật vi tính thì việc điều tra vụ án thực sự là bế tắc cho cơ quan điều tra”.
Đó là câu trả lời phỏng vấn của luật sư Trần Quốc Thuận, luật sư bào chữa cho Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh với tạp chí Luật Khoa.
Luật sư Trần Quốc Thuận. Nguồn Soha.
Cơ quan an ninh đang cố chứng minh “kỹ thuật vi tính” mà ông Nguyễn Hữu Vinh sử dụng để làm chủ 2 trang web Dân quyền và Chép sử Việt bằng việc ông có số điện thoại và email cài mật mã hai lớp để vào được hai trang này.
“Không phải tôi có chìa khóa vào nhà thì có nghĩa là tôi vào nhà. Mà nếu tôi vào nhà thì phải để lại dấu vết, còn không tìm ra dấu vết thì không thể khẳng định được gì”, luật sư Thuận dẫn lời của ông Nguyễn Hữu Vinh cho biết.
Cơ quan an ninh phải nhờ tới FPT và các cơ quan truyền thông của Bộ Thông tin – Truyền thông để làm rõ, tuy nhiên FPT chỉ đưa ra được ngày giờ mà ông Vinh đọc 2 trang này, còn việc có chỉnh sửa các bài viết trên trang web hay không thì FPT không chứng minh được.
Luật sư Thuận nói thêm, “đọc tin mà có tội thì Việt Nam này có tới cả triệu người đi tù rồi!”.
Tính đến thời điểm này đã là 18 tháng kể từ khi bị bắt giữ, cơ quan an ninh điều tra công an thành phố Hà Nội vẫn chưa thể đem ông Nguyễn Hữu Vinh ra xét xử hoặc trả tự do cho ông, mặc dù đã quá thời hạn tạm giam 12 tháng đối với nhóm tội nghiêm trọng (Án tù cao nhất 7 năm – điều 258 BLHS).
“Bắt người mà không có chứng cứ, khi không chứng minh được anh Vinh phạm tội mà vẫn giam giữ anh thì vi phạm nhân quyền đó còn lớn hơn là vi phạm quyền tự do ngôn luận”, cũng theo luật sư Trần Quốc Thuận.
Ông Nguyễn Hữu Vinh, tức blogger Ba Sàm, và bà Nguyễn Thị Minh Thúy (nhân viên kế toán của Công ty TNHH Điều tra và Bảo vệ V) cùng bị bắt khẩn cấp ngày 5/5/2014 tại nhà riêng ở Hà Nội.
Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an buộc tội ông Vinh là chủ sở hữu và điều hành hai trang web có tên “Dân quyền” và “Chép sử Việt”, đăng tải trên đó 24 bài viết “có nội dung sai sự thật, không có căn cứ; tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…”. Tuy nhiên, các kết luận điều tra đều không chứng minh được ông Vinh là chủ sở hữu và điều hành hai trang này.
Theo điều 8: Khái niệm tội phạm của BLHS thì tội phạm nghiêm trọng có mức án cao nhất là 7 năm tù. Theo thông tin trên trang Chính phủ “Hỏi đáp và tư vấn pháp luật” thì giai đoạn điều tra đối với tội phạm nghiêm trọng được giam giữ tối đa 3 tháng, thời hạn giam giữ có thể gia hạn tạm giam 02 lần, lần thứ nhất không quá 02 tháng và lần thứ hai không quá 01 tháng.
Ngày 6/2/2015 Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ra cáo trạng, sau 4 lần yêu cầu Điều Tra Bổ Sung của VKSNDTC và Tòa án nhân dân thành phố, thì cơ quan điều tra Bộ Công an đã không đưa ra thêm được bằng chứng nào.
Ngày 27 tháng 10 năm 2015, trả lời phỏng vấn của BBC, bà Hà, vợ của Anh Ba Sàm cho biết Sức khỏe Anh Ba Sàm đáng “lo ngại” và bà không thể gửi thuốc vào cho ông Vinh.
C.V.T.
Nam Nguyên, phóng viên RFA
Blogger “Anh Ba Sàm” Nguyễn Hữu Vinh
Blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy bị bắt ở Hà Nội đã hơn 18 tháng qua, tội danh cáo buộc là lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Vụ án này được giới luật gia mô tả là vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự. Những khả năng nào sẽ xảy đến cho Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự của ông.
Cho tới ngày 18/11/2015 chưa có thông tin khi nào tòa án sẽ xét xử vụ Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và cộng sự, mặc dù đã hết ba lần gia hạn điều tra mỗi lần 4 tháng. Như vậy Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có thể đã áp dụng lần gia hạn điều tra cuối cùng thêm 4 tháng nữa với lý do đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp này thì ngày 5/1/2016 sẽ là thời điểm hết hạn điều tra.
Trong trường hợp không điều tra được không kết luận được, các cơ quan điều tra không chứng minh được thì về nguyên tắc đúng ra họ phải đưa điều tra bổ sung, nhưng bây giờ thời hạn điều tra bổ sung theo luật đã hết thì họ sẽ phải đình chỉ vụ án rồi trả tự do – LS Trần Quốc Thuận
Trả lời Nam Nguyên, Luật sư Trần Quốc Thuận thuộc nhóm các Luật sư biện hộ cho blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh đề cập tới những khả năng có thể xảy đến với vụ án này:
“Nếu đưa ra xét xử mà có chứng cứ, các cơ quan điều tra chứng minh được là có tội. Nếu những chứng cứ đó hợp pháp và tranh tụng rõ ràng thì họ có quyền kết án và tuyên án. Trong trường hợp không điều tra được không kết luận được, các cơ quan điều tra không chứng minh được thì về nguyên tắc đúng ra họ phải đưa điều tra bổ sung, nhưng bây giờ thời hạn điều tra bổ sung theo luật đã hết thì họ sẽ phải đình chỉ vụ án rồi trả tự do. Còn một phương án nữa là họ tuyên bố không phạm tội, có thể có ba khả năng đó”.
Trò chuyện với chúng tôi, Đại tá Nguyễn Đăng Quang cán bộ công an hiện nghỉ hưu ở Hà Nội, cũng là một nhà hoạt động có nhiều kiến nghị cải cách, cho rằng chưa có vụ án nào kéo dài như vụ này mà chưa đưa ra xét xử được. Theo lời Đại tá Quang, cơ quan điều tra chưa chứng minh được nghi phạm Nguyễn Hữu Vinh đã vi phạm luật pháp như thế nào, chưa chứng minh được những tội đã vi phạm, cho nên nó đã ảnh hưởng tới thời hạn đưa ra xét xử trước tòa. Bản kết thúc điều tra cũng như cáo trạng không có sức thuyết phục và chưa chứng minh được tội phạm mà nghi can Nguyễn Hữu Vinh đã phạm phải.
Nghị sĩ Sabine Bätzing-Lichtenthäler thuộc Ủy ban Nhân quyền Quốc hội Đức gặp gỡ Bà Lê Thị Minh Hà, vợ blogger Anh Ba Sàm (giữa), hôm 31/10/2014 tại Berlin, Đức Quốc trong lúc Bà Hà đi vận động cho chồng.
Đáp câu hỏi là hiện nay Việt Nam đang nỗ lực cải cách pháp luật cho phù hợp với yêu cầu hội nhập, liệu có khả năng Blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự được trả tự do, phát xuất từ việc không đủ chứng cớ cũng như vấn đề vi phạm thủ tục tố tụng hình sự. Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang, nhận định:
“Điều này nằm ngoài hiểu biết cũng như tưởng tượng của tôi. Trực tiếp cách đây khoảng một tuần, chính bản thân tôi đã gặp cơ quan an ninh, tôi có đề nghị rằng nếu không chứng minh được tội phạm thì tốt nhất là đình chỉ điều tra và trả tự do cho anh Nguyễn Hữu Vinh. Đấy là điều tốt nhất và các bên đều thắng. Nhưng tôi nghĩ rằng các cơ quan chức năng hiện nay không bao giờ có thể dám làm những điều đó, bởi vì quyền lực trong tay có lẽ người ta không chịu thua… rồi thì người ta sẽ đưa ra một cái cớ khác để kéo dài thời gian tạm giam tạm giữ.”
Sự kiện Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự bị bắt giữ khẩn cấp ngày 5/5/2014 và truy tố như một vụ án chính trị được dư luận trong ngoài nước đặc biệt chú ý. Ông Nguyễn Hữu Vinh, 59 tuổi có bút danh Ba Sàm, ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Nguyễn Hữu Vinh từng là sĩ quan công an và có gốc gác lớn, thân phụ là ông Nguyễn Hữu Khiếu từng giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, Bộ trưởng Bộ Lao động, Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô.
Theo cáo trạng được Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao gởi Tòa án Nhân dân TP Hà Nội ngày 5/11/2015, thì sau 4 lần điều tra bổ sung, Viện này vẫn giữ nguyên cáo trạng, truy tố ông Nguyễn Hữu Vinh và đồng phạm về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Trực tiếp cách đây khoảng một tuần, chính bản thân tôi đã gặp cơ quan an ninh, tôi có đề nghị rằng nếu không chứng minh được tội phạm thì tốt nhất là đình chỉ điều tra và trả tự do cho anh Nguyễn Hữu Vinh – Đại tá Nguyễn Đăng Quang
Theo kết luận điều tra của Cơ quan An ninh Điều tra, ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị bắt vì đã đăng tổng cộng 24 bài viết trên hai trang mạng Dân quyền và Chép sử Việt, được cho là thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Vinh. Những bài viết này Công an cho là có nội dung xấu, thông tin sai lệch làm giảm uy tín, làm mất lòng tin trong nhân dân về cơ quan Nhà nước cũng như tổ chức xã hội và công dân vi phạm qui định tại Điều 258 Bộ Luật Hình sự. Khung hình phạt của tội danh này là từ 2 năm tới 7 năm tù.
Theo giới luật gia quan tâm tới vụ án, công an đã không thể chứng minh ông Nguyễn Hữu Vinh là người quản lý hai trang mạng Dân quyền và Chép sử Việt, dù đã phải mời chuyên gia nhà mạng FPT giúp điều tra chuyên môn. Nếu như ông Nguyễn Hữu Vinh chỉ là người vào xem những bài vở trên hai trang mạng đó, thì không thể buộc tội ông.
Việt Nam là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016, tất nhiên Hà Nội thừa nhận pháp luật nhân quyền cơ bản, không thể kết tội một người nếu không chứng minh được người đó có tội. Giới chuyên môn đưa ra một thí dụ nổi bật về vấn đề vi phạm tố tụng hình sự trong vụ án Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh. Đó là trong số 24 bài trên trang Dân quyền và Chép sử Việt, có bài liên quan tới Trung tướng Huỳnh Kông Tư, giới chức cao cấp của Bộ Công an và chính ông Huỳnh Kông Tư lại đứng ra điều tra vụ án có bài viết liên quan. Đây là vấn đề rất đơn giản gọi là xung đột lợi ích, người có liên quan đến một vụ án không thể tham gia tố tụng.
Hiện nay có 6 Luật sư tham gia biện hộ cho anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy, gồm Luật sư Trần Văn Tạo nguyên Phó Giám đốc Công an TP HCM, Luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội và các Luật sư Trịnh Minh Tân, Hà Huy Sơn, Nguyễn Hà Luân, Nguyễn Tiến Dũng.
Tất cả các vị luật sư đã sẵn sàng vào cuộc trong một vụ án điển hình liên quan tới quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận và tự do có chính kiến của người Việt Nam.
N.N.
3. Vụ án Ba Sàm thiếu chứng cứ, có dấu hiệu vi phạm tố tụng nghiêm trọng
Đoan Trang (thực hiện)
“Ban đầu tôi tưởng đâu vụ này sẽ lại lặp lại các vấn đề về dân chủ – nhân quyền như vụ Cù Huy Hà Vũ, nhưng hóa ra lại là một vấn đề khác, còn vi phạm nhân quyền nghiêm trọng hơn. Đó là, theo những công ước nhân quyền quốc tế mà Việt Nam đã ký thì: Không thể kết tội một người nếu không chứng minh được người đó có tội” – ông Trần Quốc Thuận, một trong 5 Luật sư bảo vệ cho blogger Ba Sàm (Nguyễn Hữu Vinh), trao đổi với Luật Khoa.
Bài viết liên quan: Diễn biến vụ án Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh (liên tục cập nhật)
PV: Ông tiếp nhận hồ sơ vụ án “Anh Ba Sàm” từ khi nào?
LS: Khi anh Vinh bị bắt thì anh có nói qua cô Hà (bà Lê Thị Minh Hà, vợ ông Nguyễn Hữu Vinh – PV) mời tôi làm Luật sư. Nhưng do tôi ở miền Nam nên đã từ chối vì không muốn đi lại nhiều gây tốn kém cho gia đình trong giai đoạn thẩm vấn, chất vấn bị can. Tôi nói lúc nào thích hợp thì tôi sẽ tham gia.
Và khi có kết luận điều tra, anh Vinh lại nhắc lại là mời tôi làm Luật sư. Nên tôi gửi hồ sơ ra, đến ngày 21/3/2015 thì có quyết định của Viện Kiểm sát đồng ý cho tôi làm Luật sư cho anh Vinh, nhưng phải giục nhiều lần thì cuối tháng 4/2015, tôi mới nhận được quyết định đó.
Lần ra nhận quyết định, tôi cũng tranh thủ gặp anh Vinh trong một tiếng đồng hồ, cũng không nói được nhiều. May mà có LS. Hà Huy Sơn tham gia ngay từ đầu, anh ấy có đầy đủ hồ sơ vụ án. Tôi đã nhờ anh ấy chuyển cho tôi để đọc và tiếp cận vụ án. Khi tiếp cận vụ án, thật sự tôi đã đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
PV: Ngạc nhiên sao ạ?
LS: Ban đầu tôi vẫn nghĩ rằng anh Vinh bị bắt vì anh là chủ trang “Anh Ba Sàm” tức trang “Thông Tấn Xã Vỉa Hè”. Nhưng khi tiếp cận hồ sơ thì hóa ra không phải, mà anh ấy bị bắt vì hai trang “Dân quyền” và “Chép sử Việt”. Rồi lại cũng chẳng phải do hai trang này mà thành ra là vấn đề kỹ thuật vi tính.
Tôi đã chuẩn bị tranh tụng cho vấn đề dân chủ và nhân quyền như Việt Nam đã ký ở các công ước quốc tế liên quan, nhưng cuối cùng thì không phải vậy. Và theo hướng kỹ thuật vi tính thì việc điều tra vụ án thực sự là bế tắc cho cơ quan điều tra.
PV: Ông có thể nói rõ bế tắc như thế nào?
LS: Tức là, cơ quan điều tra khẳng định anh Vinh là chủ của hai trang “Dân quyền” và “Chép sử Việt”, bởi vì họ cho rằng anh ấy có số điện thoại và email cài mật mã hai lớp để vào được hai trang đó.
Anh Vinh nói rằng họ phải chứng minh được anh vào khi nào, bằng cách nào. Lúc này thì cơ quan điều tra thua, họ phải mời tới FPT và các cơ quan truyền thông của Bộ Thông tin – Truyền thông để làm rõ. Bên FPT đưa ra giờ, ngày, tháng… mà anh Vinh có ở trên giao diện của hai trang đó, tức là đang đọc tin trên hai trang đó. Nhưng đọc tin mà có tội thì Việt Nam này có tới cả triệu người đi tù rồi.
Dù vậy, cơ quan điều tra vẫn nói đại rằng anh Vinh chính là quản trị viên của hai trang trên, bởi lẽ anh Vinh có đủ điều kiện để vào được hai trang đó. Anh Vinh vẫn bác lại với lập luận: “Không phải tôi có chìa khóa vào nhà thì có nghĩa là tôi vào nhà. Mà nếu tôi vào nhà thì phải để lại dấu vết, còn không tìm ra dấu vết thì không thể khẳng định được gì”.
Cơ quan điều tra cũng cố làm rõ xem có phải anh Vinh đã can thiệp thay đổi nội dung các bài đăng trong hai trang trên không, vì nếu có thì đúng là anh Vinh vào đó thật. Nhưng anh ấy không nói, mà cơ quan điều tra thì không thể chứng minh được. Lẽ ra, điều tra không được thì phải thả.
Ban đầu tôi tưởng đâu vụ này sẽ lại lặp lại các vấn đề về dân chủ – nhân quyền như vụ Cù Huy Hà Vũ, nhưng hóa ra lại là một vấn đề khác, còn vi phạm nhân quyền nghiêm trọng hơn. Đó là, theo những công ước nhân quyền quốc tế mà Việt Nam đã ký thì: Không thể kết tội một người nếu không chứng minh được người đó có tội. Và anh Vinh đang rơi vào trường hợp đó.
Luật sư Trần Quốc Thuận. Nguồn ảnh: Tuổi trẻ.
PV: Ông có thể cho biết vắn tắt các vi phạm tố tụng trong vụ án Ba Sàm?
LS: Trong hồ sơ có kết luận điều tra thì thấy nói rằng Tổng cục An ninh (Cục Bảo vệ Chính trị VI – A67) theo dõi và thấy có hai trang mạng “Dân quyền” và “Chép sử Việt”. Sau đó, họ gửi công văn cho bên FPT… Rồi họ giao cho cơ quan điều tra, cơ quan điều tra mới phối hợp điều tra và xác minh. Và thế là có lệnh bắt khẩn cấp.
Khi đến bắt khẩn cấp thì họ gõ cửa, kêu lâu quá. Anh Vinh bảo: “Đâu phải nhà tôi lúc nào cũng sẵn sàng mở cửa cho các anh đâu”. Lúc họ vào nhà thì anh Vinh đang đau đầu, nằm trên ghế. Họ cứ thế vào bật máy và in ra rất nhiều tài liệu, phòng của cô Thúy họ cũng vào in ra được ba bài. Đem biên bản cho anh Vinh ký thì anh ấy không ký, bảo “với đường truyền tốc độ cao thì các anh muốn in bao nhiêu bài chả được, cứ gì 6 bài”.
Sau đó họ niêm phong cửa phòng lại. Nhưng phòng này lại là phòng có hai cửa, nên về sau anh Vinh nói rằng ai đó khác cũng có thể vào bằng cửa kia và in ra rất nhiều bài.
Trường hợp này cũng không cần phải bắt khẩn cấp, bắt khẩn cấp là lạm quyền. Chưa kể, như bình thường, lệnh bắt khẩn cấp phải được Viện Kiểm sát phê chuẩn trong 24 giờ sau khi bắt, nhưng trong vụ này thì 8 ngày sau Viện Kiểm sát mới phê chuẩn.
Đó là những vấn đề vi phạm tố tụng nghiêm trọng.
Ngoài ra, trong tố tụng hình sự, có quy định rằng những người có liên quan đến vụ án (ví dụ: người bị hại…) thì không được tham gia vào tố tụng.
Vụ án này có liên quan đến ông Hoàng Kông Tư, bởi trong 24 bài mà anh Vinh bị buộc tội đăng tải, có một bài về ông Hoàng Kông Tư, là bài “Ông trời con Hoàng Kông Tư vs. BBC Việt ngữ”. Ấy thế mà ông Hoàng Kông Tư lại đứng ra điều tra về vụ án có bài viết đó.
Như vậy, rất có thể hiểu thành ông Tư trả thù người ta; vì người ta đăng tải bài đó nên ông đứng ra điều tra để trả thù, ông có động cơ trả thù.
Việc đó, về mặt tố tụng, là không được phép. Người bị hại không được phép đứng ra điều tra.
Ông Nguyễn Hữu Vinh.
PV: Ông có biết tại sao anh Nguyễn Hữu Vinh bị bắt? Mà lại bắt vào đúng tháng 5 năm ngoái, thời điểm Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng biển của Việt Nam. Liệu có phải là một động thái của chính quyền nhằm trấn áp những người chống việc thân Trung Quốc không? Sau đó họ cũng bắt Bọ Lập, GS. Hồng Lê Thọ…
LS: Các blogger viết bài, nhiều khi nhìn vào cách viết thì thấy là họ cũng có thiên kiến, không ủng hộ ông này mà ủng hộ ông kia, giữa những ông có đầy quyền lực. Cho nên bắt bớ kiểu đó cũng là kiểu chặt tay, chặt chân của nhau. Thế gọi là “trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết”.
Trước những ngưỡng cửa, trước những bước ngoặt thì thường hay có biến cố kiểu đó.
PV: Ông thấy hai vụ – Cù Huy Hà Vũ và Anh Bà Sàm, vụ nào khó cãi hơn?
Bây giờ không khí cởi mở hơn so với năm 2011, tư pháp cũng có nhiều đổi mới hơn. Để cãi thì cũng có nhiều chỗ để mà cãi hơn. Trong bài cãi cho Cù Huy Hà Vũ thì có lý sự, lập luận rõ ràng và có vẻ logic hơn.
Còn trong trường hợp Nguyễn Hữu Vinh, tôi cho rằng câu chuyện là sự vi phạm quy trình tố tụng, bắt người mà không có chứng cứ. Khi không chứng minh được anh Vinh phạm tội mà vẫn giam giữ anh thì vi phạm nhân quyền đó còn lớn hơn là vi phạm quyền tự do ngôn luận. Vì quyền con người đầu tiên là quyền được sống, được tự do thân thể, không bị giam giữ.
PV: Vậy theo ông thì sắp tới vụ án sẽ diễn biến thế nào ạ?
LS: Thì chính quyền cũng sẽ gặp khó khăn, họ biết vậy. Nhưng giống như vụ Cù Huy Hà Vũ, họ cũng chịu một áp lực là phải xử, phải đem Nguyễn Hữu Vinh ra tòa xét xử. Giờ chúng ta chỉ không biết họ sẽ khép anh Vinh vào tội gì cho đỡ vô lý thôi, không biết có khép tội trốn thuế không nữa (cười).
Vụ án Ba Sàm: Ông Nguyễn Hữu Vinh, tức blogger Ba Sàm, và bà Nguyễn Thị Minh Thúy (nhân viên kế toán của Công ty TNHH Điều tra và Bảo vệ V) cùng bị bắt khẩn cấp ngày 5/5/2014 tại nhà riêng ở Hà Nội. Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an buộc tội ông Vinh là chủ sở hữu và điều hành hai trang web có tên “Dân quyền” và “Chép sử Việt”, đăng tải trên đó 24 bài viết “có nội dung sai sự thật, không có căn cứ; tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…”. Tuy nhiên, các kết luận điều tra đều không chứng minh được ông Vinh là chủ sở hữu và điều hành hai trang này.
Các luật sư nhận bảo vệ cho ông Vinh và bà Thúy, tính đến thời điểm này, gồm: Trần Quốc Thuận, Trần Văn Tạo, Hà Huy Sơn, Nguyễn Hà Luân, Trịnh Minh Tân, Nguyễn Tiến Dũng. Trong đó, ông Trần Quốc Thuận (Văn phòng Luật sư Hà Hải & Cộng sự) là nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội Việt Nam và từng là một trong các luật sư biện hộ trong vụ án Cù Huy Hà Vũ.
Đ.T.
Bất chấp những cam kết theo TPP, các điều luật hà khắc mới được đề xuất
(New York, ngày 20 tháng Mười một năm 2015) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền tuyên bố Việt Nam đang sử dụng các điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia để bịt miệng các nhà bất đồng chính kiến và bắt giữ những người phê bình chính quyền. Hoa Kỳ và các quốc gia thành viên khác của Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) cần gây sức ép để Việt Nam không thông qua các điều luật dự thảo có nội dung gia tăng các chế tài mang tính vi phạm nhân quyền để sửa đổi, bổ sung bộ luật hình sự vốn đã hà khắc.
Tháng Mười một năm 2015, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang báo cáo với Quốc hội rằng từ tháng Sáu năm 2012 đến tháng Mười một năm 2015, “ngành công an đã tiếp nhận, bắt giữ, xử lý 1.410 vụ, 2.680 đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia”. Tướng Quang cho biết rằng, “Cũng trong khoảng thời gian này, số đối tượng chống đối đã lập hơn 60 hội, nhóm bất hợp pháp dưới danh nghĩa dân chủ, nhân quyền với khoảng 350 đối tượng tham gia ở 50 tỉnh, thành”.
“Việc chính phủ Việt Nam công bố đã bắt giữ và xử lý hàng ngàn người, đồng thời thừa nhận đã đưa vào tầm ngắm các nhóm hoạt động về dân chủ và nhân quyền, gây lo ngại sâu sắc,” ông Brad Adams, Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu. “Điều này gợi ra một thực tế rằng chính quyền Việt Nam đang quá lạm dụng các điều luật an ninh quốc gia vốn đã hà khắc, để hình sự hóa các hành vi ngôn luận ôn hòa và đàn áp những người phê bình chính quyền”.
Quốc hội Việt Nam đang xem xét dự thảo Bộ Luật hình sự sửa đổi và Bộ Luật tố tụng hình sự sửa đổi trong phiên hiện hành, sẽ kết thúc vào ngày 28 tháng Mười một. Một số điều luật bổ sung được đề xuất dường như nhằm vào các nhà hoạt động và những người phê bình chính quyền. Thay vì loại bỏ các điều luật vốn đã hà khắc, thì chính phủ lại đề xuất các chế tài trừng phạt còn nặng nề hơn đối với những người hoạt động nhân quyền và các blogger.
Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, chính quyền Việt Nam có “thành tích” dày dặn về việc bắt giữ người dân với lý do được gán cho là vi phạm các điều luật về an ninh quốc gia, tạm giam họ trong một thời gian dài không được tiếp cận nguồn hỗ trợ pháp lý hay được gia đình thăm gặp, và không được chăm sóc y tế đầy đủ. Tình trạng từng người trong số 2.680 cá nhân được Tướng Quang nhắc đến cần phải được làm rõ càng sớm càng tốt. Chính quyền Việt Nam cần công bố thông tin về từng vụ, bao gồm tên họ; tội danh cáo buộc nếu có; có bị xét xử hay không; thời gian đã hoặc đang giam giữ từng người; cùng với các chi tiết khác có liên quan.
Chính quyền Việt Nam thường sử dụng các điều luật có nội dung mơ hồ và có thể được diễn giải tùy tiện trong Bộ Luật hình sự và các bộ luật khác để bỏ tù những người bất đồng chính kiến về tôn giáo và chính trị. Trong đó bao gồm “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (điều 79 Bộ Luật hình sự, với mức án lên tới tử hình); “phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” (điều 87 bộ luật hình sự, mức án tới 15 năm tù); “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (điều 88, mức án tới 20 năm tù); “phá rối an ninh” (điều 89, mức án lên tới 15 năm tù); “trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài để chống chính quyền nhân dân” (điều 91, mức án lên tới chung thân); và “các hình phạt bổ sung” nhằm tước đoạt một số quyền của những người từng bị kết án về các tội danh “an ninh quốc gia,” buộc phải chịu quản chế với thời gian có thể lên tới năm năm và tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của họ (điều 92).
Ngoài ra, Việt Nam cũng sử dụng các điều luật khác trong Bộ Luật hình sự để nhằm vào những người bất đồng chính kiến ôn hòa, ví dụ như “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân” (điều 258), hoặc “gây rối trật tự công cộng” (điều 245) hay các tội danh như trốn thuế.
Trong các điều khoản mới được đề xuất, mang tính hà khắc hơn, điều 109 (thay thế điều 79 trước đây), điều 117 (thay thế điều 88 trước đây) và điều 118 (thay thế điều 89 trước đây) đều có thêm điều khoản mới với nội dung, “người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ một đến năm năm”.
“Bộ luật hiện hành đã đủ tệ, và đã được chính quyền áp dụng thường xuyên một cách tùy tiện để dập tắt tiếng nói của những người phê bình,” ông Adams nói. “Nhưng bỏ tù một người dân tới năm năm chỉ vì chính quyền nghĩ rằng họ có thể lên tiếng hay tổ chức các hoạt động bất đồng chính kiến thì thật là lố bịch”.
Trong hai năm 2014 và 2015, giữa quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam đã phóng thích 14 nhà hoạt động và blogger dưới sức ép của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nhiều người khác vẫn đang bị giam giữ, trong đó có những người chưa đưa ra xét xử.
Trong những người đang thụ án tù có các blogger Trần Huỳnh Duy Thức và Bùi Thị Minh Hằng, Cha Nguyễn Văn Lý, nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình và Võ Minh Trí, các nhà hoạt động nhân quyền Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa và Nguyễn Đặng Minh Mẫn, và nhà hoạt động quyền lợi về đất đai Hồ Thị Bích Khương. Trong những trường hợp chưa đưa ra xét xử, có các blogger Nguyễn Hữu Vinh (bút danh Anh Ba Sàm), Nguyễn Thị Minh Thúy, và Nguyễn Đình Ngọc (bút danh Nguyễn Ngọc Già), bị bắt từ năm 2014.
Khi vấn đề quyền của người lao động được chú ý cao, vào tháng Sáu năm 2014, Việt Nam đã phóng thích nhà hoạt động vì quyền lợi người lao động Đỗ Thị Minh Hạnh, bị bắt và truy tố năm 2010 theo điều 89 vì đã giúp tổ chức một cuộc đình công tự phát. Những người cộng sự của Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương, vẫn đang phải ngồi tù. Nếu Bộ Luật hình sự sửa đổi được thông qua, Hạnh, Hùng và Chương có thể bị bắt chỉ vì chính quyền lo ngại họ có thể giúp người lao động tổ chức đình công.
Theo báo cáo của Tướng Quang, công an Việt Nam đã “ngăn chặn kịp thời hoạt động của số đối tượng chống đối trong nước kích động, lôi kéo quần chúng tụ tập tuần hành, biểu tình chống Đảng, Nhà nước. Chủ động tấn công chính trị, bao vây cô lập, phân hóa, ly gián số đối tượng cầm đầu, không để tập hợp lực lượng dưới các hình thức ‘tổ chức xã hội dân sự”. Tướng Quang khẳng định nhiệm vụ của công an bao gồm việc “ngăn chặn ý đồ hình thành và công khai tổ chức chính trị đối lập trong nước cũng như hoạt động lập, công khai hóa các hội, nhóm bất hợp pháp trên Internet”.
“Dường như chính quyền Việt Nam ra vẻ thiện chí trong quá trình đàm phán TPP, còn bây giờ sau khi ký được thỏa thuận rồi thì lại tiến hành các bước nhằm xiết chặt sự kiểm soát đối với những người chỉ trích chính phủ”, ông Adams nói.
Muốn biết thêm các báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền về Việt Nam, vui lòng truy cập:
https://www.hrw.org/vi/asia/vietnam
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ:
Ở San Francisco, Brad Adams (tiếng Anh): +1-347-463-3531 (di động); hoặc adamsb@hrw.org. Twitter: @BradMAdams
Ở Bangkok, Phil Robertson (tiếng Anh, tiếng Thái): +66-85-060-8406 (di động); hoặc robertp@hrw.org. Twitter: @Reaproy
Ở Washington, DC, John Sifton (tiếng Anh): +1-646-479-2499 (di động); hoặc siftonj@hrw.org. Twitter: @johnsifton
Nguồn: HRW Asia gửi BVN
Tổng thống Philippines Benigno Aquino III và em gái Maria Elena Aquino-Cruz chào đón Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và phu nhân Mai Thị Hạnh đến dự buổi tiệc tối tại Manila, ngày 18/11/2015.
Một số học giả của Philippines đã nhận định như vậy với VOA Việt Ngữ sau khi Manila và Hà Nội đồng ý nâng cấp mối quan hệ song phương lên tầm chiến lược.
Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh hôm 17/11 đã ký vào ‘Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược’ với sự chứng kiến của nguyên thủ hai nước.
Thỏa thuận này được coi là sẽ mở đường cho hai bên thúc đẩy quan hệ song phương trong nhiều lĩnh vực, trong đó có quốc phòng và an ninh biển.
Chủ tịch nước Việt Nam và Tổng thống Philippines cũng tái khẳng định tầm quan trọng của việc bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông cũng như việc giải quyết tranh chấp trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Ông Renato de Castro, giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học De La Salle ở Philippines, cho biết rằng nước ông từng ký kết thỏa thuận tương tự với Nhật Bản, Hàn Quốc và nay là với Việt Nam để “làm đối trọng với Trung Quốc”.
Học giả này nói thêm rằng dù hiệp định không dẫn tới một liên minh quân sự như giữa Manila và Washington, nhưng nó cho thấy đôi bên đã gác lại các tranh chấp ở Trường Sa để chống lại mối đe dọa chung là Bắc Kinh.
Ông Renato nói thêm:
“Cả Philippines và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền chồng chéo nhau ở biển Đông. Hai nước cũng cạnh tranh về chủ quyền ở biển Đông, nhưng điều quan trọng lúc này là phải cùng nhau đối phó với một mối đe dọa lớn và xấu hơn nhiều, đó là việc mở rộng phạm vi tuyên bố chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc”.
Nhà nghiên cứu này nhận định thêm rằng thỏa thuận trên sẽ giúp chính quyền Hà Nội và Manila tăng cường tham vấn chính trị, kiểm soát tranh chấp giữa hai nước, cũng như gia tăng các biện pháp củng cố lòng tin giữa các lực lượng hai nước ở biển Đông, mà điển hình là cuộc giao lưu giữa hải quân ở Trường Sa gần đây.
Việt Nam và Philippines thời qua đã gia tăng hợp tác song phương, trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng hoạt động lấn biển, xây đảo nhân tạo trên biển Đông, gây lo ngại cho cả hai quốc gia Đông Nam Á này.
Trong chuyến thăm Philippines năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng tình hình ở biển Đông hiện nay “đặc biệt nguy hiểm” đồng thời khẳng định rằng hai nước sẽ củng cố hợp tác quốc phòng và sẽ “kiên quyết phản đối” Trung Quốc.
Ông Roilo Golez, cựu dân biểu đồng cố vấn an ninh quốc gia Philippines, nói với VOA Việt Ngữ rằng hai nước Đông Nam Á phải giúp đỡ nhau vì “có chung đối thủ là Trung Quốc”.
Ông nói thêm rằng sự hợp lực của người Việt Nam cho thấy “Philippines không đơn độc”.
“Việt Nam hiện phải đối mặt với các vấn đề tương tự như chúng tôi trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Những gì Việt Nam vấp phải có khi còn khó khăn hơn chúng tôi vì trong lịch sử của mình, Việt Nam phải nhiều lần chống chọi với sự hiếu chiến của Trung Quốc. Cuộc hải chiến giữa hai bên ở Hoàng Sa năm 1974 làm hơn 70 binh sĩ hải quân Việt Nam thiệt mạng là một ví dụ. Sẽ là điều tốt nhất nếu các quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc cùng hành động”.
Không chỉ trên bình diện chính phủ mà người dân Việt Nam và Philippines thời gian qua cũng đã thể hiện tình đoàn kết trong khi hai nước cùng bị Trung Quốc “ức hiếp” trên biển Đông.
Người Việt và người Philippines xuống đường biểu tình phản đối bên ngoài lãnh sự quán Trung Quốc ở thủ đô Manila.
Nhiều người Việt đã cùng xuống đường với người dân nước bạn để phản đối chính quyền Bắc Kinh.
Mới đây nhất, hồi tháng Bảy, hơn một chục người Việt đã cùng hàng trăm người Philippines biểu tình phản đối bên ngoài lãnh sự quán Trung Quốc ở thủ đô Manila.
Những người Việt trẻ tuổi, đa phần là sinh viên và các nhà hoạt động xã hội, đã giơ cao các biểu ngữ như “Việt Nam và Philippines cùng đứng lên chống lại sự xâm lược của Trung Quốc” hay “Trung Quốc hãy chấm dứt xây đảo nhân tạo trong lãnh hải Việt Nam và Philippines”.
Sau đó một tháng, Mạng lưới có tên gọi Liên minh biển Tây Philippines cũng lên tiếng kêu gọi người Việt cùng chung sức tẩy chay hàng hóa giá rẻ, kém chất lượng của Trung Quốc để đáp lại sự ủng hộ của Philippines đối với Việt Nam thời gian qua.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/YouthForum/myanmar-and-viet-youth-cn-11182015143438.html
Sau cuộc tổng tuyển cử hôm mùng tám tháng 11 vừa diễn ra tại Miến Điện, với kết quả Liên Đoàn Toàn Quốc Đấu Tranh Vì Dân Chủ do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo chiến thắng vẻ vang đã khiến cho nhiều người dân Việt Nam, đặc biệt là những nhà đấu tranh dân chủ, các trí thức cũng có ước mong Việt Nam sớm có được như vậy. Nhân sự kiện đặc biệt này, diễn đàn bạn trẻ sẽ cùng với ba bạn khách mời chia sẻ về những suy nghĩ của họ về cuộc bầu cử và liệu Việt Nam có dám noi gương Miến Điện hay không?
Chân Như: Đối với các bạn, kết quả của cuộc bầu cử ở Miến Điện có làm các bạn suy nghĩ về Việt Nam mình hay không?
Khải Tường: Em chào anh Chân Như và chào tất cả các bạn. Theo em Myanmar có lẽ là một bài học và cũng là một gương sáng để Việt Nam noi theo. Em đang rất phân vân không biết là Việt Nam họ có đang mở lòng ra để noi theo giống như Myanmar vì Myanmar đã làm một việc trước đây họ không bao giờ nghĩ tới. Họ nói thẳng là họ thoát Trung được. Em cảm thấy đây là một cái gương rất sáng và cũng là một điều rất đáng để học tập. Sau bao nhiêu năm, những độc tài chuyên chế đều chứng minh rằng nó sẽ không tồn tại với thời gian. Chỉ có những nguyện vọng chính đáng của người dân, những sự tư do, những gì thuộc quyền lợi cơ bản của con người đều sẽ chiến thắng.
Theo em Myanmar có lẽ là một bài học và cũng là một gương sáng để Việt Nam noi theo. Em đang rất phân vân không biết là Việt Nam họ có đang mở lòng ra để noi theo giống như Myanmar vì Myanmar đã làm một việc trước đây họ không bao giờ nghĩ tới.
-Khải Tường
Bảo Linh: Theo em kết quả bầu cử ở Miến Điện thì rõ ràng nó cả là một quá trình đấu tranh của bà Aung San Suu Kyi và những người ủng hộ đảng của bà trong suốt hơn hai thập kỷ qua. Em mong là Việt Nam mình cũng sẽ đi theo con đường của Miến Điện. Đó là để cho nhiều đảng đối lập cùng tham gia chính trị, cởi mở bầu không khí để cùng nhau điều hành Việt Nam thay vì độc tôn giống như hiện nay khiến nó cản trở cái con đường phát triển đất nước rất nhiều. Sự thành công của đảng đối lập của bà Aung San Suu Kyi ở Miến Điện trong những ngày vừa qua em thấy rõ ràng nó tác động rất nhiều đến những bạn trẻ ở Việt Nam về nhận thức chính trị. Theo quan sát trên facebook thì có rất nhiều bạn trẻ chia sẻ những tin tức và bà Aung San Suu Kyi và con đường đấu tranh cho dân chủ của bà.
Tuấn Văn: Dạ vâng, cũng như hai bạn đã nói khi nãy thì em cũng trả lời ngắn gọn. Theo ý kiến của em thì Myanmar đang thể hiện cách thoát khỏi Trung Quốc. Theo em nghiên cứu được từ xưa đến nay thì sau biến cô 8888 thì Myanmar dần dần là sân sau của Trung Quốc. Trung Quốc đầu tư nhiều vô Myanmar, khai thác một số khoán sản. Cuộc bầu cử dân chủ này, theo em nghĩ, Myanmar đang ra mặt thoát ly khỏi Trung Quốc.
Chân Như: Việt Nam có thể sử dụng phương thức đi đến dân chủ như Miến Điện không? Tại sao?
Bảo Linh: Em nghĩ hoàn toàn có thể sử dụng phương thức Miến Điện đã và đang làm. Tuy nhiên, cần làm rõ là các bên chính trị ở Việt Nam có chịu hòa giải dân tộc hay không? Có chịu hợp tác với nhau để vì lợi ích chung của đất nước hay không hay là vẫn kiên định theo lý tưởng của mình? Đó là vấn đề cản trở rất lớn ở Việt Nam. Đảng điều hành ở Việt Nam hiện tại chịu ảnh hưởng rất nhiều từ đảng CS Trung Quốc và giữa hai đảng có sự gắn bó mật thiết với nhau về ý thức hệ cũng như phương thức điều hành đất nước. Chính sự phụ thuộc này đã khiến Việt Nam khó có thể đi đến con đường dân chủ như Miến Điện. Nói khác hơn là phải thoát Trung Quốc từ giới lãnh đạo của Hà Nội, thì họa may mới có sự thay đổi. Mặt khác thì đảng CS đã triệt thoái các tư tưởng đối lập cũng như nền báo chí đối lập ở Việt Nam, nó làm cho sự phát triển dân chủ bị bóp nghẹt. Trong khi Miến Điện trước đó nền báo chí được quyền đăng tin, loan tin những thông tin về lực lượng đối lập của bà Aung San Suu Kyi hoặc là những tiếng nói của giới sinh viên. Ở Việt Nam thì hoàn toàn không có điều đó.
Khải Tường: Thật ra như em nói lúc đầu: Myanmar là một tấm gương sáng và cũng là một chiến thắng đầy rực rỡ để Việt Nam học tập. Tuy nhiên, theo như em tìm hiểu từ các trang mạng thì Myanmar để tiến được quá trình dân chủ này họ đã phải thực hiện đến bảy bước. Theo em biết bước thứ nhất, một đại hội quốc gia được triệu tập để thảo lập ra một bản hiến pháp mới, tuy còn nặng mùi quân phiệt nhưng vẫn được trưng cầu dân ý và thông qua năm 2008. Vấn đề này ở Việt Nam, chính quyền họ giao nhiều quyền cho lực lượng công an. Họ để lực lượng công an là lực lượng nồng cốt để bảo vệ nền độc tài chính trị của họ. Tiếp theo là bước thứ hai của Myanmar. Năm 2010 họ có một cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội được tổ chức theo hiến pháp mới, quốc hội này đã bầu tướng Thein Sein làm tổng thống đầu năm 2011 và phê chuẩn một nội các hầu hết là các tướng lĩnh khoác áo dân sự. Vấn đề này ở Việt Nam thì hầu như họ tách quyền lợi chính trị quốc phòng của bên quân đội nhân dân Việt Nam và các tướng lĩnh so với những vị thủ tướng và các nguyên thủ quốc gia, em thấy quyền lợi họ cũng khác; Có nghĩa họ chia nhỏ ra và không để cho quyền lực của quân đội nắm nhiều. Do vậy, Việt Nam để làm giống Myanmar vẫn còn rất khó tại vì họ không chịu thay đổi tư do. Họ vẫn duy trì một bộ máy chính trị bảo hòa, họ không quan tâm đến ý kiến của đại bộ phận dân chúng, nên em nghĩ sự thay đổi này chắc phải rất lâu và rất dài. Đây là cuộc đấu tranh rất lâu dài. Nhưng em và các bạn trẻ đây vẫn hy vọng rằng sẽ có một gì đó thay đổi tốt đẹp hơn giống như Myanmar ngày nay.
Chân Như: Nói người phải ngẫm đến ta, chính thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng đã từng khuyên chính quyền quân phiệt Miến phải “dân chủ – đa đảng – hòa giải dân tộc” để ổn định và phát triển đất nước trong lần phát biểu trước đây. Vậy tại sao ông Dũng và đảng CSVN lại không làm được điều như vậy?
Tuấn Văn: Cũng đơn giản thôi anh. Có một người lãnh tụ cũng rất lớn của Việt Nam mình cũng từng nói là đừng nhìn vô những gì họ nói, hãy nhìn những gì họ làm. Nói thẳng ra nói thì ai cũng nói được hết nhưng làm được hay không lại là một vấn đề khác nữa. Em xin lỗi, nhưng họ không có đặt mục tiêu dân chủ và nhân quyền người dân lên hàng đầu. Lúc nào họ cũng muốn vơ vét tiền bạc tài sản vô túi riêng cho nên không thể nào họ làm như Myanmar được nếu họ làm như vậy thì chẳng khác nào họ chẳng còn gì.
Bảo Linh: Em đọc trên mạng thì người ta nói là những người nói dối nhiều nhất là những chính trị gia. Do vậy, để dối lòng dư luận và vì mục đích dành sự ủng hộ, họ có thể nói sướng miệng những câu mà nếu làm tổn hại đến lợi ích của họ và rồi nghĩ rằng dư luận thời gian sau sẽ quên đi. Lời nói của ông Thủ tướng hoàn toàn cũng sẽ đi vào quên lãng hoặc ông chỉ nói cho vui miệng lúc đó, theo phong trào, giống như đang diễn đàn của một hội nghị nào đó. Còn tư duy lãnh đạo của những người CSVN thì họ vì lợi ích cá nhân của họ nhiều hơn là lợi ích chung của đất nước, nên khó có thể thay đổi trong một sớm một chiều.
Khải Tường: Khi anh đặt ra câu hỏi này thì em nhớ đến một câu nói mà giống như bạn Tuấn Văn có nói. Là có một câu nói của một vị tổng thống đáng kính trước năm 1975 của mình. Đối với người cộng sản thì đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm. Họ nói thì họ nói rất là dữ; Họ nói kiểu rất là “đao to búa lớn”; Họ có thể làm được mọi thứ. Nhưng chính ngay cả con ông Dũng cũng sống ở bên Mỹ; Ngay cả người thân của họ cũng cần cái nền dân chủ. Ông cũng phát ngôn dân chủ này, dân chủ nọ. Tuy nhiên, đối với em vấn đề là những gì ông Dũng nói thì chắc chỉ là dân chủ rởm.
Tư duy lãnh đạo của những người CSVN thì họ vì lợi ích cá nhân của họ nhiều hơn là lợi ích chung của đất nước, nên khó có thể thay đổi trong một sớm một chiều.
-Bảo Linh
Trước tiên, em nói vấn đề em thấy nhiều nhất đó vẫn là vấn đề hòa hợp hòa giải dân tộc. Để tiến đến vấn đề dân chủ ngay cả bà Aung San Suu Kyi có nói với giới quân sự là không được truy cứu tội trạng, không tịch thu tài sản. Tại Việt Nam, theo những gì xảy ra sau năm 1975, khi mà cộng sản Bắc Việt bước vào miền Nam thì họ làm ngược lại hết họ truy cứu tội trạng của những người thuộc chế độ cũ, họ giam cầm, ho bắt cải tạo. Đối với những người bỏ nước đi thì họ cho là bán nước, phản bội tổ quốc. Đó là vấn đề ngay sau năm 75. Sau này, khi nhà nước mở cửa cho đến năm 1990 không bị cấm vận nữa, thì bắt đầu họ lại quay ngoắt ra họ nói là những người Việt Kiều qua nước ngoài thì là khúc ruột ngàn dặm rồi Việt Kiều yêu nước; Nghĩa là so sánh giữa hai quá trình thì những lời nói của những người làm chính trị của chế độ cộng sản có vẻ họ là những con rắn hai lưỡi. Vì thế, em nghĩ những điều ông Dũng nói em cũng chẳng tin được.
Chân Như: Thái độ của sinh viên, học sinh Việt Nam đối với nền dân chủ nước nhà hiện nay theo các bạn nó ra sao?
Bảo Linh: Theo em, một bộ phận giới trẻ ngày nay có nhận thức cũng khá sâu sắc về chính trị. Nhất là những bạn trẻ được tiếp xúc va chạm với xã hội nhiều, tiếp xúc với những thủ tục hành chính rườm rà và những bạn trẻ mà được đi ra nước ngoài du học hay du lịch thì họ sẽ nắm bắt được tình hình đất nước cũng như soi xét lại những thông tin về lịch sử của Việt Nam trong những năm chiến tranh. Họ có thể tiếp cận một cách đa chiều hơn, vì thế, làm cho nhận thức chính trị của giới trẻ ngày nay thay đổi và làm một số bạn trẻ tiếp cận được nên họ có thể thay đổi tư duy chính trị của mình cởi mở hơn. Xu thế đòi hỏi tự do ngôn luận và dân chủ ngày nay thì ngày càng gia tăng trong giới trẻ, tại vì họ ý thức được tương lai của họ gắn liền với sự thay đổi với chính trị. Khi chính trị thay đổi theo một chiều hướng tích cực thì nền kinh tế sẽ phát triển theo và cuộc sống của giới trẻ trong tương lai cũng sẽ thay đổi theo như vậy. Bên cạnh đó có một tín hiệu đáng buồn là vẫn còn một số các thành phần các bạn trẻ giống như là thiếu kiến thức về lịch sử; một số giống như bị nhồi sọ quá lâu. Do vậy, trong một sớm một chiều thì họ sẽ chưa nhận thức được, mà hy vọng trong tương lai, họ có thể thay đổi được tư duy của mình.
Khải Tường: Thật ra em và một số rất nhiều bạn ở trên facebook cũng như là trên các cộng đồng mạng, có những thay đổi về suy nghĩ, về chính trị, về những bài học lịch sử mà chúng em được học khi còn đi học có nhiều cái xa lạ. Những bạn trẻ ngày nay cũng có nhiều tiến bộ hơn trong đổi mới tư duy. Tuy vậy, em cảm giác được là chỉ có một bộ phận nào đó trên cộng đồng mạng chứ thật sự khi tiếp xúc các bạn ở ngoài thì các bạn( em không muốn dùng cụm từ rất là có mang tính đụng chạm) chỉ có thể là anh hùng bàn phím trên facebook thôi. Còn khi các bạn ra ngoài thì các bạn không dám nói những gì động chạm đến chính trị, động chạm đến thể chế độc tài này mặc dù họ cũng biết, họ cũng nhận thức được nhưng họ sẽ không dám nói. Khi mà nói đến thì họ sẽ lảng tránh đi hoặc là họ sẽ không đào sâu. Đôi khi em nói về những vấn đề liên quan tới vấn đề dân chủ hay là tự do trong ngôn luận, tự do báo chí thì họ nói là ăn cơm nhà mà vác tù và hàng tổng, ăn bo bo mà nói chuyện thế giới. Em rất lo ngại vấn đề các bạn trẻ ngày nay họ đang run sợ, họ không dám nói lên sự thật, và họ không dám nắm bắt lấy tương lai của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì mình vẫn hy vọng là với lối thay đổi tư duy cũng như các bạn trẻ ngày nay được tiếp xúc với nền văn hóa thế giới, cũng như những sự thật, những tài liệu về lịch sử thì họ sẽ có một suy nghĩ khác. Em hy vọng một ngày nào đó, giới trẻ mình sẽ biết đề cao tính dân tộc lên. Chỉ có tính dân tộc tự chủ, tự quyền và tự nắm bắt lắy số phận của mình thì mới có thể tiến tới quá trình dân chủ, và thành công rực rỡ như Miến Điện ngày nay.
Tuấn Văn: Em rất thích cách nói của bạn Khải Tường. Em cũng xin nói thêm ý kiến của em: hiện tại, nhìn không đâu xa, nhìn những người bạn của em, em thấy họ cũng không quan tâm gì lắm đến chính trị. Hầu hết họ đi học rồi đi làm như bình thường nhưng về nhậu là chủ yếu; Bia rượu Việt Nam bán rất là rẻ. Em không biết có phải là chiêu bài của ai hay không nhưng bia rượu thì rất rẻ nên họ vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu; Một tuần có bảy ngày nhưng họ đã nhậu hết bảy tháng rồi; Họ còn hơi sức đâu lo đến chuyện này chuyện kia nữa. Có một số bạn, cũng giống như các bạn nói là cũng tiếp xúc internet, tiếp xúc với những người đi trước nhiều, thì họ có một cái nhìn tốt hơn, một cái nhìn sâu sắc hơn nhưng lên tiếng thì em nói xung quanh em chưa ai dám lên tiếng; Nói có lên tiếng chẳng qua là những bất đồng tức thời, cãi nhau với mấy tên khu vực hay mấy ông tổ trưởng, mấy ông trưởng ấp. Thật sự, mình cũng không trách một số bạn ấy chẳng qua họ cũng còn có gia đình ở đây, tại vì mình đang sống với ho [CSVN]. Riêng bản thân em, em tin tới một lúc nào đó như người ta vẫn thường nói “tức nước thì vỡ bờ”, “bứt dây thì động rừng” thôi. Cũng tới lúc nào đó những người đã, đang và sẽ có ý định bán nước cũng sẽ tiêu tan thôi.
Chân Như: Xin cám ơn ba bạn Bảo Linh, Khải Tường và Tuấn Văn đã dành thời gian để đến với chương trình Diễn đàn bạn trẻ kỳ này.

Blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy bị bắt ở Hà Nội đã hơn 18 tháng qua, tội danh cáo buộc là lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Vụ án này được giới luật gia mô tả là vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự. Những khả năng nào sẽ xảy đến cho Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự của ông.
Cho tới ngày 18/11/2015 chưa có thông tin khi nào tòa án sẽ xét xử vụ Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và cộng sự, mặc dù đã hết ba lần gia hạn điều tra mỗi lần 4 tháng. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể đã áp dụng lần gia hạn điều tra cuối cùng thêm 4 tháng nữa với lý do đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp này thì ngày 5/1/2016 sẽ là thời điểm hết hạn điều tra.
Trong trường hợp không điều tra được không kết luận được, các cơ quan điều tra không chứng minh được thì về nguyên tắc đúng ra họ phải đưa điều tra bổ sung, nhưng bây giờ thời hạn điều tra bổ sung theo luật đã hết thì họ sẽ phải đình chỉ vụ án rồi trả tự do.
-LS Trần Quốc Thuận
Trả lời Nam Nguyên, Luật sư Trần Quốc Thuận thuộc nhóm các luật sư biện hộ cho blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh đề cập tới những khả năng có thể xảy đến với vụ án này:
“Nếu đưa ra xét xử mà có chứng cứ, các cơ quan điều tra chứng minh được là có tội. Nếu những chứng cứ đó hợp pháp va tranh tụng rõ ràng thì họ có quyền kết án và tuyên án. Trong trường hợp không điều tra được không kết luận được, các cơ quan điều tra không chứng minh được thì về nguyên tắc đúng ra họ phải đưa điều tra bổ sung, nhưng bây giờ thời hạn điều tra bổ sung theo luật đã hết thì họ sẽ phải đình chỉ vụ án rồi trả tự do. Còn một phương án nữa là họ tuyên bố không phạm tội, có thể có ba khả năng đó.”
Trò chuyện với chúng tôi, Đại tá Nguyễn Đăng Quang cán bộ công an hiện nghỉ hưu ở Hà Nội, cũng là một nhà hoạt động có nhiều kiến nghị cải cách, cho rằng chưa có vụ án nào kéo dài như vụ này mà chưa đưa ra xét xử được. Theo lời Đại tá Quang, cơ quan điều tra chưa chứng minh được nghi phạm Nguyễn Hữu Vinh đã vi phạm luật pháp như thế nào, chưa chứng minh được những tội đã vi phạm, cho nên nó đã ảnh hưởng tới thời hạn đưa ra xét xử trước tòa. Bản kết thúc điều tra cũng như cáo trạng không có sức thuyết phục và chưa chứng minh được tội phạm mà nghi can Nguyễn Hữu Vinh đã phạm phải.
Đáp câu hỏi là hiện nay Việt Nam đang nỗ lực cải cách pháp luật cho phù hợp với yêu cầu hội nhập, liệu có khả năng Blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự được trả tự do, phát xuất từ việc không đủ chứng cớ cũng như vấn đề vi phạm thủ tục tố tụng hình sự. Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang, nhận định:
“Điều này nằm ngoài hiểu biết cũng như tưởng tượng của tôi. Trực tiếp cách đây khoảng một tuần, chính bản thân tôi đã gặp cơ quan an ninh, tôi có đề nghị rằng nếu không chứng minh được tội phạm thì tốt nhất là đình chỉ điều tra và trả tự do cho anh Nguyễn Hữu Vinh. Đấy là điều tốt nhất và các bên đều thắng. Nhưng tôi nghĩ rằng các cơ quan chức năng hiện nay không bao giờ có thể dám làm những điều đó, bởi vì quyền lực trong tay có lẽ người ta không chịu thua… rồi thì người ta sẽ đưa ra một cái cớ khác để kéo dài thời gian tạm giam tạm giữ.”
Sự kiện Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự bị bắt giữ khẩn cấp ngày 5/5/2014 và truy tố như một vụ án chính trị được dư luận trong ngoài nước đặc biệt chú ý. Ông Nguyễn Hữu Vinh, 59 tuổi có bút danh Ba Sàm, ông là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Nguyễn Hữu Vinh từng là sĩ quan công an và có gốc gác lớn, thân phụ là ông Nguyễn Hữu Khiếu từng giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, Bộ trưởng Bộ Lao động, Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô.
Theo cáo trạng được Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao gởi Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội ngày 5/11/2015, thì sau 4 lần điều tra bổ sung, Viện này vẫn giữ nguyên cáo trạng, truy tố ông Nguyễn Hữu Vinh và đồng phạm về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.”
Trực tiếp cách đây khoảng một tuần, chính bản thân tôi đã gặp cơ quan an ninh, tôi có đề nghị rằng nếu không chứng minh được tội phạm thì tốt nhất là đình chỉ điều tra và trả tự do cho anh Nguyễn Hữu Vinh.
-Đại tá Nguyễn Đăng Quang
Theo kết luận điều tra của Cơ quan An ninh Điều tra, ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị bắt vì đã đăng tổng cộng 24 bài viết trên hai trang mạng Dân Quyền và Chép Sử Việt, được cho là thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Vinh. Những bài viết này Công an cho là có nội dung xấu, thông tin sai lệch làm giảm uy tín, làm mất lòng trong nhân dân về cơ quan Nhà nước cũng như tổ chức xã hội và công dân vi phạm qui định tại Điều 258 Bộ Luật Hình sự. Khung hình phạt của tội danh này là từ 2 năm tới 7 năm tù.
Theo giới luật gia quan tâm tới vụ án, công an đã không thể chứng minh ông Nguyễn Hữu Vinh là người quản lý hai trang mạng Dân Quyền và Chép Sử Việt, dù đã phải mời chuyên gia nhà mạng FPT giúp điều tra chuyên môn. Nếu như ông Nguyễn Hữu Vinh chỉ là người vào xem những bài vở trên hai trang mạng đó, thì không thể buộc tội ông.
Việt Nam là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016, tất nhiên Hà Nội thừa nhận pháp luật nhân quyền cơ bản, không thể kết tội một người nếu không chứng minh được người đó có tội. Giới chuyên môn đưa ra một thí dụ nổi bật về vấn đề vi phạm tố tụng hình sự trong vụ án Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh. Đó là trong số 24 bài trên trang Dân Quyền và Chép Sử Việt, có bài liên quan tới Trung tướng Huỳnh Kông Tư, giới chức cao cấp của Bộ Công an và chính ông Huỳnh Kông Tư lại đứng ra điều tra vụ án có bài viết liên quan. Đây là vấn đề rất đơn giản gọi là xung đột lợi ích, người có liên quan đến một vụ án không thể tham gia tố tụng.
Hiện nay có 6 luật sư tham gia biện hộ cho anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy, gồm luật sư Trần Văn Tạo nguyên Phó Giám đốc Công an TP.HCM, luật sư Trần Quốc Thuận nguyên Phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội và các luật sư Trịnh Minh Tân, Hà Huy Sơn, Nguyễn Hà Luân, Nguyễn Tiến Dũng.
Tất cả các vị luật sư đã sẵn sàng vào cuộc trong một vụ án điển hình liên quan tới quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận và tự do có chính kiến của người Việt Nam.
http://www.boxitvn.net/bai/39319
30) Chính trị nhất thiết phải là đạo đức, không thể nào ngược lại.
Đạo đức không phải chỉ là phẩm chất tốt đẹp nơi mỗi cá nhân, nó còn là phạm trù phổ quát của xã hội.
Tuy nhiên mọi người sinh ra trong xã hội đều nhất thiết có phẩm hạnh như nhau, có trí thông minh như nhau, có đầu óc xã hội hoặc vị tha như nhau, có khuynh hướng lý trí như nhau, có sự cao quý như nhau, có lòng quả cảm như nhau, có cá tính như nhau, hay có điều kiện xã hội và hoàn cảnh sống như nhau.
Các ý nghĩa đó muốn hòa hợp nhau, muốn đạt kết quả tốt đẹp chung nhất trong toàn xã hội, tất yếu phải dựa trên khoa học, khai thác chức năng của khoa học, từ đó có những kỹ thuật mang tính khoa học để giải quyết hàng loạt những vấn đề không ngừng xảy ra, được đặt ra một cách mới mẻ không bao giờ chỉ giải quyết một lần là được cả. Có nghĩa khoa học luôn luôn phát triển mà không bao giờ dừng, và các kỹ thuật áp dụng tốt đẹp cho xã hội do từ nghiên cứu khoa học về xã hội mà ra luôn luôn cũng thế.
Điều đó nói lên khoa kinh tế học, khoa chính trị học, cũng đều là những bộ phận của khoa học về xã hội, chịu sự chi phối hay dùng khoa học về xã hội làm nền tảng mà không thể nào khác. Bởi vậy mọi ý thức hệ đã có đều luôn luôn ngưng đọng, nó được một hay vài người sáng tạo ra ở đó tùy theo sự hiểu biết, trình độ nhận thức của mình, tùy theo điều kiện hoàn cảnh thời đại của mình, và nó cứ vẫn luôn như thế, được hoàn tất một lần và không bao giờ được thay đổi. Bởi vậy mọi sự cả tin, sự mù quáng vào một ý thức hệ chính trị nào đó đều trở thành ngớ ngẩn, u mê, phản tiến hóa và thành phản xã hội, phản động.
Bởi kinh tế luôn luôn không ngừng phát triển nhờ khoa học kỹ thuật nói chung phát triển, nhờ lịch sử và xã hội phát triển, đó là lẽ khách quan tự nhiên, nên giai cấp nói chung vẫn luôn thay đổi, dạng thể bên ngoài của nó có thể đổi khác, nhưng cấu trúc xã hội thì luôn vẫn thế, không thể đổi thay mọi thành phần cơ bản của nó. Như vậy ý nghĩa của khoa học xã hội là nghiên cứu tìm cách làm sao cho cá nhân con người phát triển, xã hội loài người phát triển về mọi phương diện một cách hiệu quả và kết quả nhất, không thể chỉ dừng lại ở những quan điểm cảm tính nào đó, ở những thị hiếu, sở thích hay những mơ mộng hão huyền nào đó. Tính chất của khoa học hoàn toàn ngược lại với tính chất của cảm tính là như thế, tính cách của khoa học chính trị hoàn toàn khác với tính cách cảm tính về chính trị là như thế.
Nên khi Marx nói sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tính cách lãnh đạo của giai cấp công nhân là cách nói theo cảm tính, theo thị hiếu riêng, không phải có nền tảng khách quan khoa học vững chắc nào cả. Bởi vì không phải bất kỳ cá nhân nào cũng hoàn toàn tốt trong cõi đời này, vậy thì giai cấp hay hoàn cảnh sống riêng của các thành phần xã hội cũng thế. Chỉ có kết quả giáo dục, đào tạo rèn luyện về mặt nhận thức, chỉ có những bản chất trời sinh tự nhiên mới quyết định các năng lực và phẩm chất tốt đẹp nơi mỗi con người, không phải chỉ kiểu kết luận võ đoán, kiểu phóng đại chủ quan là đủ.
Thậm chí nhiều xã hội không có giai cấp công nhân đủ về số lượng, cũng thay vào đó giai cấp nông dân, nhất là bần cố nông như có sứ mạng lịch sử cho giống với học thuyết của Marx. Do sự mù quáng và do áp lực về quyền lực, họ không thấy rằng học thuyết Marx hay ý hệ Marx là hoàn toàn phản khoa học, phản xã hội và phản thực tế. Bởi vì không thể bất kỳ ai vì nguyên nhân gì mà phủ nhận được dân quyền, nhân quyền, pháp quyền chính đáng của tất cả mọi người.
Do vậy phong tặng giai cấp nào, cá nhân nào đương nhiên có quyền thống trị hay lãnh đạo toàn xã hội đều chỉ là những quan điểm ngu xuẩn, mị dân, ngu dân, phản tiến hóa, phản phát triển, phản lịch sử, phản xã hội và nói chung đều là phản động trong thực chất cả. Bởi vì xã hội luôn luôn là một tổng thể gắn kết chặt chẽ, sự phát triển của người nào cũng tạo thành sự phát triển chung, sự thụt lùi hay trì trệ của người nào cũng ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Nên những thành phần ưu tú, trí thức, có đạo đức thật sự khi nắm quyền quản lý, điều hành xã hội, đương nhiên có thể làm cho xã hội tốt đẹp hơn, hoàn toàn ngược lại với các thành phần ngu dốt hay phi đạo đức nắm quyền, đó là lẽ khách quan từ ngàn xưa cũng vậy.
Học thuyết Marx do đó trở thành một học thuyết mê tín, học thuyết phản khoa học, phản thực tiển khách quan mà bất kỳ ai ngày nay cũng đều nhận thức ra được. Ngày nay khoa học tiến bộ, khắp nơi trên thế giới, chính khoa học kỹ thuật phát triển mọi mặt, trong đó có những thế hệ máy móc thông minh, những chính sách phát triển kinh tế xã hội thông minh mới thật sự là những yếu tố thực tế giải phóng sức lao động của con người, giải phóng giai cấp công nhân và giai cấp nông nhân là hai giai cấp cơ bản trong xã hội về nhiều mặt mà không hề là lý thuyết đấu tranh giai cấp theo kiểu u mê và tàn khốc của Marx.
Vì thế con người nhân văn và tài năng vẫn là yếu tố phát triển xã hội đích thực nhất, nó có thể đến từ bất kỳ giai cấp nào, và nếu những con người đó mà quản lý được xã hội về mọi mặt, toàn thể xã hội đều được hưởng mọi thành quả của nó, mọi cá nhân và mọi giai cấp trong đó cũng thế, đó là nguyên lý trí tuệ và đạo đức lãnh đạo, không phải giai cấp kiểu máy móc và thô lổ lãnh đạo. Điều đó cũng cho thấy quan điểm độc tài giai cấp, độc tài vô sản của Marx là một sự ngu dốt và sự tai hại chưa từng có cho xã hội, và quan điểm dân chủ tự do đích thực trong xã hội mới chính là yếu tố giải phóng mọi cá nhân, mọi giai cấp và giải phóng thường xuyên toàn thể xã hội cũng như lịch sử xã hội.
Marx cho những nguyên lý tự do dân chủ và đạo đức truyền thống là của tư sản và phản động, như vậy chính Marx là người phản nhân bản, phản nhân văn, phản xã hội, và phản động trong thực chất và thực tế hơn ai hết.
Bởi vì không khí chuyển động linh hoạt là do những nguyên tử, những phân tử khí kết hợp tự do, điều đó ngược lại với chất lỏng hay chất rắn, đó là ý nghĩa sơ đẳng nhất mà ai cũng biết, chỉ có Marx là không biết hay không chịu biết. Nên quan niệm độc tài chuyên chính của Marx đưa ra là quan niệm dại dột, quan niệm ngu xuẩn nhất trong xã hội loài người mà từ trước tới giờ đều chưa hề thấy.
Bởi vì các chế độ xã hội phong kiến hay quân chủ độc đoán trong quá khứ nhân loại đều là sự tự phát khách quan do hoàn cảnh lịch sử quyết định, chưa bao giờ tạo thành như một học thuyết về ý hệ hay về khoa học nào cả, chỉ duy trừ có Marx là từng đã cả gan làm điều đó. Đó chẳng khác là xô một tảng đá lớn ra chặn đường phát triển đi lên tự do của xã hội nhân loại, sự ngờ nghệch và dại dột của Marx cũng chính là như thế. Đó là một quan điểm phi đạo đức về chính trị mà Marx đã vấp phải, nó không những hủy hoại cả kinh tế mà cả về văn hóa, cả về xã hội mà bao thế hệ trong thực tại quá khứ đã phải trải qua và chịu đựng.
Các quan niệm như giết lầm hơn bỏ sót, triệt hạ trí phú địa hào đều là những quan niệm cực kỳ phản động, phản nhân văn, phản đạo đức mà học thuyết Marx vô tình hay hữu ý đã đưa lại trong thực tế xã hội nhiều nơi, nên sự làm nghèo nàn xã hội về mọi mặt như trong thời bao cấp ở nhiều nước đi theo quan điểm kinh tế xã hội thì ai cũng thấy rõ. Ngay cả hai giai cấp công nhân và nông dân cũng chẳng bao giờ cầm quyền thực tế hay sung sướng gì mà còn khổ hơn những thành phần khác trong xã hội kiểu như thế.
Cuối cùng họ thật sự chỉ là cái bung xung để một thiểu số nào đó nhân danh họ mà áp chế lên xã hội còn thực chất không là gì khác. Tất cả những điều đó quả thật phản lại đạo đức chính trị cũng chỉ vì những lý do như thế.
Đúng ra không phải con người trong xã hội không phải ai ai cũng tốt. Chưa chắc cái tốt đã là đa số. Thực chất phần nhiều con người trong xã hội đều ích kỷ, thụ động, gian dối hay hèn yếu. Đó là nền móng hay nguyên nhân cho mọi chế độ độc tài độc đoán phát triển, vì khi đã có chân đứng rồi, nó trở thành quán tính, luôn luôn tồn tại tự động mà không bất kỳ lực lượng nào khác xô ngã nó được, trừ phi nó thành rệu rã và tự sụp đổ, điều đó người ta vẫn thấy thường xuyên trên thế giới hay trong lịch sử quá khứ của loài người.
Bởi mọi sự độc đoán chuyên quyền thì thường áp dụng phương thức ngu dân và mị dân, điều đó càng làm cho con người thành thụ động, vô cảm, ích kỷ, hèn kém hơn lên qua nhiều thế hệ liên tiếp nhau, khiến chế độ độc tài càng vững, tức nó tự nuôi nó, được nuôi từ thứ sữa được vắt từ toàn thể xã hội mà chỉ có nó là có quyền vắt và quyền thủ lợi và toàn bộ xã hội cũng chỉ biết ú ớ mù quáng theo nó mà không thể cách nào làm khác.
Nên đó quả là sự suy thoái về chính trị một cách tập thể, sự suy vi, suy hóa về đạo đức chính trị một cách tập thể và càng ngày càng gia tốc cũng như cường độ càng tăng cường thêm lên theo kiểu qui luật vật lý mà ai cũng hiểu. Bởi trong những trạng thái đó, con người đều đã bị vật hóa, xã hội đều đã bị vật hóa, thế thì quy luật vật lý mù quáng đã trở thành cai quản trong toàn thể đời sống xã hội, vậy thì quy luật nhân văn trong một xã hội nhân bản, nhân văn làm sao còn chỗ đứng hay phát triển lên được nữa. Đó tính cách liên thông hay liên kết tất yếu nhau giữa đạo đức chính trị và khoa học chính trị chỉ là như thế, chúng luôn luôn tỉ lệ thuận nhau, phát triển theo chiều dương hay suy thoái theo chiều âm cũng hoàn toàn, nhất thiết và thường xuyên là như thế.
Bởi bản chất con người là hèn yếu, như Pascal nhà tư tưởng Pháp từng ví con người là cây sậy có lý trí là như thế. Nhưng trong chế độ xã hội thật sự tự do dân chủ thì lý trí đó được phát triển, phát huy tự do. Trái lại trong mọi chế độ độc tài độc đoán, lý trí đó trở thành điều kiện thích nghi, tự vệ, nó trở thành phục vụ cho mọi sự gian dối của bản thân và con người thực chất chỉ trở nên yếu đuối, trở nên hèn kém thêm, và trong mọi chế độ độc tài người ta chỉ có hát theo một chiều, suy nghĩ theo một chiều, phản ứng theo một chiều, hiểu biết theo một chiều, khiến xã hội cũng trở thành suy thoái, suy biến chung là hoàn toàn như vậy.
Đó là ý nghĩa của xã hội không có đối lập, không có đa nguyên mà chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, tha hồ múa gậy vườn hoang mà không bất kỳ ai có thể cản được, hay ngay cả những kẻ cầm quyền cũng thực chất đều là những kịch sĩ, cũng chỉ diễn vai theo những kịch bản vốn đã có sẳn và chỉ được sao chép lại theo muôn thuở thế thôi.
Tính chất bi hài của toàn xã hội là như thế, điều đó có khi không ai nhận ra hay sự nhận ra chỉ là thiểu số ít ỏi, vì toàn xã hội đã trở thành vong thân, bị đánh mất toàn diện bản thân mình, đã bị phóng thân trở thành vật thể toàn diện thì còn có yếu tố nào là tự thức, còn có ý nghĩa hay tiêu chí nào để so sánh hay để ngạc nhiên hay là để nói đến nữa.
Thật là một tình trạng xã hội quái gở nhưng không ai nhận thấy ra được nên chỉ coi nó hoàn toàn bình thường hay thậm chí là lý tưởng, là tốt đẹp và những người như thế càng tâng nó lên, càng hót nó dữ, càng ca ngợi và suy tôn, thật là điều hoàn toàn hiếm thấy, cái ảo trở thành cái thật, cái thật trở thành cái ảo, không ai có thể quan niệm đạo đức hoặc khoa học đích thực lại có thể như thế được.
4/ Chính trị và đảng phái chính trị.
Không có chính trị nào đúng hơn là chính trị toàn dân, cũng không có chính trị nào đúng hơn là chính trị tự do dân chủ đích thực. Bởi vì chỉ chính trị như thế mới là chính trị dân quyền thật sự, nó không phụ thuộc nhất định vào cá nhân nào, vào đảng phái nào một cách tiên quyết, mà chính trị đó thể hiện nguyện vọng của nhân dân và nhu cầu phát triển cũng như bảo tồn xã hội theo các thời điểm, điều kiện khách quan tự nhiên của xã hội mỗi lúc, mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
Như vậy không có quyền chính trị nào tiên quyết do ai nắm giữ ngay từ đầu cả. Chính mỗi lá phiếu tự do của mọi người dân đủ tuổi trưởng thành làm vai trò cử tri chọn bầu tự giác tự chủ người được ủy quyền, trao quyền chung từ mọi người để đứng ra thay mặt đại diện kiến tạo ra một chính phủ nắm quyền chung qua cuộc bầu cử tự do theo phổ thông đầu phiếu đó.
Có nghĩa đảng phái chính trị có thể là đơn đảng hay đa đảng, mà phần nhiều là đa đảng, vì mọi nhóm công dân đều có quyền lập chính đảng tự do, bình đẳng và hợp pháp, nên không thể có lý do gì có đảng độc tài độc đoán, đảng duy nhất nào đó cả. Tức là đảng chính trị chỉ là đảng bầu cử mà không mang ý nghĩa gì khác. Bởi đảng phái không ngoài là tập hợp tự do các tập thể quần chúng tự nguyện nào đó, nó chỉ đại diện cho nhóm quần chúng đó, không thể đại diện chung cho toàn dân hoặc toàn xã hội vì trong những xã hội tự do dân chủ đúng nghĩa, mọi người đều có tự do quan điểm, tự do tư tưởng, không thể ai hơn ai, nêu các chính đảng thực tế đều luôn độc lập và bình đẳng ngang nhau.
Nói khác đi, đảng chỉ có thể đưa người của mình hay người được mình vận động, ủng hộ, và nếu được toàn dân bầu cử thì ra cầm quyền, đảng chỉ đứng bên sau, không thể có đảng nào là đảng cầm quyền, vì đảng cũng chỉ là một tập hợp của một số người, không có lý gì hay cơ sở gì để một tập thể nhỏ hơn lại nắm quyền một tập thể bao quát hơn là toàn xã hội hay toàn đất nước.
Bởi cầm quyền bao giờ cũng phải là những con người cụ thể, là những thể nhân, thay mặt chung cho một pháp nhân, không thể một pháp nhân nhỏ là đảng nào đó lại nắm quyền chung của một pháp nhân lớn hơn, bao quát hơn là toàn thể quốc gia dân tộc.
Chính quan điểm nhập nhòe sai trái đó về đảng cầm quyền khiến một đảng cầm quyền có thể độc tài độc đoán không ai bầu ra cầm quyền chung cả mà cũng cứ tự minh tự phong hay tự vỗ ngực sai trái là đảng cầm quyền. Bởi vì bất kỳ mọi sự vật nào trong cõi đời này phải có lý do đúng của nó mới có thể tồn tại chính đáng, khách quan được, còn nếu không như thế, chỉ là vật mệnh danh, vật giả ảo, vật tưởng tượng không có thật, nên một đảng chính trị tự mình cầm quyền ngang xương đất nước mà không có sự chuyển giao quyền lực hợp pháp, hợp lý, khách quan, đúng đắn, cần thiết nào, đều chỉ là những hình thức tiếm quyền, sự đoạt quyền của xã hội mà không mang ý nghĩa gì khác.
Sở dĩ những đảng Marxism- Leninism tự cho mình là đảng cầm quyền vì sau những cuộc bạo loạn đảo chính lật đổ chính trị như kiểu Lenin làm ở Nga năm 1917 để dựng nên nhà nước Liên Xô cũ rồi từ đó nó lan rộng ra khắp thế giới. Cái đó gọi là cuộc cách mạng Marx xism, bởi vì theo học thuyết, đó là đảng của giai cấp công nhân tiền phong đứng lên làm những cuộc cách mạng lịch sử để thay mặt sứ mạng giai cấp công nhân thực hiện giải phóng giai cấp, thức hiện chủ trương vô sản hóa hay cộng sản hóa toàn cầu. Nhưng đó cũng chỉ là quan niệm riêng của cá nhân Marx đưa ra, đâu phải quy luật của trời đất khách quan, của Thượng đế, hay của những kết quả nghiên cứu khoa học nào xác định, chính xác và cụ thể.
Lấy tính cách chủ quan riêng lẻ của một người để áp đặt lên toàn xã hội, thậm chí trên cả lịch sử nói chung, đó chẳng phải hoàn toàn ngớ ngẩn, quá đáng, phi lý và phản xã hội lắm sao. Bởi vậy lúc đầu có số người quá khích đã mê tín vào học thuyết đó thì không nói, nhưng sau gần một trăm năm thử nghiệm trên thế giới, ngày nay những cuộc thử nghiệm đó hầu như đã tan rã, không mang lại, không để lại bất kỳ những kết quả nào cả, thế thì sự tiếp tục theo đuổi những ảo tưởng như vậy được gọi là sự định hướng xã hội chủ nghĩa chẳng là không thực tế, thực chất hay thái thậm phi lý lắm sao.
Chẳng qua Marx thời còn trẻ tuổi là người theo học thuyết Hegel, mê muội vào ý nghĩa biện chứng luận của Hegel một cách không cơ sở, dựa vào quan điểm sai lầm của thuyết phủ định của phủ định một cách sườn đồ máy móc không thực tế, đinh ninh rằng phủ định của xã hội tư sản, tư bản phải là xã hội vô sản, cộng sản, và cho rằng với sứ mạng đó thì Đảng Cộng sản Marxism phải là đảng cầm quyền để làm cách mạng cộng sản. Nhưng ngày nay thế giới đã hoàn toàn đổi khác, mọi tiên liệu của Marx cách đây hơn hai thế kỷ đều không thực tế, không còn ý nghĩa hay giá trị hiện thực nào nữa, thế thì nguyên tắc đảng cầm quyền ngang xương trở thành lố bịch, không có bất kỳ cơ sở khoa học hay xã hội hoặc lịch sử nào hết, thì thử hỏi trách nhiệm này là của ai, của Karl Marx, của Lenin, của những công trình sư đã từng tạo ra nó khắp nơi trong quá khứ hay của những người kế thừa và hoàn toàn bảo thủ của ngày nay.
Điều đó cũng có nghĩa giá trị của chính trị không thể ngoài ý nghĩa và giá trị của khoa học, nếu khoa học không có, kết quả về giá trị khoa học không có, liệu mọi sự kiên định, bảo thủ giả tạo đó có còn là đạo đức chính trị nào nữa hay không thì mọi người chắc hoàn toàn thấy rõ.
Tóm lại chính trị không thể ai làm một mình được mà phải có một tập thể đồng quan điểm hỗ trợ, đó là các đảng phái chính trị. Nhưng đảng phái chính trị cũng không thể tự tung tự tác đoạt quyền xã hội một cách độc đoán và phi lý để thực hiện mọi sự độc tài độc đoán của riêng mình, nên sẽ không thể có đảng chính trị nào được cầm quyền đương nhiên, tiên quyết cả, mà đảng phái thật sự chỉ là những công cụ bầu cử, những phương tiện thực hiện giúp đỡ bầu cử để có được quyền tối hậu người của đảng mình ra nắm quyền, nhưng cũng chỉ qua các nhiệm kỳ cụ thể, và người nắm quyền đó trong thực tế cũng phải luôn nhân danh toàn xã hội, mà không thể nhân danh riêng đảng của mình hay nhân danh giả dối giai cấp nào, đó chính là nguyên tắc tự do dân chủ đích thực nhất mà ngay nay ai ai cũng biết trên toàn thế giới.
5/ Kết luận chung về ý nghĩa của đạo đức chính trị.
Từ khi xã hội loài người tiến hóa, phát triển và lập thành các nhà nước đến nay, đã hàng nhiều ngàn năm, nhà nước là định chế xã hội bao quát nhất. Ý niệm đó là ý niệm thực tế, biên thiên qua lịch sử nhưng chắc chắn không bao giờ mất đi được theo kiểu Marx tưởng tượng do quan điểm sai lầm của ông ta cho nhà nước chỉ là công cụ thống trị của giai cấp.
Thật ra ý niệm nhà nước luôn luôn chung nhất trong một xã hội, bởi vậy dưới thời phong kiến quân chủ, mọi người đều quan niệm một nước không thể có hai vua, và vị vua chiến thắng được các địch thủ của mình thống lĩnh quyền hành xã hội và tạo dựng nên một triều đại. Đó là kiểu nhà nước khách quan, mọi thần dân đều không thể can dự vào đó mà chỉ có thể chấp nhận. Nhà nước trong các nước độc tài ngày nay cũng vậy, nếu vì thời cơ hay lý do nó họ đoạt được quyền chung, cứ bảo vệ quyền hành đó mãi không bao giờ tự nguyện nhả ra và viện dẫn mọi lý do biện minh khác nhau, nhưng thực tế cũng chẳng khác gì những nhà nước phong kiến, quân chủ chuyên chế từ thời xa xưa cả.
Trong ý nghĩa đó, so sánh với yêu cầu tự do dân chủ thực tế của thời hiện đại, rõ ràng nó đi ngược lại thời đại, nên có thể nói được cũng phi đạo đức chính trị. Như Bắc Triều Tiên chẳng hạn, lại rơi vào chế độ cha truyền con nối kiểu huyết tộc, là tiêu biểu cho sự lạc hậu nhất trong các nhà nước cộng sản Marxism hiện đại, chỉ là sự truyền kế thuộc nhóm nhỏ của đảng nắm quyền. Như vậy mọi khái niệm ngôn ngữ bề ngoài cũng không mang ý nghĩa gì xác đáng cả, mà chính thực tế bên trong mới là điều đáng nói nhất.
Nói khác đi, đạo đức chính trị cũng chỉ là một thứ đạo đức xã hội, và cũng tương tự như đạo đức cá nhân, nó là phẩm chất tự nhiên, tự giác, không thể ai bó buộc nó được. Chủ yếu nó là đức tính trung thực, ý thức công tâm công lý, như một yêu cầu của ý thức nội tâm, và mọi sự biểu hiện bên ngoài cũng hoàn toàn tùy theo đó. Trong những thời xã hội nhiễu nhương, chiến tranh, có khi vì những mong ước chiến thắng nào đó, con người phải sử dụng những thủ đoạn gian dối, lừa gạt nhau, nhưng tới khi chiến thắng, họ lại thể hiện quyền hành bằng những biện pháp ngay thực vì khi ấy không còn ai tranh chấp với họ nữa.
Chẳng hạn có những trường hợp người bình dân nào đó lên nắm quyền, nhưng khi lập thành một triều đại, họ lại kêu gọi, sử dụng các tầng lớp trí thức khác nhau hỗ trợ họ, sử dụng những tầng lớp tài năng trong xã hội để xây dựng thành quả của triều đại.
Điều này hoàn toàn đi ngược lại với ý niệm nhà nước giai cấp mà Marx đã đưa ra một cách thô lậu và sai trái. Nhưng trong các quốc gia dân chủ tự do và hòa bình hiện tại, những thủ đoạn lường gạt chính trị xấu xa như hồi còn lạc hậu cũng hoàn toàn bị dẹp bỏ. Sự tranh giành cử tri của các đảng chính trị chẳng qua là sự ganh đua về đường lối chính sách, về cương lĩnh, về mục tiêu thực hiện mà họ đưa ra trong mỗi kỳ bầu cử.
Chính ý niệm dân chủ công khai đó là sự công bằng, minh bạch, trong sáng và chính đáng nhất mà mỗi người dân hay toàn xã hội đều được hưởng. Tính ưu việt của xã hội tự do dân chủ là vậy, trong khi ở những nước độc tài độc đảng thì mọi nhân sự đều đã được sắp xếp trước trong hội trường bởi một nhóm có quyền nào đó để chỉ đưa ra sau đó để áp đặt lên dân và bắt dân phải thụ động tự hợp thức hóa chấp nhận.
Đương nhiên điều đó không thể tránh khỏi những tính toán quyền lợi của các phe nhóm riêng tư, ngày nay thường được gọi là lợi ích nhóm mà ai cũng biết. Đó chính là tình trạng đạo đức chính trị sa sút nhất so với mọi thời đại vì khung cảnh của nó là khung cảnh của xã hội trong thời kỳ hiện đại mà khó có ai tự nguyện chấp nhận được.
Tất yếu mọi tài năng của nhân lực toàn xã hội không bao giờ được phát huy đúng nghĩa, xã hội cũng không hề được hưởng dụng điều gì ở những nhân lực ngoài chính quyền trong xã hội dân sự ấy, mà chỉ lòng vòng trong những gương mặt đã nhẳn thín qua thời gian và mọi năng lực hay đức tính của họ cũng chỉ gói gọn trong chính cuộc đời chuyên nghiệp cầu mong quyền hành đó mà ngay từ đầu cái được gọi là sự nghiệp chính trị bản thân của họ đã được thể hiện và theo đuổi trong mọi cách.
Chính điều đó tạo thành một giai cấp thống trị kiểu bỏ túi như đã được chỉ định trước, trong một thâm cung bí sử riêng mà toàn thể xã hội không làm thế nào đụng đến họ được. Tất nhiên nhóm tập quyền đó cũng nhân danh đủ thứ, sử dụng mọi khái niệm hay mỹ từ đẹp đẽ nhất nhưng thực chất vẫn là thực chất, và sự khác nhau giữa tự do dân chủ đích thực của xã hội và tính độc tài độc đảng hoặc phe nhóm cũng chỉ luôn là như thế.
Nói tóm lại, đạo đức nói chung, đạo đức chính trị nói riêng, hay mọi ý nghĩa hoặc giá trị khác nhau trong xã hội đều phải dựa trên những nguyên lý khách quan nào đó, không thể không có các tiêu chí, tiêu chuẩn nào được vận dụng mà có thể tự nhận hay tự xác định được. Bởi thế không bất kỳ ai có thể tự cho mình có tài năng hơn người khác, có những năng lực nào đó mà người khác không có do mình tự chủ quan mặc nhận mà không có tiêu chí mẫu nào, tiêu chuẩn đo đạc xác định nào để khẳng định cho nền tảng cầm quyền của mình nếu mình không được toàn thể xã hội thừa nhận bằng sự tín nhiệm và bầu cử bằng lá phiếu tự do mà họ có.
Cho nên đạo đức chính trị không cho phép nại ra bất kỳ lý do mơ hồ nào để tham quyền cố vị, mà phải thừa nhận quyền chọn lựa là quyền hạn chung của toàn xã hội, và mình nắm quyền hay người khác nắm quyền thì cũng thế, bởi lịch sử khách quan thì vượt xa tất cả chủ quan của mọi người, và câu tục ngữ có mợ chợ cũng đông không có mợ chợ cũng chẳng ở không ngày nào luôn luôn đúng trong mọi mặt xã hội và chính trị. Điều đó cho thấy mọi ý nghĩa độc tài độc đoán và chuyên quyền đều vô lý, vì nó không có cơ sở thực tế khách quan nào cả mà thực chất đều chỉ là những lý luận giả tạo được che phủ bởi nhứng danh từ không thực chất hay giả dối nào đó. Nên nói tóm lại, đạo đức chính trị là ý nghĩa quan trọng nhất trong thực tế chính trị, không có nó chính trị trở thành tính chất không đáng tin, bởi vì nó có thể lừa dối bất kỳ ai thông qua mọi thể hiện bề ngoài của nó, từ ngôn ngữ, cử chỉ cho tới hành động thực tế.
Tuy vậy nếu ai tinh ý, sẽ phát hiện được ngay qua chính những biểu hiện bên ngoài đó về thực chất giá trị bên trong của nó. Bởi vì ý thức của con người có thể đóng kịch, nhưng vô thức thì không hề làm điều đó. Cho nên nội tâm thế nào con người vẫn hay biểu lộ vô tình ra như thế đó. Điều đó ngày nay xem qua ti vi hay nghe qua giọng nói của những người thể hiện kịch bản chính trị qua bất kỳ trường hợp nào người ta đều nhận ra được nếu tinh ý.
Chính tính cách ngôn ngữ của cơ thể là như thế (Danh bất chính ngôn bất thuận). Nên cái cốt lõi trong đạo đức chính trị bao gồm cả ý thức lẫn hành vi. Nó đích thực phải là sự chân chính và sự chân thực. Chân chính trong ý thức biểu hiện một cơ sở đạo đức chính trị tốt. Hành vi công chính, có tính nhân văn, phục vụ con người và không lừa dối hay phản bội lại con người cũng như xã hội, điều đó cho thấy đạo đức chính trị khi đó là có thật mà không hề gian dối, lừa mị.
Đó cũng là điều mà từ nhiều ngàn năm xưa Khổng Tử, nhà tư tưởng chính trị nổi tiếng ở phương Đông, từng nêu ra thuyết chính danh và gom lại trong ý tưởng “chính giả chính dã” (政者正也, Chương Nhan Uyên, 颜渊), tức ý nghĩa của chính trị là phải chân chính. Hay ông cũng nói cụ thể “Cẩu chính kỳ thân hỹ, ư tùng chính hồ, hà hữu ? Bất năng chính kỳ thân, như chính nhân hà?”
(苟正兲身矣,於从政乎何有?不能正兲身,如正人何?) (Chương Tử Lộ, 子路), có nghĩa bản thân mình mà không ngay chính, còn nói gì được về chính trị sao. Tự thân mà không chính đáng, dễ gì mà nói tốt được về chính trị. Hoặc “Sự thực thi việc chính trị, phải lấy đạo đức làm trọng” (为政以德, Vi chính dĩ đức, Quyển I, Chương II, Vi chính, 为政, Luận ngữ).
Đó toàn là những chân lý muôn đời về chính trị chính đáng, thời cổ đại cũng như thời hiện đại ngày nay. Cho nên bất kỳ người thiết lập nên một triều đại nào cũng phải đều chú trọng đến điều đó. Bởi vì chính trị đúng nghĩa thì không thể chỉ vì riêng bản thân mình hay chỉ đóng khung trong triều đại của mình mà chính là cũng đặt nền tảng lâu dài cho mọi thế hệ mai sau, ý nghĩa cao sâu nhất của đạo đức chính trị chính là thế, và thang đánh giá cho mọi nhà chính trị, mọi chính khách chân chính cũng chỉ luôn luôn là thế. Chính trị chính danh hay chính trị phi chính danh cũng là vậy, chính trị vương đạo hay chính trị bá đạo cũng khác nhau chỉ có vậy. Thuyết chính danh của Khổng tử cũng muôn đời là thuyết về đạo đức chính trị quan trọng mà mọi người dù trong thời đại nào cũng phải luôn biết tới cũng chính là như vậy.
Tuy nhiên, vấn đề cuối cùng cũng phải nói thêm cho trọn vẹn là rốt cục ý nghĩa đạo đức có hay không và ý nghĩa của xã hội sau rốt là gì. Bởi đây cũng là ý nghĩa then chốt về chính trị cũng như đạo đức chính trị như trong toàn bài viết chúng ta đã khai triển. Bởi thế vấn đề đạo đức thật sự mang ý nghĩa triết học và vấn đề xã hội thực sự mang tính cách khoa học.
Có nghĩa nếu ai đó chỉ hoàn toàn theo quan điểm duy vật thuần túy, rốt cuộc đạo đức cũng chẳng mang ý nghĩa gì cả, vì nó cũng chẳng có cơ sở nào tối hậu làm nền tảng cả. Trái lại chỉ những người có quan điểm duy tâm đích thực, tức tin vào một chân lý siêu hình tối hậu nào đó của hiện hữu, khi đó ý nghĩa của tính cách đạo đức tất yếu phải được đặt ra. Như Khổng tử chẳng hạn, ông ta tin vào sự huyền vi của trời đất, nên ông bao giờ cũng thiết yếu là con người nhân bản và con người đạo đức và trong học thuyết chính trị của ông đạo đức chính trị luôn luôn được nêu cao là như thế.
Còn về mặt xã hội, nó không thể không là đối tượng của khoa học, vì đó là một thực tại cụ thể và thực tế, mà ý nghĩa của khoa học bao giờ cũng là ý nghĩa của tri thức, cho nên nếu không nói đến nền tảng triết học sau cùng của nó, xã hội đương nhiên cần có nền tảng khoa học, hay khoa học về xã hội luôn luôn phải là một khoa học đích thực.
Như vậy mọi cái gọi là ý thức hệ đều chỉ là sự huyền hoặc, sự mê tín, hay nói khác ý thức hệ Marxism hay Marxism-Leninism thực chất chỉ là hệ thống quan điểm, hệ thống tư tưởng chủ quan của Marx không có ý nghĩa khoa học khách quan nào cả, và những người tin vào nó phần lớn là những người yếu kém về nhận thức triết học cũng như về tri thức khoa học, hay phần lớn là đám quần chúng thiếu tri thức, khiến nó chẳng khác gì như một thứ tôn giáo thế cuộc, một thứ ý thức hệ tôn giáo kiểu trần tục.
Bởi vì nói cho cùng ý nghĩa hay giá trị cao nhất của mỗi con người cụ thể trong cuộc sống đều không ngoài giá trị nhận thức và giá trị tri thức. Không có hai yếu tố này, con người chỉ mới là đời sống sinh học cá nhân hay xã hội, chưa phải là đời sống nhân văn, ý thức nhân bản và tri thức khoa học, trí tuệ khách quan thật sự.
Có nghĩa chủ nghĩa tập thể, hay cái được gọi là đạo đức cách mạng theo kiểu Marxism thực chất cũng chỉ kiểu cả vú lấp miệng em, lấy thịt đè người, lấy số đông ù ù cạc cạc hay chỉ có trình độ thấp làm nên tảng mà chưa phải là xã hội tri thức, xã hội nhân văn, xã hội trí thức đúng nghĩa.
Vậy mà chính cái sau mới là ý nghĩa, nền tảng, động lực phát triển xã hội thật sự mà không phải yếu tố trước. Vậy nên tất cả những ai quan tâm tới yêu cầu phát triển đất nước cũng như mọi con người Việt Nam ngày nay nhằm hướng tới tương lai không thể quay mặt lại hoặc hoàn toàn hay không sáng suốt để nhận ra được điều đó. Nhưng bởi chính trị là nền tảng thực tế nhất của toàn xã hội, thời nào và ở đâu cũng thế, cho nên ý nghĩa chính trị không thể không là ý nghĩa tri thức và cuối cùng không thể không là ý nghĩa đạo đức là như vậy.
Karl Marx chỉ là người hoàn toàn duy vật, đồng thời cũng là người hết sức vô trách nhiệm khi đưa ra ý thức hệ ngẫu hứng, tùy tiện, hoàn toàn không kiểm soát về nhiều mặt của mình, nên cũng có thể nói ý nghĩa tri thức của Marx là có nhiều hạn chế cũng như ý nghĩa đạo đức chính trị của ông ta là hoàn toàn bị xuyên tạc hay hoàn toàn không được đặt ra trên cơ sở khách quan đúng đắn về mặt ý nghĩa chiều sâu cũng không phải nói oan hoặc hoàn toàn không phải là thực chất.
Cho nên chính trị đúng đắn là chính trị nhằm luôn luôn không ngừng nâng cao mọi trình độ nhận thức cho toàn xã hội, luôn luôn phải tri thức hóa, trí thức hóa quần chúng bằng mọi cách mà không phải ngược lại chỉ bằng những thủ thuật ngu dân, mị dân vì những yêu cầu riêng tư nào đó.
Điều đó ở nước ta ngay trong thời quân chủ nhưng khi gặp được những triều đại anh minh đều khuyến khích sự học đúng đắn, khuyến khích văn hóa đúng nghĩa nói chung mà không làm ngược lại. Hay cách đây trên một trăm năm, Phan Chu Trinh, một nhà ái quốc chân chính, khi ấy cũng đã chủ trương đường lối hoàn toàn cần thiết và sáng suốt “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” khi nước ta trong thời kỳ Pháp thuộc.
Tức nâng cao trình độ dân trí, củng cố ý thức tự chủ trong dân, từ đó mới làm xã hội phát triển được mọi mặt về dân sinh, nhưng rất tiếc cả một trăm năm sau điều đó vẫn không được hậu thế chú trọng mà nhiều khi còn hoàn toàn làm ngược hẳn lại, đó quả là điều không may cho đất nước và dân tộc chúng ta, và bất kỳ người trí thức đúng đắn nào ngày nay cũng phải nhận ra và tìm cách khắc phục điều đó, đó cũng là đạo đức chính trị về mặt bản thân của họ mà không là gì khác.
Bởi thật ra quần chúng nói chung hay phần lớn giới bình dân thì nào có biết gì, họ có hiểu gì về khoa học chính trị cũng như đạo đức chính trị, nên cứ nghe theo lời tuyên truyền một chiều để luôn nghĩ tưởng rằng Phan Chu Trinh chỉ là nhà cách mạng cải lương, một nhà yêu nước thỏa hiệp, một nhà cách mạng tư sản, chỉ có cách mạng bạo lực và theo hướng Vô sản quốc tế mới là chân chính, thì ngày nay mọi sự phát triển chung trên toàn thế giới cho thấy đất nươc Việt Nam thực chất muốn nói gì thì nói vẫn đang rơi vào tình trạng lạc hậu nhiều mặt so với nhiều nước khác, đó thật là điều ngậm ngùi đối với Phan Chu Trinh không thể nào nói hết.
Bởi vì sau khi thoát được ách đô hộ của thực dân Pháp suốt 80 năm nhờ vào sự phát triển chung của lịch sử thế giới và sự đấu tranh kiên trì của toàn dân tộc, tưởng rằng đất nước phải đi lên ít ra cũng về mốc tương quan như thời nhà Nguyễn so với các nước Đông Nam Á châu lúc ấy khi ta chưa bị Pháp xâm lược và đô hộ, nhưng đến nay ta lại thua nhiều nước cũng trong tương quan đó ở thời hiện tại, đó là chưa nói nhiều công trình của Pháp để lại cho đến nay ở nước ta vẫn còn giá trị cũng như mọi sự viện trợ của thế giới ngày nay là điều không thể phủ nhận được, như vậy điều này có phải do trí tuệ của nhân dân ta kém, tiềm năng của đất nước ta không có, hay chỉ do nhiều mặt đạo đức chính trị sa sút, đó là điều cần làm cho mọi người nên suy nghĩ. Bởi đạo đức chính trị bản thân cũng tạo nên đạo đức chính trị chung của toàn xã hội.
Nếu không ai quan tâm tới các vấn đề chung vì lẽ này hay lẽ khác, thế tức là đạo đức chính trị của mỗi cá nhân là không có, vậy làm sao mà đạo đức chính trị toàn xã hội lại có được. Từ nguyên nhân này dẫn đến nguyên nhân kia, đó chính là ý nghĩa làm cho đất nước và dân tộc sa sút ngày nay, đó là điều thực tế không cần gì thêm bớt hay cũng không phải long trọng hóa hoặc quan trọng hóa gì cả, và chỉ những người nào tầm thường nhất mới không biết quan tâm hay không thể nhận ra được mọi ý nghĩa liên quan của nó.
(18/11/2015)
V.H.T.
Tác giả gửi BVN
http://www.boxitvn.net/bai/39290
Đạo đức chính trị mang ý nghĩa quan trọng nhất bởi vì chính trị làm nền tảng và bao quát nhất toàn bộ lãnh vực xã hội. Tính cách của chính trị quyết định cơ bản mọi tính chất khác của xã hội, do vậy đạo đức chính trị phải là ý nghĩa quan trọng nhất mà mọi người cần xem xét. Thế nhưng trước khi nói đến đạo đức chính trị phải trước hết xác định đạo đức là gì, nó có ý nghĩa và giá trị thật sự hay không trong xã hội, nguồn gốc của nó ở đâu, nền tảng và bản thân nó là gì, cũng như nó nhằm đến cái gì và hữu ích hay cần thiết ra sao, kế đến mới thấy được ý nghĩa hay yêu cầu của đạo đức chính trị là gì, mới là điều thiết thực nhất.
Quả vậy, ý nghĩa đạo đức là ý nghĩa của con người, về mặt cá nhân lẫn xã hội. Không có đạo đức theo nghĩa con người cá nhân cũng không thể có đạo đức về ý nghĩa xã hội hay ngược lại. Nói cách khác, đạo đức là ý nghĩa chung nhất của thế giới loài người, và tất yếu nó bao trùm từng cá thể hay cộng đồng người nói chung, tức cả mặt cá nhân lẫn mặt xã hội, không thể có cái này mà không có cái kia là điều hoàn toàn vô lý.
Có nghĩa tính cách hay giá trị của đạo đức là tình cách và giá trị của nhân văn. Đạo đức là kết quả của sự tiến hóa lịch sử mà không là gì khác. Khi con người còn là thế giới loài vật trong giai đoạn sơ khai, tất nhiên không thể có vấn đề hay ý nghĩa đặt ra, tức không có tình chất hay nhu cầu đạo đức. Nhưng khi con người tiến hóa thành người, tạo nên xã hội nhân bản, văn minh, có văn hóa, tất nhiên đạo đức trở thành hiện hữu và không ngừng tiếp tục tiến bộ đi lên.
Cho nên nếu xã hội và con người mà suy thoái trong các hoàn cảnh hay điều kiện nào đó, dĩ nhiên đạo đức cũng bị vi phạm, bị suy thoái, bị phủ nhận, đó là ý nghĩa khách quan của đạo đức và là điều cần được mọi người nhận thức một cách đích thực nhất. Hay có thể nói cách khác, đạo đức luôn là sự tự nguyện của cá nhân và xã hội để sống cho ra người, cũng là điều bó buộc trong thế giới loài người, mà chính luân lý đạo đức theo truyền thống, theo tập tục tốt đẹp, theo thuần phong mỹ tục ở mỗi nơi do từ đời trước truyền lại, kết hợp với cả luật pháp mà xã hội tạo nên mỗi lúc, đó chính là ý nghĩa chung nhất của luật pháp mà không gì khác.
Từ đó cũng có thể thấy được pháp luật không thể trái lại với đạo đức, vì đạo đức là yếu tố hay ý nghĩa khách quan, còn pháp luật có khi là chủ quan, nên đạo đức buộc phải là nền tảng của pháp luật mà không phải ngược lại, bởi nếu không có đạo đức, tất yếu cũng không thể có pháp luật, ý nghĩa của pháp luật là nhằm duy trì một xã hội đạo đức, phục vụ cho xã hội đạo đức để phát triển, chính trị nhất thiết không có ý nghĩa gì riêng biệt, tách biệt hay hoàn toàn độc lập tự thân của nó.
Từ đó cũng thấy rằng chính trị thực chất cũng là một khía cạnh của pháp luật, tức chính trị nhằm xây dựng pháp luật, bảo vệ pháp luật theo cách thực tiển hoặc định hướng cần thiết nào đó mà thực tế đặt ra mỗi lúc, có nghĩa chính trị chỉ là bề nổi của pháp luật, không thể vì lý do gì mà trái ngược hẳn lại với đạo đức truyền thống chung của xã hội gắn liền với nó, hay chính trị không thể nào phản bội hoặc tách biệt với đạo đức, là ý nghĩa của đạo đức chính trị mà chúng ta đang nói đến.
Nói tóm lại, đạo đức trước hết là sự nhận thức, tính nhân văn, tính xã hội, mà nền tảng của nó trước tiên là sự tự giác, sau đó là sự bó buộc hay sự cưỡng chế khách quan từ nhiều mặt của xã hội, cả hai yếu tố đó đều không thể không có, bởi vì nó là điều kiện và ràng buộc lẫn nhau, nên thiếu một yếu tố nào đó đạo đức thực chất cũng đã bị lỏng khỏng, không thể khách quan, tự nhiên hoặc toàn vẹn.
Có nghĩa từ tính chất ấy, đạo đức luôn luôn phải là sự đích thực, tức tính chân thực là bản thân đích thực, ý nghĩa và giá trị đúng đắn của đạo đức mà không thể nào khác. Cho nên đạo đức giả có nghĩa là phi đạo đức, tức đạo đức chỉ mang tính cách hình thức, trình diễn bề ngoài đương nhiên cũng hoàn toàn là không có đạo đức, cả mặt cá nhân lẫn mặt xã hội, cho nên chỉ có một ý nghĩa duy nhất là đạo đức phải là thật trên mọi phương diện hay mọi bình diện, trong đó kể cả hoặc nhất là đạo đức chính trị như trên kia đã nói.
1/ Chính trị là gì và đạo đức chính trị là thế nào?
Chính trị nói cho cùng là yêu cầu quản lý xã hội theo một chiều hướng, một mục đích, mục tiêu, một thực tế nào đòi hỏi theo một cách chung nhất. Chính trị như vậy hoàn toàn khác với hành chánh và pháp luật. Hành chánh là guồng máy điều hợp, quản trị các yếu tố cá nhân và xã hội theo những nguyên lý thống nhất, ổn định, lâu dài trong toàn thể một đất nước, một cộng đồng nào đó.
Trong khi đó, pháp luật là những nguyên tắc chi phối, điều hòa về mặt pháp lý, nhằm hỗ trợ cho thực thể hành chánh và thực thể xã hội được hòa nhập và vận hành một cách tích cực, phù hợp cùng nhau. Hành chánh và pháp lý chỉ là hai mặt của một vấn đề, vấn đề vận hành của xã hội theo những yêu cầu cụ thể, khách quan của nó, nó gắn với trật tự, trị an, tức là chính trị nhưng không hẳn hoàn toàn đồng nhất với chính trị. Nói cách khác, chính trị có thể thay đổi, nhưng thường thì hành chánh và pháp luật là cơ bản có thể giữ nguyên không thay đổi, trừ khi đó là chính trị theo kiểu được gọi là cách mạng, tức là theo những cách đổi thay tuyệt đối nhất nếu không muốn nói là kiểu xóa bài làm lại ngay từ đầu.
Đó là sự thay đổi cả một chế độ, một trật tự xã hội theo cách rốt ráo dựa trên những quan điểm hay yêu cầu nhất thiết nào đó, nhưng không phải điều đó bao giờ cũng buộc phải như vậy trừ phi những quan niệm hay những mong muốn hoặc ước vọng thật sự quá khích hay hoàn toàn khốc liệt. Bởi vì khi đó nó làm xáo trộn toàn bộ xã hội, sự trả giá của nó là khủng khiếp vì liên quan đến mọi thành quả đã có trước cũng như có thể rơi vào những ảo ảnh hoặc những mê muội mà sẽ không bao giờ cân đối hoặc khắc phục lại hoàn toàn được.
Đo đó sự hiểu biết về hành chánh, luật pháp, chính trị theo những quan niệm đúng đắn bao giờ cũng cần thiết, vì chỉ cần sai một bước là toàn bộ xã hội và mọi thành viên trong đó đều phải gánh chịu hậu quả. Điều ấy có liên quan nhiều đến cái gọi là đạo đức chính trị của những người làm chính trị, những người tham gia vào những hoạt động chính trị. Nói cách khác, đạo đức chính trị là đạo đức của những người hành xử trong lãnh vực chính trị, trong hoạt động chính trị từ khi nó được bắt đầu, đến suốt quá trình nó được triển khai ra, cho tới khi nó đạt kết quả là giành được những phạm vi quyền hành nào đó và thực thi những mục tiêu hay ý nghĩa gì mà nó muốn có. Đạo đức chính trị như vậy vừa là đạo đức chính trị nơi mỗi cá nhân lẫn đạo đức chính trị của tập thể nơi mọi cá nhân đó hợp thành, hay kể cả đạo đức chính trị của toàn xã hội khi mà những chính đảng nào đó trở thành những đảng chính trị nắm quyền trong cả nước.
Một cách tổng quát, đạo đức chính trị dù ở phương diện nào cũng không ngoài sự hiểu biết, tri thức, tính nhân văn, hay điều tốt xấu, sai đúng trong đời sống xã hội và cộng đồng nói chung. Giá trị và ý nghĩa của đạo đức trước hết là ở sự hiểu biết, ở tri thức, ở tính cách trí thức, rồi kế đến là tính nhân văn, tình truyền thống, sau cùng mới nói đến tính lương tri, lương năng hay điều nhận biết sai đúng của tất cả mọi người.
Có nghĩa trình độ nhận thức về đạo đức như vừa được nói cũng thể hiện nguyên tắc đạo đức về chính trị, cho nên cái gọi là bản lĩnh chính trị thì hoặc điều đó cũng phù hợp theo đạo đức chính trị như ta vừa nói, hay chỉ hoàn toàn ngược lại theo các quan niệm hay mục đích chủ quan nào đó khác. Nói cụ thể, đạo đức chính trị chỉ có thể được hiểu là phù hợp với bình diện cá nhân và bình diện xã hội. Một cá nhân có ý nghĩa về giá trị đạo đức, cũng bảo đảm được ý nghĩa đạo đức chính trị của cá nhân đó, và một cá nhân có ý nghĩa đích thực về đạo đức chính trị thì ý nghĩa đạo đức chính trị đó của cá nhân cũng phù hợp với ý nghĩa đạo đức chính trị về xã hội nói chung mà không thể nào khác.
Có nghĩa không có đạo đức cá nhân thật cũng khó mà có được ý nghĩa về đạo đức chính trị, bởi vì ý nghĩa đạo đức cá nhân nói chung là căn bản nhất, mà ý nghĩa đạo đức chính trị cũng chỉ là sự chiết xuất ra từ đó, hay cũng có nghĩa là sự mở rộng, phát triển, hay triển khai ra từ đó. Đó là tính tự giác trong đạo đức ở cá nhân, và dĩ nhiên đó cũng là tính tự giác trong đạo đức chính trị mà cá nhân đó có thể có được. Nên điều quan trọng nhất ở đây chính là tính độc lập, tính tự chủ, tính tự giác mọi phương diện, không thể là tính bè phái, tính về hùa, tính tập thể theo kiểu mù quáng, vì trong các tính chất đó thì thật sự tính đạo đức cá nhân vốn không có thì làm sao đạo đức chính trị lại có thể có được.
Đó là lý do tại sao đạo đức chính trị chỉ được lưu ý đến ở những người có nhận thức, có trình độ hiểu biết, có học thức, không thể chỉ xa cạ kiểu quần chúng, trừ phi đó là những trường hợp cá biệt trong quần chúng, tức là những tài năng hay những phẩm chất đang còn giấu mặt. Hay nói cách khác, không hề có sự phân biệt giai cấp hoặc bất kỳ thứ kỳ thị nào trong sự phân biệt và yêu cầu xác định về đạo đức chính trị, nó hoàn toàn thể hiện tự nhiên, khách quan trong mỗi cá nhân con người, nó hình thành nên là do bản chất riêng, sự rèn luyện riêng, hay sự đào tạo của xã hội qua giáo dục, hoặc qua truyền thống gia đình, địa phương hay bất kỳ những nguyên nhân tốt đẹp có thật nào đó.
2/ Đạo đức chính trị đích thực là tính công tâm công ý, tính trung thực, tính minh bạch, thẳng thắn, và nhất là mục tiêu xã hội vô tư và cao quý
Từ đó cũng cho thấy được đạo đức chính trị gồm có hai phương diện, phương diện người vận động, nắm quyền hay lãnh đạo, và phương diện người thừa hành, quần chúng hay người được lãnh đạo. Dĩ nhiên phương diện người lãnh đạo là chính yếu, vì nếu ở đây không có đạo đức chính trị thật sự, mà chỉ là thứ mị dân, ngu dân nào đó, tất nhiên phía đối tượng của nó cũng coi như lãnh đủ và thành nạn nhân tối hậu không thể nào tránh. Bởi người cầm quyền hay lãnh đạo thiếu đạo đức chính trị, cả giàn cán bộ hay nhân viên ở đó cũng sẽ tự thích ứng theo kiểu đó, cuối cùng mọi sự mị dân, mọi sự ngu dân là do toàn xã hội hay mỗi người dân lãnh đủ vì họ không có quyền nào khác nhất là trong những chế độ độc tài toàn trị, mọi ngóc ngách trong xã hội đều được tổ chức chặt chẽ chẳng có chỗ nào để trống cả.
Bởi nếu người lãnh đạo, người nắm quyền cốt vì quyền lợi xã hội thật sự, cốt vì dân vì nước thật sự, chẳng có lý do gì họ phải gian dối, phải nói sai sự thật, phải làm khác đi sự thật. Trái lại họ chỉ vì lợi ích bản thân riêng cũng như cho bè nhóm của mình, dĩ nhiên mọi sự mị dân, mọi sự ngu dân đều cần thiết, vì đó chính là yếu tố để duy trì, bảo đảm guồng máy chính trị mà họ luôn phải cần đến để thủ lợi, qua tuyên truyền và bạo lực cũng như qua mọi sự cấm cản dân chủ tự do đích thực, vì điều đó là cần thiết để vun quén, bảo vệ và duy trì lâu dài mọi vị trí xã hội sai trái cũng như mọi quyền lực trong guồng máy quyền lực của họ. Nên có thể nói mọi chế độ độc tài thì đạo đức chính trị không thể có, dù đó là thứ độc tài gì. Vì mọi độc tài đều đi ngược lại với nguyên tắc dân chủ tự do, mà nếu dân chủ tự do là đúng, độc tài hẳn hoàn toàn sai, và sai tức phi đạo đức, phản đạo đức, và đã tự phủ nhận đạo đức chính trị hay chỉ giả mạo đạo đức chính trị là như thế.
Vì lẽ đó, nói đến chính trị, nói đến đạo đức chính trị, hay nói đến mọi ý nghĩa nào đó khác, chính nguyên lý là điều trước tiên phải nói đến nhất. Bởi vì chỉ có nguyên lý mới là cái cốt lõi, nguyên lý là tiêu chuẩn thước đo, là mục đích đạt đến mà không thể cái gì khác. Phù hợp theo nguyên lý của nó, mọi sự đều tốt, vì phù hợp theo sự tồn tại khách quan của nó. Không phù hợp hay ngược lại nguyên lý, tức trái với nguyên tắc tồn tại hay ý nghĩa tốt đẹp của nó, có nghĩa nó đã sai trái và không còn giá trị vì cũng đã không còn chính đáng nữa.
Ví dụ cái gọi là Chủ nghĩa xã hội nào đó mà phản lại các ý nghĩa và giá trị xã hội tự nhiên khách quan, cũng không thể bảo là Chủ nghĩa xã hội được, cái gọi là dân chủ tự do mà xã hội dân sự tư nhân bị bóp chết, tự do báo chí và xuất bản không có, quyền phổ thông đầu phiếu tự do không có, cũng không thể bảo là tự do dân chủ gì được. Nguyên lý xã hội là của toàn dân, đất nước là của toàn dân, nhưng nếu có chính đảng nào đó luôn tự khẳng định, luôn tự nhận mình là người lãnh đạo vô điều kiện, đó không còn là xã hội của toàn dân, không còn đất nước của toàn dân, không còn quyền cao nhất của nhân dân nữa, vì bất cứ đảng nào có thể nhân danh kiểu đó thì tới khi đảng khác cũng nhân danh kiểu đó lấy lý do gì cấm cản họ được, nên dân chủ tự do không thể nói suông, quyền dân không thể nói suông, mà phải kết hợp theo những nguyên tắc hay nguyên lý khách quan của nó, phai phù hợp theo những giá trị, những chân lý đó, phải tuân thủ theo những nguyên lý tất yếu mà khách quan buộc phải có.
Hay chẳng hạn, một lý thuyết nào đó, một ý thức hệ đặc thù nào đó, tất nhiên chỉ do một cá nhân nào đó tạo ra, không ai có bất kỳ quyền gì để lấy nó áp đặt lên xã hội. Vì đó là vi phạm nguyên lý tự do dân chủ đích thực, không thể lấy mọi sự hiểu biết của mình làm thành sự hiểu biết của người khác, của toàn xã hội, vì như vậy là áp đặt, như vậy là phi lý, và làm như thế cũng đã là vi phạm đạo đức chính trị, vì đạo đức chính trị tột cùng nhất chính là không thể đi ngược lại tự do dân chủ khách quan, không thể bóp méo hay đi ngược lại quyền khách quan của mọi người, tức quyền làm chủ của toàn dân trong toàn đất nước mà ai cũng biết. Bởi thế, muốn làm mọi điều gì sai trái người cầm quyền chính trị nhất thuyết phải gạt dân, phải tuyên truyền đủ cách mị dân hay nhất thiết phải làm ngu dân để mình được một mình một cõi hầu có thể thao túng toàn dân theo ý muốn chủ quan nào đó của riêng mình, nhằm phục vụ quyền lợi của riêng mình, như vậy cũng có nghĩa đi ngược lại mọi đạo đức chính trị mà mình đáng ra phải có hay thủ tiêu và đi ngược lại nó. Bởi lẽ đó đạo đức chính trị đích thực phải là tính công tâm công ý, tính trung thực, tính thẳng thắn, và nhất là mục tiêu xã hội vô tư và cao cả của nó. Thiếu những ý nghĩa này đạo đức chính trị là không có hay đã bị vi phạm hay đã để cho xuống cấp.
Bởi nếu như thế, chính trị trở thành thuần túy là những mưu đồ tranh quyền đoạt lợi mà không gì khác. Bởi chỉ vì những mưu đồ này người ta mới trở thành thiếu công tâm công ý, không còn trung thực và thẳng thắn vì lợi ích chung, không còn mục tiêu hay lý tưởng xã hội nào cao đẹp cả, mà chỉ nhằm mưu cầu lợi lộc, công danh riêng vị kỷ của mình, từ đó cũng nảy sinh ra mọi loại chính trị thủ đoạn hay bất chấp tất cả. Điều đó khiến nhiều người hiểu lầm lẫn coi chính trị chỉ như là điều gì luôn luôn xấu, bởi đầy những thủ đoạn gian dối, lừa gạt, chẳng còn gì là tốt đẹp cả. Thậm chí có người còn cho chính trị là lưu manh, chỉ những ai lưu manh giỏi nhất mới chiến thắng được người khác, mới lừa được mọi người và lừa được người khác.
Thật ra điều đó hoàn toàn không đúng với những ý nghĩa chính trị lành mạnh, chính trị như một khoa học, một đạo lý, một lý tưởng lành mạnh như trên kia đã nói. Ngược lại nó chỉ đúng trong những xã hội nhiễu nhương, xã hội lấy sức mạnh của bạo quyền hay sức mạnh của sự dối gạt làm tiêu chí, không phải xã hội lành mạnh bình thường mà chủ yếu là đề cao tính khách quan, tính chân lý, hay tính đạo đức và khôn ngoan trong cuộc sống.
Bởi thế, những giai đoạn tiêu cực như vậy phải cần là những giai đoạn tạm thời, nếu nó có phải bất đắc dĩ bị thực hiện, người có thật bụng chính trị đúng đắn sau khi nắm được quyền đều phải thành lọc xã hội, trút bỏ nhưng yếu tố tiêu cực mà mình phải bị bó buộc từng sử dụng để tranh đoạt quyền hành, nhằm nhất thiết phải trả lại quyền hạn tối cao sau khi đã giành được cho xã hội, bằng cách tổ chức bầu cử lành mạnh theo cách dân chủ tự do thật sự trong đất nước, nhằm trao trả lại quyền đích thực cho toàn dân và gây dựng lại xã hội trong sáng cho toàn dân.
Đó là ý nghĩa của chính trị nhằm cho muôn đời, không phải chỉ nhất thời cho địa vị quyền lợi riêng mình và cố tham quyền cố vị, cố đoạt quyền, tiếm quyền chung của xã hội, không nghĩ đến mọi quyền lợi tương lai chung của đất nước hay của toàn dân nói chung.
Nhưng cũng còn một ý nghĩa khác, trường hợp có người làm chính trị mà phải bị kẹt vào thế quốc tế, các thế lực quốc tế như nước ngoài hay một ý thức hệ quốc tế thì lý giải như thế nào? Thật ra có những trường hợp người ta có thể vận dụng nước ngoài trong những tình thế bất khả kháng hay bất đắc dĩ nào đó, nhưng nhất thiết phải luôn luôn tìm mọi cách để thoát ra càng sớm càng tốt khi nhìn thấy sự nguy cơ mất độc lập tự do bởi đó, nhưng nếu chỉ mù quáng buông xuôi mọi sự và lâu dài, như vậy là phạm vào đạo đức chính trị, phạm vào nhân cách chính trị của riêng mình và cũng không còn ý nghĩa hoặc giá trị đúng đắn hay được ngưỡng mộ nào cả.
Bởi chính trị như thế cũng chẳng phải do dân, vì dân, mà chỉ vì các yếu tố ngoại lai hay chỉ là những tính toán vụ lợi bản thân nào đó của mình. Bởi thế ngoài ý thức quốc gia, ý thức xã hội, ý thức dân tộc, trình độ nhận thức của người làm chính trị cũng rất quan trọng. Bởi nếu người có trình độ nhận thức sắc bén nhất định thì không bao giờ có thể sai lầm vì bất kỳ những nguyên nhân nào đó, hoặc nếu có sai lầm cũng chỉ có thể là sai lầm tạm thời và cũng tìm cách khắc phục được. Bởi vì con đường chính trị luôn luôn là con đường dài lâu, không phải chỉ một sớm một chiều, không phải không trải nghiệm qua nhiều điều, không phải không tự tỉnh lại nhiều điều.
Nói khác đi, nếu trình độ nhận thức yếu, dễ bị sa lầy vào trong sự nhầm lẫn, thiếu sáng suốt, sẽ khống chế các đồng đội đồng chí của mình trong nhược điểm như thế, rõ ràng cũng thiếu sót về mặt đạo đức chính trị lẫn mặt bản thân về chính trị. Từ đó có thể nói được rằng mọi đường lối chính trị độc tài độc đoán là rất nguy hiểm, nguy hiểm cho bản thân chính mình, nguy hiểm cho nhiều người khác, nguy hiểm cho toàn xã hội nói chung, chẳng khác gì đang dần dần đúc lên một tảng bê tông nặng nề đè lên toàn xã hội mà trong lịch sử về sau dù là cả ngàn đời mình cũng không thể nào trốn chạy đâu được nữa. Mà trong những trường hợp như thế, rõ ràng mặt đạo đức chính trị là đã hoàn toàn hạn chế vì lỗi không sáng suốt, chỉ thụ động, chỉ nhu nhược hay tóm lại cũng chỉ đặt quyền lợi cá nhân lên trên hết trong thực tế cho dù mọi ngôn ngữ hay hình thức nào che đậy bên ngoài theo cách giả dối và giả tạo cũng vậy.
3/ Bộ quy tắc ứng xử chung về đạo đức chính trị.
Như trên đã thấy, bất kỳ các phạm vi hoạt động nào trong đời sống cũng phải tuân thủ những nguyên lý cụ thể, rõ rệt, cơ bản, bó buộc, không thể chỉ lung tung, tùy tiện hay ngẫu phát, phương diện đạo đức hay phẩm chất chung của cá nhân và xã hội cũng thế, phương diện lý thuyết hay thực tiển chính trị cũng vậy, và phương diện đạo đức chính trị nói riêng cũng thế. Cho nên vạch ra được bộ các nguyên lý ứng xử này trong đời sống xã hội chính trị là rất cần thiết, nó nhằm giúp mọi người đều có được sự thống nhất, tránh được mọi tính mâu thuẫn và tính chủ quan, tùy tiện.
10) Chính trị nhất thiết phải mang ý nghĩa phục vụ chung, không thể chỉ mang ý nghĩa quyền lợi riêng
Chính trị thật sự mà nói là nghĩa vụ của mọi công dân, là quyền hạn hay quyền lực của mọi công dân, không phải là quyền lợi riêng của ai cả. Hai điều này rất dễ bị nhầm lẫn. Bởi quyền lực là ý nghĩa cộng đồng, ý nghĩa xã hội, ý nghĩa bổn phận và trách nhiệm chung nhất, trong khi đó quyền lợi thì dễ xé lẻ, dễ chủ quan, dễ tùy tiện, dễ mâu thuẫn và dễ tranh chấp nhau. Bởi vậy khi K. Marx nói chính trị là quyền lợi của giai cấp là một điều phản công lý, phản xã hội, điều cực kỳ phá hoại và phản động mà rất ít ai nhận thấy. Bởi nói như thế là trên ý nghĩa đấu tranh giai cấp, chỉ thấy quyền lợi riêng tư mà không thấy tính cách đạo đức chung, tức chỉ thấy cái lợi mà không thấy cái nghĩa, và nếu bên nào cũng chỉ vì cái lợi của mình thì đâu còn có chân lý, đâu còn có công lý, đâu còn ý nghĩa gì về đạo lý, đạo đức chính trị nữa.
Đó thật là sự ngô nghê về quan điểm thực tiển của Marx, ông ta hạ thấp ý nghĩa con người xuống thành một sinh vật kinh tế thuần túy, tức một trạng thái hoang dã như trong tự nhiên mà không còn là ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa nhân bản nữa. Rõ ràng điều đó ngày nay để lại không ít những hệ lụy trong quan điểm của người cộng sản về ý nghĩa và mục đích của chính trị. Điều mỗi người đảng viên cộng sản ngày nay luôn quan tâm trước nhất là cái được gọi là sự nghiệp chính trị của bản thân họ. Tức công danh, địa vị, quyền lợi, vị trí quyền lực của họ trong hệ thống tổ chức. Mất cái đó coi như họ mất tất cả. Do đó chính trị chỉ còn là sự mưu cầu tư lợi mà không là gì khác. Mọi khẩu hiệu, mọi hành động bên ngoài mang tính hình thức, tính biểu kiến, đều trở thành những sự đấu tranh nhau, sự hòa hoãn nhau, sự toa rập hay sự dè chừng, sự ngờ vực nhau để mong củng cố, phát huy, tranh thủ cho cái gọi là sự nghiệp chính trị của mình, tức quyền lợi và mục đích bản thân luôn luôn duy nhất và sau cùng mà không phải cái gì khác. Có người nhận ra ý nghĩa đó và gọi là sự suy thoái, sự xuống cấp, nhưng thực chất gọi như thế là không đúng, bởi vì đây là nguyên tắc khách quan, không phải ý muốn chủ quan. Bởi bản năng hoang dã luôn luôn có trong mỗi con người, con người mà ít bản chất tốt, ít trang bị nhận thức hay ít trình độ học vấn đều gần hơn với bản năng đó, chỉ là lẽ tự nhiên mà không thể nào khác.
Bởi khi chính trị không còn là khoa học khách quan phục vụ chung cho xã hội, nó trở thành chỉ như một ý thức hệ phục vụ giai cấp nắm quyền, làm nhiễu loạn các nhận thức trong sáng của mọi người, chỉ được huấn luyện theo cách một chiều, sự tuyên truyền đầy chất hình thức bề ngoài và chủ quan, tất nhiên sẽ khuyến khích những thành phần tiêu cực, thành phần kém hiểu biết nhất trong xã hội, vả lẽ nó còn được quy thành nguyên tắc là giai cấp công nhân lãnh đạo, giai cấp bần cố nông lãnh đạo theo kiểu máy móc, sai lệch, thế thì về lâu về dài qua thời gian, mọi hậu quả tất yếu phát sinh cho xã hội là điều không thể tránh, và mọi điều tiêu cực, mọi điều bế tắc trong phát triển xã hội chỉ là hệ lụy khách quan.
Rõ ràng quan điểm phi khoa học của Marx trong ý thức hệ của ông ta làm lũng đoạn xã hội, làm phân hóa xã hội, làm trì trệ xã hội mọi mặt, đó không những là tội lỗi mà còn tội ác của ông ta đối với loài người về phương diện lý thuyết mà ông ta đã có. Và tất cả những gì đã diễn ra suốt một thế kỷ ở nhiều nơi thực chất đã cho thấy điều đó. Nhưng đó là phương diện của người nắm quyền hay chia chác quyền hành lẫn nhau, còn thực tế bản thân xã hội hay toàn thể người dân, tức những người bị cai trị thì thế nào?
Họ được coi là đối tượng để được phục vụ, nhưng đó chỉ là hình thức. Bởi họ hoàn toàn không còn quyền chính trị mà quyền chính trị là của người khác, tức của Đảng và của những đảng viên của Đảng. Cái đó được gọi là toàn quyền lãnh đạo hay lãnh đạo toàn diện. Kết quả đó xã hội trở thành chẳng khác chi như kiểu bò được nuôi để vắt sửa, trở thành một sân chơi để người ta thực hiện bao nhiêu những thử nghiệm, những chính sách cuộc chơi trên đó một cách vô tội vạ, vì không kết quả thì làm lại theo cách khác, vẫn lòng vòng theo cách cảm tính đó mà không là gì khác. Nên thay vì xã hội tự phát triển theo khách quan, nó trở thành phát triển theo chủ quan của những người tác quyền lên nó, khiến có khi nó chỉ đi thụt lùi nhưng vẫn được cơi lên thành phát triển, tức phần lớn là những sự phát triển hình thức, giả tạo, không khách quan hay không thực sự thực chất.
Đó là chưa nói mọi sự sợ hãi bao trùm lên toàn xã hội. Phần lớn dân chúng đều ngại nói đến chính trị, coi đó là điều cấm kỵ chỉ được dành riêng cho một số người đặc quyền, đó là những người nắm quyền, những người thừa hành nắm quyền mà không phải ai cũng tham gia hay đi ngược lại điều đó được.
Có những quy định khắt khe trong các điều luật về hình sự mà ai cũng biết, nó sẵn sàng trấn áp bất cứ ai đi ngược lại nó, như vậy thực chất cũng khiến mọi người dân trong xã hội đều mất quyền công dân, đều mất hết pháp quyền mà họ tự nhiên có, khiến đều trở nên có thái độ thụ động chung về chính trị, bàng quan hay giả đò đóng kịch một cách miễn cưỡng, coi chính trị như không liên quan gì đến họ, thậm chí nhiều người tỏ rõ thái độ giả dối bảo mình không ưa chính trị, mình ghét chính trị, nên thái độ xa rời chính trị của nhiều người là thái độ phổ biến và rõ nét nhất.
Tất nhiên xã hôi như vậy hoàn toàn là xã hội thụ động, xã hội kiểu bị trị, bị nô lệ vào người khác, xã hội bị mất hết mọi pháp quyền của mình, không phải là xã hội làm chủ như danh từ mỹ miều lạm dụng, bởi mọi quyền tự do dân chủ khách quan và đúng đắn không hề có, quyền độc lập tư duy hay chính kiến cũng như quyền biểu hiện nó cũng không hề có, chỉ luôn là xã hội được dẫn dắt đi theo một ý thức hệ hay đi theo những sự chủ quan riêng tư của một lớp người nhất định, một xã hôi như vậy trở thành phi xã hội thật sự, bởi vì nó không phải được mọi người phục vụ nó, nó chỉ trở thành công cụ đích thực chỉ nhằm để phục vụ, đáp ứng hay để tuyệt đối tuân thủ những cảm tính chủ quan của một thiểu số người vốn là bộ phận hay thành viên trong nó.
Nghịch lý đó là đa số xã hội phải phục tùng thiểu số, hay thực chất cũng chỉ ít ỏi cá nhân nắm quyền nào đó theo cách họ tự có qua các diễn tiến lịch sử mà không ai tự do lựa chọn để bầu họ lên cầm quyền cả. Nhưng thực tế không có bất kỳ ai dám nói lên điều đó, bởi vì nó sẽ liền bị những ngôn từ cả vú lấp miệng em, kiểu lấy thịt đè người, lấy sức mạnh bạo lực áp đảo nên ai cũng ngại, cũng sợ, cũng thoái thác hết thảy.
Điều đó cho thấy xã hội không thể tốt đẹp nếu nguyên lý vận hành của nó là không tốt đẹp, điều đó chỉ là khách quan tự nhiên, dầu nói ngược hay nói xuôi cũng thế, vì thực chất bao giờ cũng là thực chất, vì nguyên lý khách quan bao giờ cũng quyết định mọi việc mọi thực tế mà không bao giờ có thể khác đi được.
Hay nói chốt lại, mọi nguyên lý độc tài độc đoán không bao giờ tốt đẹp như những nguyên tắc tự do dân chủ thực chất khách quan trong xã hội, nên việc xướng xuất nền độc tài giai cấp của Marx trong quá khứ thật sự là bé cái lầm, và dù cuối đời ông ta đã phủ nhận điều đó cũng không còn kết quả hay ý nghĩa gì nữa, đây là sự vi phạm đạo đức chính trị lớn nhất của Marx ít nhất cũng về mặt lý thuyết chính trị mà trong suốt lịch sử nhân loại từ xa xưa chưa có ai phải chịu trách nhiệm lớn bằng ông ta.
20) Chính trị nhất thiết phải là khoa học, không thể chỉ là cảm tính.
Trong cuộc sống không phải mọi người đều quan tâm đến chính trị cũng như quan tâm đến khoa học. Đó là do ý thức hay ham muốn về xã hội, ham muốn về chân lý khách quan quyết định. Bởi vì nói chung xã hội luôn luôn chủ yếu là xã hội bình dân, bởi thế mọi sự sống theo cảm tính và theo quyền lợi riêng cá nhân là phổ biến nhất, đó cũng chỉ là điều tự nhiên. Do đó ý nghĩa của khoa học hay của chính trị thường chỉ có nơi những thành phần ưu tú nhất trong xã hội, tức họ biết vươn lên trên những quán tình thường tình để đi đến những gì chân xác hơn, có ý nghĩa và có giá trị thu hút và nâng cao hơn.
Tuy nhiên khoa học là giá trị chuẩn của lý trí, cũng như chính trị là ý nghĩa chuẩn của xã hội, bởi vậy chính trị luôn luôn cũng phải đi gần với khoa học là điều mà mọi người phải hướng tới cũng như xã hội phải hướng tới. Bởi chỉ có thế chính trị mới khỏi bị sai lầm, khỏi mang tính chủ quan, vì hướng đến lý tính là tính khách quan chung của nhận thức con người, và đó cũng là ý nghĩa đạo đức đáng nói nhất nơi con người.
Đạo đức luôn là cái gì thống nhất mà không phải chỉ là cái gì riêng biệt, khoa học cũng mang ý nghĩa như thế, cho nên thật sự nền tảng của đạo đức vẫn là khoa học, ngược lại nền tảng của khoa học cũng chính là đạo đức mà không thể vượt qua đạo đức. Đó cũng là ý nghĩa của đạo đức trong chính trị nhưng là điều mà có thể một số người vẫn cảm thấy như xa lạ.
Có nghĩa những cái gì chưa phải là khoa học, tức chưa được đưa ra kiểm nghiệm một cách chuẩn xác, đúng đắn, chưa thể bảo là khoa học mà chỉ mới là chủ quan hay cảm tính. Vì chủ quan và cảm tính phần lớn chỉ là thị hiếu, không gì bảo đảm được là khách quan hay phổ quát, tất nhiên mọi ý nghĩa khoa học của nó chưa thể bảo là có đủ, nên mọi tính cách cả tin vào đó có thể là sai lầm, và đó là điều cần nên lưu ý trước tiên nhất.
Đặc biệt những học thuyết về xã hội, như ý thức hệ, nếu tự cho nó là chân lý có thể rất nhầm lẫn. Bởi vì nó hoàn toàn khác với khoa học tự nhiên hay khoa học cơ bản là toán học, vì trong những lãnh vực này độ chính xác luôn luôn cao, chúng trải qua những thí nghiệm cực kỳ nghiêm túc, xác đáng, đầy đủ, là điều mà khoa học xã hội không bao giờ có được. Tính chất lô-gích của toán học cũng luôn luôn chặt chẽ, tuy nó là một lô-gích hình thức, song thực chất không bao giờ có thể ngụy biện như kiểu thông thường mà các lý luận xã hội hay mắc phải, chưa nói đến những ý đồ chủ ý xuyên tạc, hay tuyên truyền vì những mục đích chủ quan hoặc giả tạo.
Nên chính trị đến được với mọi người là chính trị lý tưởng nhất, và khoa học cũng thế, khoa học đến với mọi người là khoa học mang ý nghĩa tốt nhất. Sự liên kết giữa ý nghĩa chính trị và ý nghĩa khoa học ở đây cũng vậy. Đây không những là quyền hiểu biết của tất cả mọi người mà cũng còn là quyền đóng góp của mọi người trong xã hội. Có nghĩa chính trị không thể chỉ dành riêng cho tầng lớp nào mà chính trị phải mang tính cách đại chúng, đó không những là nghĩa vụ, là quyền của mọi công dân, mà còn là nghĩa vụ của mọi nhà cầm quyền.
Cho nên mọi nhà cầm quyền nào sử dụng tính cách chính trị ngu dân, chính trị mị dân nhằm lừa dối quần chúng, nhằm bịt mắt quần chúng, cốt chỉ dành độc quyền chính trị cho riêng mình, đó là phản chính trị, là phản động, là phi đạo đức chính trị. Mặt khác chính trị cũng không phải chuyện nói hươu nói vượn theo cách chủ quan, theo trình độ nhận thức thấp kém của mình, mà phải mang tính cách nhận thức đảm bảo, phải mang tính cách tri thức và trí thức cao, đó mới thật sự là chính trị khoa học mà không phải kiểu chính trị nhập tâm, quán tính, truyền miệng, áp đặt như chính trị kiểu ý thức hệ, thực chất chỉ là công cụ cho thiểu số, không bao giờ là năng quyền hay quyền lợi chung của đa số.
Cho nên một xã hội tốt là xã hội ai cũng biết làm chính trị, cũng thích làm chính trị và quan tâm đến chính trị, cũng như ai cũng biết làm khoa học, thích làm khoa học, và quan tâm tới khoa học nơi mọi lãnh vực chung quanh mình. Nghĩa vụ của mọi công dân thật sự là vậy, nghĩa vụ của mọi nhà cầm quyền sáng suốt cũng phải là vậy, dân quyền cũng là vậy, nên mọi tính cách chính trị mù quáng, tuân thủ một chiều, tin tưởng một chiều, thực chất đều phản chính trị chân chính, đều phản con người, phản xã hội, nói chung là phản động một cách thực tế nhất mà ít người nhận ra điều đó. Ngoài ra một điều cũng cần nói là khoa học vẫn thường đưa đến kết quả của kỹ thuật, khoa học khách quan cũng vậy mà khoa học xã hội cũng vậy.
Bởi vì kỹ thuật là công năng, công dụng, là ứng dụng của khoa học. Bởi vậy chỉ có chính trị theo nghĩa khoa học đích thực mới là khoa học về xã hội đích thực và mới mang lại những ứng dụng, những áp dụng, những nguyên tắc thực hành trong xã hội một cách hiệu quả, kết quả và tốt đẹp thật sự. Nên đạo đức chính trị hoặc cả đạo đức khoa học nói chung là như vậy, đó mới thật là ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa xã hội đích thực mà không phải chỉ kiểu nhân danh, kiểu giả tạo hay chỉ kiểu lừa dối.
(Còn tiếp)
V.H.T.
Tác giả gửi BVN
Trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Obama lên đường sang Đông Nam Á tham dự các Thượng đỉnh, hôm 12 tháng 11 vừa qua, 12 tổ chức Nhân quyền và Dân chủ Quốc tế, với 90 chữ ký của các nhân vật trên thế giới, từ những Khôi nguyên Giải Nobel Hoà bình, lãnh đạo tôn giáo, Giáo sư Đại học, nhà tư pháp, nhà văn, nhà báo, 23 Dân biểu Quốc hội Châu Âu, Thượng viện Anh quốc, đến các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền, dân chủ, đã ký Thư ngỏ gửi Tổng Thống Hoa Kỳ yêu cầu can thiệp với Nhà cầm quyền Hà Nội trả tự do cho người Tù nhân vì Lương thức lâu năm nhất tại Việt Nam, là Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ bị giam giữ hơn 30 năm qua.
Chúng tôi gọi điện về Thanh Minh Thiền Viện ở Sài Gòn hỏi cảm tưởng Đức Đệ Ngũ Tăng Thích Quảng Độ, được Ngài cho biết như sau:
HT Thích Quảng Độ: Trước hết tôi xin Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chuyển lời biết ơn sâu xa của tôi tới tất cả quý vị, Giải Nobel Hoà bình, tất cả các học giả, các giáo sư đã bao nhiêu năm quan tâm đến vấn đề. Trước hết là vấn đề của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã, đang, và sẽ còn bị đàn áp, và bản thân tôi, cũng đã bày tỏ quan điểm và bênh vực sự tự do của tôi. Tôi xin cảm tạ tất cả những tấm lòng của quý vị mà tôi đánh giá rất cao. Không những bây giờ mà đã bao nhiêu năm qua đã quan tâm đến trước hết vấn đề tồn vong của GHPGVNTN, mà thứ hai nữa là quan tâm đến Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và tôi, là những người đã tiếp tục đương đầu với chính quyền Cộng sản để đòi, không riêng gì quyền lợi của Giáo hội, mà cái chính là phải có dân chủ cho toàn dân Việt Nam. Bởi vì trên thế giới hầu hết các dân tộc đã được hưởng tự do, dân chủ và hoà bình. Riêng Việt Nam dưới chế độ Cộng sản suốt từ gần một trăm năm qua cho tới bây giờ vẫn chưa có dân chủ. Vì thế suốt bốn chục năm qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã nỗ lực đòi hỏi chính quyền Cộng sản Việt Nam phải trả lại dân chủ, tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Cộng sản Việt Nam phải chuyển đổi chính trị từ một chế độ độc tài toàn trị sang một chế độ dân chủ tự do để toàn dân có quyền hưởng nền tự do dân chủ thật sự.
-HT Thích Quảng Độ
Do đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Cộng sản Việt Nam phải chuyển đổi chính trị từ một chế độ độc tài toàn trị sang một chế độ dân chủ tự do để toàn dân có quyền hưởng nền tự do dân chủ thật sự. Cố Hoà thượng Huyền Quang thì đã tịch rồi, còn tôi cho đến bây giờ, cho đến giờ phút này, tôi vẫn tiếp tục sứ mệnh đó cho đến chừng nào mà dân tộc Việt Nam được hưởng một chế độ tự do thực sự thì chúng tôi, Giáo hội nói chung, và cá nhân tôi nói riêng mới có thể — hợp tác với chính phủ hiện tại. Còn chừng nào mà chính phủ Việt Nam hiện tại mà còn chế độ độc tài toàn trị, chừng đó Giáo hội không thể nào hợp tác với họ được. Đó là đường lối của Giáo hội. Cho nên tóm lại, chừng nào còn chế độ độc tài toàn trị thì Giáo hội còn phải đương đầu, còn phải đòi hỏi cho đến không còn người nào nữa thì mới thôi. Đó là quan điểm của chúng tôi. Đến giờ này thì như thế. Có nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục đòi hỏi nhà nước này.
Bây giờ họ thay đổi kinh tế, họ theo kinh tế thị trường, nhưng họ không chịu thay đổi chính trị. Cho nên họ mới đưa nền kinh tế gọi là kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Chắc là tin tưởng… mà các nhà kinh tế học chưa có nền kinh tế nào gọi là kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là thị trường, còn định hướng gì nữa.
Nhưng mà họ định hướng Xã hội chủ nghĩa để họ giữ chủ nghĩa Cộng sản. Họ đổi mới kinh tế thì họ tồn tại. Nhưng mà họ không đổi mới chính trị, bởi vì họ đổi mới chính trị tức phải dân chủ. Dân chủ tự do mà toàn dân được hưởng thì họ mất Đảng. Do đó họ rất sợ mất Đảng Cộng sản, nên họ theo kinh tế thị trường, họ tồn tại để giữ cái Đảng.
Cho nên chúng tôi phải đòi hỏi nhân quyền và tự do, chuyển đổi kinh tế thì phải chuyển đổi chính trị. Kinh tế thị trường phải có dân chủ hoá, kinh tế mới phát triển đồng đều. Đó là quan điểm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ năm 1975 đến giờ. Quan điểm đó tôi vẫn tiếp tục theo đuổi. Có nghĩa là bao giờ chế độ Cộng sản này chuyển đổi từ một chế độ độc tài toàn trị sang một chế độ tự do dân chủ thật sự thì Giáo hội chúng tôi, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mới chấm dứt cuộc vận động dân chủ, nhân quyền theo đuổi từ bốn mươi năm qua.
Ỷ Lan: Nếu có một lời gửi tới Tổng Thống Obama, thì Đức Tăng Thống sẽ nói gì?
Thích Quảng Độ: Bây giờ cái chuyện giao thiệp giữa Hoa Kỳ với Việt Nam thì theo tôi Hoa Kỳ họ có giao thiệp với Việt Nam. Nếu họ giúp, chân thành giúp đỡ dân tộc Việt Nam có một nền dân chủ cũng như là Hoa Kỳ chẳng hạn. Trong cuộc giao thiệp ấy mà có đặt ra vấn đề trao đổi kinh tế họ cũng sẽ đề nghị nhà nước này chuyển đổi từ một chế độc độc tài toàn trị sang một chế độ dân chủ tự do. Nếu Hoa Kỳ làm được cái đó thì chúng tôi rất là tin tưởng, mà Hoa Kỳ có khả năng, có thể làm được. Nhất là bây giờ.
Cho nên tôi chỉ muốn đề đạt đến Tổng Thống quan điểm của Giáo hội chúng tôi từ trước đến nay bao nhiêu chục năm qua. Chỉ muốn làm sao cho dân tộc Việt Nam cũng được tự do dân chủ như là dân tộc Hoa Kỳ nói riêng, và toàn thể các dân tộc dân chủ trên thế giới nói chung.
Nhưng cái nguyện vọng của GHPGVNTN từ năm 1975 thế kỷ trước đến bây giờ vẫn tiếp tục cái đường lối như thế, chỉ bao giờ chúng tôi đạt được mục đích dân chủ hóa toàn dân Việt Nam, thì Giáo hội mới chấm dứt hoạt động đòi hỏi. Còn chừng nào mà toàn thể dân tộc Việt Nam chưa có chế độ dân chủ thực sự như vậy, thì chúng tôi vẫn còn tiếp tục, còn người là chúng tôi vẫn tiếp tục, cho đến khi nào dân tộc Việt Nam đạt được tự do dân chủ thực sự thì chúng tôi mới chấm dứt vận động cho mục tiêu đó.
Ỷ Lan: Xin cám ơn Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Ỷ Lan, Phóng viên Đài Á Châu Tự do tại Paris.

