Thân nhân đón những người tù được đặc xá hôm 31/8/2015 tại Hà Nội. AFP photo
Khi mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có
Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo
Những anh hùng không phải của chế độ
Cuối tháng tám, đầu tháng chín, như mọi năm, truyền thông Việt Nam tràn ngập những hình ảnh, phim ảnh đầy màu sắc về những ngày đại lễ. Năm nay những hình ảnh đó còn long trọng hơn vì thời gian đã trôi qua đến 70 năm.
Những đoàn người diễu binh cùng cờ đỏ.
Những lời ca tụng những người anh hùng.
Nhưng cũng có những người anh hùng không đứng trong đoàn diễu binh đó.
Trên không gian truyền thông blog là những hình ảnh cũng đầy màu sắc khác, đó là hai anh em ông Đoàn Văn Vươn trở về sau hơn 3 năm tù.
Trong loạt ảnh của tác giả Hoàng Anh, người ta thấy hai anh em ông Vươn ăn mặc chỉnh tề tươi cười trong sắc pháo của dân làng chào đón hai ông, như những người anh hùng. Rồi dân làng long trọng dựng rạp mở tiệc chiêu đãi hai người anh hùng của họ.
Có điều gì bất thường khi dân chúng đón những người tù trở về như những anh hùng?
Một blogger bình luận rằng đó chính là lòng dân! Lòng dân và lòng chính quyền không là một.
Trong một bài viết mang tính trào lộng, blogger Hiệu Minh lại một lần nữa so sánh câu chuyện vụ án Làng Tiên Lãng của ông Vươn ngày nay, với câu chuyện vụ án Đồng Nọc Nạn thời mồ ma thực dân Pháp. Cùng là những người nông dân nổi dậy chống bất công, nhưng người nông dân thời thực dân được tha bỗng, còn người nông dân Đoàn Văn Vươn phải thụ án tù.
Tù nhân chính trị là thành phần không thể kiếm chác ở họ, mà chỉ có thể dùng để đổi chác cho mục đích khác, nên họ không thuộc diện đặc xá bình thường.
– Luật sư Lê Công Định
Đứng ở một góc nhìn tương đối khác, nhà văn Sương Nguyệt Minh, dù cho rằng sự hoan hỉ của dân chúng trong những tấm hình chụp hai anh em ông Vươn ngày được tự do về làng là Người ta vui mừng vì thấy đồng cảm, nhưng đồng thời tác giả cũng cho rằng sự vui mừng đó cũng thể hiện tính pháp quyền của nhà nước hiện hành, Ông Sương Nguyệt Minh viết rằng:
Ông Đoàn Văn Vươn được đặc xá, ra tù trước thời hạn không chỉ là niềm vui của gia đình, dòng họ nhà ông mà còn là nỗi hân hoan của những người dân bình thường quan tâm đến “Sự kiện cống Rộc – Tiên Lãng”. Người ta có niềm tin công lý đã được thực thi đúng đắn, hợp lý rằng: Việc anh em ông Vươn chịu vòng lao lý là thể hiện tính bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật nghiêm minh. Còn việc các ông được đặc xá trở về với đời sống công dân tự do thường nhật lại thể hiện tính nhân đạo của nhà nước pháp quyền.
Ngay lập tức, dường như để phản bác nhà văn Sương Nguyệt Minh về tính nhân đạo pháp quyền của nhà nước hiện tại, đêm mùng 1, rạng sáng ngày đại lễ mùng 2 tháng chín, cơ quan công an của nhà nước Việt Nam câu lưu Tiến sĩ Nguyễn Quang A 15 giờ đồng hồ tại sân bay Nội bài mà không có bất kỳ lý do nào.
Nhà báo Huy Đức nhận xét rằng hành động đó là một thông điệp phản chính trị.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng được bạn bè ông đón như một người anh hùng.
Bàn về luật pháp Việt Nam
Như vậy nhà nước pháp quyền có tồn tại ở Việt Nam như nhà văn Sương Nguyệt Minh viết hay không?