Philippines và Việt Nam hôm 17/11 đã ký Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược bên lề Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (Apec) tại Manila.
Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Albert del Rosario và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh đã ký văn bản dưới sự chứng kiến của Tổng thống Benigno Aquino và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Mục tiêu của thỏa thuận này là để thúc đẩy quan hệ song phương trong nhiều lĩnh vực, kể cả quốc phòng và an ninh biển, theo Bộ Ngoại giao Philippines.
Đây là thỏa thuận đối tác chiến lược thứ ba mà Philippines ký kết, sau Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Như vậy Việt Nam tới nay có 13 đối tác chiến lược, bên cạnh hai đối tác chiến lược toàn diện là Nga và Trung Quốc.
Trong cuộc gặp chiều thứ Ba 17/11, nguyên thủ Việt Nam và Philippines được biết thảo luận tình hình Biển Đông.
Thông tấn xã Việt Nam nói hai ông Benigno Aquino và Trương Tấn Sang đã “tái khẳng định tầm quan trọng của việc bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông cũng như giải quyết các tranh chấp trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982”.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Albert del Rosario một lần nữa xác nhận chủ đề Biển Đông, mà Philippines gọi là Biển Tây Philippines, sẽ không được mang ra thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh Apec.
Ông nói: “Apec là để bàn về các chủ đề kinh tế. Đây không phải diễn đàn phù hợp để thảo luận chủ đề này”.

Tuy nhiên bên lề Apec, sáng thứ Tư 18/11 Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã hội đàm với Tổng thống Philippines Benigno Aquino, trong đó có đề cập chủ đề Biển Đông.
Ông Aquino nói với các phóng viên sau cuộc hội đàm rằng ông đã nhất trí với Tổng thống Obama rằng “tự do hàng hải phải được duy trì”, ám chỉ tranh chấp với Trung Quốc về chủ quyền ở Biển Đông.
Về phần mình, Tổng thống Obama nói Trung Quốc phải ngừng hoạt động cải tạo đảo nhân tạo của mình và tái khẳng định cam kết của Washington đối với quốc phòng và an ninh của Philippines – một trong các bên liên quan tới tranh chấp nói trên.
Ông Obama cũng nói ông mong muốn làm việc với tất cả các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông để giải quyết bất đồng.
Ngay sau khi đến Philippines hôm 17/11, Tổng thống Obama đã tới thăm tàu chiến BRP Gregorio del Pilar mà Mỹ trao tặng cho Philippines, một trong các đồng minh thân cận nhất của Washington trong khu vực.
Dù mệt và đang có việc phải làm nhưng tôi không thể chậm trễ viết những dòng này.
Số là, vô tình tôi lướt qua báo điện tử : “Giáo dục VN” ngày 17/11/2015 thấy đăng bài: “Nên hay không báo chí tư nhân?” của tác giả Nguyễn Mạnh Hà, một người hành nghề luật.
Trong bài trên, tác giả NMH viết: “Một xã hội luôn có nhu cầu cần được biết nên đi theo hướng nào giữa muôn vàn ý kiến, tư tưởng trong dư luận. Vì vậy, qua những tổ chức, tổ chức chính trị, xã hộ i(tức các cơ quan của đảng CS) báo chí đã ra đời để đáp ứng nhu cầu cần được định hướng này. Chính vì thế báo chí có hai chức năng là:Thông tin và tuyên truyền… Báo chí có sức lan tỏa trong xã hội nên tuyên truyền định hướng dư luận mới là nhiệm vụ chính của báo chí hơn cả…Tức là báo chí thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền cho toàn XH đi theo một hướng tích cực nhất định”.Vì vậy từ thực tiễn này rõ ràng đã bác bỏ quan điểm nên cho báo chí tư nhân hoạt động do không thỏa mãn yêu cầu thực tiễn đó”.
Quan điểm này rõ ràng để bảo vệ lý sự của chế độ độc tài dùng báo chí làm công cụ phục vụ sự thống trị vĩnh viễn của mình với nhân dân. Chính vì nhà cầm quyền nào cũng muốn dẫn dắt dân chúng đi theo ý đồ của riêng mình nên mới độc quyền báo chí. Vấn đề là chế độ đó tốt hay xấu, cái hướng “tích cực” của nó đúng hay sai.
Thời phát xít Hitler, trùm tuyên truyền Goebbels bóp nghẹt nền báo chí Đức, tất cả phải tuyên truyền “định hướng” tôn vinh Chủ nghĩa Quốc xã, “người Đức thượng đẳng” và kết quả Đảng Quốc xã đã “định hướng” được tất cả tiềm lực của nước Đức theo hướng “tích cực” để phát động Chiến tranh thế giới thứ 2 xâm chiếm, tàn phá cả Châu Âu, tàn sát hàng trăm triệu người. Thời Mao Trạch Đông, ở TQ báo chí độc quyền tuyên truyền “định hướng” 800 triệu dân TQ “theo hướng tích cực” vào cuộc Cách mạng Văn hóa kinh hoàng, mọi rợ, như phong trào “toàn dân làm gang thép, chiến dịch đuổi chim sẻ…” cực kỳ ngu xuẩn, tai hại…Năm 1978, 1979 báo chí của “các tổ chức, tổ chức chính trị XH” TQ “định hướng” theo ý đồ của Đặng Tiểu Bình, đảng CSTQ phải “dạy cho VN một bài học”, trên tinh thần đó, toàn dân TQ nhất trí “ định hướng” huy động 60 vạn quân tràn qua biến giới tàn sát hàng vạn người VN, đốt phá tan hoang 6 tỉnh biến giới phía bắc nước ta. Hiện nay nhà cầm quyền TQ cũng không ngừng nghỉ dùng báo chí độc quyền “định hướng” cho toàn dân TQ hiểu là: “VN xâm chiếm các đảo ở Biển đông của TQ, cần phải dạy cho VN một bài học nữa”.
Ở VN, thời những năm 1955- 1960 đảng CS phát động cuộc Cải cách ruộng đất, báo đảng CS “định hướng” cho nhân dân theo hướng “tích cực” mọi người tha hồ vu oan, giá họa, con đấu cha, vợ đấu chồng, cháu đấu ông, bà, cướp tài sản, giết oan hàng trăm nghìn người vô tội, tiêu diệt tận gốc mầm mống sản xuất lớn. Không những thế, họ còn phát động báo chí “định hướng” cho nhân dân phá bỏ đình chùa, triệt hạ hạ tầng văn hóa ở nông thôn Miền Bắc.
Sau này là các “định hướng” phá rừng để trồng lương thực(1960-1980), mở rộng các tập đoàn kinh doanh đa ngành nghề giống như các tập đoàn của Hàn Quốc, Nhật Bản (những năm 2004-2010) mà hậu quả của nó là các vụ đổ bể Vinashin, Vinalines, dầu khí, cùng với các ngân hàng kiệt quệ thanh khoản, nợ công, nợ xấu hàng nhiều nghìn tỷ đồng đến nỗi phải “định hướng” ngược lại cổ phần hóa, các tập đoàn phải thoái vốn…
Trong lĩnh vực ngoại giao báo chí “quốc doanh” độc quyền cũng “định hướng” cho nhân dân theo hướng “tích cực” là coi kẻ xâm lược đất đai biển đảo, hành hạ, cướp bóc, khủng bố ngư dân, đầu độc giống nòi, phá hoại kinh tế VN là bạn bè “16 chữ vàng” và “bốn tốt”, là đối tác chiến lược, phải yêu quý TQ (!?). Tuy nhiên, tha hồ cho 800 tờ báo “lề phải” tuyên truyền, được sự phụ họa bằng hệ thống loa phường phát hết công suất của Ban Tuyên giáo TW, nhân dân Việt Nam biết rõ Trung Nam Hải có thể là bạn chí cốt, là đối tác sinh tử của Đảng CSVN những thực chất lại là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.
Không thể nào thống kê hết những sai lầm, dã tâm, mưu mô tội ác của các nhà cầm quyền độc tài nhưng vẫn được được báo chí độc quyền của họ “định hướng” đưa đất nước, dân tộc vào chỗ suy vong mà trước đó họ đều cho là con đường “ tích cực”. Không có nhà cầm quyền nào khi vạch ra đường lối cho nhân dân, đất nước lại biết, nói “con đường” của mình là sai lầm, không “tích cực”. Báo chí độc quyền CS được “định hướng” xuyên suốt là tôn vinh, phụng sự quyền cai trị vĩnh viễn của họ nên dân ta mới có câu “Mất mùa là bởi thiên tai/Được mùa là bởi thiên tài đảng ta”. Đây cũng là “định hướng” của môn lịch sử. Lijh sử đúng ra là một khoa học dẫn dắt tương lai nhưng bị phản ánh xuyên tạc kiểu Lê Văn Tám nên các tầng lớp học sinh, SV tẩy chay là dễ hiểu.
Như vậy cần làm gì để các nhà cầm quyền không thể dắt dân đi vào con đường thảm họa? Đó chính là vai trò của báo chí tư nhân. Bởi vì, báo chí tư nhân không ăn lương, không chịu sự “định hướng” của nhà cầm quyền nên có thể đưa các thông tin trái với lãnh đạo mà họ cho là không đúng. Từ đây sẽ diễn ra các cuộc tranh luận để đi đến chân lý.Nếu chính sách của nhà cầm quyền sai thì họ phải điều chỉnh.
Không phụ thuộc nhà cầm quyền nên báo chí tư nhân cũng không ngần ngại công khai những sai trái, tiêu cực, tham nhũng của nhà cầm quyền. Điều này giải thích tại sao các nước dân chủ có báo chí tư nhân tất cả mọi lĩnh vực, vì thế mọi hoạt động của Chính phủ đều công khai, minh bạch minh bạch, ít sai lầm, tham nhũng bị chế tài nên xã hội phát triển phồn vinh hơn các nước độc tài chỉ có báo chí “quốc doanh”.
Cũng do báo chí tư nhân không được nhà nước, nuôi nấng, ưu ái nên họ phải giữ uy tín để tồn tại, do đó không có hoặc rất ít chuyện họ viết bừa, viết sai sự thật, “định hướng” nhân dân đến chỗ sai trái, hủ bại để bị ra tòa. Báo chí tư nhân“định hướng sai”, viết sai sự thật, lố bịch, ngớ ngẩn sẽ bị dân tẩy chay, hết đường tồn tại. Trong vấn để này ông Nguyễn Mạnh Hà cho nhân dân như một đàn cừu không phân biệt được sai, đúng nên báo chí nhà nước phải độc quyền “định hướng”? Ngược lại báo chí tư nhân, báo quốc doanh cùng cạnh tranh cung cấp thông tin chính xác, nhiều chiều để tự người dân, nhà cầm quyền, phân tích, suy nghĩ thấy được đúng, sai. Đó là dân chủ trong thông tin. Quan điểm của ông Nguyễn Mạnh Hà là thói cường quyền, quá xem thường nhân dân, coi dân thời giao lưu quốc tế, Internet rộng rãi hiện nay như thời những năm 1960-1970 là cũ rích, quá lạc hậu. Không phải ngẫu nhiên mà thế giới văn minh đánh giá một nền dân chủ đầu tiên là phải có bầu cử tự do và báo chí tư nhân.
Vì vậy báo chí tư nhân chính là tự do báo chí, là dân chủ, minh bạch để hạn chế tiêu cực, tham nhũng, tránh bị nhà cầm quyền khuynh đảo, “định hướng”, dẫn dắt đất nước đến sai lầm.
Cần khẳng định: Chế độ độc quyền báo chí thực chất là dùng báo chí để lừa bịp, tẩy não nhân dân, “định hướng” họ thành đàn cừu chấp nhận vô điều kiện sự cai trị của nhà cầm quyền.
Ông Nguyễn Mạnh Hà nào đó là người hành nghề luật không thể không hiểu những điều đó, nếu thế ông là người cố tình bảo vệ chế độ độc tài phản dân chủ. Hiểu một vấn đề nhưng cố tình nói sai, nói lấy được vì mục đích vụ lợi, phải chăng ông là một dư luận viên tồi?
N.Đ.Â
Tác giả gửi BVN
Tin New York– Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã kêu gọi nhà cầm quyền CSVN phóng thích vô điều kiện tù nhân chính trị, tu sĩ Phật giáo và trả lại tự do hoàn toàn cho nhà bất đồng chính kiến Hoà Thượng Thích Quảng Độ.
Tổng thống Obama kêu gọi như trên khi đến Đông Nam Á trong tuần, với một bức thư có chữ ký của 90 tổ chức xã hội nhân sự và cá nhân khắp thế giới. Lá thư thúc giục tổng thống áp lực để nhà cầm quyền CSVN trả tự do hoàn toàn cho tù nhân lương tâm, Hoà Thượng Thích Quảng Độ, nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và là người tranh đấu cho nhân quyền nổi bật tại Việt Nam hiện nay.
Trong thỉnh nguyện thư còn có chữ ký của Uỷ ban Nhân quyền Việt Nam tại Paris, Quỹ Rafto của Na Uy, Quỹ Lantos, Phong trào Tranh đấu vì Dân chủ Thế giới, và các nhân vật đoạt giải Nobel hoà bình gồm Jody Williams, Shirin Ebadi, Mairead Maguire và Tawakkkol Karman, 23 nhà lập pháp của Quốc hội Liên Âu. Bức thư đã được trao đến tổng thống Obama khi ông đến Philippines và Malaysia để tham dự hội nghị thượng đỉnh Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, và hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ và Đông Nam Á, sẽ gặp giới lãnh đạo nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.
Hoà thượng Thích Quảng Độ năm nay 87 tuổi, 16 lần được đề cử giải thưởng Nobel Hoà bình, đã bị giam cầm, quản chế hơn 3 thập niên trong nhà tù Cộng sản vì đã tranh đấu cho tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền. Vì phản đối việc nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam lập ra tổ chức Phật giáo bù nhìn hồi năm 1982, ông bị đẩy ra miền Bắc cùng với người mẹ ruột, và bà đã qua đời vì đói và lạnh trong môi trường đầy khắc nghiệt. Năm 1995, ông bị kết án 5 năm tù vì tổ chức cứu trợ nạn nhân bị lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1998, ông được phóng thích vì áp lực của quốc tế, nhưng bị quản thúc tại Thanh Minh thiền viện ở Sài Gòn.
Song Châu / SBTN
BBC, 17 tháng 11 2015 Cập nhật lúc 19:20 ICT
http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/11/151117_trduynhat_mp_question

Câu hỏi chất vấn của Đại biểu Quốc hội Việt Nam tại Quốc hội là ‘rất khó trả lời’ với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, theo nhà báo, blogger Trương Duy Nhất, từ Đà Nẵng.

Trong khi các câu hỏi về quan hệ Việt – Trung của các Đại biểu Quốc hội Việt Nam chất vấn Chính phủ rất đúng ý dân, thì câu trả lời của Thủ tướng Việt Nam trước Quốc hội lại chưa ‘trúng vấn đề’ và ‘không mới’, theo ý kiến của nhà bình luận từ Hà Nội.
Tàu cá ĐNa 90370 TS của ngư dân Đào Ngọc Đức, ngụ tại phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bị nhiều tàu Trung Quốc phá lưới ngay trong Vịnh Bắc Bộ thuộc Việt Nam.
Sau khi trở về được một ngày, vào chiều ngày 17 tháng 11, anh Đào Ngọc Đức kể lại sự việc với Gia Minh, Đài Á Châu Tự Do.
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Vừa rồi tôi đánh cá ở ngay tọa độ 17.50. 38’ bắc, 107.56’ độ kinh đông. Lúc đó thấy có mấy chiếc tàu Kiểm ngư của Việt Nam, không có tàu bè gì (của Trung Quốc) hết nên mình làm. Không may vào lúc 12 khuya ngày 14 tây, tức mồng 3 âm lịch thì bị. Thấy họ xuống quá, mình không biết làm gì nên đi đuổi. Đuổi hết hai chiếc này thì đến hai chiếc khác. Họ nhiều quá: đôi ba trăm chiếc và loạt tàu như nhau, không khác gì hết.
Gia Minh: Tàu của họ có số hiệu không?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Có số hiệu nhưng lúc đó mình không quan sát được. Mình lo giàn lưới của mình để làm nghề vì nhiều tiền quá. Mình hoảng quá chạy đuồi họ thì có hai chiếc khác đi vào. Họ vô và ‘mang, mắc’ lưới của mình. Có 4 chiếc kiểm ngư của Việt Nam.
Gia Minh: Bốn chiếc kiểm ngư của Việt Nam có giúp được gì không?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Kiểm ngư Việt Nam chẳng giúp gì được. Tàu kiểm ngư của mình nhỏ quá. Tàu của họ là loại ngày trước làm một loạt để chạy qua Phi; còn tàu của mình nhỏ chỉ chạy theo thôi chứ không làm được gì cả.
Gia Minh: Tàu của anh chỉ một mình hay có tàu bạn nữa?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Có, 5 anh em đi năm chiếc nhưng không làm được gì họ hết. Tàu giã của họ đi cặp đôi. Họ cả hằng trăm chiếc mà mình chỉ có 4 chiếc thì làm gì.
Gia Minh: Giàn lưới của anh thế nào, bị phá ra làm sao?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Giã cào của họ đi qua và cáp làm đứt, rồi lôi đi đứt hết. Tôi đưa xuống 240 tấm mà giờ chỉ còn một trăm mấy chục tấm thôi.
Gia Minh: Khi họ chạy ngang phá như thế có loa báo gì không?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Không, chỉ có Việt Nam loa báo họ nhưng họ không đi; cứ làm lì luôn, đâu làm gì được!
Gia Minh: Theo tọa độ đó là vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Vùng biển của Việt Nam. Ban ngày mình đuổi thì họ đi ra, còn ban đêm họ canh 12, 1, 2 giờ là vô. Ban ngày có cảnh sát Việt Nam canh gác đuổi thì họ đi ra.
Gia Minh: Sau khi bị phá lưới có báo cho kiểm ngư thế nào và đi về ra sao?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Mình biết số tàu Kiểm ngư thôi; chứ lúc đó hoảng quá không biết gì, lo đi về. Nếu biết mà lấy điện thoại ra quay rồi đem về thì có bằng chứng. Nói chung về có lấy số của tàu Kiểm ngư Việt Nam làm bằng chứng cũng đỡ.
Mà về báo cho Biên Phòng họ cũng nói này nói nọ nên cũng mệt mỏi. (Tôi) cũng nhờ chính quyền, anh em nhà báo… họ nói lên để được ( giúp) đồng nào mà làm lưới thêm để đi lại, chứ giờ chẳng biết đường nào!
Gia Minh: Tính tổng thiệt hại thế nào?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Tổng thiệt hại hết 300 triệu. Đợt đầu năm 2014 tôi cũng bị một đợt 120 tấm rồi, trị giá 7 triệu một tấm. Rồi vay mượn làm lại, nay bị thêm lần nữa. Đợt năm 2014 cũng làm đơn mà cũng không nghe Nhà nước nói chi cả. Đợt nay lại bị Trung Quốc cũng lên báo cho Biên Phòng, và nhà báo nhưng không biết có làm được không! Giờ tàu đậu ở nhà, chứ lưới chải, tiền bạc đâu nữa để sắm mà đi làm.
Gia Minh: Đợt này đã đánh bắt được gì chưa?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Dự trù đi 15 ngày mà mới có 5 ngày, còn mấy ngày chạy rồi.
Gia Minh: Trong 5 ngày đánh bắt được gì?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Được mấy tạ, về lỗ phí tổn!
Gia Minh: Tàu của anh đánh bắt loại hải sản gì?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Cá thu, cá ngừ đại dương.
Gia Minh: Tại sao không đi xuống phía dưới mà đi lên Vịnh Bắc Bộ?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Tùy theo mùa. Ăn tết xong thì đi xuống, mùa khác đi ra Hoàng Sa, còn mùa này thì lên Vịnh Bắc Bộ.
Gia Minh: Anh làm nghề biển được bao lâu rồi?
Ngư dân Đào Ngọc Đức: Được ba mươi mấy năm rồi; từ lớp sáu nghỉ học là đi làm nghề biển. Tôi từng ra Hoàng Sa, Trường Sa, đảo nào cũng lội tới. Nhưng từ xưa đến giờ chưa thấy đợt tàu nào như đợt này.
Hồi xưa đi câu mực 6-7 tháng là đi khơi, và đi qua Phi, ở Hoàng Sa, Trường Sa, qua Mã lai…Nhưng thấy đi lâu nên sang nghề này 15-17 ngày là về nhà thôi. Bắt đầu nghề này từ năm 2013 và sang đầu năm 2014 là bị. Làm nghề này vốn cao nhưng đi làm cũng không ra chi rồi bị hoạn nạn.
Vùng tôi ở thì xưa nay không ai làm nghề này, tôi làm đầu tiên rồi mấy người nữa bắt chước làm. Trong Phú Yên họ đi câu cá ngừ đại dương, còn ở đây thà lưới, nhưng lâu lâu mới có một con ( cá ngừ đại dương), chủ yếu cá thu, cá ngừ nhỏ loại 5,7-10 ký đó.
Gia Minh: Trước hết xin chia buồn và chào anh.

Một đại biểu Quốc hội nói tham nhũng không giảm như các nghị quyết đã đề ra và đề nghị Thủ tướng cho biết những cam kết và giải pháp của chính phủ.
Trong phần chất vấn dành cho Thủ tướng tại phiên sáng ngày 17/11 tại Quốc hội, Đại biểu Trương Trọng Nghĩa từ Tp HCM đề nghị Thủ tướng Dũng “giải thích thêm cho cử tri về việc này”.
“Tham nhũng không giảm như các nghị quyết đã đề ra. Tham nhũng ngày càng tinh vi và có hiện tượng chi phối luật pháp và khi đó người tham nhũng xử lý người chống tham nhũng chứ không phải là ngược lại.
“Cử tri rất cần những cam kết có thể kiểm chứng và xử lý được trách nhiệm về sau,” ông Nghĩa nói.
Tại phiên chất vấn này Luật sư Nghĩa cũng cảnh báo điều ông gọi là “Nền kinh tế Việt Nam có xu hướng phụ thuộc sâu vào nền kinh tế Trung Quốc, ở hầu hết các lĩnh vực và đe dọa chủ quyền kinh tế của đất nước”.
“Ở nhiều quốc gia lân cận và trên thế giới, Trung Quốc nổi tiếng mang đồng tiền đi trước chi phối về chính trị. Cử tri đề nghị không vay tiền và không nhận viện trợ từ Trung Quốc ít nhất cho trong thời điểm này, ” ông Nghĩa nói.
Lý do, theo ông Nghĩa là vì “Trung Quốc đang tranh chấp, thậm chí là chiếm lãnh thổ của Việt Nam và đe dọa tiếp tục chiếm nhiều hơn.”
“Nếu nhận viện trợ vay ODA của Trung Quốc cho dù rẻ thì liệu sau này kiện đòi lãnh thổ được không?

“Nếu trưng cầu ý dân tôi nghĩ đa số dân sẽ không đồng ý nhận viện trợ và vay tiền Trung Quốc,và cũng bởi còn nhiều nguồn khác để vay,” dân biểu từ Tp HCM đề nghị.
Trong phần đặt câu hỏi, dân biểu Nghĩa nói ông nhân đây chất vấn Bộ Công thương, Thanh tra Nhà nước và Kiểm toán của Chính phủ về thực trạng “thất thoát và lãng phí” của nhà máy gang thép Thái Nguyên, Nhà máy sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ và một số nhà máy khác mà báo chí đã đăng.
“Tôi xin nói là những lãng phí và thất thoát vài ba nhà máy như thế này đã hơn một tỉ đôla rồi.
“Vậy mà chúng ta lại cố gắng đi vay 3 tỉ đôla mà trong khi luật chúng ta chưa cho phép.
“Nhà máy gang tháp Thái Nguyên làm 10 năm chưa xong, mỗi tháng mất 20-30 tỉ đồng tiền lãi thì có nghĩa là chẳng những nó chôn ở đấy mà nó tiếp tục mất. Vậy chúng tôi đề nghị các bộ trưởng cho biết giải pháp gấp chứ không thể để thiệt hại thêm,” dân biểu Nghĩa phát biểu.