Có một bài báo rất dài trên báo chí chính thống Việt Nam phân tích các bản Hiến pháp và những phát ngôn trong đó, để nói rằng nước Việt Nam ngày nay là một quốc gia tôn trọng các quyền cơ bản của con người.
Song nhà báo Huy Đức nhận xét rằng chính quyền mà nhân sự và mô hình chính trị không được quyết định bởi lá phiếu của người dân thì chỉ mới có được một phiên bản khác của nền thực dân.
Tại Việt Nam hiện nay người ta vẫn nói rằng việc bầu cử là việc của dân nhưng do đảng cộng sản quyết định.
Nhưng tại sao với một sự độc tôn cai trị, đảng cộng sản cần gì phải đặt ra cái gọi là luật pháp cho thêm phần phức tạp?
Blogger, Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy trích lời vị Tổng thống nổi tiếng của Tiệp Khắc sau giai đoạn toàn trị cộng sản:
Anh em ông Đoàn Văn Vươn trong ngày được đặc xá.
Các bộ luật – ít nhất là trong một số lĩnh vực – chỉ là cái mặt nạ, chỉ là một khía cạnh của thế giới giả tạo. Thế thì tại sao lại cần pháp luật? Cũng cùng lí do như ý thức hệ: Nó cung cấp một cây cầu biện hộ giữa hệ thống và các cá nhân, nó giúp họ tham gia vào cấu trúc quyền lực và phục vụ những đòi hỏi độc đoán của bộ máy quyền lực một cách dễ dàng hơn.
Việc thao túng các toà án và các công tố viên thông qua con đường chính trị, những giới hạn kiềm chế khả năng bào chữa của luật sư trong quá trình bảo vệ thân chủ của mình, các phiên toà thực chất là xử kín và những hành độc đoán của lực lượng an ninh, quyền lực của các lực lượng này còn cao hơn pháp luật, và cách áp dụng rộng đến mức vô lí những điều luật cố tình soạn thảo một cách mù mờ.
Bà Nguyễn Thị Từ Huy viết tiếp:
Tôi sử dụng câu trả lời của Havel, được nêu lên từ nửa thế kỷ trước mà giờ đây vẫn còn rất đúng cho trường hợp Việt Nam, để nói rằng: mô hình chính trị Việt Nam là một mô hình ngoại lai hoàn toàn, copy hoàn toàn từ nước ngoài, nhập khẩu hoàn toàn từ ngoại quốc, nó là sản phẩm của thái độ sùng ngoại tuyệt đối của bộ máy lãnh đạo.
Trong mô hình mà bà Từ Huy nói rằng ngoại lai hoàn toàn đó, tác giả Phạm Tuấn Xa thấy rằng không những nó có luật mà còn là một rừng luật. Tác giả viết trong bài Luật rừng và rừng luật:
Nhà nước Cộng sản Việt Nam là Nhà nước ban hành một “Rừng luật” – Mỗi năm Quốc hội họp 2 lần – mỗi lần kéo dài từ 30 – 45 ngày chỉ để thông qua luật, sửa đổi luật và pháp lệnh. Tất cả mọi hoạt động xã hội dù nhỏ nhất cũng được luật hóa có vể rất nghiêm, rất minh bạch… Nhưng thực chất chỉ nhằm củng cố địa vị độc tôn của Đảng để bảo vệ khối tài sản khổng lồ của cán bộ Đảng từ địa phương đến Trung ương, và dựa vào đó Đảng dễ dàng cai trị.
Những tù nhân lương tâm và những đổ vỡ xã hội
Nếu câu chuyện tù tội của người nông dân Đoàn Văn Vươn là một câu chuyện vui, thì số phận những người tù chính trị trong đợt đặc xá nhân ngày đại lễ năm nay lại không được như thế.
Sau nhiều lời đồn đoán, cả trong lẫn ngoài nước, cả người Việt lẫn không phải Việt, không có một người tù chính trị nào được ân xá.