LITTLE SAI GON: Hơn 10 ngày qua sau khi đoạn phim “Terror in Little Saigon” được trình chiếu trên đài truyền hình PBS toàn quốc Hoa Kỳ tối 3/11, dư luận Cộng Đồng Việt Nam tại đây không ngớt bàn tán xôn xao. Nội dung phim không chỉ xuyên tạc chính nghĩa của cộng đồng mà còn cáo buộc Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (viết tắt là Mặt Trận) đứng sau cái chết của một số ký giả người Mỹ gốc Việt cách đây nhiều chục năm.
Nhằm mục đích làm rõ vấn đề cũng như giải thích những thắc mắc và lắng nghe ý kiến của đồng bào, Cơ sở đảng Việt Tân – hậu thân của Mặt Trận – tại Nam California đã tổ chức một buổi gặp gỡ với cộng đồng tại hội trường Rose Center, thành phố Westminster, California, chiều ngày 14/11/2015. Với sự tham dự đông đảo của gần 200 đồng hương, buổi nói chuyện đã khai mạc vào lúc 1 giờ 30 chiều trong không khí trang trọng và thân mật.
Sau nghi thức khai mạc, các quan khách tham dự được giới thiệu gồm có: Bà Diana Carey, Nghị viên thành phố Westminster; ông Lou Correa, cựu Thượng nghị sĩ tiểu bang; ông Bùi Phát, Chủ tịch Cộng đồng Quốc gia Nam Cali, Nghị viên thành phố Garden Grove; ông Nguyễn Văn Lực, Chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam San Diego; ông Nguyễn Long, Chủ tịch Cộng Đồng Việt Nam Los Angeles; ông Đoàn Thế Cường, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam; ông Nguyễn Văn Ức, Tập Thể Chiến sĩ VNCH Hải ngoại; ông Phan Tấn Ngưu, Tổng hội Cảnh sát Quốc gia; ông Nguyễn Nam Hà, Hội Cựu Quân nhân Quân đoàn IV; ông Nguyễn Kim Lang, Hội Văn Bút VN Hải ngoại; Trung tá Phạm Minh Đức, cựu Sĩ quan huấn luyện trường VBQG Đà Lạt; ông Nguyễn Văn Dũng, Hội Chuyên Gia VN; bà Trần Thị Hường, Hội Bảo vệ sự sống (từ Hà Nội, trong nhóm LS Lê Quốc Quân); ông Phan Đông, Hội Ái hữu Tây Sơn Bình Định…
Rất nhiều phóng viên và các cơ quan truyền thông địa phương đã có mặt gồm: Nhà báo Vi Anh, Cựu Dân Biểu VNCH; Phóng viên Thanh Phong, báo Viễn Đông; ông Viết Hưng, Việt Phố TV 57.10; ông Lê Huỳnh, Free VNnet và VSTAR; ông Khoa Bùi Phố BolsaTV; ông Lê Vũ, báo Việt Weekly; ông Trọng Nghĩa, TNT Radio San Diego; ông Trương Bảo Trọng, Đài Little Saigon TV; ông Phạm Khắc Đàm, Saigon TV; ông Vũ Trần, SBTN; ông Đoàn Trọng, Little Saigon TV; Phan Đại Nam, đài SBTN&SET; Ông Linh Nguyễn, báo Người Việt; ông Trần Nhật Phong đài BBC.
Mở đầu, ông Trần Trung Dũng đã thay mặt đảng bộ Việt Tân Nam Cali ngỏ lời chào mừng các quan khách hiện diện. Kế đến Bài trình bày của ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch đảng Việt Tân, về các cáo buộc vô căn cứ mà cuốn phim “Terror In Little Saigon” đã quy chụp cho cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ cũng như cho tổ chức Mặt Trận và Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh.
Trước hết, ông Đỗ Hoàng Điềm đã nói lên sự chia sẻ của Mặt Trận/Việt Tân về những đau đớn và mất mát mà thân nhân của những người bị sát hại đã phải gánh chịu trong bao năm qua. Đồng thời, ông cũng khẳng định rằng tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam không hề chủ trương và cũng không liên quan đến việc sát hại các ký giả người Việt như A.C. Thompson và Richard Rowley đã nêu lên trong phim.
Ông Đỗ Hoàng Điềm đã nêu ra một tiết lộ được coi là bất ngờ trong phim là vụ án thuế khóa xảy ra năm 1991 đối với một số đoàn viên Mặt Trận tại Tổng vụ hải ngoại hoàn toàn là một thủ thuật của nhóm cảnh sát điều tra tại San Jose. Mục tiêu là dùng vụ thuế khóa làm lý cớ để tìm hiểu Mặt Trận có liên quan gì hay không đến các vụ án mạng. Tuy nhiên, vào năm 1995 các công tố viên không có đủ chứng cớ để lập án trạng, và chính quan tòa đã quyết định bãi bỏ toàn bộ nội vụ trước khi xét xử.
Và sau cùng là lý do tại sao các ông Hoàng Cơ Định và ông Nguyễn Kim đã từ chối không trả lời phỏng vấn của A.C. Thompson. Theo ông Đỗ Hoàng Điềm, qua những thăm dò về cá nhân cũng như cung cách làm việc của AC Thompson và Richard Rowley, Việt Tân đánh giá những người này đã có sẵn chủ đích trong đầu. Họ không thật lòng muốn tìm hiểu sự thật mà chỉ muốn tìm kiếm, ráp nối những gì phù hợp với kết luận đã có sẵn. Bên cạnh đó, bộ phim có sự cộng tác của nhân vật Tony Nguyễn, một người có những hoạt động thân thiện với chế độ Hà Nội.
Sau phần nói chuyện của ông Đỗ Hoàng Điềm, qua sự điều hợp của Bác sĩ Đông Xuyến, Ủy viên Trung ương đảng Việt Tân, một số quan khách đã được mời lên phát biểu. Ông Bùi Phát, Chủ tịch Cộng Đồng Quốc Gia Nam Cali nhận định Tổ chức ProPublica đã bóp méo sự thật, làm thiệt hại chính nghĩa của người Việt Nam. Ông cho biết một Ủy ban đặc nhiệm sẽ nghiên cứu để đưa ra biện pháp đối phó.
Ông Nguyễn Văn Ức, đại diện Tập Thể Chiến sĩ VNCH Hải ngoại cũng đề nghị cộng đồng Việt Nam phải lên tiếng ngay với PBS. Hai quan khách khác cũng có phần phát biểu của mình là nữ Nghị viên thành phố Westminster và cựu Thượng nghị sĩ Lou Correa.
Kế đó là phần trao đổi giữa đại diện đảng Việt Tân với quý vị đại diện các cơ quan truyền thông và đồng thương.
Nhà báo Vi Anh, cựu Dân biểu VNCH phát biểu đầu tiên và đặt câu hỏi trong tư cách một công dân. Ông bày tỏ sự đồng tình với đảng Việt Tân về việc mở ra buổi tiếp xúc hôm nay và cho rằng A.C. Thompson đã thiếu đạo đức, bịa đặt và xúc phạm cộng đồng. Ông hỏi: Đảng Việt Tân có đặt vấn đề pháp lý với A.C. Thompson không? Ông Đỗ Hoàng Điềm nói trong thời gian qua đảng Việt Tân cũng đã nhận được nhiều ý kiến của mọi giới đồng bào nhằm ủng hộ, an ủi, cũng như bày tỏ sự ủng hộ Việt Tân. Ông xin ghi nhận ý kiến của nhà báo Vi Anh và việc này cần nghiên cứu trước. Trong tư cách Chủ tịch Cộng đồng, ông Bùi Phát cũng trả lời thêm, cộng đồng cũng sẽ nghiên cứu biện pháp pháp lý này.
Nhà báo Trần Nhật Phong nêu 2 câu hỏi: Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng có giấy phép hoạt động như các hội đoàn khác ở Hoa Kỳ không? Và trong quá khứ, Việt Tân có bao giờ lên án hay an ủi gia đình nạn nhân hay chỉ làm mới đây thôi? Ông Điềm chia sẻ là ở Hoa Kỳ mọi công dân có quyền làm những điều hợp pháp luật. Đấu tranh cho tự do, dân chủ là hoạt động mà Hoa Kỳ cổ xúy và hỗ trợ. Ông nói rằng chẳng những bây giờ mà đã từ lâu, Việt Tân đã an ủi thăm hỏi gia đình nạn nhân.
Ký giả Đoàn Trọng hỏi về những gì ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã nói trong một cuộc phỏng vấn, và được trả lời rằng ông Nghĩa đã ra khỏi mặt trận năm 1991, đề nghị nên hỏi thẳng những gì có liên quan tới chính ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Về câu hỏi tại sao 2 ông Hoàng Cơ Định và Nguyễn Kim từ chối gặp A.C. Thompson, ông Đỗ Hoàng Điềm trả lời: may mà 2 ông ấy không trả lời phỏng vấn của một người vốn đã có kết luận ngay từ đầu.
Tiếp theo ông Lê Vũ (báo Việt Weekly) nêu câu hỏi về cuộc đấu tranh của Mặt Trận từ 1982 và được ông Đỗ Hoàng Điềm giải thích: Mặt Trận không tiến hành chiến tranh bằng vũ khí mà đường lối của Mặt Trận là “vận dụng toàn dân, đấu tranh toàn diện, huy động sức mạnh toàn dân, dựa vào sức mình là chính để chấm dứt chế độ độc tài”.
Nhân sĩ Nguyễn Tấn Lạc nói đây là cơ hội tốt cho Việt Tân xóa tan mọi dư luận không hay bằng cách yêu cầu FBI làm sáng tỏ nội vụ. Ông Đỗ Hoàng Điềm cám ơn nhân sĩ Nguyễn Tấn Lạc và cho rằng theo quan điểm pháp luật dân chủ, mọi công dân đựợc xem là vô tội trước khi bị kết án. Việt Tân cũng không cần phải loay hoay trả lời A.C. Thompson về vấn đề này, nhất là Hà Nội luôn tạo ra dư luận để đánh phá Việt Tân.
Trả lời ông Trọng Nghĩa (Radio TNT San Diego) về một đề nghị với giới truyền thông, ông Đỗ Hoàng Điềm mong tất cả khi loan tải tin tức phải công tâm và đa chiều. Ông Nhan Hữu Mai trưng ra một bức ảnh một người chết nằm đắp một lá cờ VNCH của báo OC Weekly như một sự sỉ nhục và kêu gọi mọi người phải có thái độ với PBS.
Trước khi kết thúc buổi gặp gỡ, ông Đỗ Hoàng Điềm đã kêu gọi mọi người hãy đóng góp chứng cớ để đem lại công lý cho các nạn nhân. Ông cũng xác định rằng Đảng Việt Tân đấu tranh trước hết vì tấm lòng yêu nước mà không vì một lợi ích riêng tư nào. Đảng Việt Tân không chấp nhận chế độ Cộng sản độc tài đàn áp. Trên đường hoạt động, đảng Việt Tân luôn lắng nghe mọi ý kiến của đồng bào để cải sửa những bất cập trong tinh thần cầu tiến.
Cuối cùng trước khi chấm dứt chương trình, ông Trần Trung Dũng đại diện Đảng bộ Việt Tân Nam California đã ngỏ lời cám ơn quý vị dân cử, các Cộng Đồng, các Hội đoàn, các nhân sĩ và đồng bào địa phương đã bỏ thì giờ đến lắng nghe, chia sẻ và đóng góp nhiều ý kiến quý báu, xây dựng.
Nhật Bình tường thuật




Pháp tuyên bố tình trạng khẩn cấp và đóng cửa toàn bộ các biên giới sau các cuộc tấn công liên hoàn tại Paris làm nhiều người chết.
Ít nhất 120 người có tin đã thiệt mạng trong các cuộc tấn công bằng súng và bom, riêng tại phòng hòa nhạc Bataclan ở trung tâm Paris là 80.
Động cơ của các tay súng chưa được xác nhận, nhưng một nhân chứng tại tại phòng hòa nhạc Bataclan nghe một trong những kẻ tấn công dường như bày tỏ sự ủng hộ các chiến binh Nhà nước Hồi giáo (IS).
“Đây là lỗi của Hollande, ông ta không nên can thiệp vào Syria!” người đàn ông hét lên, theo hãng AFP. Tổng thống Pháp đã quyết định tham gia các cuộc không kích của phương Tây nhắm vào IS.
Trước đó, tại Paris đã xảy ra các cuộc tấn công đầu tháng 1/2015, khi các tay súng Hồi giáo sát hại 18 người sau khi tấn công tạp chí trào phúng Charlie Hebdo, một siêu thị của người Do Thái và một nữ cảnh sát tuần tra.

Cuộc tấn công phòng hòa nhạc 1.500 ghế Bataclan là được ghi nhận là cuộc thảm sát đẫm máu nhất đêm thứ Sáu.
Các tay súng đã bắn vào những người tham dự concert của nhóm nhạc rock Mỹ Eagles of Death Metal. Phòng hòa nhạc đầy khán giả vì toàn bộ vé đã được bán hết.
Một loạt các cuộc tấn công xảy ra không xa Quảng trường Cộng hòa và Quảng trường Bastille ngay tại khu trung tâm thủ đô Paris. Các tay súng đã chọn thời điểm các quán cà phê, quán bar và nhà hàng đang đông khách nhất.
Các tay súng đã bắt con tin tại phòng hòa nhạc Bataclan trước khi bị cảnh sát tràn vào khống chế.
Nhiều người khác chết trong các cuộc tấn công gần Stade de France, tin cho hay có thể đã có đánh bom liều chết, và tại một số nhà hàng.
Dân Paris được khuyến cáo ở trong nhà và 1.500 binh lính được điều động vào thành phố.
Vụ tấn công chết nhiều người nhất xảy ra tại phòng hòa nhạc Bataclan.
Phóng viên BBC Hugh Schofield nói hàng chục xe cứu thương đã tới hiện trường, bên trong có nhiều nạn nhân.
Các nhà hàng nằm cạnh là Le Petit Cambodge và Le Carillon ở quận 10 cũng bị tấn công và phóng viên BBC nhìn thấy 10 người nằm trên đường, đã chết hoặc bị thương nặng.

Một nhân chứng nói với báo Liberation rằng ông nghe thấy hơn 100 tiếng súng tại cafe La Belle Equipe ở quận 11.
Người ta cũng nghe súng nổ ở trung tâm mua sắm Les Halles.

Trong bài phát biểu phát đi trực tiếp trên truyền hình, Tổng thống Pháp Francois Hollande đã tuyên bố ‘tình trạng khẩn cấp’ trên khắp cả nước.
Ông cũng nhóm họp cuộc họp nội các khẩn cấp vào lúc nửa đêm, theo truyền hình của BBC News.
Tổng thống Hoa Kỳ đã có tuyên bố về các vụ tấn công ở Paris trong bài phát biểu được truyền đi trực tiếp từ Nhà trắng. Ông Barack Obama nói Hoa Kỳ đang liên lạc chặt chẽ với Pháp.
Tổng thống Mỹ nói nước Mỹ sẽ ‘đứng bên cạnh nước Pháp dù những kẻ đứng sau các vụ tấn công là ai.”
Thủ tướng Anh David Cameron gọi điện cho tổng thống Pháp nói Anh quốc sẽ “làm tất cả những gì có thể để giúp Pháp”.

Các lãnh đạo Pháp, ông Manuel Valls cùng với François Hollande và Bernard Cazeneuve có mặt ở phủ thủ tướng họp khẩn.
Các nhân chứng cho Libération hay rằng ngay khi vừa bắt đầu trận đấu Pháp-Đức tại Stade de France họ đã nghe hai tiếng nổ lớn đến “rung cả trần nhà”, hiện giờ loa đang phát lời kêu gọi bình tĩnh để giải tán có trật tự.

Những người đến xem trận bóng đá bắt đầu ra khỏi Stade de France từ từ, theo Christine Nguyen, nhà báo tự do từ Paris.
Tại Place de la République cảnh sát báo động và hiện nay hoàn toàn vắng bóng người.


Các địa điểm bị tấn công:

Hôm 14/11, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cho biết:
“Chúng tôi hết sức bàng hoàng và lên án mạnh mẽ các cuộc tấn công đẫm máu nhằm vào dân thường xảy ra ngày 13/11 tại Pháp khiến nhiều người bị thiệt mạng và bị thương. Việt Nam xin chia sẻ những đau thương, mất mát to lớn mà Chính phủ, nhân dân Pháp cũng như gia đình những nạn nhân đang phải hứng chịu. Chúng tôi tin tưởng rằng với những nỗ lực mà Chính phủ và nhân dân Pháp đang triển khai, những kẻ thủ ác phải bị trừng trị đích đáng”.
Cùng ngày, Chủ tịch Trương Tấn Sang đã gửi điện chia buồn tới Tổng thống Pháp Francois Hollande; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi điện chia buồn và thăm hỏi tới Thủ tướng Pháp Manuel Valls.
Ông Bình cũng cho hay Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã chỉ đạo Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp làm việc ngay với các cơ quan chức năng sở tại để tìm hiểu thông tin liên quan đến công dân Việt Nam tại những khu vực xảy ra tấn công.
Trong trường hợp có công dân Việt Nam gặp nạn, bộ trưởng yêu cầu Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp bằng mọi cách phối hợp với các cơ quan chức năng của Pháp tiến hành các biện pháp bảo hộ công dân.
Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp cũng đã mở hai đường dây nóng 00.33.67.7622624 và 00.33.66.3541759 cùng hoạt động với tổng đài Bảo hộ công dân trong nước 084.4.62844844 để tiếp nhận mọi thông tin liên quan đến công dân Việt Nam là nạn nhân của những vụ tấn công nêu trên.
Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật tình hình trong các tin bài tiếp theo, mời quý vị đón theo dõi.
![]() |
| Dân oan kéo đến đồn CA ủng hộ luật sư Trần Vũ Hải. Ảnh: Facebook Nghiem Viet Anh. |
![]() |
| Luật sư Trần Vũ Hải phát biểu trước những người ủng hộ. Ảnh: Facebook. |
Kính gởi
– Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước
– Quý Chính phủ Dân chủ và Quý Tổ chức Nhân quyền quốc tế
Đồng gởi
– Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị
– Bộ Công an Việt Nam
Vụ việc em Đỗ Đăng Dư bị tra tấn trong trại tạm giam rồi chết tức tưởi trong bệnh viện (cùng với sự chà đạp luật pháp trắng trợn và thói bất nhân tàn nhẫn của công an trước, trong và sau đó) chưa hết làm công luận quốc dân lẫn quốc tế bàng hoàng, kinh tởm và phẫn nộ, thì lại liên tiếp xảy ra nhiều vụ bạo hành khác của của công an đội lốt côn đồ (vì chuyên mặc thường phục, giấu che danh tính và hành xử hung bạo) hoặc phối hợp với côn đồ.
Chúng tôi, các tổ chức và cá nhân ký tên bên dưới, tố cáo các hành vi sau đây:
1- Từ ngày 15-10 đến hôm nay, ông Trần Đức Thạch, cựu chiến binh, hội viên hội nhà thơ, đồng thời là một cựu tù nhân lương tâm, trú tại xã Diễn Tân, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An đã liên tục bị khủng bố. Ngày 15-10-2015, đang đi xe máy trên đường về nhà, ông Thạch đã bị một nhóm người mặc thường phục chặn đường cướp mất ba lô, trong đó có 3 điện thoại di động và một số tư trang, rồi còn đập vỡ đèn xi-nhan xe máy. Nghe ông tri hô: “Cướp! Cướp!” người dân địa phương cho biết đấy là công an đích thị. Tiếp đó, từ ngày 22-10 đến 03-11-2015, khi đêm khi ngày, có một tốp thanh niên kéo đến ném gạch đá ào ào lên mái nhà ông, làm vỡ vụn không biết bao nhiêu viên ngói. Có người dân nhìn thấy lên tiếng can ngăn thì bị bọn chúng hăm dọa: “Im mồm cho chúng tao làm nhiệm vụ” !?! Gia đình ông đã trình báo với nhà cầm quyền địa phương nhưng họ yêu cầu phải bắt được hung thủ thì mới đến lập biên bản. Nay ông bị canh chừng theo dõi nên không thể ra khỏi nhà vì nguy hiểm tới tính mạng. Sự khủng bố kéo dài đã gây thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần, khiến gia đình ông bị đảo lộn cuộc sống và luôn nơm nớp âu lo hãi sợ.
2- Ngày 23-10-2015, khi bà Nguyễn Thị Việt, mẹ của tử tù Lê Văn Mạnh và ông Nguyễn Trường Chinh, cha của tử tù Nguyễn Văn Chưởng cùng một số thân hữu dân oan đến Tòa án tối cao ở 262 Đội Cấn (cơ sở 2) để kêu oan cho con, thì họ đã bị nhiều công an sắc phục lẫn côn đồ (công an thuê mướn hoặc giả dạng) đến cướp giựt biểu ngữ cách ngang ngược và tống lên xe cách vũ phu rồi đưa về đồn công an số 6 Quang Trung Hà Đông để tra khảo. Ba hôm sau, 26-10, họ cũng lại đến Tòa án tối cao ở 148 Lý Thường Kiệt (cơ sở 1) để đòi xem quyết định hoãn thi hành án tử hình cho Lê Văn Mạnh thì đã bị tấn công đe dọa bởi bọn côn đồ dưới quyền chỉ huy của đại úy công an tên Cao Văn Mạnh.
3- Tối ngày 30-10-2015, Nhóm No-U Hà Nội (một tổ chức xã hội dân sự phản đối Đường lưỡi bò của Trung Quốc) tổ chức lễ kỷ niệm 4 năm thành lập tại nhà hàng Sư Tử, ở số 96 Thái Thịnh, Quận Đống Đa. Nhân dịp này, nhóm cũng bày tỏ quyết tâm tẩy chay cuộc thăm viếng Việt Nam của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào ngày 05-11. Cuộc họp mặt đã nhanh chóng bị tấn công bởi một đám côn đồ được lực lượng công an hỗ trợ. Sau khi phá hoại hệ thống điện của nhà hàng, 7-8 tên mang theo hung khí, đèn laze đã xông vào đạp đổ những chiếc bàn ăn, cầm chai cốc bát đĩa ném vào bất cứ đâu, lung tung loạn xạ. Chúng tấn công rồi rút lui rất nhanh, trong khoảng 15 giây, chứng tỏ đã được huấn luyện kỹ lưỡng và được thực tập thuần thục, để lại cảnh tan hoang: bàn ghế đổ ngã, thức ăn tung tóe và đồ thủy tinh vỡ vụn. May mà chẳng có ai bị thương nặng. Đang khi đó thì bên ngoài, công an, an ninh, 113, cảnh sát công nghệ cao quay phim chụp ảnh, sau đó phao tin vu khống: “Trong nhà hàng có đánh nhau vì chuyện thanh toán nợ nần”!?!
4- Chiều ngày 03-11-2015 tại khu vực chợ Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, hai luật sư nhân quyền Trần Thu Nam và Lê Văn Luân đã bị nhiều kẻ lạ mặt đánh đổ máu sau buổi làm việc cùng với gia đình nạn nhân Đỗ Đăng Dư. Trước đó một hôm, công an đã gửi giấy mời gia đình này đến đồn làm việc. Tại đây, bị ngang ngược yêu cầu phải viết giấy có nội dung từ chối luật sư, họ đã thẳng thắn phản đối. Thành thử hôm sau, hai vị luật sư đã đến để cùng gia đình làm rõ yêu cầu sai trái như trên của cơ quan công an Hà Nội. Thế là lúc ra về, ôtô vừa chạy được khoảng 200m thì một nhóm bịt mặt xuất hiện chặn xe lại. Khi hai vị luật sư bước ra, ít nhất 8 tên côn đồ (trong đó có một công an tên Nguyễn Cửu) đã xông vào đánh đập họ hết sức dã man, áo quần bê bết, máu me đầm đìa. Luật sư Lê Văn Luân còn bị cướp cả điện thoại. Luật sư Trần Thu Nam từ lâu được biết đến như là người bào chữa cho nhiều nhà bất đồng chính kiến tại Việt Nam. Gần đây, ông cũng đã trực tiếp tham gia vào một số vụ án có liên quan đến sai phạm của ngành công an. Vụ khủng bố diễn ra vào đúng thời điểm giám đốc CA Hà Nội Nguyễn Đức Chung vừa trúng cử vào chức phó bí thư thành uỷ và đang được đề cử giữ chức chủ tịch UBND Hà Nội.
5- Ngày 05-11-2015, khi đảng Cộng sản VN nghênh tiếp Tập Cận Bình, kẻ đứng đầu cường quốc Đại Hán đang xâm nhập đất nước dưới mọi phương diện, nhất là đang xâm lấn biển đảo Tổ quốc, hàng ngàn người dân yêu nước ở Hà Nội và Sài Gòn đã xuống đường phản đối tên xâm lược. Thế là nhà cầm quyền –thay vì cổ vũ và yểm trợ lòng ái quốc- lại sai công an, dân phòng, thanh niên xung phong cùng côn đồ đầu gấu đàn áp dữ dội. Lực lượng tay sai mù quáng này đã giựt băng-rôn biểu ngữ, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh gục dân tại chỗ đến đổ máu hoặc quẳng lên xe như heo, chở về đồn công an (20 người tại Sài Gòn và 23 người tại Hà Nội) để dằn mặt, tra khảo, giam đói, đánh đập, khiến nhiều người, trong đó có cả phụ nữ, phải ngất xỉu. Hai đoàn dân oan từ Bến Tre và Bình Thuận khi đang trên đường tiến vào lãnh sự quán Trung Cộng biểu tình đã bị công an bao vây, đàn áp. 13 người đã bị bắt lên xe ngay tại khu vực Thảo cầm viên. Đặc biệt, một kẻ khoác áo thanh niên xung phong đã dùng bàn tay gấu (hung khí kim loại) đánh một cựu sĩ quan từng chiến đấu chống quân Trung Cộng năm 1979 là ông Trần Bang đến vỡ đầu, máu tuôn khắp mặt và dính đầy y phục, khiến ông phải nhập viện cấp cứu. Đúng là máu của người dân yêu nước đã đổ ra để thành thảm đỏ đón tên xâm lược Tập Cận Bình!
Do đó chúng tôi tuyên bố:
1- Cực lực lên án các màn sách nhiễu bỉ ổi, các đòn trả thù dã man, các cuộc tấn công đê hèn của công an Việt Nam. Đã hành xử bất nhân và vô luật chống lại nhân dân, lại còn tự cho đó là “thi hành nhiệm vụ”! Đã không dám đối thoại pháp lý với người dân, lại còn tấn công các luật sư bằng vũ lực! Đã không bảo vệ và ủng hộ nhân dân bày tỏ lòng yêu nước, lại còn đàn áp dữ dội những ai biểu tình ôn hòa chống quân xâm lược. Quả là dấu ngày tàn của một chế độ bạo lực, bất công và hèn nhát. Trách nhiệm nghiêm trọng này thuộc về Bộ Chính trị đảng Cộng sản, bộ trưởng Công an Trần Đại Quang, giám đốc Công an Hà Nội Nguyễn Đức Chung, giám đốc công an TPHCM Lê Đông Phong. Các người hãy nhớ lấy bài học bên Đông Âu cựu cộng sản: đối tượng tức thời của lòng phẫn nộ quần chúng chính là những nhân viên thừa hành và đối tượng lâu dài của nền công lý quốc gia chính là những quan chức chỉ đạo!
2- Chân thành hiệp thông với hai vị luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân (cũng như với nhiều vị luật sư trước đây cùng cảnh ngộ) vì đã chấp nhận gian khổ trong cuộc đấu tranh với cường lực và bênh vực cho nhân dân, đấu tranh cho nhân quyền và bênh vực cho lẽ phải. Ước mong quý luật sư, đoàn luật sư nỗ lực hành động cho một nền tư pháp độc lập và hữu hiệu, một bộ luật pháp văn minh và nhân bản, chống lại những vụ phạm pháp của công quyền một cách thành công.
3- Hết lòng chia sẻ tình cảnh đau thương của những đồng bào đang đòi lại công lý, chiến đấu cho nhân quyền hay biểu tỏ lòng yêu nước nói trên (và muôn vạn đồng bào khác cùng chung hoàn cảnh). Tính kiên trì, đức dũng cảm và thái độ ôn hòa của Quý vị trước cường quyền độc tài toàn trị là hạt giống cho công lý, là ánh đuốc cho tự do, là tấm gương cho mọi người và là lời mời gọi toàn thể nhân dân đứng lên xây dựng một xã hội mới, một chế độ tốt, một đất nước công bằng và phát triển.
Làm tại Việt Nam ngày 10-11-2015, nhân chuyến kinh lý của tên xâm lược Tập Cận Bình
Các tổ chức xã hội chính trị đồng ký tên
1- Bach Dang Giang Foundation. Đại diện: Thạc sĩ Phạm Bá Hải
2- Ban Chấp hành Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài. Đại diện: các Chánh Trị sự Võ Văn Quang, Trần Ngọc Sương và Trần Quốc Tiến
3- Ban Đại Diện Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài: Đại diện CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân và CTS Nguyễn Bạch Phụng.
4- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam. Đại diện: Phó GS-TS Hoàng Dũng
5- Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy. Đại diện: Giáo sư Trần Minh Xuân, Hoa Kỳ.
6- Diễn đàn Bauxite Việt Nam. Đại diện: GS Phạm Xuân Yêm
7- Diễn đàn Xã hội Dân sự. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A
8- Đảng Dân chủ Việt. Đại diện: Ông Nguyễn Thế Quang.
9- Đảng Việt Tân. Đại diện: Giáo sư Phạm Minh Hoàng.
10- Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ. Đại diện: Ms Nguyễn Hoàng Hoa
11- Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần tuý. Đại diện: Chánh thư ký Lê Quang Hiển
12- Hiệp hội Đoàn kết Công nông. Đại diện: Mục sư Đoàn Văn Diên.
13- Hội Anh em Dân chủ. Đại diện: Kỹ sư Phạm Văn Trội.
14- Hội Bảo vệ Quyền tự do Tôn giáo. Đại diện: Cô Hà Thị Vân
15- Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Nhà báo Nguyễn Tường Thụy
16- Hội Cựu Tù nhân Lương tâm. Đại diện: BS Nguyễn Đan Quế, Lm Phan Văn Lợi
17- Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam. Đại diện: Cô Huỳnh Thục Vy, Trần Thị Nga
18- Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Kỹ sư Đỗ Nam Hải.
19- Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam. Đại diện: Ts Nguyễn Bá Tùng.
20- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Lm Nguyễn Hữu Giải
21- Phòng Công lý Hòa bình DCCT Sài Gòn. Đại diện: Linh mục Đinh Hữu Thoại
22- Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo VNTN. Đại diện: Hòa thượng Thích Không Tánh
23- Trung tâm Nhân quyền VN. Đại diện Ls Nguyễn Văn Đài
Các cá nhân ký tên
1- Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhà văn, Hoa Kỳ
2- Nguyễn Thị Thanh Bình, Nhà văn, Hoa Kỳ
3- Nguyễn Minh Cần, Nhà báo, Liên bang Nga
4- Lê Quang Du, Mục sư, Đồng Nai, VN
5- Lê Anh Dũng, Lao động tự do, Hải Phòng
6- Nguyễn Đức Dương, Nhà ngữ học.
7- Uông Đắc Đạo, Hưu trí, Hoa Kỳ
8- Nguyễn Công Đức, Hưu trí, Hoa Kỳ.
9- Trần Tiến Đức, Nhà báo tự do, Hà Nội
10- Uông Đình Đức, Kỹ sư, Sài Gòn
11- Nguyễn Ngọc Giao, Nhà giáo, Paris, Pháp.
12- Lê Tất Hải, Cựu giáo viên, Sài Gòn.
13- Võ Thị Hảo, Nhà văn.
14- Đoàn Viết Hiệp, Kỹ sư điện toán, Pháp
15- Vũ Thư Hiên, Nhà văn, Paris, Pháp
16- Nguyễn Mạnh Hùng, Mục sư, Sài Gòn, VN
17- Hoàng Hưng, Nhà thơ, Sài Gòn, VN
18- Nguyễn Đăng Hưng, Giáo sư, Sài Gòn, VN.
19- Phan Tấn Hải, Nhà văn, Hoa Kỳ
20- Hồ Quang Huy, KS đường sắt, Nha Trang, VN.
21- Phạm Huý, Nông dân, Bình Định.
22- Trần Thiện Kế, Dược sĩ, Hà Nội.
23- Trần Công Khánh, Hưu trí, Hải Phòng,
24- Trần Minh Khôi, Kỹ sư điện toán, CHLB Đức
25- Phạm Ngọc Lan, Maryland, Hoa ky
26- Phan Bình Lâm, CNTT, Vũng Tàu
27- Đoàn Thanh Liêm, Luật sư, California, Hoa Kỳ
28- Thuỳ Linh, Nhà văn, Hà Nội
29- Võ Bá Linh, Hưu trí, Sài Gòn, VN
30- Phan Đắc Lữ, Nhà thơ, Sài Gòn
31- Nguyễn Anh Minh, Kỹ sư tư vấn, London, Anh Quốc
32- Trần Duy Nghiêm, Kế toán viên, Việt Nam
33- Phùng Hoài Ngọc, Thạc sỹ, An Giang
34- Thomas Vincent Nguyen, Missouri, Hoa Kỳ.
35- Nguyễn Văn Quang, Lập trình viên, VN
36- Bùi Minh Quốc, Nhà thơ, Đà Lạt, VN
37- Cao Ngọc Quỳnh, Doanh nhân, Hoa Kỳ
38- Võ Văn Tạo, Nhà báo, Nha Trang, VN
39- Ngụy Hữu Tâm, Hà Nội.
40- Đỗ Hồng Thành, Nhà nghiên cứu, Hưng Yên, VN
41- Trần Minh Thảo, Nhà văn, Lâm Đồng, VN
42- Phạm Terry The, Kci medical, Canada
43- Đào Tiến Thi, Nhà nghiên cứu văn học, Hà Nội
44- Phạm Tư Thanh Thiện, Nhà báo, Paris, Pháp
45- Vũ Văn Thịnh, Bác sỹ, Thái Nguyên, VN
46- Chu Trọng Thu, Cựu giảng viên, Sài Gòn.
47- Trần Quốc Thuận, Công nhân hưu trí, ở California, Hoa Kỳ,
48- Trương Anh Thụy, Nhà văn, Hoa Kỳ
49- Phạm Toàn, Nhà giáo dục, Hà Nội
50- Trần Văn Tân, Kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
51- Phạm Đình Trọng. Nhà văn. Sài Gòn.
52- Đặng Viết Trường, Nhà báo, Hà Nội
53- Ngô Đăng Tuấn, Doanh nhân, CH Séc
54- Hà Dương Tường, Nhà giáo về hưu, Pháp

Khủng hoảng pháp luật, qua vụ hai luật sư bị hành hung gây thương tích trong khi thi hành nhiệm vụ ở Hà Nội, đã có bước chuyển mới. Hôm thứ sáu 13/11/2015 Công an Hà Nội công bố quyết định khởi tố vụ án cố ý gây thương tích liên quan tới hai luật sư Trần Thu Nam Và Lê Văn Luân.
Trả lời phỏng vấn của Nam Nguyên, Luật sư Trần Thu Nam cho biết ông và Luật sư Lê Văn Luân hôm 13/11 đã có buổi làm việc với Cơ quan điều tra của Công an TP. Hà Nội và được thông báo đã có quyết định khởi tố vụ án. Ông nói:
“Ngày 12 họ có quyết định khởi vụ án, tuy nhiên chưa có quyết định khởi tố bị can. Chúng tôi cho rằng, thứ nhất khởi tố vụ án rất là chậm chạp, cuộc họp báo thì chưa được chính xác như chúng tôi đã nói. Tuy nhiên họ đã bắt buộc phải làm việc này, chúng tôi hy vọng họ sẽ làm việc một cách nghiêm túc hơn.”
Ngày 12 họ có quyết định khởi vụ án, tuy nhiên chưa có quyết định khởi tố bị can. Chúng tôi cho rằng, thứ nhất khởi tố vụ án rất là chậm chạp, cuộc họp báo thì chưa được chính xác như chúng tôi đã nói. Tuy nhiên họ đã bắt buộc phải làm việc này, chúng tôi hy vọng họ sẽ làm việc một cách nghiêm túc hơn.
-LS Trần Thu Nam
Ngay sau khi quyết định khởi tố vụ án liên quan tới các luật sư bị đánh, VnExpress trích lời LS Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng việc khởi tố thể hiện cơ quan điều tra đã lắng nghe, tiếp thu ý kiến của Liên đoàn và giới luật sư. Tuy nhiên Phó Chủ tịch Phan Trung Hoài nhấn mạnh, Liên đoàn Luật sư Việt Nam mong muốn cơ quan điều tra làm rõ sự thật khách quan, động cơ gây án để xử lý đúng pháp luật.
Cùng về vấn đề liên quan Luật sư Trần Thu Nam nhận định:
“Động cơ có nghĩa là mục đích đánh chúng tôi thì chỉ có những người bày ra mục đích đó, những người tạo ra kế hoạch đó, hoặc những người thực hiện thì mới biết động cơ nhằm mục đích gì, thì chỉ có họ biết chứ chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ biết rằng có công an xã đã tham gia tổ chức đánh chúng tôi, chỉ đạo những người khác đánh chúng tôi. Chúng tôi chỉ khẳng định được đến mức đó, còn những việc khác chúng tôi chưa xác minh được… động cơ mục đích thì chắc phải qua quá trình điều tra thì mới xác minh được.”
Một vụ cố ý gây thương tích, hoặc cướp giật có thể là những thường án xảy ra hàng ngày. Tuy nhiên vụ hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị tấn công lại được kết nối từ một chuỗi các sự kiện liên quan đến ngành công an. Trước hết là chuyện thiếu niên Đỗ Đăng Dư bị đánh chết trong trại tạm giam của Công an, gia đình nạn nhân đòi công lý. Hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân là các luật sư tình nguyện giúp đỡ pháp lý cho họ. Hai ông bị tấn công hôm 3/11/2015 tại Xã Đông Phương Yên, Huyện Chương Mỹ TP. Hà Nội, sau khi đến gặp gia đình nạn nhân Đỗ Đăng Dư.
Theo dòng thời sự Giám đốc Công an Hà Nội kiêm đại biểu quốc hội Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung đã mau chóng thay đổi quan điểm, khi chỉ đạo quyết định khởi tố vụ án mà dư luận quen gọi là vụ luật sư bị đánh. Theo Người Lao Động Online, ngày 11/11 Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa cũng là Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam có gặp gỡ tướng Nguyễn Đức Chung ngay tại Quốc hội và đề nghị cần khởi tố vụ án. Tuy nhiên tướng Chung trả lời là vụ này hai luật sư bị thương tích dưới 11% nên chưa thể khởi tố.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã phản biện rằng, theo điều 104 Bộ Luật hình sự thì phải khởi tố, vì vụ hành hung hai luật sư có hành vi côn đồ nguy hiểm. Trước đó vào ngày 10/11 Công an Hà Nội đã họp báo công bố kết luận điều tra, theo đó hai Luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị 8 người tấn công gây thương tích hôm 3/11 ở Xã Đông Phương Yên, Huyện Chương Mỹ Hà Nội là vì hai ông lái ô tô làm tung bụi bẩn. Điều này hai vị luật sư đã phản đối kịch liệt vì không đúng sự thật.
Kết luận điều tra của Công an Hà Nội không được sự đồng tình của giới chuyên môn. Riêng Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã có nhận định được báo chí đưa tin rộng rãi theo đó, vì phóng xe gây bắn bụi mà hành hung luật sư thì xã hội sẽ loạn.
Có thể nói luật sư và ngành công tố là hai trụ cột chính của một nền công lý quốc gia. Thiếu một trong hai thì công lý không thể có, đặc biệt là trụ cột luật sư. Lý do vì sao?
-Luật gia Lê Công Định
Trong vụ này Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư Hà Nội đã có những phản ứng mạnh mẽ. Ngoài ra khối báo chí chính thống qua thông tin thời sự cũng góp phần tạo áp lực về việc giải quyết vụ việc tới nơi tới chốn. Báo chí đã tải lên mạng ảnh hai luật sư mặt bầm dập vì thương tích, gây tác động dư luận rất lớn.
Có thể nói áp lực dư luận đè nặng ngành công an, đặc biệt là công an Hà Nội. Theo các chuyên gia, áp lực lớn nhất là qua sự kiện luật sư bị đánh, hơn 200 luật sư đã ký vào kiến nghị gởi Quốc hội về việc sửa đổi Bộ Luật hình sự tố tụng, đặc biệt bãi bỏ những giấy phép và thủ tục rườm rà đối với luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi thân chủ.
Trả lời Gia Minh đài ACTD, Luật gia Lê Công Định hiện cư ngụ ở Sài Gòn nhận định:
“Có thể nói luật sư và ngành công tố là hai trụ cột chính của một nền công lý quốc gia. Thiếu một trong hai thì công lý không thể có, đặc biệt là trụ cột luật sư. Lý do vì sao? Vì công tố – bên buộc tội, luôn dựa vào sức mạnh công quyền có sẵn để truy tố những ai xét về mặt luật pháp vi phạm trật tự công cộng, gây nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên thường những cá nhân liên quan đến tố tụng hình sự họ luôn ở vào thế yếu và do đó họ luôn cần có bênh vực về phương diện pháp lý, do vậy vai trò luật sư rất quan trọng. Suốt chiều dài lịch sử nhân loại thì quyền bào chữa, quyền biện hộ các bị cáo trong những vụ án hình sự rất quan trọng, cho nên vai trò luật sư cũng được xem xét là quan trọng như một định chế để bảo vệ quyền con người.”
Vụ hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị tấn công trong khi thực hiện nhiệm vụ sẽ còn mất nhiều thời gian để được làm sáng tỏ, nhưng rõ ràng đã có một bước ngoặt trong cách xử lý của ngành công an. Việt Nam đang hội nhập nhanh chóng với thế giới, việc cải tổ pháp luật là nhu cầu cấp bách.

Công an Thành phố Hà Nội khởi tố vụ án “cố ý gây thương tích” trong vụ hai luật sư bị hành hung gây quan tâm nhiều trong dư luận.
Báo Lao Động dẫn lời ông Dương Văn Giáp – Trưởng phòng Cảnh sát hình sự cho biết căn cứ vào đơn trình báo của anh Trần Thu Nam và anh Lê Văn Luân và “xác định có dấu hiệu tội phạm” nên đã ra quyết định khởi tố.
Thông báo của phía công an không nói rõ 8 đối tượng hành hung hai luật sư này đã bị bắt giam hay chưa. Chưa báo nào công bố ảnh tám bị can này.
Hiện chưa rõ là quyết định khởi tố điều tra có ý nghĩa gì khi chính Công an Thành phố Hà Nội đã tiến hành điều tra và thậm chí tổ chức họp báo (bán công khai) mô tả vụ đánh người này là do ‘chạy xe nhanh gây dính bụi’.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư Hà Nội vào sáng 11/11 cho rằng kết luận vụ 2 luật sư bị hành hung là “vội vàng, chưa khách quan”, theo Đài tiếng nói Việt Nam.
Tôi cũng kỳ vọng các luật sư khác trong cả nước cũng sẽ tham gia bảo vệ quyền lợi cho hai luật sư chúng tôi, vì đây là vụ án rất nghiêm trọng và ảnh hưởng đến uy tín của nghề luật sư
Việc dư luận trong mấy ngày qua gây áp lực trên các mạng xã hội dường như đã tạo sức ép dẫn tới quyết định khởi tố này, theo một số nhà quan sát trong nước.
Nhà báo Huy Đức viết trên facebook cá nhân: “Tướng Chung đã cho khởi tố vụ hành hung luật sư sau khi có ý kiến của LS Trương Trọng Nghĩa. Nếu không quá hãnh tiến và khôn ngoan hơn ông phải làm điều này ngay khi nó xảy ra. Thôi thì, nếu điều tra đàng hoàng, tướng Chung vẫn có thể ghi điểm.”
Khi được hỏi rằng liệu có thấy ngạc nhiên về quyết định khởi tố này hay không, Luật sư Lê Văn Luân, một trong hai người bị đánh và làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án, cho biết:
“Tôi không thấy ngạc nhiên và thấy đây là một động thái rất sớm, nhanh chóng, kịp thời, bởi vì yếu tố và tính chất của vụ án đáng ra phải khởi tố từ trước rồi, tức là từ hôm xảy ra ấy. Nhưng bữa nay mới có thì tôi cũng lấy lại niềm tin về động thái đúng đắn, hợp pháp và nhanh chóng của Công an Hà Nội.”
Khi được hỏi về việc tại sao trong quyết định khởi tố không có đề cập đến việc ông đã viết trong đơn yêu cầu trước đó là bị mất điện thoại, ông Luân giải thích rằng hiện tại mới khởi tố vụ án hình sự về việc cố ý gây thương tích trước.

“Sau đó làm rõ thêm việc cướp tài sản hay trộm cắp tài sản. Bên cơ quan điều tra vẫn đang phân vân liệu tài sản đó bị rơi mất, ai lấy, có phải nhóm đó không.
“Buổi sáng nay hai luật sư đã lên làm việc và khai lời khai về việc làm rõ vấn đề cướp tài sản của tôi. Ngay bữa xảy ra vụ việc, tôi đã nhờ bà Đỗ Thị Mai, mẹ cháu Dư quay lại hiện trường tìm tài sản cho tôi.
“Khoảng nửa tiếng sau bà báo cho tôi là người dân ở đấy nói rằng có hai tên trong số 8 tên đánh luật sư quay lại lấy điện thoại rồi”.
Ông Luân nói rằng “Nếu đúng tình tiết như vậy thì là phải khởi tố vụ cướp. Cái này sẽ phải xác định rõ hơn hành vi đó trong lúc điều tra.”
Về việc chọn luật sư bảo vệ cho mình trong vụ án này, ông Lê Văn Luân nói: “Chúng tôi đang tính xem sẽ nhờ những luật sư nào, và phải nhờ bao nhiêu luật sư bảo vệ chúng tôi. Chúng tôi có thể mời toàn bộ các luật sư mà chúng tôi tin tưởng.
“Tôi cũng kỳ vọng các luật sư khác trong cả nước cũng sẽ tham gia bảo vệ quyền lợi cho hai luật sư chúng tôi, vì đây là vụ án rất nghiêm trọng và ảnh hưởng đến uy tín của nghề luật sư.”
Tướng Chung đã cho khởi tố vụ hành hung luật sư sau khi có ý kiến của LS Trương Trọng Nghĩa. Nếu không quá hãnh tiến và khôn ngoan hơn ông phải làm điều này ngay khi nó xảy ra. Thôi thì, nếu điều tra đàng hoàng, tướng Chung vẫn có thể ghi điểm
Trước đó ngày chiều Thứ Tư 11/11, báo Tuổi Trẻ tường thuật đại biểu quốc hội Trương Trọng Nghĩa đã đề nghị ông Nguyễn Đức Chung khởi tố vụ án này.
Luật sư Lê Công Định bình luận trên facebook: “Luật sư Trương Trọng Nghĩa phản bác rất chính xác Tiến sĩ luật Nguyễn Đức Chung về việc không khởi tố vụ hành hung hai luật sư với lý do thương tích dưới 11%, như sau: việc hành hung 2 luật sư là có yếu tố côn đồ, nên theo quy định của điều 104 Bộ luật Hình sự thì trường hợp này phải khởi tố vụ án.
“Trong ngành luật, kinh nghiệm “trận mạc” pháp lý khá quan trọng, nên trước một luật sư dày dạn kinh nghiệm nghề nghiệp như anh Trương Trọng Nghĩa, các tiến sĩ giấy cần đọc luật kỹ càng và uốn lưỡi 7 lần trước khi nói.”
Một cuộc tuần hành theo dự kiến của khoảng hơn 200 luật sư để kêu gọi khởi tố vụ án này đã không xảy ra sau khi công an dùng vũ lực bắt một trong những luật sư kêu gọi cho sự kiện này.
Luật sư Trần Vũ Hải bị đưa lên công an phường Xuân La tại Hà Nội, nơi ông viết bản tố cảo 11 trang về việc “bắt người trái phép” do “những người mặc thường phục” thực hiện.
Sáng thứ Tư ngày 11/11, hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân cho biết trên mạng xã hội rằng họ đã gửi “Đơn yêu cầu khởi tố” đến cơ quan cảnh sát điều tra, Công an Hà Nội, và Viện Kiểm sát nhân dân Hà Nội về vụ họ nói là bị đánh.
Trong đơn này có ghi, hai luật sư yêu cầu “khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với nhóm người (tám người)” ở Chương Mỹ, Hà Nội, về “Tội cố ý gây thương tích” và “Tội cướp tài sản”.
Ngày 3/11, hai luật sư này đang làm việc với gia đình Đỗ Đăng Dư, thiếu niên chết sau khi bị đánh tại một trại giam ở Hà Nội, thì bị một nhóm người hành hung làm luật sư Nam bị thương khá nặng và luật sư Luân bị mất điện thoại.
http://www.boxitvn.net/bai/39134
Dân oan, người dân Hà Nội bên ngoài trụ sở Công An Phường Xuân La, Quận Tây Hồ, Hà Nội khi nghe tin Luật sư Trần Vũ Hải bị bắt giữ hôm 12/11/2015. Citizen photo
Vụ hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị hành hung trong khi thực hiện nghiệp vụ bảo vệ quyền lợi cho gia đình thiếu niên bị đánh chết trong trại tạm giam, đã dẫn tới nhiều hệ lụy do cách xử lý của chính quyền Hà Nội.
Từ ngày 3/11 tới tối ngày 12/11 đã diễn ra một loạt sự kiện gây phản ứng ngược bất lợi cho chính quyền, cụ thể là Công an Hà Nội mà người đứng đầu là Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung. Từ chuyện Công an Hà Nội họp báo nói các luật sư bị đánh là do chạy xe tung bụi bẩn, cho tới việc 200 luật sư dự kiến tuần hành tới Sở Công an, cũng như các cơ quan tư pháp cao hơn.
Bảo vệ quyền luật sư cũng bị bắt giữ
Và tới cuối ngày 12/11 đã xảy ra sự việc mà giới thạo tin gọi là hành động không thể ngờ được đã xảy ra. Đó là việc công an đến tận nhà bắt và đưa Luật sư Trần Vũ Hải về giữ tại Phường Xuân La, Quận Tây Hồ Hà Nội. LS Hải là trưởng nhóm luật sư bảo vệ quyền lợi cho hai đồng nghiệp bị đánh, LS Trần Thu Nam và LS Lê Văn Luân.
Tuy vậy báo Công an Nhân dân bản tin trên mạng lúc 22g17 ngày 12/11 đưa tin LS Trần Vũ Hải bị áp giải về trụ sở công an là vì lý do có đơn thưa của 28 hộ dân ở một số tỉnh, theo đó LS Hải nhận 84 triệu để hỗ trợ pháp lý về đất đai nhưng không thực hiện. Tờ báo nói sở dĩ Công an đến tận nhà áp giải vì LS Hải không hợp tác, 4 lần có giấy triệu tập mà không đến. Tờ báo cũng nói LS Trần Vũ Hải chỉ được tạm cho ra về vào cuối ngày 12/11 vì hết giờ làm việc.
Trên trang Facebook của mình, LS Trần Vũ Hải cho biết ông đã trở về nhà an toàn lúc 9g40 tối. LS Hải cảm ơn Ban lãnh đạo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Hà Nội, các đồng nghiệp và tất cả mọi người đã quan tâm đến tình trạng của ông và ông sẽ thông tin sau về vụ việc.
Trước đó, bị áp giải từ nhà về trụ sở Công an Phường Xuân La từ sáng, đến 12 giờ trưa, từ nơi tạm giữ LS Trần Vũ Hải qua điện thoại cho Gia Minh Đài ACTD biết, đã bị an ninh mặc thường phục đến tận nhà bắt giữ trái pháp luật. Lúc đó LS Trần Vũ Hải cũng đã yêu cầu là việc giải ông về trụ sở công an phải có con trai ông và hai luật sư đi cùng để tránh trường hợp giả danh công an bắt giữ người và có thể gây hại cho ông. LS Trần Vũ Hải tiếp lời:
“Các anh này đã từ chối những yêu cầu chính đáng của tôi, lôi xềnh xệch tôi như một con chó, con lợn lên công an mặc dù tôi phản đối. Việc lôi xềnh xệch tôi có con trai tôi, vợ tôi, lái xe của tôi và nhiều người khác chứng kiến.
Như vậy các anh ấy có ý đồ ngăn chặn quyền luật sư của tôi là quyền bảo vệ cho hai đồng nghiệp của tôi, cũng như quyền công dân của tôi là gặp ông đại biểu quốc hội Nguyễn Đức Chung. Quyền của chúng tôi là nộp các đơn từ yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hành hung mà hiện nay Công an Hà Nội chưa làm.”

Hình ảnh luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị đánh ngày 3/11 được đăng tải trên Facebook cá nhân
Sự kiện LS Trần Vũ Hải bị công an triệu tập bằng võ lực sau đó được tạm thả, xảy ra trong bối cảnh ông và các luật sư đồng nghiệp, đang đấu tranh đòi công lý cho hai đồng nghiệp bị đánh là LS Trần Thu Nam và LS Lê Văn Luân. Ông Hải là trưởng nhóm luật sư bảo vệ quyền lợi cho hai luật sư vừa nêu.
Không phải chỉ có mạng xã hội, phần lớn báo chí chính thức đã vào cuộc đưa nhiều tin bài về vụ hai luật sư bị hành hung ở Chương Mỹ, khi họ thực hiện nghiệp vụ liên quan đến vụ án thiếu niên Đỗ Đăng Dư bị đánh chết trong trại tạm giam của Công an Hà Nội. Điểm tin báo chí có thể nhanh chóng thấy được cách xử lý khủng hoảng khác thường của Giám đốc Công an Hà Nội, cũng là Đại biểu Quốc hội Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung.
Báo động tình trạng vô pháp luật
Báo điện tử VTC News bản tin trên mạng ngày 11/11/2015 đưa tin hai luật sư bị hành hung gởi thư mong muốn gặp tướng Nguyễn Đức Chung. Đây là phản ứng của hai vị luật sư, sau khi Công an Hà Nội họp báo vào ngày 10/11, công bố kết quả điều tra về vụ hai luật sư bị hành hung hôm 3/11 tại xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ. Theo đó, Công an Hà Nội kết luận là hai vị luật sư đã bị một nhóm người hành hung vì chạy xe ô tô làm tung bụi bẩn.
Vẫn theo VTC News, trong lá thư của mình gởi Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, Giám đốc Công an Hà Nội và cũng là Đại biểu Quốc hội, hai vị luật sư cho rằng, nội dung mà công an Hà Nội cung cấp cho các cơ quan báo chí chiều 10/11 là vừa thiếu chính xác vừa thiếu cẩn trọng. Trong khi đó VnExpress trích lời luật sư Lê Văn Luân khẳng định nguyên văn: “Bất ngờ bị chặn xe tấn công và dù 6 trong 8 người có đeo khẩu trang thì vẫn nhận ra người đầu tiên đánh và khống chế mình là một công an xã Đông Phương Yên”.
Trả lời Đài ACTD, Luật sư Trần Thu Nam phát biểu:
“Chúng tôi cho rằng việc họp báo công bố từ một phía – căn cứ vào lời khai từ một phía, thì chưa được khách quan và không đúng sự thật. Tất cả những sự việc đó không đúng sự thật cho nên chúng tôi đã ghi trong thư cảm ơn để ông Chung xem xét thêm. Chúng tôi hiện thời cũng đang soạn thảo những văn bản đề nghị khởi tố vụ án, đề nghị khởi tố bị can – những người đánh chúng tôi, sẽ công bố sau”.
Có thể nói các báo điện tử chính thức ở Việt Nam cùng trong một ngày 11/11/2015 đã có rất nhiều tin bài với các nội dung có thể khiến chính quyền Hà Nội, đặc biệt là tướng Nguyễn Đức Chung phải cảm thấy bối rối. VnExpress cùng ngày có bài với tựa rất mạnh đập vào mắt độc giả “Đại biểu Quốc hội: Vì bắn bụi mà hành hung luật sư, xã hội sẽ loạn”. Trong bài, nhà báo trích lời ông Trương Trọng Nghĩa, Đại biểu Quốc hội đơn vị TP.HCM, báo động về tình trạng luật sư bị phân biệt đối xử, xúc phạm danh dự, đe dọa tính mạng…
Vẫn theo VnExpress, Đại biểu Trương Trọng Nghĩa, bản thân cũng là luật sư, đã phát biểu bên lề phiên họp Quốc hội, đề nghị khởi tố ngay vụ án đánh hai luật sư mà công an kết luận là vì phóng ô tô làm bắn bụi bẩn. Đại biểu Trương Trọng Nghĩa nhấn mạnh tới tình trạng theo đó, việc điều tra xét xử những hành vi xâm phạm quyền hành nghề của luật sư là quá chậm chạp và không đạt yêu cầu.
Phát biểu của LS Trương Trọng Nghĩa bên lề phiên họp Quốc hội có tính lan tỏa rất rộng, sự báo động về tình trạng vô pháp luật mà ông nhận định “vì bắn bụi mà hành hung luật sư, xã hội sẽ loạn” có sức lan tỏa rất nhanh, không chỉ một mình VnExpress đưa lên mạng những lời này, nhiều báo điện tử khác cũng có bài và lời ông Nghĩa được tiếp sức bởi các trang mạng xã hội.
VietnamNet ngày 12/11 đưa lên mạng bài nhận định với tựa “Luật sư bị đánh và những sự thật xấu xí”. Bài viết xem vụ luật sư bị đánh như ghi nhận mới nhất của những sự thật xấu xí khiến phải đặt dấu hỏi về con đường trở thành quốc gia pháp quyền của Việt Nam.
Bài viết có tiểu tựa “Mùa pháp luật không trọn vẹn”, tác giả ghi nhận ngày 9/11 hàng năm được chọn là Ngày Pháp luật nước CHXHCN Việt Nam. Trước đó ngày 10/10 là ngày Luật sư Việt Nam, ngoài ra ngày 13/9 là Ngày Truyền thống của ngành Tòa án. Tác giả bài viết trưng dẫn một số vụ việc trong ba tháng 9-10-11 của điều gọi là mùa pháp luật không trọn vẹn. Một tuần trước Ngày Pháp luật nước CHXHCN Việt Nam, hai luật sư Trần Thu Nam, Lê Văn Luân bị hành hung ở Chương Mỹ, Hà Nội, hình ảnh người luật sư bê bết máu khi thi hành phận sự của mình làm lay động xã hội. Trước đó một tháng là vụ một phạm nhân bị bạn tù đánh chết trong trại tạm giam. Kế đến là vụ thẩm phán tuyên án treo cho người thân ở cấp trên và thú nhận bản án sẽ bị hủy ở phiên phúc thẩm; Ngoài ra trong Mùa Pháp Luật không trọn vẹn, còn có sự kiện, một sĩ quan cấp tá của công an huyện dùng nhục hình với một nữ công nhân nhưng chỉ bị giáng cấp.
Chúng tôi xin lập lại lời tác giả một lần nữa vì ý nghĩa sâu sắc của bài viết, những sự thật xấu xí đó khiến người ta không thể không đặt câu hỏi về con đường trở thành quốc gia pháp quyền của Việt Nam. Luật sư bị đánh và những sự thật xấu xí như cách nói của VietnamNet, cách xử lý khủng hoảng của thiếu tướng Nguyễn Đức Chung Giám đốc Công an Hà Nội, mà giới chuyên môn nói là tạo thêm khủng hoảng, hiện còn chưa thấy hết hậu quả khôn lường.
Sự kiện trên 200 luật sư ký tên vào kiến nghị gởi gửi Quốc hội về việc góp ý sửa đổi Bộ Luật Tố Tụng Hình sự, đề nghị bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa và những thủ tục bất cập khác cho thấy khủng hoảng pháp luật đã lan rộng. Thông tin còn nói 200 vị luật sư trong trang phục áo vét đen, cà vạt và sơ mi trắng dự kiến sẽ tuần hành tới Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Sở Công an Hà Nội để đòi thực thi công lý.
Nếu như cuộc tuần hành của 200 luật sư có thể diễn ra ở Thủ đô Hà Nội, dù nhiều ý kiến cho rằng sẽ bị ngăn chặn, thì theo các nhà hoạt động, dự định này vẫn được cho là một hồi chuông cảnh tỉnh toàn xã hội và là điều chưa từng xảy ra ở nước CHXHCN Việt Nam.
N.Ng
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lê Hải Bình, hôm nay lên tiếng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại biển Đông.
Trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước tuyên bố mới đây của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Singapore rằng các đảo ở biển Đông thuộc về Trung Quốc từ thời cổ đại, ông Lê Hải Bình nói ‘Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử về chủ quyền không trah cãi của mình với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa’.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam không chỉ đích danh Trung Quốc, nhưng chỉ nói Việt Nam yêu cầu các bên tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng sa, không có lời nói và hành động làm phức tạp thêm tình hình biển Đông.
Trước đó trong chuyến thăm đến Việt Nam từ ngày 5 đến 6 tháng 11, ông Tập Cận Bình đã khẳng định với lãnh đạo Việt Nam là Trung Quốc và Việt Nam sẽ cùng nỗ lực kiểm soát tốt bất đồng trên biển, duy trì đại cục quan hệ hai nước và hòa bình ổn định ở biển Đông.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/History-Vietnam-trade-on-SCS-11122015141948.html
Your browser does not support the audio element.
Khi Trung Quốc đã dùng lá bài lịch sử để cho rằng biển Đông là thuộc về Trung Quốc mấy nghìn năm trước, thì phía Việt Nam cũng đưa ra những tài liệu lịch sử và các phát hiện khảo cổ của Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước phương tây chứng minh vai trò của Việt Nam trong hệ thống thương mại Biển Đông từ thế kỷ XVI – XVIII, góp phần tái khẳng định vị trí của Việt Nam là vị trí đã được lịch sử ghi nhận về chủ quyền trên biển Đông.
Một cuộc hội thảo về Lịch sử hệ thống thương mại trên biển Đông được tổ chức ở Viện văn hoá và giáo dục Việt Nam tại Hoa Kỳ, với sự trình bày của Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn, phó giám đốc Viện phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng, về vai trò lịch sử của Việt Nam đối với hải thương trên biển Đông. Tiến sĩ dành riêng cho Cát Linh, đài Á Châu Tự Do cuộc phỏng vấn trước khi hội thảo diễn ra. Trước tiên, ông cho biết về những phát hiện khảo cổ đã tìm thấy ở biển Đông và cả trong các tài liệu lịch sử nói về tự do hàng hải sẽ trình bày trong phần 1 của buổi hội thảo.
TS Trần Đức Anh Sơn: Phần thuyết trình của chúng tôi phần thứ nhất dựa trên các tài liệu khảo cổ học do các nhà khảo cổ học ở nước ngoài và các nhà khảo học Việt Nam, đặc biệt là khảo cổ học người Nhật, người ta đã khai quật được các chiến vật trong các quốc gia trong khu vực Châu Á, Đông nam Á, và Đông Bắc Á có liên quan đến Việt Nam. cụ thể là sự xuất hiện của các trống đồng trong thời kỳ văn hoá đông sơn từ đầu công nguyên, đối với các nước ở khu vực Đông Nam Á hải đảo, Đông Nam Á lục địa và đồ gốm sứ trong khu vực Đông Bắc Á. Trong đó có Nhật Bản, Lưu Cầu, bây giờ là Okinawa và một số của Trung Quốc thông qua các khảo cổ học mà người ta đã công bố.
Cái thứ hai chúng tôi cũng dựa vào các tài liệu lịch sử do rất nhiều nhà khảo cổ học của Bắc Âu và các nhà khảo cổ học Việt Nam khai quật trực tiếp ở trên các hiện trường.
Tổng thể lại, chúng tôi thấy rằng, trong một thời kỳ dài, từ đầu công nguyên cho đến thế kỷ X, người Việt Nam có thể lúc bấy giờ dưới nhiều tên gọi khác nhau, có thể là người Giao Chỉ, người Nam Man (như các sử sách Trung Quốc đã gọi), có thể là người Giao Châu… Trong đó có cả cộng đồng người Champa ở miền Trung Việt Nam đã có một quá trình vươn ra biển rất mạnh mẽ. Người ta đã làm chủ các hải trình buôn bán giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á. Và nó có sự lan toả đến tận khu vực Ấn Độ, khu vực Trung Đông. Đó là những kết quả, tài liệu mà chúng tôi sẽ trình bày trong buổi thuyết trình.
Cát Linh: Những vật thể, hay nói chung là những phát hiện mà ông và những nhà khảo cổ khác tìm thấy có thể là một cơ sở pháp lý để mang ra cho một cuộc tranh tụng, nếu có, về chủ quyền trên biển Đông hay không?
TS Trần Đức Anh Sơn: Thật ra thì các hiện vật khảo cổ học, các bản đồ, tư liệu mà chúng tôi làm thì không có giá trị về mặt pháp lý. Vì mặt pháp lý thì nó dựa trên các văn kiện, công ước, các quá trình quốc tế thoả các thoả ước sau này. Tuy nhiên, những cái chúng tôi làm là chúng tôi muốn chứng minh rằng, vì người Trung Quốc cứ nói rằng họ đã làm chủ biển Đông từ mấy ngàn năm nay. Thậm chí như tuyên bố của chủ tịch Trung Quốc trong những chuyến đi thăm Mỹ, Anh Quốc, Singapore gần đây, nói rằng là người Trung Quốc đã làm chủ kể cả mấy đảo trên biển Đông từ thời cổ đại. Thì những nghiên cứu của các học giả thế giới, trong đó có phần tham gia của các học giả Việt Nam, mà chúng tôi tập hợp lại là để chứng minh một điều ngược lại. Tức là từ khoảng trước thế kỷ thứ X, thì hiểu biết của người Trung Quốc về cái trên biển Đông và đặc biệt là hàng hải trên biển Đông rất là kém, thậm chí là không có, nếu như theo nghiên cứu trong quyển sách của ông Bill Hayton, “The South China Sea: the struggle for power in Asia” thì ông đã nói rõ như vậy. Những nghiên cứu của chúng tôi cũng là một trong những minh chứng chứng minh rằng luận điểm của ông Bill Hayton là chính xác.
Cái thứ hai, những tài liệu mà chúng tôi đọc, kể cả những tài liệu của người Trung Quốc viết, thì họ nói rằng trong một thời kỳ dài, người, thuyền bè, buôn bán giữa Việt Nam đi lên phía Bắc, trong đó có Trung Quốc đi qua Nhật Bản thì chủ yếu là thuyền của người Việt mà người Trung Quốc gọi là Nam Man. Và người thương nhân Trung Quốc thì phải sau thế kỷ XII, thế kỷ XIII trở đi thì họ mới tham gia quá trình ấy, và xuất hiện một thuật ngữ mà người ta gọi là người Tàu-Việt, họ kết hợp với người Việt ở vùng phía Nam của Trung Quốc, và người Việt ở phía bắc Việt Nam là những người có kỹ thuật đi biển khá tốt.
Chúng tôi cũng đọc những tài liệu cho biết rằng người Việt Nam thời kỳ chúa Nguyễn Ánh đã đóng thuyền cho hoàng gia Xiêm, Thái Lan. Tất cả những việc đó đã cho chúng ta biết rằng là người Việt Nam đã có một kỹ thuật hàng hải rất là tốt.
Hiện tại vấn đề này cùng với các tư liệu khảo cổ học góp phần chứng minh rằng làm chủ trên mặt biển trong một thời gian rất là dài, đầu công nguyên cho đến kết thúc thời Bắc thuộc, là người Việt cùng với các dân tộc Đông Nam Á khác, chứ không phải người Trung Hoa. Người Trung Hoa xuất hiện sau chứ không phải trong thời kỳ đầu. Và họ không phải là chủ nhân các hòn đảo. Họ cũng không phải là người một mình sáng tạo ra con đường tơ lụa trên biển. Con đường tơ lụa trên biển là sự tham gia của rất nhiều các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Chúng tôi muốn dùng chứng cứ này để bác bỏ quan điểm của họ khi họ tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo ngoài khơi biển Đông cũng như nói rằng con đường tơ lụa là do họ sáng lập ra.
Cát Linh: Như vậy, buổi hội thảo này sẽ đóng vai trò như thế nào trong bối cảnh căng thẳng hiện tại ở biển Đông?
TS Trần Đức Anh Sơn: Chúng tôi dùng các tư liệu khảo cổ học trong thời kỳ đầu và các sử liệu trong giai đoạn thế kỷ XVII, XVIII, nhất là thông qua bản đồ, đặc biệt là các tài liệu Hán Nôm của các nhà nước phong kiến Đại Việt của chủ nghĩa đàng trong, triều đại Lê, Trịnh ở đàng ngoài, đặc biệt là triều đại nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 để tôi chứng minh rằng Việt Nam có một quá trình khai phá, sáng lập, thực thi chủ quyền và bảo vệ chủ quyền trên các đảo ở biển Đông, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa từ rất lâu đời. Các tài liệu khảo cổ học sẽ chứng minh là cách đây khoảng 2 ngàn năm, thậm chí hơn nữa, còn các tài liệu sử học sẽ chứng minh muôn nhất cũng từ năm 1686, chúng ta đã có các tài liệu văn bản đầu tiên để khẳng định, để miêu tả hoạt động của Trường Sa, Hoàng Sa. Và những quan điểm này chúng tôi cho rằng sẽ góp phần quan trọng vào bộ hồ sơ pháp lý. Nếu trong trường hợp Việt Nam giống như Philippines khởi kiện Trung Quốc về đường lưỡi bò, khởi kiện Trung Quốc về những tuyên bố chủ quyền vô lý thì đó là những cơ sở khoa học mà chúng tôi có thể cung cấp được cho nhà nước để thực hiện công việc khởi kiện.
Cát Linh: Xin cảm ơn Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn cho những thông tin này, cũng như cho buổi phỏng vấn ngày hôm nay.
Liên quan tới việc bắt giữ đối với Luật sư Trần Vũ Hải vào ngày hôm qua 12/11, vào lúc 11h30’ trưa nay tại Văn phòng Luật sư Trần Vũ Hải đã có buổi làm việc giữa các luật sư, với sự tham dự của những người quan tâm để trao đổi và có những hành động pháp lý cho việc bắt giữ này.

Luật sư Trần Vũ Hải cho biết ông không nhận được bất kỳ một quyết định hay giấy triệu tập nào, và các luật sư bảo vệ cho ông hôm đó cũng không ai trong số họ nhìn được giấy triệu tập của cơ quan công an Hà Nội.
Theo Ls Hải, để triệu tập một người, thì trước tiên phải có quyết định khởi tố vụ án. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án, nếu như gửi giấy triệu tập 3 lần mà đối tượng không chấp hành thì mới được phép sử dụng đến các biện pháp áp giải. Việc áp giải đối tượng cần phải có lệnh áp giải.
Trong trường hợp của luật sư Hải, ông không nhận được bất kỳ một quyết định nào của cơ quan có thẩm quyền về việc việc triệu tập hay bắt giữ ông, và ông cho biết việc bắt giữ này đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng vì không dựa trên bất kỳ một cơ sở pháp lý nào.
“Tố cáo từ Thái Nguyên”
Theo thông tin từ công an Hà Nội cho biết, lý do triệu tập Trần Vũ Hải là để làm việc về thông tin một số hộ dân ở Thái Nguyên tố cáo ông đã nhận tiền của họ trong trợ giúp pháp lý, nhưng đã không thực hiện đúng Thỏa thuận về trợ giúp pháp lý nói trên.
Bác bỏ lại lý do này, sáng nay Luật sư Trần Vũ Hải đã cung cấp cho chúng tôi “Đơn yêu cầu chấm dứt việc can thiệp vào việc hành nghề luật sư” vào ngày 30/3/2015, gửi đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Hà Nội, trong đó Luật sư Trần Vũ Hải nêu rõ:
“Chúng tôi khẳng định thực chất không có việc những người dân ở huyện Đại Từ, Thái Nguyên tố cáo chúng tôi. Vì cho đến nay họ chưa bao giờ có ý kiến thắc mắc đối với chúng tôi về việc cung cấp pháp lý cho họ.
“Giả sử có người nào khiếu nại, tố cáo chúng tôi, họ sẽ đến với chúng tôi để giải quyết. Nếu chúng tôi không giải quyết, hoặc giải quyết không thỏa đáng, họ có quyền khiếu nại tố cáo đến Liên Đoàn Luật sư, hoặc có quyền đưa vụ việc ra tòa án giải quyết.
“Không có quy định nào cho phép cơ quan điều tra lại can thiệp vào việc Văn phòng Luật sư nhận tiền của khách hàng và không thực hiện theo thỏa thuận”.
Đánh giá về thông tin tố cáo này, luật sư Trần Vũ Hải cho biết “không loại trừ việc một số người tìm cách trả thù tôi do việc hành nghề của tôi, trong đó có việc tôi đã tố cáo một Điều tra viên và một Phó giám đốc công an”.
Qua đó ông yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Hà Nội chấm dứt việc yêu cầu Văn phòng Luật sư Trần Vũ Hải đến làm việc về đơn tố cáo này.

Luật sư Trần Vũ Hải trình bằng chứng liên quan về đơn tố cáo ở Thái Nguyên vào ngày 30/3/2015
“Cớ bắt giữ”
Đánh giá về sự việc ngày hôm qua, Ls Hải cho biết lý do triệu tập do công an Hà Nội đưa ra chỉ là một cái cớ biện minh cho hành vi bắt giữ ông trái pháp luật.
Ông cho biết là sẽ có những biện pháp pháp lý quyết liệt trong thời gian tới để bảo vệ cho danh dự của luật sư và nhân phẩm của cá nhân ông.
Đặc biệt Văn phòng Luật sư Trần Vũ Hải sẽ có hành động pháp lý đối với báo Năng Lượng Mới nếu báo này không cải chính cho thông tin nói ông “có những dấu hiệu lừa đảo” trong một bản tin sáng nay.
Đánh giá về việc này, luật sư Trần Hoàng đến từ Đoàn Luật sư NewYork (Hoa Kỳ) cho biết, nếu chúng ta không làm mạnh vụ này thì sẽ tạo ra một tiền lệ xấu và 10 năm sau ở Việt Nam sẽ không còn nghề luật sư.
“Không thể chấp nhận cho việc một luật sư vừa ra khỏi nhà đi gặp thân chủ mà lập tức có 10 ông không mặc quân phục, không xuất trình được bất kỳ một giấy tờ nào, chạy đến bắt lên xe và áp tải về công an phường.
“Luật sư bảo vệ cho thân chủ đòi công lý, luôn phải chạy đua với thời gian là vấn đề cực kỳ quan trọng, chỉ cần 2 tiếng không gặp thân chủ, thì coi như việc bảo vệ cho thân chủ… đã xong và chết!” – Luật sư Hoàng nói.
Bình luận về việc bắt giữ này, trong buổi gặp gỡ trưa nay, nhà hoạt động Phạm Lê Vương Các đã cho biết “việc luật sư Hải bị bắt giữ như súc vật là cách làm khá phổ biến đối với các nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền”.
“Bản chất của vụ bắt giữ này là nhằm ngăn chặn luật sư Hải cùng với một số luật sư khác dự kiến đi bộ tuần hành để đưa kiến nghị liên quan tới vụ 2 luật sư bị hành hung cho giám đốc công an Hà Nội” – ông Các nói.
Được biết, Ls Trần Vũ Hải là trưởng nhóm bảo vệ cho 2 đồng nghiệp là Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị một nhóm 8 người hành hung khi vừa rời khỏi nhà của nạn nhân Đỗ Đăng Dư – một thiếu niên bị chết trong đồn công an huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
Tố cáo hành vi bắt giữ
Cũng trong đơn tố cáo được công bố vào sáng nay, ông Hải tường thuật lại việc mình bị bắt giữ vào lúc 8 giờ kém 15 sáng 12/11/2015.
Khi Ls Hải bước ra khỏi nhà ở Ciputra, thì bị khoảng 10 người không mặc đồng phục, không có bằng chứng gì là công an chặn lại, và nói rằng có giấy gì đó của công an Hà Nội mời làm việc vì liên quan đến vụ Thái Nguyên.
Phía Ls Hải và gia đình cho biết là chỉ hợp tác làm việc khi yêu cầu những người này cho xem giấy tờ đó và chỉ làm việc khi họ mặc đúng quân phục.
Nhưng một lúc sau những người này áp sát, khống chế ông Hải và lôi đi.
Sau khi nhận được tin Ls Hải bị bắt giữ, khoảng 200 người là luật sư, các hoạt động nhân quyền, và người dân nhận ủng hộ đã bao vây và biểu tình trước đồn công an phường Xuân La để lên án vụ bắt giữ này và yêu cầu phóng thích cho Luật sư Hải.
Những người ủng hộ đã căng biểu ngữ “bảo vệ cho luật sư Trần Vũ Hải”, “Không có công lý, không về” và sẵn sàng ngủ qua đêm trước đồn công an.
Trong lúc bị bắt giữ, ông Hải đã có bài diễn thuyết từ trên lầu 2 của đồn công an trước hàng trăm người ủng hộ, tố cáo giám đốc công an Hà Nội đang trả thù ông và phải chịu trách nhiệm về vụ bắt giữ này.
“Họ bắt tôi như con súc vật, đẩy tôi, vứt tôi vào trong một xe chờ sẵn trước mặt con tôi, vợ tôi, lái xe riêng của tôi, và đông đảo cư dân Ciputra trong đó có người nước ngoài. Đây là hành động xúc phạm đến thân thể, nhân phẩm và danh dự của tôi, rõ ràng là hành vi bắt người trái pháp luật”, ông Hải nói.
Khi buổi làm việc kết thúc vào lúc khoảng 15h nhưng ông Hải vẫn không chịu rời khỏi đồn công an mà vẫn kiết quyết ở lại trong đồn để đấu tranh đòi công lý cho mình.
Ông đã nói trước hàng trăm người ủng hộ “nếu tôi không bảo vệ được cho chính tôi, thì tôi còn có thể bảo vệ được cho ai!”
Đến khi cơ quan công an chịu lập biên bản ghi nhận đơn tố cáo của ông về vụ bắt giữ này, thì ông mới chịu ra khỏi đồn vào lúc 21h20’ cùng ngày, trong tiếng tung hô của những người ủng hộ.
T.D
Công an Hà Nội vào chiều ngày 10 tháng 11 tiến hành họp báo về vụ việc hai luật sự bị đánh đến thương tích hôm ngày 3 tháng 11. Đây cũng là vụ việc thúc đẩy hơn 200 luật sư trên cả nước ký tên vào Đơn Kiến nghị gửi Quốc hội về việc góp ý sửa đổi Bộ Luật Tố Tụng Hình sự, đề nghị bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
Kết luận điều tra
Kết luận điều tra vụ việc được đưa ra đúng một tuần sau khi xảy ra vụ tám người tấn công đánh hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân sau khi hai người vừa đi ra chừng 100 mét từ nhà của nạn nhân 17 tuổi Đỗ Đăng Dư chết do bị đánh trong trại giam.
Theo Công an Hà Nội thì nguyên nhân khiến hai luật sư bị đánh là do phóng ô tô gây bụi trên đường làng. Khi họ bị đánh thì có công an viên của xã đi xe máy qua nhưng không dừng lại và không tham gia như lời trình bày của hai nạn nhân.
Phản ứng của luật sư và người quan tâm
Vào sáng ngày 11 tháng 11, hai nạn nhân là luật sư Trần Thu Nam và luật sư Lê Văn Luận có thư gửi cho giám đốc công an thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung. Ông này cũng là đại biểu quốc hội hiện nay. Theo đó hai luật sư cám ơn về biện pháp tiến hành điều tra nhanh chóng vụ việc, thế nhưng theo hai luật sư kết luận không chính xác và hai luật sư mong được trực tiếp gặp người đứng đầu công an Hà Nội trong tư cách công dân để làm sáng tỏ vụ việc.
Chúng tôi sẽ có ý kiến sau nhưng tất cả những sự việc đó là không đúng sự thật. Chúng tôi đã ghi trong thư cảm ơn gửi ông Nguyễn Đức Chung, giám đốc Công an Thành phố Hà Nội. Chúng tôi cho rằng việc họp báo công bố từ một phía- căn cứ vào lời khai từ một phía, thì chưa được khách quan và không đúng sự thật
Luật sư Trần Thu Nam
Luật sư Trần Thu Nam cho biết:
“ Chúng tôi sẽ có ý kiến sau nhưng tất cả những sự việc đó là không đúng sự thật. Chúng tôi đã ghi trong thư cảm ơn gửi ông Nguyễn Đức Chung, giám đốc Công an Thành phố Hà Nội. Chúng tôi cho rằng việc họp báo công bố từ một phía- căn cứ vào lời khai từ một phía, thì chưa được khách quan và không đúng sự thật. Tất cả những điều đó không đúng sự thật cho nên chúng tôi đã ghi trong thư cảm ơn để ông Chung xem xét thêm. Chúng tôi hiện thời cũng đang soạn thảo những văn bản đề nghị khởi tố vụ án, đề nghị khởi tố bị can- những người đánh chúng tôi, sẽ công bố sau.”
Vụ việc gây bức xúc
Vụ việc nạn nhân 17 tuổi Đỗ Đăng Dư thiệt mạng do bị đánh trong trại giam Công an Hà Nội là trường hợp được nêu ra trong Đơn kiến nghị có chữ ký của hơn 200 luật sư tính đến ngày 10 tháng 11. Theo đơn nêu ra thì sau hơn nửa tháng xảy ra vụ việc, cơ quan chức năng vẫn chưa cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư; trong khi ấy theo luật của Việt Nam hiện nay thời hạn qui định là 3 ngày làm việc.
Các luật sư không được cấp giấy chứng nhận bào chữa và khi đến nhà nạn nhân để tư vấn pháp luật lại bị hành hung giữa ‘thanh thiên bạch nhật’.
Vụ này có thể được xem là giọt nước tràn ly buộc nhiều luật sư lên tiếng đòi hỏi phải điều tra cho ra lẽ vụ việc. Một nhóm luật sư đã yêu cầu được gặp giám đốc Công an thành phố Hà Nội, đồng thời là một đại biểu quốc hội.
Vai trò của luật sư lâu nay
Luật sư Trần Vũ Hải, một người ký tên vào kiến nghị, từng phát biểu về trở ngại mà những người hành nghề luật như ông tại Việt Nam gặp phải:
“ Giai đoạn điều tra hiện nay, các luật sư hầu như không vào được hoặc bị gây khó khăn nhiều lắm: từ những ông lãnh đạo của Liên đoàn Luật sư như ông Phan Trung Hoài- phó chủ tịch, cho đến những ông khác ai cũng nói rằng bị công an từ chối 6,7 đến chục lần mà chỉ trong một vụ hai năm gần đây thôi. Cá nhân tôi cũng bị từ chối nhiều lần. Thực tế bị can, bị cáo không từ chối đâu nhưng mà Cơ quan Điều Tra gây sức ép. Đơn giản hơn nữa là họ không thèm trả lời yêu cầu cấp giấy chứng nhận cho chúng tôi. Đó là vấn đề hiện nay cơ quan điều tra của công an ở các địa phương và đặc biệt Bộ Công an đang không tạo điều kiện cho các luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình.”
Luật sư Lê Công Định chỉ ra vai trò quan trọng của một người luật sư trong xã hội, nhất là những nơi có một nhà nước pháp quyền, thượng tôn luật pháp:
“Có thể nói luật sư và ngành công tố là hai trụ cột chính của một nền công lý quốc gia. Thiếu một trong hai thì công lý không thể có, đặc biệt là trụ cột luật sư. Lý do vì sao? Vì công tố- bên buộc tội, luôn dựa vào sức mạnh công quyền có sẵn để truy tố những ai xét về mặt luật pháp vi phạm trật tự công cộng, gây nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên thường những cá nhân liên quan đến tố tụng hình sự họ luôn ở vào thế yếu và do đó họ luôn cần có bênh vực về phương diện pháp lý, do vậy vai trò luật sư rất quan trọng. Suốt chiều dài lịch sử thì quyền bào chữa, quyền biện hộ các bị cáo trong những vụ án hình sự rất quan trọng, cho nên vai trò luật sư cũng được xem xét là quan trọng như một định chế để bảo vệ quyền con người.”
Ở Việt Nam chúng ta biết định chế luật sư được tái lập khoảng năm 1989 cho đến nay cũng đã từng bước phát triển, tuy nhiên đoàn luật sư và liên đoàn luật sư VN vẫn còn bị lệ thuộc sự quản lý của Nhà nước và tệ hại hơn họ còn chịu sự quản lý của các cấp ủy đảng ở địa phương và ở trung ương nữa
LS Lê Công Định
Tuy nhiên cũng theo luật sư Lê Công Định thì lâu nay tại Việt Nam vẫn còn bất cập lớn như sau:
“Ở Việt Nam chúng ta biết định chế luật sư được tái lập khoảng năm 1989 cho đến nay cũng đã từng bước phát triển, tuy nhiên đoàn luật sư và liên đoàn luật sư Việt Nam vẫn còn bị lệ thuộc sự quản lý của Nhà nước và tệ hại hơn họ còn chịu sự quản lý của các cấp ủy đảng ở địa phương và ở trung ương nữa. Như trường hợp luật sư Võ An Đôn, một tỉnh ủy viên có thể yêu cầu can thiệp, việc xử lý một luật sư…”
Thông tin cho biết trong kỳ họp quốc hội cuối cùng của khóa 13 này, các đại biểu sẽ thông qua bộ Luật Tố tụng Hình sự ( sửa đổi), nên các luật sư như ông Trần Vũ Hải hy vọng sẽ có những thay đổi phù hợp giúp người luật sư thực thi hiệu quả vai trò của họ. Luật sư Trần Vũ Hải phát biểu:
“ Mọi người đang hy vọng Bộ Luật Tố tụng Hình sự mà sẽ được thông qua mà kỳ họp quốc hội đang bàn sẽ có điều luật sẽ giải thoát cho các luật sư khỏi những khó khăn, và các luật sư hy vọng rằng vai trò của mình sẽ tốt hơn so với trước. Họ sẽ có những công cụ có khả năng bảo vệ những quyền lợi chính đáng của các bị can, bị cáo.”
Kiến nghị của các luật sư sau khi chỉ ra sự nhiêu khê, khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận bào chữa nêu rõ kiến nghị là một thông điệp nói lên nguyện vọng của giới luật sư và những người hành nghề luật. Họ ‘mong muốn có một vị thế lớn hơn, có vai trò tiếng nói lớn hơn trong hệ thống chính quyền trên định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách thể chế cũng như cải cách hệ thống chính trị.”
Trao, gửi kiến nghị với chữ ký của nhiều người đồng thuận đang là phương phức bày tỏ ý kiến của nhiều người tại Việt Nam. Dù rằng trong thời gian qua có nhiều kiến nghị không được cơ quan chức năng phúc đáp, thế nhưng những người tham gia cho rằng đó là trách nhiệm công dân trong việc xây dựng xã hội tiến bộ và bảo vệ mọi quyền lợi chính đáng của người dân thuộc mọi thành phần và lãnh vực nghề nghiệp khác nhau.
“Đi tắt đón đầu” là một cụm từ xuất hiện với tần suất rất lớn trên báo chí, nhất là cách đây 5, 7 năm, được coi là một phương châm mà có vẻ như các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý rất tâm đắc. Nó xuất phát từ ý muốn khắc phục tình trạng lạc hậu của Việt Nam khi đang lóp ngóp ở vùng trũng của thế giới.
“Đi tắt, đón đầu” hiểu nôm na là lợi dụng các thành quả nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của thế giới, áp dụng cái roẹt vào nước ta, làm cho thiên hạ có cái gì ta có cái đó, cho dù Việt Nam chẳng có lấy một mẩu phát minh nào.
Phương châm này không có gì mới. Không đưa vào nghị quyết, chẳng hô hào thì nó vẫn cứ diễn ra. Còn nhớ ngày xưa, khi tôi mua cái máy tính ni-sa đã cũ, nặng bằng đứa trẻ lên mười với số tiền 12 nghìn đồng lúc ấy thì ngay sau đó, chiếc máy tính điện tử bấm số nằm gọn trong lòng bàn tay chỉ có một nghìn nên đành ném chiếc máy ni-sa vào kho. Loại máy tính gạt cần của Liên Xô như một khối sắt cong, còn tệ hại hơn nữa, thà tính tay còn nhanh hơn. Chẳng ai điên đến mức, khi người Mỹ phát minh ra bóng điện, mình không lợi dụng mà còn đi mày mò nghiên cứu nguyên lý, nguyên tắc, công nghệ làm cái bóng điện như thế nào.
Đó là nói về sản phẩm (dịch vụ) nhập khẩu hay sản phẩm của nước ngoài sản xuất tại Việt Nam hoặc nhập dây chuyền về để sản xuất sản phẩm. Còn lợi dụng công nghệ mới, kỹ thuật mới để bắt chước thiên hạ làm ra sản phẩm thì hình như Việt nam lại không có duyên, như con ốc vít, hì hục mãi vẫn không làm được chẳng hạn. Riêng với công nghiệp đóng tàu, báo chí đã từng ầm ỹ rằng Việt Nam là cường quốc tàu biển, cuối cùng hóa ra nó lại là anh Vinasin như ta đã thấy.
Đi tắt thì được, nhưng đón đầu thì nói cho nó thuận tai thôi, chứ đón đầu sao được. Liệu Việt Nam có thể bỏ tiền ra để mua phắt bản quyền khi thiên hạ vừa phát minh ra cái gì đó không hay chỉ có thể mua dây chuyền về sản xuất. Vấn đề giải mã công nghệ, liệu có giải được không? Vì vậy, nói là đón đầu nhưng áp dụng (hoặc sử dụng) sau thiên hạ vài năm là quý lắm rồi.
Dù sao thì “đi tắt đón đầu” cũng giúp cho Việt Nam cải thiện đáng kể tình trạng lạc hậu so với… chính mình trước đây, chứ không khắc phục được tình trạng tụt hậu.