Luật sư Lê Công Định, một cựu tù chính trị nhận xét:
Tù nhân chính trị là thành phần không thể kiếm chác ở họ, mà chỉ có thể dùng để đổi chác cho mục đích khác, nên họ không thuộc diện đặc xá bình thường. Do vậy, xin đừng ngạc nhiên hay buồn bã vì không tù nhân chính trị nào được trả tự do trong dịp này.
Hiểu rõ sự vận hành của một hệ thống đặc thù như vậy tại Việt Nam, thì sẽ không thắc mắc như các phóng viên ngoại quốc gần đây trước tin tức đặc xá này.
Một sự đặc thù khác trong sự vận hành của chế độ tại Việt Nam được blogger Viết từ Sài gòn nêu lên, nói đúng hơn là kết quả của sự vận hành của chế độ cộng sản tại Việt Nam, góp phần làm cho đảng cộng sản duy trì sự cai trị của mình, đó là sự mê tín của dân chúng vào đảng cộng sản.
Chính quyền sử dụng bạo lực với dân, chính quyền đạp lên pháp luật. Pháp luật đó không có tác dụng, bây giờ người ta noi gương chính quyền mà sử dụng bạo lực.
– Nhà văn Phạm Đình Trọng
Sự mê tín vào đảng Cộng sản này được tích tụ một cách tiệm tiến trong quá trình tồn tại, nó chuyển hóa từ sợ hãi sang thỏa hiệp và cuối cùng là cơ hội. Nghĩa là với cách quản lý đầy sắc máu, nhà nước Cộng sản đã đẩy đại bộ phận nhân dân đến chỗ sợ hãi, đánh mất chính mình để tồn tại. Và đến một lúc nào đó, người ta cảm thấy những bất công, vô lý là chuyện bình thường, không có gì đáng bàn, người ta chấp nhận, thỏa hiệp với bất công, xem bất công và đàn áp như một lẽ đương nhiên. Và một khi đã xem điều đó là đương nhiên, người ta dễ dàng thích nghi để tìm ra cơ hội có lợi cho bản thân. Những kẻ cơ hội trong chế độ Cộng sản đều là những kẻ có khuynh hướng phát triển như trên.
Sự sợ hãi mà Viết từ Sài gòn đề cập được tạo nên bởi một thiết chế đặc trưng của các chế độ toàn trị, trong đó có chế độ cộng sản, là sự sử dụng một bộ máy công an khổng lồ. Việc này cũng không nằm ngoài những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản mà những lý thuyết gia của nó đề cập từ buổi khởi đầu của chủ nghĩa này, đó là việc sử dụng bạo lực. Việc sử dụng bạo lực lâu ngày dài tháng đã tạo nên một xã hội bạo lực. Trong một lần trao đổi với chúng tôi, nhà văn Phạm Đình Trọng nói rằng:
Cái này đặc biệt nghiêm trọng, đáng báo động. Một xã hội bạo lực đang thắng thế và cái sự thắng thế này nó bắt đầu từ chính quyền. Chính quyền sử dụng bạo lực với dân, chính quyền đạp lên pháp luật. Pháp luật đó không có tác dụng, bây giờ người ta noi gương chính quyền mà sử dụng bạo lực. Chính quyền dùng bạo lực với dân quá phổ biến và trở thành bình thường. Việc đó trở thành một khuôn mẫu ứng xử của xã hội thì bây giờ người dân người ta cũng ứng xử như thế thôi.
Một xã hội bạo lực chính là một sự đổ vỡ về văn hóa, và cũng vô cùng nguy hiểm như Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc nhận xét:
Những sự tụt hậu về kinh tế có thể được khắc phục nếu không phải trong vài năm thì cũng vài chục năm, nhưng những sự đổ vỡ trong văn hoá và đặc biệt trong đạo đức và quan hệ giữa người với người thì rất khó hàn gắn và để lại rất nhiều di hại.