Vì sao vậy? Vì khi nói đi tắt đón đầu, người ta mới nói đến lĩnh vực khoa học, kỹ thuật thôi, chứ không nói đến vấn đề chính trị- xã hội. Cũng là đi tắt đón đầu nhưng Hàn Quốc, Nhật Bản người ta như thế mà Việt Nam thì lẹt đẹt như thế.
Tình trạng tụt hậu ngày càng xa đã có nhiều nhà kinh tế, nhà nghiên cứu chỉ ra nguyên nhân, đó là do thể chế. Một thể chế sai lầm (chứ không phải là từng phù hợp nhưng nay đã lạc hậu) chình ình ra đấy, cản trở sự phát triển của xã hội mà các nhà lãnh đạo, kể cả ông lãnh đạo cao nhất là Tổng bí thư cứ hô hào phải bảo vệ nó, phải kiên trì, phải định hướng thì đi tắt kiểu gì, đón đầu kiểu gì cho lại.
Cái thể chế độc tài (mà lại là độc tài cộng sản mới khiếp chứ) làm cản trở xã hội bảy chục năm nay rồi. Nó giống như cái máy ni-sa vừa nặng nề, vừa chậm chạp vừa kém hiệu quả của tôi. Sao không nghĩ đến chuyện đi tắt đón đầu để thay nó đi. Mỹ nó giàu mạnh như thế, vậy mô hình Nhà nước Mỹ ra sao, hiến pháp của họ thế nào mà mà vận hành một đất nước rộng lớn vào hạng ba thế giới suôn sẻ như vậy? Nếu không thích Mỹ thì xem mô hình Nhà nước của Đức, của Anh, Pháp. Không nữa thì xem mô hình Nhà nước của các nước Bắc Âu. Nghe nói ngày xưa, ông Đồng (Phạm Văn) sang thăm Bắc Âu, về ông khen nức nở đấy mới đúng là thiên đường. Chẳng hiểu sao khen thế mà ông không có một ý kiến nào đề xuất bắt chước họ.
Mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang áp dụng là khuân trực tiếp ở bên Tàu về, nhưng gốc rễ là từ Liên Xô. Chế độ đảng cộng sản lãnh đạo độc quyền, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, triệt tiêu kinh tế tư bản, cải cách ruộng đất, hợp tác hóa, đánh giới văn nghệ v.v… cũng từ đấy mà ra cả. Xét cho cùng, tội là tội thằng Liên Xô suỵt chó vào bụi rậm. Nhưng nó chui vào nửa chừng rồi lại chui ra, còn ta cứ chui sâu mãi vào là sao? Hay là bị cái tư duy “thay đổi chẳng hóa ra mình sai à” nó ám ảnh?
Mấy ngày nay, ở Việt Nam và thế giới xôn xao về cuộc bầu cử tự do ở Myanmar. Cả nhân loại mừng cho Myanmar. Một chế độ độc tài quân sự ngự trị ở đất nước này đã 53 năm, bây giờ bầu cử tự do. Có tới 92 đảng phái tranh cử, 30 triệu người bằng 80% cử tri đi bầu. Đảng đối lập Liên Minh Dân Chủ của bà Aung San Suu Kyi chiếm 3/4 số ghế trong quốc hội, vượt mức tối thiểu để thành lập chính phủ (2/3 số ghế). Đảng cầm quyền tuyên bố thua cuộc. Kết quả thắng lợi áp đảo của đảng đối lập đã nói lên lòng dân Myanmar. Thế mà trước đây, nếu các quan chức độc tài Myanmar hỏi người dân xem có yêu chế độ không thì có lẽ gần hết người dân bảo có (vì sợ quá), phần còn lại là những người bị nhà cầm quyền cho là “phản động”, sẵn sàng chấp nhận tù đày.
Hoan hỉ chia vui với người dân Myanmar, người ta thèm muốn, ao ước và mơ bao giờ thì đến Việt Nam? Rồi thèm quá không chịu nổi, người ta thách đảng CSVN có dám làm như Myanmar không? Cái sự thách này đang biến thành một phong trào trên mạng xã hội facebook.
Áp dụng mô hình của Mỹ, Châu Âu, cho dù thấy nó hay thật nhưng thế nào cũng có ông lãnh đạo hay ông nghị nào đó, kiểu nghị Phước chẳng hạn cho rằng vì dân trí ta thấp nên không… hợp. Nhưng Myanmar thì sao? Họ cùng khu vực Đông Nam Á với ta, trình độ sản xuất tương đương ta, dân trí cũng gần giống ta; ngoài ra còn nhiều điểm tương đồng khác (!?) như thành thích về nhân quyền kém, không có tòa án độc lập, không chấp nhận đối lập, khủng bố các nhà hoạt động dân chủ, internet bị hạn chế… Thế mà họ đã thả hết tù nhân chính trị, đã chấp nhận các đảng phái đối lập, đã có bầu cử tự do. Vậy thì sao Việt Nam không nhìn sang đó để “đi tắt đón đầu”.
Bao giờ có bầu cử tự do ở Việt Nam? Tôi tin rằng, đây là nỗi trăn trở, là niềm mơ ước, là khát vọng chung của nhân dân Việt nam.
11/11/2015
Nguyễn Tường Thụy, viết từ Hà Nội
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

Bà Aung San Suu Kyi, người đứng đầu đảng Liên đoàn toàn quốc vì dân chủ (NLD), đảng được cho là sẽ giành được chiến thắng áp đảo tại cuộc bầu cử ở Myanmar vừa qua, đã gửi thư cho Tổng thống và người đứng đầu quân đội Myanmar, đề nghị thảo luận về hòa giải quốc gia.
Trong bức thư đề ngày 10 tháng 11 gửi cho Tổng thống Thein Sein và tổng tư lệnh quân đội Myanmar, bà Suu Kyi đề nghị cuộc gặp giữa hai bên trong vòng 1 tuần nữa. Bà viết rằng việc đưa đến bình an trong suy nghĩ của người dân là điều quan trọng đối với quốc gia
Bộ trưởng thông tin Myanmar, phát ngôn viên tổng thống Ye Htut trên trang Facebook của mình hôm nay viết rằng Tổng thống Myanmar đã trả lời yêu cầu trong thư của bà Suu Kyi vào sáng hôm nay, theo đó cuộc gặp sẽ được diễn ra sau khi các nhiệm vụ có liên quan đến cuộc bầu cử của Ủy ban bầu cử được hoàn tất.
Tính cho đến lúc này, đảng NLD của bà Suu Kyi đã giành được 90% số ghế tại hạ viện và cũng đang dẫn đầu trong số ghế ở thượng viện.
Cho đến lúc này quân đội Myanmar vẫn nắm quyền lực khá lớn tại Myanmar theo như hiến pháp được soạn thảo ngay trước khi quân đội nhường quyền cho một chính phủ dân sự. Hiện vẫn chưa rõ bà Suu Kyi và các tướng lãnh quân đội sẽ cùng làm việc với nhau như thế nào trong tương lai.

Lãnh đạo đảng đối lập, bà Aung San Suu Kyi đã yêu cầu họp với lãnh đạo đảng do quân đội hậu thuẫn vào tuần tới để bàn về hòa giải dân tộc.
Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ do bà Suu Kyi dẫn dắt, dẫn trước trong kết quả bỏ phiếu hôm Chủ nhật.
Với khoảng 40% số ghế trong quốc hội, đảng NLD đã dành được gần 90% phiếu ủng hộ.
Một phát ngôn viên phủ tổng thống đã chúc mừng thành công của NLD nhưng nói cuộc họp chỉ có thể diễn ra sau khi kết quả bầu cử cuối cùng được công bố.
Trả lời BBC, phát ngôn viên U Ye Htut nói Tổng thống Thein Sein muốn chúc mừng NLD, và phủ nhận thông tin cho rằng chính quyền muốn trì hoãn công bố kết quả.
Kết quả sẽ là thực tế bẽ bàng đối với đảng cầm quyền, theo phóng viên Jonathan Head của BBC ở Yangon, còn được biết là Rangoon.
Có khả năng đảng NLD sẽ ở vị trí lãnh đạo trong quốc hội tới, và chỉ bị phản đối duy nhất bởi đảng của quân đội, phóng viên BBC nói.
Bà Aung San Suu Kyi giành ghế dân biểu tại đơn vị bầu cử của mình, và sẽ quay trở lại làm nghị sỹ đại diện cho khu vực Kawhmu ở Yangon. Tuy nhiên theo Hiến pháp Myanmar bà không thể trở thành tổng thống.
Mới đây bà tuyên bố điều này “không thể cản trở tôi quyết định toàn bộ”.
Cuộc bầu cử hôm Chủ nhật 8/11 được xem là tổng tuyển cử dân chủ nhất ở Myanmar trong 25 năm nay.
Trong phỏng vấn với BBC hôm thứ Ba 10/11, cuộc phỏng vấn đầu tiên hậu bầu cử, bà Suu Kyi nói tiến trình bầu cử diễn ra “nói chung là tự do” tuy chưa hoàn toàn công bằng và có một số vi phạm.
USDP, cầm quyền từ 2011 tới nay, cho tới giờ phút này mới giành được 10 trong số 491 ghế được đem ra tranh cử tại lưỡng viện, so với 163 ghế của NLD.
Một phần tư trong số 664 ghế tại Quốc hội đã được dành cho quân đội mà không cần qua bỏ phiếu.
Nếu NLD muốn chiếm đa số và lựa chọn tổng thống, đảng này phải đạt ít nhất hai phần ba số ghế.
Khoảng 30 triệu cử tri đủ tư cách tham gia bầu cử hôm Chủ nhật tại Myanmar. Khoảng 80% cử tri đi bầu.
Tuy vậy hàng trăm nghìn người, trong đó có người thiểu số Rohingya theo Hồi giáo, vốn không có quyền công dân, không được tham gia bầu cử.
Miến Điện cuối cùng sau 53 năm đã giành được quyền phổ thông đầu phiếu để bước tới một nền dân chủ mà người dân của họ mơ ước. Còn Việt Nam, với chính phủ hiện tại và điều 4 hiến pháp khẳng định sự cai trị duy nhất của đảng có thể áp dụng bài học Miển Điện được không? Mặc Lâm phỏng vấn GS Tương Lai, nguyên Giám đốc Viện nghiên cứu Xã Hội Việt Nam để biết thêm ý kiến một đảng viên lão thành của Đảng cộng sản Việt Nam trước câu hỏi này. Trước tiên GS Tương Lai cho biết:
Giáo sư Tương Lai:Đây là một tin vui lớn vì Miến Điện rất gần gũi với Việt Nam và bối cảnh của Miến Điện trong thời gian trước đây cũng ở trong một thể chế độc tài, phản dân chủ, mà trong chừng mức nào đó, nó lại còn gay gắt hơn Việt Nam. Thế nhưng, khi mà ông Then Sein có một chuyển đổi khiến người ta dùng từ “một chuyển đổi vĩ đại”.
Vì đấu tranh cho tự do dân chủ đã khó, tự giác “cho không” quyền tự do dân chủ còn khó hơn. Sự thật, trong lịch sử nhân loại thì chưa có nhà độc tài nào “cho không” quyền tự do dân chủ, kể cả khi đã nằm yên trong nấm mồ. Lúc mà ông ta quyết định như vậy thì sức mạnh cũng vẫn còn nằm trong tay ông ấy chứ không phải ông ấy đã bị tước hết trước một cái áp lực nào ( mà đương nhiên là có rồi) nhưng thực ra nếu ông ta vẫn kiên trì chế độ toàn trị phản dân chủ, chế độ quân phiệt thì chắc cũng là khó khăn. Nếu tiến đến dân chủ, bà Aung Shan Suu Kyi cầm quyền được hay là đảng của bà lên được thì có khi máu sẽ chảy thành sông. Tuy vậy, ông Then Sein nhận thức được cái xu thế không thể nào thay đổi và ông ấy cũng nhận thức được áp lực từ phía nhân dân lên chính quyền của ông, lên thể chế phản dân chủ của ông cho nên ông đã có một quyết định mà tôi nghĩ là vĩ đại.
Ông Then Sein thoát ra khỏi vòng kim cô, ra khỏi áp lực của TQ, theo chỗ tôi biết thì đường biên giới của Miến Điện với TQ còn dài hơn gấp hai lần đường biên giới giữa Việt Nam và TQ
Giáo sư Tương Lai
Mặc Lâm: Như chúng ta đã biết, Miến Điện đã rất mạnh mẽ để chặt đứt mối quan hệ lệ thuộc đối với Trung Quốc cho nên ông Then Sein mới có thể giải quyết được những gì mà ông ấy và đồng minh của ông ấy muốn. Tuy nhiên, với Việt Nam thì vừa qua, vấn đề đón Tập Cận Bình đã cho thấy là lãnh đạo Việt Nam không muốn rời bỏ mối quan hệ với TQ. Như vậy thì làm cách nào ạo được biến chuyển trong khi TQ vẫn muốn Việt Nam trong tình trạng như vậy?
Giáo sư Tương Lai: Ông Then Sein thoát ra khỏi vòng kim cô, ra khỏi áp lực của TQ, theo chỗ tôi biết thì đường biên giới của Miến Điện với TQ còn dài hơn gấp hai lần đường biên giới giữa Việt Nam và TQ. Áp lực của TQ do lính đánh thuê TQ nhân danh đảng Cộng sản Miến Điện nằm áp sát vào biên giới đó và vẫn tiếp tục đe dọa bằng vũ lực liên miên trong hàng chục năm. Đến bây giờ, bối cảnh đã thay đổi và áp lực đó bị đẩy lùi.
Không đẩy lùi được cái này, không cắt đứt cái vòi bạch tuộc của TQ thì dù ông Then Sein có muốn cũng không làm được. Trong hàng ngũ lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, tôi biết rằng người ta cũng hiểu rất rõ trong cái tâm thế của người Việt thì theo Tàu là nhục nhã lắm, là tội đồ của lịch sử. Bây giờ ghét ai là cho là “thắng ấy thân Tàu”. Không phải là họ không điều đó đâu mặc dầu là họ bị lừa bịp bằng cái ý thức hệ XHCN; Vì vậy mới có Thành Đô nhục nhã và tai hại.
Cho đến hiện nay càng ngày càng thấy rõ rồi nhưng họ chưa đủ bản lĩnh vì họ còn sợ con “ngáo ộp” Tập Cận Bình, con “ngáo ộp” TQ cho nên không phải là chúng không lung lạc được một số người trong đội hình lãnh đạo Việt Nam đâu. Vì vậy, áp lực đó đang dồn vào trước cái thềm đại hội XII. Hiện nay, cho đến giờ phút này, người ta đang chờ đại hội trung ương XIII và không biết sau hội nghị XIII có còn hội nghị trung ương XIV không? Đại hội XII có họp được không là tùy thuộc vào bản lĩnh của những người lãnh đạo Việt Nam tách ra khỏi cái vòng kim cô, sức trói buộc của Tàu đến đâu.
Mặc Lâm: Thưa giáo sư, ai cũng thấy tập hợp giữa bà Aung Shan Suu Kyi và ông Then Sein đã làm nên lịch sứ cho Miến Điện. Tuy nhiên, muốn có một Then Sein ở Việt Nam mà không có Aung Shan Suu Kyi thì làm sao được, thưa ông?
Giáo sư Tương Lai: Mỗi một nước có một bước đi riêng của mình. Anh nhìn xem quá trình của sự sụp đổ của khối Xô Viết, mở đầu bằng Gobachov đến một anh say rượu là Yelsin, rồi đến anh độc tài Putin. Có ai ngờ được những bước đi như thế đâu. Không ai ngờ cả. Hồi ấy, cách đây đến 20 năm, trên một chuyến xe đi từ Phú Thọ về dừng lại trước cửa tòa báo Nhân Dân, lúc bấy giờ tôi còn nói với ông Đức Lượng là Phó Tổng biên tập và ông Đinh Thế Huynh là cán bộ đi theo ông Đức Lượng, tôi nói “báo Nhân Dân các ngài chửi ông Gorbachyov ít thôi. Rồi đây phải đúc tượng đồng, bia đá cho người ta đó”.
Đòi Việt Nam cũng có một Aung Shan Suu Kyi thì tôi thấy Aung Shan Suu Kyi đã nằm trong 90 triệu người Việt Nam đó! Nằm trong sự phẫn nộ của những người Việt Nam vì chế độ toàn trị này ở Việt Nam đã làm cho đất nước lụn bại, không đi lên được
Giáo sư Tương Lai
Các ông này trợn tròn mắt lên và nói “tại sao anh nói sai về nghị quyết Bộ chính trị?” Tôi nói là rồi đây sẽ được chứng minh, lịch sử sẽ trả lời cho các anh biết. Những cái chuyện mà các anh phân tích đó nó không đúng với xu thế chung đâu. Từ hồi ấy đến nay đã hơn 20 năm. Lịch sử nó đi chậm chạp đến như thế.
Đùng một cái, với sự kiện như Miến Điện thì tôi cho là lịch sử sẽ như bước nhảy thúc đẩy. Vậy thì đòi Việt Nam cũng có một Aung Shan Suu Kyi thì tôi thấy Aung Shan Suu Kyi đã nằm trong 90 triệu người Việt Nam đó! Nằm trong sự phẫn nộ của những người Việt Nam vì chế độ toàn trị này ở Việt Nam đã làm cho đất nước lụn bại, không đi lên được. Đã làm cho đất nước này trở thành một trong những đất nước lạc hậu nhất trong khu vực. Khi đã có một ngòi nổ ở Miến Điện như thế, có một tấm gương của tổng thống Then Sein, có một tấm gương của Aung Shan Suu Kyi thì ở Việt Nam sẽ tạo ra các nhân tố mới. Tất cả những cái đó đều nằm trong nội dung của lòng phẫn nộ và trong qui luật phát triển của lịch sử. Không có gì thay đổi được đâu.
Mặc Lâm: Vâng, một lần nữa xin cảm ơn giáo sư Tương Lai đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn ngày hôm nay.
Công an Hà Nội vào chiều ngày 10 tháng 11 tiến hành họp báo về vụ việc hai luật sự bị đánh đến thương tích hôm ngày 3 tháng 11. Đây cũng là vụ việc thúc đẩy hơn 200 luật sư trên cả nước ký tên vào Đơn Kiến nghị gửi Quốc hội về việc góp ý sửa đổi Bộ Luật Tố Tụng Hình sự, đề nghị bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
Kết luận điều tra
Kết luận điều tra vụ việc được đưa ra đúng một tuần sau khi xảy ra vụ tám người tấn công đánh hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân sau khi hai người vừa đi ra chừng 100 mét từ nhà của nạn nhân 17 tuổi Đỗ Đăng Dư chết do bị đánh trong trại giam.
Theo Công an Hà Nội thì nguyên nhân khiến hai luật sư bị đánh là do phóng ô tô gây bụi trên đường làng. Khi họ bị đánh thì có công an viên của xã đi xe máy qua nhưng không dừng lại và không tham gia như lời trình bày của hai nạn nhân.
Phản ứng của luật sư và người quan tâm
Vào sáng ngày 11 tháng 11, hai nạn nhân là luật sư Trần Thu Nam và luật sư Lê Văn Luận có thư gửi cho giám đốc công an thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung. Ông này cũng là đại biểu quốc hội hiện nay. Theo đó hai luật sư cám ơn về biện pháp tiến hành điều tra nhanh chóng vụ việc, thế nhưng theo hai luật sư kết luận không chính xác và hai luật sư mong được trực tiếp gặp người đứng đầu công an Hà Nội trong tư cách công dân để làm sáng tỏ vụ việc.
Chúng tôi sẽ có ý kiến sau nhưng tất cả những sự việc đó là không đúng sự thật. Chúng tôi đã ghi trong thư cảm ơn gửi ông Nguyễn Đức Chung, giám đốc Công an Thành phố Hà Nội. Chúng tôi cho rằng việc họp báo công bố từ một phía- căn cứ vào lời khai từ một phía, thì chưa được khách quan và không đúng sự thật
Luật sư Trần Thu Nam
Luật sư Trần Thu Nam cho biết:
“ Chúng tôi sẽ có ý kiến sau nhưng tất cả những sự việc đó là không đúng sự thật. Chúng tôi đã ghi trong thư cảm ơn gửi ông Nguyễn Đức Chung, giám đốc Công an Thành phố Hà Nội. Chúng tôi cho rằng việc họp báo công bố từ một phía- căn cứ vào lời khai từ một phía, thì chưa được khách quan và không đúng sự thật. Tất cả những điều đó không đúng sự thật cho nên chúng tôi đã ghi trong thư cảm ơn để ông Chung xem xét thêm. Chúng tôi hiện thời cũng đang soạn thảo những văn bản đề nghị khởi tố vụ án, đề nghị khởi tố bị can- những người đánh chúng tôi, sẽ công bố sau.”
Vụ việc gây bức xúc
Vụ việc nạn nhân 17 tuổi Đỗ Đăng Dư thiệt mạng do bị đánh trong trại giam Công an Hà Nội là trường hợp được nêu ra trong Đơn kiến nghị có chữ ký của hơn 200 luật sư tính đến ngày 10 tháng 11. Theo đơn nêu ra thì sau hơn nửa tháng xảy ra vụ việc, cơ quan chức năng vẫn chưa cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư; trong khi ấy theo luật của Việt Nam hiện nay thời hạn qui định là 3 ngày làm việc.
Các luật sư không được cấp giấy chứng nhận bào chữa và khi đến nhà nạn nhân để tư vấn pháp luật lại bị hành hung giữa ‘thanh thiên bạch nhật’.
Vụ này có thể được xem là giọt nước tràn ly buộc nhiều luật sư lên tiếng đòi hỏi phải điều tra cho ra lẽ vụ việc. Một nhóm luật sư đã yêu cầu được gặp giám đốc Công an thành phố Hà Nội, đồng thời là một đại biểu quốc hội.
Vai trò của luật sư lâu nay
Luật sư Trần Vũ Hải, một người ký tên vào kiến nghị, từng phát biểu về trở ngại mà những người hành nghề luật như ông tại Việt Nam gặp phải:
“ Giai đoạn điều tra hiện nay, các luật sư hầu như không vào được hoặc bị gây khó khăn nhiều lắm: từ những ông lãnh đạo của Liên đoàn Luật sư như ông Phan Trung Hoài- phó chủ tịch, cho đến những ông khác ai cũng nói rằng bị công an từ chối 6,7 đến chục lần mà chỉ trong một vụ hai năm gần đây thôi. Cá nhân tôi cũng bị từ chối nhiều lần. Thực tế bị can, bị cáo không từ chối đâu nhưng mà Cơ quan Điều Tra gây sức ép. Đơn giản hơn nữa là họ không thèm trả lời yêu cầu cấp giấy chứng nhận cho chúng tôi. Đó là vấn đề hiện nay cơ quan điều tra của công an ở các địa phương và đặc biệt Bộ Công an đang không tạo điều kiện cho các luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình.”
Luật sư Lê Công Định chỉ ra vai trò quan trọng của một người luật sư trong xã hội, nhất là những nơi có một nhà nước pháp quyền, thượng tôn luật pháp:
“Có thể nói luật sư và ngành công tố là hai trụ cột chính của một nền công lý quốc gia. Thiếu một trong hai thì công lý không thể có, đặc biệt là trụ cột luật sư. Lý do vì sao? Vì công tố- bên buộc tội, luôn dựa vào sức mạnh công quyền có sẵn để truy tố những ai xét về mặt luật pháp vi phạm trật tự công cộng, gây nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên thường những cá nhân liên quan đến tố tụng hình sự họ luôn ở vào thế yếu và do đó họ luôn cần có bênh vực về phương diện pháp lý, do vậy vai trò luật sư rất quan trọng. Suốt chiều dài lịch sử thì quyền bào chữa, quyền biện hộ các bị cáo trong những vụ án hình sự rất quan trọng, cho nên vai trò luật sư cũng được xem xét là quan trọng như một định chế để bảo vệ quyền con người.”
Ở Việt Nam chúng ta biết định chế luật sư được tái lập khoảng năm 1989 cho đến nay cũng đã từng bước phát triển, tuy nhiên đoàn luật sư và liên đoàn luật sư VN vẫn còn bị lệ thuộc sự quản lý của Nhà nước và tệ hại hơn họ còn chịu sự quản lý của các cấp ủy đảng ở địa phương và ở trung ương nữa
LS Lê Công Định
Tuy nhiên cũng theo luật sư Lê Công Định thì lâu nay tại Việt Nam vẫn còn bất cập lớn như sau:
“Ở Việt Nam chúng ta biết định chế luật sư được tái lập khoảng năm 1989 cho đến nay cũng đã từng bước phát triển, tuy nhiên đoàn luật sư và liên đoàn luật sư Việt Nam vẫn còn bị lệ thuộc sự quản lý của Nhà nước và tệ hại hơn họ còn chịu sự quản lý của các cấp ủy đảng ở địa phương và ở trung ương nữa. Như trường hợp luật sư Võ An Đôn, một tỉnh ủy viên có thể yêu cầu can thiệp, việc xử lý một luật sư…”
Thông tin cho biết trong kỳ họp quốc hội cuối cùng của khóa 13 này, các đại biểu sẽ thông qua bộ Luật Tố tụng Hình sự ( sửa đổi), nên các luật sư như ông Trần Vũ Hải hy vọng sẽ có những thay đổi phù hợp giúp người luật sư thực thi hiệu quả vai trò của họ. Luật sư Trần Vũ Hải phát biểu:
“ Mọi người đang hy vọng Bộ Luật Tố tụng Hình sự mà sẽ được thông qua mà kỳ họp quốc hội đang bàn sẽ có điều luật sẽ giải thoát cho các luật sư khỏi những khó khăn, và các luật sư hy vọng rằng vai trò của mình sẽ tốt hơn so với trước. Họ sẽ có những công cụ có khả năng bảo vệ những quyền lợi chính đáng của các bị can, bị cáo.”
Kiến nghị của các luật sư sau khi chỉ ra sự nhiêu khê, khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận bào chữa nêu rõ kiến nghị là một thông điệp nói lên nguyện vọng của giới luật sư và những người hành nghề luật. Họ ‘mong muốn có một vị thế lớn hơn, có vai trò tiếng nói lớn hơn trong hệ thống chính quyền trên định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách thể chế cũng như cải cách hệ thống chính trị.”
Trao, gửi kiến nghị với chữ ký của nhiều người đồng thuận đang là phương phức bày tỏ ý kiến của nhiều người tại Việt Nam. Dù rằng trong thời gian qua có nhiều kiến nghị không được cơ quan chức năng phúc đáp, thế nhưng những người tham gia cho rằng đó là trách nhiệm công dân trong việc xây dựng xã hội tiến bộ và bảo vệ mọi quyền lợi chính đáng của người dân thuộc mọi thành phần và lãnh vực nghề nghiệp khác nhau.

Tờ Epochtimes trích dẫn thông báo nêu rõ, Ủy ban giám sát kỷ luật trung ương Trung Quốc ngày 11/11 chính thức tiến hành điều tra bà Lã Tích Văn, Phó Bí thư thành ủy Bắc Kinh, do bị tình nghi “vi phạm kỷ luật nghiêm trọng”, cụm từ thường chỉ quan chức nước này tham nhũng.
Truyền thông nước này phân tích rằng, có 2 nguyên nhân khiến bà Lã Tích Văn bị điều tra, một là bà có dính líu nghiêm trọng tới tham ô trong thời gian giữ chức vụ Phó Bí thư quận Tây Thành (Bắc Kinh), hai là trong thời gian giữ chức vụ Trưởng ban Tổ chức thành ủy Bắc Kinh bà bị nghi nhận tiền hối lộ để bố trí nhân sự.
Cùng ngày, Bí thư thành ủy Bắc Kinh Quách Kim Long cho hay, vụ việc bà Lã bị điều tra tham nhũng để lại ảnh hưởng vô cùng xấu, đồng thời đã thể hiện rõ quyết tâm của Chủ tịch Tập Cận Bình trong việc đấu tranh chống tham nhũng. Ngoài ra, ông Quách còn cảnh tỉnh các quan chức Bắc Kinh nhìn đó làm tấm gương, rút ra bài học để không vướng vào các hoạt động phi pháp.
Kể từ khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lên nắm quyền, ông đã đẩy mạnh hoạt động “đả hổ diệt ruồi”, bài trừ tệ nạn tham nhũng trong giới chức lãnh đạo nước này. Tính tới thời điểm hiện tại, toàn bộ các tỉnh thành của Trung Quốc đều có quan chức cấp cao dính tới tham nhũng và bị điều tra.
Theo Dân trí
http://www.tienphong.vn/Phap-Luat/dan-bat-cong-an-tra-lai-tien-hoi-lo-930175.tpo

Chống tiêu cực qua Facebook
Ông Trần Minh Lợi sinh năm 1968 từng học cao đẳng Công nghệ thông tin, có gần 3 năm dạy hợp đồng môn này cho một hệ đào tạo liên kết, từng kinh doanh thua lỗ khi vào vai giám đốc Cty TNHH Thương mại và Xây dựng Lâm Nguyên, rồi trở về quản lý cụm quán tại gia gồm các dịch vụ cà phê, internet, photocopy tại thôn 4, xã Ea Bhok, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Trong 2 năm 2014-2015, ông Trần Minh Lợi được nhiều lần nhắc đến trên hàng chục báo đài, vì đã tự điều tra, quay phim, chụp ảnh, ghi âm, viết đơn tố cáo các biểu hiện phạm pháp của một số cán bộ đảng viên, đặc biệt là những người đang công tác trong 2 ngành Công an, Kiểm sát, gửi đến các cơ quan báo chí thường trú trên địa bàn và lãnh đạo các cấp, từ địa phương tới trung ương.
Đơn tố cáo ông Lợi viết, chẳng những công khai cả tên tuổi địa chỉ, số chứng minh nhân dân, mà còn giới thiệu luôn nickname Facebook của ông là “Diệt giặc nội xâm”, mà nhiều người vào xem đã không khỏi bất ngờ trước thái độ căm ghét “không cần tiết chế” của ông với những cán bộ có tên tuổi chức vụ cụ thể, mà ông cho rằng đã suy thoái đạo đức, đã tiêu cực tham nhũng, phạm pháp nghiêm trọng nhưng không được xử lý nghiêm minh.
Ngược lại, ông Lợi cũng bị vài công dân trình báo với nhà chức trách về việc ông sử dụng thủ đoạn tinh vi gây khó cho họ về tiền nong. Tuy nhiên, trong khi họ chưa đưa ra được chứng cứ đủ thuyết phục về cái sai của ông Lợi, thì ông Lợi lại luôn kèm đủ bằng chứng về nhiều đối tượng bị ông tố giác. Vì thế, ngày càng có nhiều người dân đến nhờ ông Lợi giúp gỡ rối. Và số biên bản nhận hàng trăm triệu đồng tiền trả lại từ những cán bộ nhận tiền hứa hẹn “chạy án, chạy việc” với dân, nhưng việc không thành, tiền không trả, dân đòi không được, phải cậy ông Lợi vào cuộc hỗ trợ để “lật tẩy phi vụ” ngày càng dày hơn, mà chuyện kể dưới đây chỉ là vài vụ tiêu biểu trong số đó.
Bắt công an trả lại tiền cho dân
Độc giả tới nay vẫn còn nhắc về loạt bài điều tra nhiều kỳ “Thiếu tá rơi súng” đăng trên báo Tiền Phong, mà tin báo cùng những hình ảnh ban đầu do ông Trần Minh Lợi cung cấp. Đến cuối năm 2014, cả 11 cán bộ, chiến sĩ công an huyện Cư Kuin có sai phạm trong vụ này đã bị kiểm điểm, cảnh cáo, kỷ luật ở các mức khác nhau.
Trong số cán bộ bị kỷ luật vụ “thiếu tá rơi súng”, có thượng úy- điều tra viên Hoàng Đình N. và đại úy Phạm Duy K., đội phó “đội CSĐT tội phạm về trật tự xã hội & ma túy” công an huyện Cư Kuin. Tới cuối tháng 3/2015, hai cán bộ này lại có hành vi gợi ý người dân hối lộ để chạy tại ngoại cho một nhóm thanh niên bị bắt về tội đánh bài tại thôn Kim Châu, xã Đrây Bhăng, huyện Cư Kuin. Được dân nhờ vào cuộc, ông Lợi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết rồi gọi điện thoại, yêu cầu thượng úy N., đại úy K. phải trả lại toàn bộ các khoản tiền đã nhận. Đến hết ngày 21/4/2015, cả 90 triệu đồng đưa – nhận hối lộ đã được trả về cho các “khổ chủ”. Tuy nhiên, hồ sơ vụ việc vẫn tới tay nhà chức trách. Thượng úy N. đã bị tước quân tịch, ra khỏi ngành, còn đại úy K. bị điều chuyển sang huyện khác, tiếp đó cả hai bị Viện KSND Tối cao khởi tố để điều tra về hành vi nhận hối lộ.
Ngày 9/9/2015, bà Ngọc là giáo viên mầm non đến cầu cứu ông Lợi, về việc đại úy Phạm Văn T. công tác tại phòng PC 47 Công an tỉnh Đắk Lắk hứa giúp cháu bà Ngọc là Thức “mua suất đỗ” vào một trường công an với giá 300 triệu đồng, đưa trước 100 triệu đồng, còn 200 triệu sẽ nhận tiếp khi có kết quả. Từ tháng 7/2014 bố mẹ Thức đã đưa bà Ngọc 100 triệu này để bà đưa đại úy T. Nhưng ông này không mua được suất đỗ, cũng không chịu trả lại tiền, khiến bà Ngọc bị bố mẹ Thức phản ứng dữ dội. Ông Lợi ra tay. Chỉ 6 ngày sau tại quán cà phê Bi Bi, ông T. đã phải trả lại 100 triệu đồng cho bà Ngọc, sau khi bị ông Lợi gửi đơn tố cáo kèm chứng cứ đến lãnh đạo Công an tỉnh.
Ngày 12/10/2015, đôi vợ chồng Nhật – Hồng ở thị trấn Buôn Trấp huyện Krông Ana viết đơn nhờ ông Lợi giúp đòi thượng úy Đoàn Công D. – Công an TP Buôn Ma Thuột phải trả lại 110 triệu đồng kèm tiền lãi ngân hàng trong 16 tháng. Bà Hồng nguyên là nhân viên chi nhánh Agribank huyện, trước kỳ thi công chức sợ rớt, nghe ông D. hứa sẽ “chạy được vào công chức”, tháng 6/2014 đã mượn bìa đỏ của mẹ ruột thế chấp tài sản vay ngân hàng để có 110 triệu đồng giao cho ông D. Tiền giao xong thì mất việc, vợ chồng Nhật – Hồng đòi mãi ông D. không trả. Sau khi ông Lợi vào cuộc, chiều ngày 13/10 tại quán cà phê La Cà số 22 Y Jút, ông D. đã phải chấp nhận trả lại đủ số tiền này cho vợ chồng Nhật – Hồng, lại còn… ký hẳn hoi vào biên bản 4 bên.
Biên bản ông D. Công an Thành phố trả lại tiền sau khi ông Lợi vào cuộc, yêu cầu.
Mới đây, ông Lợi còn không ngần ngại lập danh sách liệt kê tới 26 cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm pháp luật trên địa bàn huyện Cư Kuin và tỉnh Đắk Lắk gửi đến nhiều cơ quan công quyền, và đưa tung lên Facebook “Diệt giặc nội xâm”. Trao đổi với đại diện báo Tiền Phong về vấn đề này, đại tá Phạm Hữu Nhạc – Phó Giám đốc công an tỉnh Đắk Lắk cho biết quan điểm của lãnh đạo Công an tỉnh là không bao che cho bất cứ cán bộ đảng viên nào sai phạm. “Mọi công dân đều có quyền chống tiêu cực tham nhũng. Công an tỉnh hoan nghênh mọi đóng góp làm trong sạch đội ngũ giúp ngành. Tất nhiên, người đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực càng phải giữ mình trong sạch, hành xử đúng pháp luật, nếu không, anh cũng sẽ bị xử lý nếu vi phạm các quy định của luật pháp”, đại tá Nhạc nhấn mạnh!
Theo nguồn tin của báo Tiền Phong, sáng 6/11 thượng tá Hà Hồng Bôn, Phó chánh thanh tra Công an tỉnh mời ông Trần Minh Lợi lên làm việc, khẳng định sẽ kỷ luật đại úy Phạm Văn T. đúng điều lệ ngành. Trường hợp thượng úy Đoàn Công D. dù ông Lợi không gửi đơn tố cáo nhưng lãnh đạo công an tỉnh sau khi đọc được trên Facebook “Diệt giặc nội xâm”, đã giao nhiệm vụ cho lãnh đạo Công an thành phố Buôn Ma Thuột phải điều tra, xử lý và trả lời công an tỉnh, tới nay chưa thấy hồi âm.
Trích ghi âm trao đổi giữa ông Lợi với đại úy T
Cuộc 1
-Lợi: Trong tuần tới ngày nào chú trả tiền cho công dân? Chú nói chú làm thì anh im, còn không thì …
-T: Em đang đi mua đồ…Vợ em sinh đâu có ai lên chăm, em phải nhờ bà nội tuần tới lên giúp em… Em nói Ngọc rồi, hôm nay mười mấy tháng Chín rồi, qua đầu tháng Mười em sẽ trả. Em không trốn tránh trách nhiệm của em. Còn có hai chục ngày nữa …
-Lợi: Nếu trong ngày thứ hai chú không giải quyết xong thì sáng thứ ba tuần tới anh sẽ làm việc với lãnh đạo. Anh lúc nào cũng bảo vệ dân. Đối với cán bộ sai phạm anh sẽ tạo điều kiện, nhưng có mức độ thôi. Tiền này đương nhiên chú phải trả.
-T: Anh nói nhanh quá em không nghe …
Cuộc 2
– Lợi: Chú T này, hồ sơ của chú anh chuẩn bị đủ rồi, nếu chiều nay chú vẫn chưa trả đủ tiền cho cô Ngọc thì anh sẽ gặp đồng chí Tư Rơi giám đốc công an tỉnh. Chú là cán bộ chiến sĩ công an mà chú lại vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
-T: Anh bảo trong ngày thứ Hai đúng không? Em thu xếp gần đủ rồi. Nếu chiều nay em bán luôn được chiếc xe của em thì em sẽ trả tiền cho nó … Em không từ chối trách nhiệm của em… Nếu tới 8 h sáng mai thứ Ba em vẫn không trả tiền được cho Ngọc thì anh cứ gặp giám đốc em theo quy trình, theo nội dung lá đơn mà Ngọc nó viết…
***********
Ghi âm D- Nhật-Hồng-Lợi chiều 13/10/2015 tại quán cà phê La Cà số 22 Y Jút-Lợi: Chú định cho anh ngồi đây đến bao giờ đây chú D ? Anh đồng ý cho em khắc phục, em phải trả đúng 110 triệu!
– D: Anh thông cảm … Họ mới chuyển cho em đúng 100 triệu…
– Lợi: Chú không được nói với anh chuyện này liên quan đến ai. Chú làm công an chú biết. Chuyện này cơ quan điều tra có trách nhiệm làm rõ. Trách nhiệm của chú phải trả đủ tiền cho công dân. Họ đã vay ngân hàng và chịu lãi vay 16 tháng nay hết 17,6 triệu tiền lãi, chú phải có trách nhiệm trả lại người ta cho đàng hoàng.
– D: Nhật này, anh nhận tiền của em, anh viết giấy tờ đàng hoàng… Bây giờ anh lấy về được 100 triệu, còn lại 10 triệu, anh sẽ thấy nguồn khác để trả. Việc của em không phải anh nói không được, nhưng chuyện đó bây giờ không tế nhị, anh không nói nữa, em tạo điều kiện cho anh một tí. Em cứ nhận trước cho anh 100 triệu, thứ bảy em cầm hết giấy tờ anh đã viết cho em chạy lên nhà anh. Anh sẽ cố gắng hỗ trợ cho mày 5 hay 7 triệu tiền lãi. Anh nói tình cảm, chứ anh chưa hỗn láo gì cả, chưa nói là ĐM tao Đ. trả cho mày …
– Lợi: Chú D nói hỗ trợ cô chú 5-7 triệu tiền lãi, ý cô chú thế nào ?
– Nhật: Em giao quyền lợi cho anh Lợi rồi, chứ em đã mượn bìa đỏ của mẹ vợ…
– Hồng: Lãi ngân hàng hơn 1 năm đã hơn 17 triệu rồi. Thà lo không được anh cứ nói rõ, đàng này anh để bọn em cứ phải điện lui điện tới, tiền lãi lên cao, em không nhất trí.
– D: Anh giúp tụi mày chỉ vì tình cảm. Từ đầu cũng không ghi lãi trong giấy. Anh chẳng lời lãi gì. Vấn đề rủi ro, anh cũng tốn kém, cà phê cà pháo, nhậu nọ nhậu kia…
– Lợi : Họ vay ngân hàng 16 tháng phải chịu lãi 17,6 triệu đồng. Chú đã hứa chạy suất đỗ, làm điều pháp luật không cho phép. Điều lệ điều lệnh của lực lượng Công an nhân dân không cho phép. Quyền lợi chính đáng của nhân dân anh có trách nhiệm bảo vệ. Anh đề nghị này: Chú phải trả hết cả tiền gốc và lãi cho họ ! Nếu không chú cứ làm việc với cơ quan điều tra.
– D: Hồng ạ, em đã nhờ anh Lợi giúp rồi, anh hiểu. Anh hết tình cảm luôn, dứt khoát một phát nè: chấp nhận trả cho em tổng cộng 110 triệu tiền gốc, cộng thêm vay người ta trả cho em luôn 10 triệu tiền lãi… Anh không lợi lộc gì, chưa được cái gì, 1 ly cà phê cũng chưa có.
-Lợi: Chú D đừng có nói chuyện lợi lộc ở đây. Hành vi này vi phạm điều cấm, anh chứng minh được hành vi đấy.
-D: Em hiểu, Em hiểu ! Chậm nhất tới chiều chủ nhật em trả luôn. Còn nếu qua chiều chủ nhật thì anh kiện …-Lợi: Chú đang làm việc với anh, đừng có lộn xộn. Chứng từ đây, chú đã nhận của họ 110 triệu đúng không ? Anh làm bài bản, rõ ràng minh bạch. Sau khi 2 bên thống nhất anh sẽ cho ký lại cái giấy, anh in ra rồi anh ký vào đó nữa. Anh chịu trách nhiệm pháp luật về những việc mình làm. Chú nên nhớ mình đang là công an, mà họ là người dân.
– Hồng: Giờ cháu đếm tiền được chưa chú ?
-Lợi: Được, hai đứa đếm tiền đi, 100 triệu đấy !
Chiều 6/11 trao đổi với đại diện báo Tiền Phong, Bí thư Huyện ủy Cư Kuin (tỉnh Đắk Lắk) Lê Thái Dũng cho biết, quan điểm của cá nhân ông là hoan nghênh việc chống tiêu cực, tham nhũng của ông Trần Minh Lợi. Tuy không phải việc nào ông Lợi phản ánh cũng đúng và cách biểu hiện có lúc thái quá, chưa ổn, nhưng những vụ đủ cơ sở thì huyện rất quan tâm. Ông Lê Thái Dũng nói: “Ví dụ vụ cán bộ xã trục lợi đường thôn 2 đi thôn 7, anh Lợi trình bày, tôi cho lập đoàn liên ngành xử lý ngay!”.
Bà Aung San Suu Kyi, người đứng đầu đảng Liên đoàn toàn quốc vì dân chủ (NLD), đảng được cho là sẽ giành được chiến thắng áp đảo tại cuộc bầu cử ở Myanmar vừa qua, đã gửi thư cho Tổng thống và người đứng đầu quân đội Myanmar, đề nghị thảo luận về hòa giải quốc gia.
Trong bức thư đề ngày 10 tháng 11 gửi cho Tổng thống Thein Sein và tổng tư lệnh quân đội Myanmar, bà Suu Kyi đề nghị cuộc gặp giữa hai bên trong vòng 1 tuần nữa. Bà viết rằng việc đưa đến bình an trong suy nghĩ của người dân là điều quan trọng đối với quốc gia
Bộ trưởng thông tin Myanmar, phát ngôn viên tổng thống Ye Htut trên trang Facebook của mình hôm nay viết rằng Tổng thống Myanmar đã trả lời yêu cầu trong thư của bà Suu Kyi vào sáng hôm nay, theo đó cuộc gặp sẽ được diễn ra sau khi các nhiệm vụ có liên quan đến cuộc bầu cử của Ủy ban bầu cử được hoàn tất.
Tính cho đến lúc này, đảng NLD của bà Suu Kyi đã giành được 90% số ghế tại hạ viện và cũng đang dẫn đầu trong số ghế ở thượng viện.
Cho đến lúc này quân đội Myanmar vẫn nắm quyền lực khá lớn tại Myanmar theo như hiến pháp được soạn thảo ngay trước khi quân đội nhường quyền cho một chính phủ dân sự. Hiện vẫn chưa rõ bà Suu Kyi và các tướng lãnh quân đội sẽ cùng làm việc với nhau như thế nào trong tương lai.
Cuộc bầu cử dân chủ lần đầu tiên được tổ chức ở Miến Điến vào hôm mùng 8/11 không chỉ mang tính chất lịch sử đối với quốc gia dưới quyền lãnh đạo của chế độ quân phiệt trong nhiều năm mà còn được thế giới nhắc đến như một bước ngoặc ngoạn mục trong sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ với kết quả bầu cử Đảng đương quyền thừa nhận thất bại. Hòa Ái có cuộc trao đổi ngắn với bà Nyein Shwe, Giám đốc Ban Miến Điện của đài ACTD để biết thêm thông tin liên quan đến cuộc bầu cử này. Mời quý vị theo dõi.
Hòa Ái: Xin chào bà Nyein Shwe, trước hết bà vui lòng chia sẻ cảm nhận của người dân Miến Điện trước kết quả lần đầu tiên tổng tuyển cử đa đảng diễn ra hôm mùng 8/11 vừa rồi?
Bà Nyein Shwe: Trước hết là qua các thông tin chúng tôi thu thập được cho thấy người dân rất phấn khởi bởi vì họ đã được thể hiện nguyện vọng của mình qua cuộc bầu cử này và kết quả đạt được như mong đợi của họ và cũng vì họ đã sẵn sàng để thay đổi quốc gia. Đó cũng là khẩu hiệu của Đảng đối lập Liên đoàn Toàn quốc đấu tranh (NLD).
Hòa Ái: Những người trẻ, đặc biệt là các sinh viên từng lên tiếng cũng như đấu tranh cho dân chủ bày tỏ như thế nào trước kết quả Đảng Liên đoàn Toàn quốc đấu tranh (NLD) giành thắng lợi?
Bà Nyein Shwe: Khi tôi nhìn thấy người dân Miến Điện bao gồm cả những người trẻ và sinh viên, nếu như chúng ta xem qua các video được gửi về đài thì sẽ thấy thanh niên Miến Điện bày tỏ sự vui mừng trước trụ sở chính của NLD. Họ nhảy múa, hát ca, biểu lộ niềm hạnh phúc tràn đầy của họ.
Hòa Ái: Thật là phấn khích, phải không dạ? Chúng ta bàn luận về Đảng đương quyền-Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP), các chuyên gia phân tích chính trị cũng như các nhà quan sát có dự báo nào về kết quả bầu cử đối với Đảng này hay không? Và họ có nhận định gì khi Đảng đương quyền thừa nhận đã thất bại?
Bà Nyein Shwe: À, cô đặt ra 2 câu hỏi. Để tôi trả lời câu thứ nhất nhé! Tôi không rõ họ có tiên đoán gì đối với kết quả bầu cử dành cho USDP hay không nhưng theo những gì tôi nghe được từ các chuyên gia phân tích chính trị cùng những quan sát viên, họ nhấn mạnh rằng nếu như cuộc bầu cử thực sự được tiến hành một cách tự do và công bằng thì NLD sẽ có cơ hội giành chiến thắng. Và dĩ nhiên khi ông Htay Oo, quyền chủ tịch Đảng cầm quyền USDP nói đã thua trước Đảng NLD trong cuộc bầu cử thì những nhà phân tích cho rằng đây là lời nói thành thật và thiết thực của ông ta. Thay vì từ chối vì cho rằng có gian lận nhưng ông Htay Oo đã thừa nhận chính ông và các đại diện khác trong USDP đã thua và hoàn toàn thất bại.