Và cuối cùng, blogger Viết từ Sài gòn cho rằng dù được sự hậu thuẫn bởi sự mê tín của dân chúng, nhưng đảng cộng sản cũng phải đối mặt với nguy hiểm gây ra bởi chính họ vì Khi mà tấm thẻ đảng trở nên rẻ rúng, khi mà quyền lực đảng đã rơi vào tay tài phiệt và mafia, khi mà tính đảng không còn thiêng liêng như những ngày người ta chấp nhận đói khổ, rúc rừng, chịu sốt rét và bom đạn, cái chết để đi theo đảng.
Trong tâm thức khá bi quan về sự đổ vỡ người ta sẽ cảm thấy một tia hy vọng khi nhìn qua trang blog Một góc nhìn khác của người cựu tù chính trị Trương Duy Nhất khi ông kể rằng cô con gái nhỏ của ông không chú ý cảnh duyệt binh trong ngày đại lễ mà quan tâm đến chuyện công an ở sân bay Nội bài đã trả tự do cho Tiến sĩ Nguyễn Quang A hay chưa!
Sau quyển « Đại Vệ Chí Dị » được nhà xuất bản Trẻ phát hành tại hải ngoại. « Nói Trong Im lặng” là quyển thứ hai của tác giả Bùi Thanh Hiếu (tức blogger Người Buôn Gió) được Eva Tas Foundation xuất bản. Thông tín viên Tường An giới thiệu quyển sách này đến quý thính giả qua phần phỏng vấn tác giả và nhà xuất bản sau đây:
«Nói trong im lặng» là tiếng thét của những ngòi bút bị bẻ gẫy trong đêm đen Việt Nam, những tiếng thét đã được mang đến thế giới bên ngoài bởi một người vừa thoát khỏi vũng đen ấy : Bùi Thanh Hiếu.
Viết về những thủ đoạn của chế độ công an tại Việt Nam không phải là một đề tài mới lạ, mỗi ngày tràn đầy trên các mạng xã hội những bản tin tố cáo những hành động đàn áp của công an bằng mọi hình thức, từ đánh đập đến gây thương tích bằng những tai nạn giả.
Quyển « Nói trong im lặng » của Bùi Thanh Hiếu góp vào những tiếng kêu cứu trong vô vọng đó một ánh đuốc, soi sáng một khoảng đêm đen Việt Nam. Quyển sách nhỏ kéo cao hơn nữa tấm màn sân khấu của những gương mặt được nguỵ trang dưới cái tên « công an nhân dân » hay là những ngôn từ cao quý khác. Qua những nhân vật hư cấu, Bùi Thanh Hiếu đã diễn tả lên những con người thật giữa đời thường.
Quyển sách nói về một cựu bộ đội tên B. về hưu, chủ một blog mang tên Tiếng Quê Hương, hiền lành, chân chất, nhìn mọi việc quanh mình bằng cái nhìn đơn giản, hiền hoà, tin vào một chính sách mà ông đã phục vụ suốt cuộc đời cho tới ngày nhận giấy về hưu. Vẫn với một niềm tin son sắt, ông sông yên bình với những bài viết blog . Cho đến một ngày có một người dân oan tìm đến ông kể lể. Cảm thương cho hoàn cảnh của bà, ông B đã giúp bà tìm kiếm những hình ảnh, chứng cứ rõ ràng để tố cáo việc uỷ ban xã thông đồng với uy ban giải toả mặt bằng để trưng thu đất của bà bằng giá rẻ mạt. Ông đã giúp bà Nguyễn làm đơn nộp lên phường với niềm tin son sắt vào guồng máy hành chánh như khi ông còn là một chiến binh lăn lội ở Trường Sơn:
“Ông B cảm thấy họ thật dễ mến. Dù sao trong bộ máy công quyền còn những con người có tâm huyết với dân, tận tụy với công việc như thế này. Ông cảm thấy mình đã làm những việc có ích giúp người cô thế như bà Nguyễn. Chắc thấy tờ biên nhận này bà Nguyễn sẽ mừng lắm.”*
Và sau đó, ông thu thập chứng cứ, viết bài vạch trần việc gian tham đưa lên trang blog của ông và cũng từ đó, bi kịch của gia đình ông bắt đầu mà ông vẫn chưa hề biết
“Ông lấy xe ra về, trong lòng khoan khoái niềm vui. Ông không biết rằng những tờ đơn ấy sẽ chẳng bao giờ đến ủy ban nào cả, nó sẽ nằm trong két hồ sơ dưới dạng một tập hồ sơ riêng có tên ông ở một cơ quan an ninh bí ẩn trong hàng hà vô số những cơ quan an ninh bảo vệ chính trị, bảo vệ Đảng trên khắp đất nước này.. ít người dân thường nào hay kể cả cán bộ nhà nước biết đến những cơ quan bí ẩn đó.”*
Cuốn sách này chỉ nói lên sự thật, những dữ kiện có thật được giả tưởng hoá, một câu chuyện tưởng tượng nhưng hoàn toàn dựa trên những dữ kiện có thật. Điều đó làm chúng tôi cảm thấy rất thú vị
– ông Rudolf Geel
Hệ thống an ninh của nhà nước Việt Nam như một mạng nhện vây bủa trên cao treo những mắt cáo nhìn xuống kiểm soát từng hành động, từng suy nghĩ của mỗi con người và bằng mọi thủ đoạn tàn nhẫn, sẵn sàng bẻ gẫy bất cứ ai không khuất phục họ, những thủ đoạn rất hèn mà một cơ quan nhà nước chính trực không bao giờ dùng với người dân của họ. Những bài viết của Ông B đã lọt vào những mắt cáo đó, lời của Tiến, một côn đồ đội lốt công an:
« Xong rồi đây anh, cái con mụ này được thằng C nó dẫn đến nhà thằng B, nhờ thằng B viết bài. Mụ đấy khai là gặp tại nhà thằng B, đưa đơn từ, kể chuyện. Thằng B có quay clip phỏng vấn mụ ấy. Mụ bảo tại chính quyền không giải quyết nên gặp ai là mụ ấy nhờ. »*
Một kế hoạch thật bài bản được đặt ra để cho ông B. vào tròng, trong khi đó, ông B. vô tư vui mừng với ý nghĩ mình đang làm một điều tốt , Thành, một cán bộ an ninh thuộc phòng bảo vệ tư tưởng chính trị nội bộ thuộc khối 5 bộ Công an báo cáo thành tích:
« Báo cáo sếp, đã cho người nắm bắt thông tin về B. Trước tiên em định lựa một số bài viết của hắn có cơ sở pháp lý, để triệu tập hắn đến làm việc. Bước đầu để hắn xác định blog của hắn. Vì vậy em sẽ không nhắc đến những bài viết gay gắt chỉ trích chính quyền của hắn ngay. Đây là những bài của hắn em lựa ra để gọi hắn làm việc. Những bài viết này thì hắn có đủ lý để biện minh, như thế hắn sẽ xác nhận là chủ của blog ….buổi sau nữa khi hắn xác nhận rồi thì làm việc đến các bài khác. »*
Và họ không từ bỏ cả thủ đoạn dùng thân nhân để áp lực cá nhân « phạm tội » một thủ đoạn rất tâm lý thường được áp dụng để làm nhục ý chí những người hoạt động, vì bản thân mình có thể chịu khổ những không thể nhìn thấy thân nhân vì mình mà liên luỵ . Lời của nhân vật Thành:
Ông Rudolf Geel, Tổng thư ký Eva Tas Foundation
«Nắng nôi đi vất vả nhỉ.Làm tốt đấy, mai xuống chỗ trường vợ thằng B hỏi trường nó về nhân thân vợ nó, quá trình công tác, tư tưởng. Rồi nói thế nào để hiệu trưởng ở đó bắn tin lại cho vợ nó biết là có cơ quan an ninh đến hỏi rồi đấy, nói hiệu trưởng bảo vợ nó về nói nó làm gì thì làm đừng ảnh hưởng vợ con. »*
Quyển sách nhỏ vẽ lên một xã hội bất ổn với bạt ngàn mưu kế, thủ đoạn của mạng lưới an ninh chằng chịt mà những người đối kháng không một tấc sắt trong tay như những con chim đang vẫy vùng trong mạng lưới đó. Với những nhân vật giả tưởng, Bùi Thanh Hiếu đã ráp những mảnh vụn của một xã hội đầy bất trắc để dựng lên một cảnh đời nghiệt ngã cho những người cầm bút. Tác giả Bùi Thanh Hiếu chia sẻ suy nghĩ của mình khi viết quyển sách này:
« Điều mà tôi muốn thường thì tôi viết tôi để cho độc giả, người ta cảm nhận, tôi chỉ diễn tả lại nỗi khổ, cái khó khăn, những cái mà những người cầm bút viết lên sự thật ở Việt Nam họ phải chịu đựng như thế nào. Tức là tôi muốn đưa đến độc giả cái nhìn về số phận của họ, những cái khó khăn của họ, tức là những cái rất là tế nhị mà họ không thể nói ra, viết ra để mọi người khác nhìn được họ và thông cảm, hiểu cho những người viết phản kháng ở trong nước”.