Hòa Ái: Đó là dấu hiệu tốt, phải không thưa bà?
Bà Nyein Shwe: Đúng vậy!
Hòa Ái: Thưa bà Nyein Shwe, theo bà thì yếu tố quan trọng nào góp phần làm nên sự thành công như mong đợi của người dân Miến Điện qua cuộc bầu cử mang tính chất lịch sử này?
Bà Nyein Shwe: Yếu tố làm nên thành công như mong đợi của người dân Miến Điện là chính người dân đã làm tròn bổn phận công dân với quốc gia. Họ đã nhiệt tình tham gia bầu cử. Có khoảng hơn 80% dân số đi bầu và họ rất nhiệt tình làm công việc này vì các đảng phái chính trị đã hướng dẫn họ trong các chiến dịch vận động bầu cử trước đó rằng mỗi lá phiếu của họ đóng vai trò quan trọng cho vận mệnh quốc gia Myanmar, đồng thời kêu gọi họ tham gia bầu cử. Tôi nghĩ đó là yếu tố chính mang đến sự thành công trong cuộc bầu cử này. Và dĩ nhiên, chính người dân mong muốn có một sự thay đổi tốt hơn hiện tại.
Hòa Ái: Và câu hỏi sau cùng, bà nghĩ rằng bà Aung San Suu Kyi sẽ đóng vai trò gì sau cuộc bầu cử? Và quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo giữa 2 Đảng sẽ diễn ra một cách êm thắm hay không, thưa bà?
Bà Nyein Shwe: Về vai trò của bà Aung San Suu Kyi, tôi nghĩ bà ấy đã tuyên bố trong một phát biểu là nếu như đảng NLD thắng và nắm giữ vai trò lãnh đạo đất nước Miến Điện thì bà sẽ là người đưa ra những quyết định quan trọng mặc dù bà không phải là tổng thống. Vì theo Hiến pháp Myanmar quy định, bà Aung San Suu Kyi không được tranh cử tổng thống nhưng bà đã phát họa được chân dung nhân vật trong NLD sẽ nắm giữ quyền hạn lãnh đạo quốc gia. Một khi thành viên đảng NLD nắm quyền tổng thống thì họ sẽ thực hiện theo những quyết định do bà ấy đưa ra. Và câu hỏi liệu rằng quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo sẽ êm thắm hay không thì theo như hiện nay tôi nghĩ sẽ không có vấn đề gì, mọi chuyện sẽ dàn xếp ổn thỏa thôi. Nhưng hãy nhớ rằng bối cảnh Myanmar nếu không giống như hiện tại vì tình huống có thể thay đổi bất cứ lúc nào thì không ai tiên liệu được gì hết đâu.
Hòa Ái: Qua cuộc phỏng vấn này, chúng tôi cũng cầu mong cho nguyện vọng của người dân Miến Điện thay đổi đất nước của họ trở nên dân chủ và văn minh sớm thành hiện thực. Chân thành cảm ơn bà Nyein Shwe dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.

Lãnh tụ đối lập Myanmar Aung San Suu Kyi nói với BBC rằng đảng của bà đã “giành đa số tại Quốc hội”.
Trong phỏng vấn độc quyền dành cho BBC, bà Suu Kyi chúc mừng người dân Myanmar. Kết quả kiểm phiếu sơ bộ cho thấy đảng của bà thắng lớn.
Theo Hiến pháp hiện hành tại Myanmar, bà Suu Kyi không thể trở thành tổng thống. Tuy nhiên bà nói với tư cách lãnh đạo đảng bà sẽ “tìm được người” đảm lãnh trách nhiệm này.
Sau nhiều thập niên Myanmar nằm dưới quyền lãnh đạo của giới quân nhân, cuộc tổng tuyển cử mới rồi ̣nói chung được cho là dân chủ nhất trong 25 năm.
Số phiếu chính thức từ các nơi đang được thống kê và các kết quả cuối cùng phải nhiều ngày mới được công bố.
Thế nhưng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của bà Suu Kyi được cho là giành đa số phiếu ở các khu vực cử tri đã sắp xong.
Đảng Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP) được ủng hộ của phe quân sự đã cầm quyền từ 2011, khi Myanmar bắt đầu chuyển sang chính quyền dân sự.
Tổng thống mới sẽ được bầu khoảng tháng Hai 2016 hoặc sau đó.

Trong phỏng vấn riêng với phóng viên Fergal Keane của BBC, bà Suu Kyi nói cuộc bỏ phiếu tuy không công bằng nhưng “phần lớn tự do”.
Một phần tư của tổng số 664 ghế trong quốc hội được dành cho quân đội, và đảng NLD cần có ít nhất 2/3 số ghế để lên cầm quyền.
Tuy nhiên bà Suu Kyi nói BBC rằng đảng của bà đã vượt qua mức yêu cầu tối thiểu đó, và đạt khoảng 75%.
Hàng trăm ngàn người – trong đó có người thiểu số Hồi giáo Rohingya không có quyền công dân – không được đi bỏ phiếu, gây lo ngại về tính công bằng của cuộc bầu cử.
Đảng của bà Suu Kyi cũng như một số đảng khác không có ứng viên người Hồi giáo, bị chỉ trích đã không lên tiếng mạnh mẽ hơn nữa cho người Hồi giáo, những người bị các nhóm Phật giáo dân tộc chủ nghĩa cực đoan tấn công.
Bà nói với BBC rằng chính phủ do đảng NLD điều hành sẽ bảo vệ người Hồi giáo, và những ai gây thêm hận thù nên bị truy tố.
“Định kiến không dễ bị xóa bỏ và hận thù cũng không dễ bị xóa bỏ… Tôi tự tin rằng đại đa số người dân muốn có hòa bình… họ không muốn sống trong hận thù và sợ hãi,” bà nói.
Có thể bạn quan tâm
>> Siu Black quá gian nan tìm về ánh hào quang
>> Diễn biến ở Biển Đông làm xói mòn lòng tin giữa các quốc gia
>> Không cần thiết phải ghi âm, ghi hình trong mọi trường hợp
Liệu giải pháp mua ngân hàng với giá 0 đồng mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiến hành trong thời gian qua với ba ngân hàng thương mại Xây dựng (VNCB), Đại Dương (OceanBank) và Dầu khí Toàn cầu (GPBank) có hợp lý hay không, có đảm bảo công bằng cho các bên liên quan hay không? Không ai có thể trả lời được câu hỏi này, ngoại trừ một số rất ít người trong NHNN, vì thiếu những thông tin thiết yếu làm cơ sở đánh giá.
Từ câu chuyện mua ngân hàng giá 0 đồng…
Đơn cử như với OceanBank. Theo các báo cáo tài chính được công bố công khai, đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán uy tín hàng đầu trên thế giới, trước khi bị mua với giá 0 đồng, ngân hàng này hoạt động tương đối tốt. Nếu đơn thuần chỉ dựa trên những thông tin công khai này thì rõ ràng các cổ đông của OceanBank đã bị Nhà nước, thông qua NHNN, “cưỡng đoạt” tài sản. Những cổ đông thiểu số bị mất tài sản mà hoàn toàn không hiểu tại sao.
Nhưng NHNN có những thông tin “mật” mà bên ngoài không biết (ngay cả công ty kiểm toán uy tín trước đó cũng thể không phát hiện ra để cảnh báo nhà đầu tư!) Dựa theo nguồn thông tin “mật” này thì OceanBank đã âm gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu và các cổ đông đã không thể đưa ra được giải pháp để khắc phục. Để đảm bảo an toàn hệ thống, NHNN quyết định mua lại ngân hàng này với giá 0 đồng, thay vì để nó phá sản. Lý lẽ mua hai ngân hàng còn lại với giá 0 đồng cũng tương tự.
Nhưng ngay cả khi các ngân hàng này đã rơi vào tình trạng âm vốn chủ sở hữu dựa trên nguồn thông tin “mật” này thì câu hỏi đặt ra là liệu có thể có giải pháp nào khác tốt hơn không? Liệu các ngân hàng này có thực sự rơi vào tình trạng phá sản hay không? Giá trị của một doanh nghiệp, đặc biệt là ngân hàng, không chỉ dựa đơn thuần trên vốn chủ sở hữu. Thương hiệu, mạng lưới khách hàng, kinh nghiệm vận hành… của doanh nghiệp mới là những thứ làm nên giá trị lâu dài của nó. Ngay cả khi bị âm vốn chủ sở hữu nhưng doanh nghiệp vẫn đảm bảo dòng tiền để trả nợ thì doanh nghiệp vẫn chưa rơi vào tình trạng phá sản. Cụ thể, theo một thông báo của NHNN, thì dự trữ thanh khoản của VNCB là 1.000 tỉ đồng, của GPBank là 3.000 tỉ đồng còn của Ocean Bank là 7.000 tỉ đồng. “Đây là khoản vốn đảm bảo chi trả cho người dân và nguồn vốn mới cho hoạt động”, ông Nguyễn Hữu Nghĩa, Chánh thanh tra NHNN chia sẻ tại hội thảo “Ba năm nhìn lại tái cơ cấu và xử lý nợ xấu ngân hàng”.[1]
Ngay cả khi các ngân hàng này rơi vào tình trạng mất thanh khoản thì vẫn còn có những giải pháp khác để cấp thanh khoản thay vì mua toàn bộ cổ phiếu của các ngân hàng này với giá 0 đồng. Chẳng hạn, Nhà nước mua lại nợ xấu, mua cổ phần ưu tiên, hoặc thậm chí mua lại cổ phần của các cổ đông lớn với giá 0 đồng để có quyền chi phối hoặc nắm quyền điều hành. Những giải pháp này, nếu khả dĩ, rõ ràng vẫn bảo vệ được cổ đông thiểu số, vẫn đảm bảo các ngân hàng này là các ngân hàng thương mại tư nhân chứ không phải là các ngân hàng thương mại nhà nước như hiện nay.
… đến việc cần minh bạch hoá hoạt động của NHNN
Đỏi hỏi minh bạch thông tin trong câu chuyện trên có lẽ chỉ là một phần của đòi hỏi cần minh bạch hoá các hoạt động điều hành của NHNN hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế chủ yếu bằng các chính sách tài khoá và các chính sách tiền tệ. Mọi chính sách của Nhà nước, dù mang lại lợi ích cho toàn bộ người dân hay chỉ một bộ phận dân chúng, xét đến cùng đều phải tiêu tốn một số nguồn lực từ tài sản toàn dân, từ người đóng thuế, hoặc một số người nhất định.
Chính sách tài khoá thường được dư luận quan tâm và dễ yêu cầu minh bạch hơn bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của những đối tượng bị tác động. Nếu một chính sách tài khoá có tác động tiêu cực tới một nhóm người nào đó, nó sẽ bị phản ứng tức thì. Hệ quả là, dưới áp lực của dư luận, trong những năm qua, các yêu cầu minh bạch hoạt động thu- chi ngân sách, hoạt động đầu tư công, vấn đề nợ công… đã được các cơ quan liên quan như Quốc hội, Bộ Tài chính, và Bộ Kế hoạch Đầu tư đáp ứng khá tốt và đã có những cải thiện rõ rệt.
Nhưng chính sách tiền tệ thường gây ra thiệt hại chung cho toàn bộ người dân thay vì một nhóm đối tượng cụ thể. Để đem lại lợi ích cho một nhóm nào đó, NHNN sẽ phải dùng một số nghiệp vụ, mà dễ dàng nhất là gây ra lạm phát ở quy mô nhỏ, để có nguồn lực cung ứng. Lạm phát toàn dân phải gánh chịu nhưng không người dân nào phản ứng vì nó quá nhỏ, trong khi lợi ích mang lại cho một số đối tượng cụ thể thì lại dễ nhìn thấy để ghi nhận công trạng vì nó dễ đong đếm.
Hiếm khi dư luận đặt câu hỏi NHNN lấy nguồn lực từ đâu để hỗ trợ tín dụng cho các lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, xuất khẩu, các chương trình mua nhà thu nhập thấp…, để cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) hoạt động, hay cho Bộ Tài chính vay 30 ngàn tỉ đồng… Các khoản hỗ trợ này bắt buộc phải lấy từ một số nguồn nào đó nhưng người bên ngoài chỉ có thể biết được nếu như nhìn thấy được Bảng cân đối tài sản của NHNN. Chúng ta không thể đánh giá liệu các biện pháp hỗ trợ này có hiệu quả không, có công bằng không khi không được cấp những thông tin khả tín.
Chính bởi lẽ các chính sách tiền tệ gây ra những ảnh hưởng chung cho toàn bộ người dân, hoạt động của các ngân hàng trung ương cần phải rất minh bạch để cho bất cứ ai cũng có thể mổ xẻ và giám sát. Không cần phải lấy ví dụ ở các nước phát triển, Ngân hàng quốc gia Campuchia (NBC), một quốc gia vẫn được xem là lạc hậu hơn Việt Nam, cũng đã có những hành động công khai hoá hoạt động của mình từ nhiều năm nay. Vào website tiếng Anh của NBC (http://www.nbc.org.kh/english/index.php), mọi người có thể tìm thấy hầu hết các thông tin cần thiết, được cập nhật thường xuyên, để phân tích, đánh giá các hoạt động của ngân hàng trung ương này. Ngay cả Bảng cân đối tài sản của NBC cũng được công bố công khai và cập nhật hàng tháng từ năm 2005. Đây là thứ thông tin mà cho đến nay NHNN chưa từng công bố cho người dân biết.

Vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam có lấy ý kiến rộng rãi về bản Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng này trình Đại hội 12, được dự kiến tổ chức vào đầu năm 2016.
Một nhà nghiên cứu chính trị Việt Nam và bang giao quốc tế từ Hà Nội đã dành cho BBC một cuộc trao đổi trong đó ông chia sẻ một số ý kiến về bản Dự thảo này.
Trước hết, Tiến sỹ Vũ Cao Phan, nguyên Tổng thư ký, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Trung, đưa ra dự đoán nhanh về mặt ‘nhân sự’ lãnh đạo cao cấp mà Đảng Cộng sản đang chuẩn bị cho Đại hội 12 và phân tích khả năng ‘tác động’ vào nhân sự Đại hội bởi chuyến thăm Việt Nam diễn ra hôm 05-06/11 của Chủ tịch Trung Quốc, ông Tập Cận Bình.
Vũ Cao Phan: Tôi không dám sử dụng từ dự báo. Nhưng tôi đã từng “đoán mò” và vẫn phải thòng thêm câu “cần chờ đến phút 89”.
Thực ra, vào thời điểm tôi nói đến “ hai nhân vật phía Nam” thì tình hình lúc đó là như vậy. Nhưng rồi Trung ương họp, và xuất hiện “trường hợp đặc biệt”, mọi việc đã có vẻ khác đi, có vẻ thôi.
Đã có những kiến nghị rằng để có thể tiến thêm một bước về phía dân chủ, Đại hội 12 nên có số nhiều ứng viên cho chức danh Tổng Bí thư và chức danh này cần được các đại biểu bầu trực tiếp. Tôi tán thành, quá tốt nếu làm như vậy
Tôi nghĩ thế này ai trở thành “Tổng Bí thư” cũng được, miễn là người làm được việc, tránh tình trạng như có lần Đảng bầu được Tổng Bí thư nhưng vị này suốt thời gian tại vị không để lại dấu ấn gì, dù chỉ là một câu nói (ở đây, tôi muốn đề cập dưới góc độ tích cực.)
Nhân đây, tôi đồng ý với ý kiến là cần tập trung quyền lực vào trong tay một vị lãnh đạo cao nhất, nó sẽ giúp được nhiều việc. Tuy nhiên Việt Nam không theo chế độ tổng thống hay dân chủ đại nghị, Việt Nam là chế độ lãnh đạo tập thể.
Trở lại với câu hỏi ‘dự đoán’ của BBC, tôi muốn nói thêm ngoài lề một chút. Đã có những kiến nghị rằng để có thể tiến thêm một bước về phía dân chủ, Đại hội 12 nên có số nhiều ứng viên cho chức danh Tổng Bí thư và chức danh này cần được các đại biểu bầu trực tiếp.
Tôi tán thành, quá tốt nếu làm như vậy. Cũng không phải là vấn đề mới, từng đã có chủ trương ở một hai kỳ đại hội trước nhưng chưa thành.

Và các ứng viên cũng nên đưa ra cương lĩnh tranh cử. Dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm, đừng đùn đẩy cho người khác đề cử mình. Về mặt này, tôi đánh giá cao sự sẵn sàng của ông Nguyễn Tấn Dũng.
Còn phần hai của câu hỏi, liên quan khả năng tác động của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc, tôi xin khẳng định rằng, nước ngoài có muốn (họ có thể muốn) nhưng đâu có dễ gây áp lực?
Song đề cập đến chuyến thăm của ông Tập Cận Bình thì tôi có một ngạc nhiên nho nhỏ: ông Tập chẳng cần rườm rà thay mặt người tương nhiệm Lý Khắc Cường mà đích thân hoan nghênh ông Dũng qua thăm Trung Quốc. Không rõ công luận và các giới thấy thế nào?
BBC: Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội lần thứ 12, vẫn có một số ý kiến đặt dấu hỏi về tính chính danh của Đảng này, thậm chí có ý kiến nói Đảng tự ‘nhận lĩnh mọi công lao’ và khi đã có quyền lực rồi thì ‘không chịu nhả ra’, ý kiến của ông?
Nước ngoài có muốn (họ có thể muốn) nhưng đâu có dễ gây áp lực?
Vũ Cao Phan: Trước hết, tôi xin mở rộng vấn đề một chút. Dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám (CMT8) vừa rồi, BBC có làm một việc rất hay và cần thiết là mời độc giả viết về cuộc cách mạng này. Tiếc rằng chưa có được sự hưởng ứng rộng rãi. Và theo tôi, có một số đánh giá và cách nhìn cần có sự thảo luận thêm.
Thứ nhất, tại sao lại đưa sự phân biệt giữa cách mạng và khởi nghĩa để cho rằng, đó (CMT8) chỉ là một cuộc khởi nghĩa? Gọi thế nào cũng đúng và hơn nữa, có thể coi cách mạng là mục đích và khởi nghĩa là phương tiện.
Thứ hai, tại sao lại có sự phân biệt giữa tiến hóa và cách mạng? Xin hãy đọc lại G.W.Hegel. Ở đây ta lại thấy, đến lượt mình, tiến hóa là mục đích và cách mạng là phương tiện. Nó cũng là một quá trình giữa tiệm tiến và bột phát, và cách mạng là cần thiết để đẩy nhanh quá trình tiến hóa. Cách mạng cũng đâu có đồng nghĩa với bạo lực, chúng ta chẳng đang chứng kiến trào lưu các cuộc cách mạng với ‘hương vườn gió nội’ đấy thôi?
Thứ ba, có đúng là vua Bảo Đại (trong dịp Nhật đảo chính Pháp, tháng 3/1945) hay ông Trần Trọng Kim (ngay sau ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh) là những người đầu tiên giành lại nền độc lập cho đất nước không?
Tôi bác bỏ. Bằng chứng đây: trong cuộc trả lời phỏng vấn cuối cùng của mình (được thực hiện bởi F.Mitterand), vua thừa nhận mình không làm được việc ấy, vì “tôi không đủ phương tiện để giành độc lập từ tay người Pháp”. Phương tiện ấy (lực lượng, sự ủng hộ của dân chúng và quốc tê) nằm trong tay chính phủ của ông Hồ Chí Minh, vua thừa nhận.
Image copyright Hoang Dinh Nam AFP Còn ông Trần Trọng Kim, thì đã từng tuyên bố: “Tôi muốn tận dụng cơ hội, nhưng thực chất là không có gì trong tay…” Điều có thể ghi nhận, họ – vua Bảo Đại và ông Trần Trọng Kim – cũng là những người có tinh thần yêu nước dù những ‘tuyên bố độc lập’ mà họ đưa ra vào thời điểm đã nêu trên chỉ mang tính hình thức.
Nói như vậy là để khẳng định cuộc Cách mạng tháng 8/1945 là do sự lãnh đạo của những người cộng sản (đảng cộng sản) với lực lượng đã được chuẩn bị của mình, và sự thành công của nó đã đem đến nền độc lập nước nhà. Những dấu mốc 21/7/1954 và 30/4/1975 sau này chỉ là sự tiếp nối mục đích của cuộc cách mạng ấy, vẫn dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Người ta có thể có ý kiến khác nhưng tôi là nhà nghiên cứu lịch sử và đó là những điều tôi khẳng định.
Nhưng phải thừa nhận rằng, đảng cộng sản đã lúng túng khi bắt tay vào tái thiết đất nước. Trầy trật mãi mới có được lối ra là công cuộc Đổi Mới.
Nhưng công cuộc Đổi Mới này, chỉ mới được kêu gọi là “đổi mới tư duy” tại Đại hội 6 của Đảng. Nếu không có sự sụp đổ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa- chúng ta mất chỗ dựa- thì chắc chắn sẽ không có được thành tựu đổi mới như đã chứng kiến- cần phải thẳng thắn nhận định như vậy.
Nhưng phải thừa nhận rằng, đảng cộng sản đã lúng túng khi bắt tay vào tái thiết đất nước. Trầy trật mãi mới có được lối ra là công cuộc Đổi Mới.
Năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, Đảng đã nhận định năm 1992 sẽ là một năm đầy khó khăn thử thách nhưng thực tế đã không phải như vậy. Tôi nhắc lại điều này là để thấy chính những yếu tố khách quan đã là tác nhân quan trọng nếu không muốn nói là quyết định trong công cuộc Đổi Mới; nó kêu gọi, nó bắt buộc chúng ta phải dấn thân hội nhập, và thành công.
Ở thời điểm này cũng vậy, khi các động lực thúc đẩy đổi mới dường như đang cạn dần thì chính các chế tài từ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà chúng ta tham gia thành lập đòi hỏi một sự quyết liệt hơn nữa, dấn thân hơn nữa.
BBC: Đảng CSVN tiến hành ‘lấy ý kiến các giới’ về Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội 12 dự kiến nhóm họp đầu năm sau, là một công dân, ông có ý kiến, nhận xét hay đóng góp gì?
Vũ Cao Phan: Không chỉ là một công dân, tôi vẫn giữ thẻ đảng, và là một đảng viên tốt như tôi tự đánh giá. Tất nhiên là tôi muốn góp một số ý kiến, nhưng không có diễn đàn. Cuộc phỏng của bản đài có lẽ sẽ cho tôi cơ hội ấy chăng?
Thời gian gần đây, cặp từ “cải cách thể chế” đã được nhắc đến một cách đột xuất nhưng lại rụt rè khi gói lại là “thể chế kinh tế”. Thôi thì gọi vậy cũng được, nhưng nếu hiểu kinh tế gắn liền với chính trị, kinh tế quyết định chính trị, kinh tế là chính trị thì có lẽ sẽ bớt đi sự rụt rè.

Tại mục 2, phần “I. Đánh giá tổng quát…”, Dự thảo Báo cáo Chính trị viết: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Thế là rõ.
Vấn đề “đổi mới chính trị chưa đồng bộ (hoặc chưa theo kịp) với đổi mới kinh tế” đã được nêu ra lần đầu cách đây 10 năm, tại Đại hôi 9 và vẫn liên tục được đề cập. Lần này lại được nhấn mạnh, chứng tỏ Đảng đã nhìn ra sự bức xúc của vấn đề.
BBC: ‘Nhìn ra’ và có vẻ là đã ‘thấy được’ vấn đề từ lâu như ông vừa chia sẻ, nhưng tại sao Đảng cộng sản dường như vẫn chưa ‘đổi mới, cải tổ’ thực sự được như kỳ vọng?
Không nên e ngại một hội chứng Gorbachov (mà Gorbachov là tai biến hay là tất yếu của lịch sử, điều này hãy để lịch sử trả lời)
Vũ Cao Phan: Trong Dự thảo cũng chưa nêu ra phải làm (đổi mới) như thế nào. Đặt ra vấn đề nhưng không tìm cách giải quyết là uổng. Tôi cho rằng câu chuyện này đã trở nên cấp thiết khi sự hội nhập của Việt Nam ngày càng sâu càng rộng. Không nên e ngại một hội chứng Gorbachov (mà Gorbachov là tai biến hay là tất yếu của lịch sử, điều này hãy để lịch sử trả lời).
Như đề cập trên, với việc tham gia TPP, bắt buộc và cho phép chúng ta phải đổi mới và cải cách hơn nữa cả về mặt thể chế kinh tế và thể chế chính trị. Đổi mới như thế nào và làm thế nào để đổi mới thì tôi nghĩ việc này cần được đưa ra bàn bạc tại Đại hội, Cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng.
BBC: Đảng Cộng sản Việt Nam đã thoát khỏi cách đặt mục tiêu, mà một số người còn gọi đó là não trạng “duy ý chí” chưa, thưa ông?
Vũ Cao Phan: Đó cũng là một vấn đề mà tôi quan tâm sâu sắc và về điểm này, tôi xin khẳng định là chưa.
Cũng tại phần “I. Đánh giá tổng quát…”, mục 1 có đoạn viết: “Nhiều chỉ tiêu trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được”. Nghĩa là mục tiêu này không đạt được. Cách viết lướt qua nhưng theo tôi có thể nhìn thấy hai vấn đề lớn:

Một, mục tiêu ấy được đặt ra đã qua hai Đại hội Đảng (mười năm) và vẫn được nhấn mạnh tại những kỳ họp gần đây của Ban chấp hành Trung ương, cho đến sát Đại hội 12 (nghĩa là còn cách năm 2020 năm năm nữa) thì lại tuyên bố không đạt được.
Cần nhớ là Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 vào cùng thời điểm Malaysia cũng đặt ra mục tiêu như vậy, mà lúc ấy nước này đã có một nền công nghiệp tương đối phát triển (đã xuất khẩu tới nhiều quốc gia dòng xe nội địa mang thương hiệu Proton và đứng đầu thế giới về sản xuất tủ lạnh…) với thu nhập bình quân đầu người gấp 3,5 lần Việt Nam. Có duy ý chí không?
Hai, nhưng điều đáng ngạc nhiên là đặt ra mục tiêu như vậy nhưng lại không có tiêu chí, tiêu chuẩn nào được nêu ra để thiên hạ biết thế nào là “một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, dù chỉ là “cơ bản” đi chăng nữa.
Từ cực đoan này nhảy sang cực đoan khác vẫn là lối suy nghĩ duy ý chí và do đó vấn đề này cũng rất cần có sự bàn luận sâu sắc tại Đại hội
Không thấy, suốt cả mười năm qua. Không chỉ tôi và những người khác, một ông nguyên Phó Thủ tướng cũng nêu thắc mắc này vào năm 2009. Không ai trả lời.
Cho đến hôm nay, Dự thảo Báo cáo chính trị mới là tài liệu đầu tiên đề cập đến việc phải: “Xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (Phần “III. Đổi mới mô hình tăng trưởng…”, mục 2). Như thế theo tôi là quá chậm, và tại sao lại để “đèn đi sau, xe chạy trước” suốt một thời gian dài như vậy?
Và chưa hết, mục 2 phần “II. Mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát…” của Dự thảo vẫn viết, dù có vẻ ít quyết đoán hơn: “Xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
“Sớm” là một khái niệm co dãn cho phép một dư địa không xác định về mặt thời gian, khác với thời điểm cụ thể “ đến năm 2020”.
Từ cực đoan này nhảy sang cực đoan khác vẫn là lối suy nghĩ duy ý chí và do đó vấn đề này cũng rất cần có sự bàn luận sâu sắc tại Đại hội, tôi nghĩ như vậy.
Tiến sỹ Vũ Cao Phan là Viện trưởng Viện Chính trị và Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế của Đại học Bình Dương, nguyên Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội hữu nghị Viêt Nam – Trung Quốc.
TS. Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội – Ảnh: VNN.
“Xây trụ sở là chi tiêu dùng, mà đã là tiêu dùng thì lúc này cả hệ thống phải tiết kiệm, tiết kiệm chung chứ không riêng ai”, đại biểu Lịch nhấn mạnh quan điểm.
Liên quan đến xây dựng trung tâm hành chính, lấy ví dụ cách làm của Đà Nẵng – gom toàn bộ quỹ đất của các cơ quan rải rác để bán lấy tiền làm – ông Lịch cho rằng đó là cách “lấy nó nuôi nó” chứ không lấy ngân sách bố trí hàng năm.
Hiện nay một số địa phương cũng làm như vậy, và theo ông thì cách này chấp nhận được.
Tiền bán các trụ sở thực chất cũng là ngân sách, nhưng không ăn vào thuế và phí cân đối, thì chấp nhận được. Vì, nếu để hai ba chục trụ sở phí tổn nhiều, mỗi nơi phải có bảo vệ riêng, nói nôm na nhiều mâm nhiều bát nay gom lại một mâm một bát để tiết kiệm chi phí không tốn ngân sách, cái đó có thể làm được, ông Lịch phân tích.
Nhưng theo ông, cái gốc cần giải quyết vẫn là cơ chế phân bổ ngân sách, “nghĩa là phải cân đối thu đã, thu phần của địa phương là anh tự chủ, anh trang trải còn thiếu thì Trung ương cân nhắc”.
“Nếu anh vung tay quá trán thì tôi không cân đối chi bổ sung, đơn giản thế. Làm như thế mới có kỷ luật ngân sách, mới khắc phục được xin – cho”.
“Còn làm ngân sách như hiện nay thì không sửa được, tôi không biết cho ai thêm và cắt của ai, như thế không bỏ xin – cho được. Nhưng, nếu thu thuế, phí để đầu tư vào xây trụ sở thì không nên, Quốc hội phải cấm ít nhất trong thời gian 5 năm tới”, ông Lịch đề nghị.
Đại biểu Lịch cũng nhắc lại quy trình ngân sách mà ông đã đề nghị nhiều lần.
Đó là tại kỳ họp giữa năm thì Quốc hội bàn nguyên tắc xem năm tới nên hỗ trợ địa phương nào cái gì, ngành nào cái gì, sau đó Chính phủ tiếp thu, cuối năm Quốc hội rà lại, đúng như thế thì thông qua không đúng thì cắt.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sáng ngày 6/11 có bài phát biểu dài hơn 20 phút, gấp đôi thời gian dự kiến, trước Quốc hội Việt Nam ở Hà Nội.
Đây là bài phát biểu mà nhiều người quan tâm chú ý đến nhất trong chuyến công du Việt Nam lần này của người đứng đầu đảng và chính phủ Trung Quốc.
Sau khi biết được nội dung của bài phát biểu đó do báo chí trong nước tường thuật, phản ứng của những người quan tâm ra sao?
Một số điểm chính của bài phát biểu được truyền thông trong nước trích thuật. Theo đó ông Tập Cận Bình nói đến mối quan hệ hai nước láng giềng ‘núi liền núi, sông liền sông’ và với câu ‘mất hàng ngàn vàng để mua láng giềng’. Theo ông Tập Cận Bình thì Trung Quốc và Việt Nam cẩn đạt được đại sự, sau đó tiểu sự sẽ giải quyết dễ dàng. Ông này cũng nhấn mạnh ủng hộ Việt Nam tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội…
Tôi nhận thấy phát biểu của ông Tập Cận Bình không tỏ ra hung hăng nhưng rõ ràng vẫn không có thừa nhận một cách rõ ràng về tình trạng Hoàng Sa – Trường Sa thuộc về Việt Nam hoặc ít ra là đang có vấn đề tranh chấp; mà chỉ đề cập một cách rất chung chung như thể đánh lừa các đại biểu quốc hội.
-LM An Tôn Lê Ngọc Thanh
Linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh, từ Sài Gòn sau khi đọc được những tường trình của báo chí Nhà nước về bài phát biểu của ông Tập Cận Bình trước Quốc hội Việt Nam vào sáng ngày 6 tháng 11 đưa ra nhận xét:
“Tôi nhận thấy phát biểu của ông Tập Cận Bình không tỏ ra hung hăng nhưng rõ ràng vẫn không có thừa nhận một cách rõ ràng về tình trạng Hoàng Sa- Trường Sa thuộc về Việt Nam hoặc ít ra là đang có vấn đề tranh chấp; mà chỉ đề cập một cách rất chung chung như thể đánh lừa các đại biểu quốc hội.
Ba vấn đề chính mà ông đặt ra: đầu tiên ông ta bảo rằng chọn lựa của nhân dân hai nước, hai đảng, hai nhà nước là đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; thật ra đó là điều mà nhân dân Việt Nam đâu có chọn. Đó là điều ông ta cố gắng gượng ép. Điều thứ hai ông nói rằng là Việt Nam và Trung Quốc phải tận dụng cơ hội để có thể trở nên trụ cột cho Châu Á. Thật ra ông ta muốn nhờ Việt Nam làm bàn đạp để bành trướng ra Châu Á thì đúng hơn. Bởi vì trên thực tế những gì ông ta đối xử với Việt Nam và các nước Châu Á trong thời gian vừa rồi đều bị các nước phản ứng. Tức không thực tâm muốn phát triển một Châu Á thịnh vượng. Điều thứ ba ông ta cho rằng hai nước Việt Nam và Trung Hoa liền kề nhau nên khó tránh khỏi những va chạm. Thật ra đó là tình trạng ‘cá lớn nuốt cá bé’. Ở kế bên lấn sân rồi nói lỡ không tránh khỏi. Tôi nghĩ phát biểu đó không thật lòng và có một cách nào đó cố tình tránh né điều mà tất cả các đại biểu quốc hội quan tâm là vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.”
Nhà báo Võ Văn Tạo ở Nha Trang cũng có ý kiến:
“Trước khi ông ấy nói chuyện anh em trí thức trong nước cũng rất quan tâm: ông ấy sẽ nói cái gì, quốc hội sẽ phản ứng ra sao, liệu ông ấy có thể nói như nói với tổng thống Mỹ là Trung Quốc có lợi ích cốt lõi ở Biển Đông không? Cấu nói đó là rất nhạy cảm, nên theo tôi nghĩ trước khi Nhà nước Việt Nam đồng ý để ông ấy nói chuyện ở Quốc hội, hai bên đã có trao đổi về nội dung để ông nói làm sao đừng làm gì xấu cho quan hệ giữa hai nước. Quả nhiên bài nói của ông này trong vòng khoảng 20 phút gì đó, tôi thấy ông này rất khéo. Ông không đụng chạm gì vào những chuyện gây những xích mích lớn mà hai nước đang căng thẳng ở Biển Đông.
Ông đưa ra những khẩu hiệu láng giềng tốt, cùng nhau tiến lên thì không mới vì ‘4 tốt’ và 16 chữ vàng’ (nói) 7,8 năm qua rồi, dân Việt Nam không lạ. Nhưng phải nói rõ về bản chất thế này: tôi không nhớ tác giả một bài báo đăng trên báo Ban Tuyên giáo Trung ương, mà ông này là một giáo sư người Trung Quốc, nói rõ bản chất, truyền thống của người Trung Quốc là hoạt giảo, xảo ngôn, bịp bợm. Ông Tập Cận Bình sang Việt Nam vẫn theo thái độ đó, vẫn mù mờ như thế. Ru ngủ.”
Đáp từ của chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng là cảm ơn về những phát biểu tốt đẹp của ông Tập Cận Bình về mối quan hệ giữa hai nước.

Ông Nguyễn Sinh Hùng nhắc đến sự giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam trong hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ. Chủ tịch quốc hội Việt Nam cho rằng quan hệ giữa hai phía có trải qua sóng gió nhưng đến nay phát triển đúng theo định hướng mà hai ông Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông từng mong muốn.
Đối với những bất đồng giữa hai phía theo chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng thì theo nguyên tắc tiếp tục kiểm soát những bất đồng, vượt qua trở ngại để đưa quan hệ phát triển bền vững, ổn định hơn vì sự công bằng, phát triển của nhân dân hai nước.
Linh mục Lê Ngọc Thanh đề cập đến thái độ của các đại biểu quốc hội Việt Nam khi đón ông Tập Cận Bình:
“Tôi thấy các đại biểu quốc hội hoàn toàn thụ động lắng nghe và tỏ một thái độ rất lịch sự là vỗ tay chào mừng bài phát biểu mà không hề có một phát biểu ngược lại. Còn việc ông Nguyễn Sinh Hùng với tư cách chủ tịch, người chủ nhà ông ta đáp lễ như một cách thức xã giao mà không dám nhấn mạnh đến nội dung mà tất cả dân chúng Việt Nam đang quan tâm, đó là Hoàng sa, Trường Sa là của Việt Nam chứ không phải của Trung Quốc.”
Và phát biểu của chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng về điều mà ông này cho là trợ giúp của Trung Quốc trong hai cuộc chiến ở Việt Nam:
“Khi nhắc đến vấn đề đó các ông này đã làm sai mà không biết nhục vì khi nói đến điều đó các ông đã vi phạm Hiêp định Geneve và Hiệp định Paris mà các ông ấy vẫn coi như là điều đúng mà không biết ngượng.”
Theo tôi nghĩ trước khi Nhà nước Việt Nam đồng ý để ông ấy nói chuyện ở Quốc hội, hai bên đã có trao đổi về nội dung để ông nói làm sao đừng làm gì xấu cho quan hệ giữa hai nước. Quả nhiên bài nói của ông này trong vòng khoảng 20 phút gì đó, tôi thấy ông này rất khéo.
-Nhà báo Võ Văn Tạo
Theo thông tấn xã Việt Nam trong những cuộc hội đàm vào ngày 5 tháng 11 giữa tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với ông Tập Cận Bình; cũng như giữa thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và chủ tịch Trung Quốc, mọi bất đồng giữa hai phía về biển được đề cập đến.
Tuy nhiên theo linh mục Lê Ngọc Thanh những trao đổi giữa các lãnh đạo về những vấn đề tranh chấp biển đảo giữa hai nước mà truyền thông Nhà nước loan tin vẫn chưa thể làm thỏa mãn thắc mắc của người dân quan tâm:
“Trong các cuộc họp, truyền thông luôn bảo rằng quốc hội và chính phủ và cả bên đảng có những trao đổi rất thẳng thắn. Nhưng thẳng thắn như thế nào đến lúc này dân chúng không được biết. Ở Việt Nam có điều rất lạ là họ hưởng lương từ tiền thuế của dân, rồi ‘được’ do dân bầu, nhưng cuối cùng vẫn xem dân là những người kém hiểu biết, không trưởng thành để rồi cuối cùng họ không công bố sự thật và lãng tránh điều đó. Đến lúc ngày người dân không hiểu rõ họ nói đến đâu và nói những gì với Trung Quốc.”
Việc Trung Quốc chiếm dụng Hoàng Sa lâu nay đến hoạt động gần đây tiến hành bồi đắp, xây dựng những đảo nhân tạo trên các đảo, bãi đá cưỡng chiếm của Việt Nam tại Trường Sa vào những năm 1988 và 1995; thế rồi vấn đề ngư dân Việt Nam đi đánh bắt tại ngư trường truyền thống Hoàng Sa bị tàu Trung Quốc xua đuổi, đánh đập, cướp phá thậm chí có trường hợp bị bắt, bị đâm chìm tàu và bị giết chết chính là những điều mà nhiều người yêu cầu lãnh đạo Việt Nam phải nêu ra với phía Trung Quốc.