Quyển «Nói trong im lặng” 69 trang được nhà xuất bản Eva Tas Foundation xuất bản bằng tiếng Anh. Tổng thư ký của Eva Tas Foundation, ông Rudolf Geel cho biết cảm tưởng của ông khi đọc cuốn sách này:
«Cuốn sách này chỉ nói lên sự thật, những dữ kiện có thật được giả tưởng hoá, một câu chuyện tưởng tượng nhưng hoàn toàn dựa trên những dữ kiện có thật. Điều đó làm chúng tôi cảm thấy rất thú vị ».
Qua từng trang sách, những người viết blog, những tiếng nói bất đồng chính kiến sẽ nhận ra mình trong từng con chữ : anh bộ đội về hưu tập tành viết lách, chị công nhân xuất khẩu lặn lội giúp dân oan, người thanh niên công giáo bị côn đồ đánh cho tơi tả ngoài đường phố…v.v…và còn nhiều thủ đoạn để cả một hệ thống công quyền của nhà nước trấn áp những người không cùng quan điểm với họ. Bùi Thanh Hiếu nói:
« Thực ra những gì tôi viết đều dựa trên nguyên mẫu của sự thật, ngay cả trong quyển sách này thì những nguyên mẫu đó thật đến mức độ tôi không muốn đổi tên họ thành một người khác mà tôi muốn đặt họ là A, là B. Đây là những nhân vật kể cả người viết, kể cả người an ninh, những người công quyền hoặc là những người hàng xóm, tất cả đều trong sự thật mà ra. Tất nhiên laf trong những nhân vật đấy thì tôi lấy một nhân vật cơ bản, nhưng mà trong những sự kiện mà ông ấy phải chịu đựng thì không phải chỉ mình ông ấy thôi maf tôi nhặt của người này, của người kia tôi gom lại thành số phận của ông ấy để mọi người hiểu cái mà ông ấy chịu đựng cũng là những cái mà những người khác phải chịu đựng. Cho nên những người cầm bút họ đọc thì họ sẽ thấy bản thân họ được phản ảnh qua đấy một cách trung thực.”
Và chính những xúc tác rất thật đó đã làm cho ông thực hiện quyển sách này chỉ trong vòng 2 tháng. Tác giả Bùi Thanh Hiếu cho biết :
«Thực sự là nó ở trên những sự kiện có thật và tôi chỉ cần ngồi tôi hình dung lại, tôi chấp nối lại và cứ thế tôi viết ra thôi chứ nó không phải là một điều gì khó khăn. Với người khác có thể khó khăn nhưng với một người đã trải qua rồi thì như là một chuyện kể lại. Tất cả những người bạn người quen, rồi những cảnh mà họ hoặc bản thân mình phải chịu đựng hiện về rất là nhiều và chính nó tạo cho tôi cái cảm xúc mà tôi hoàn thành nhanh cuốn sách này theo yêu cầu của nhà xuất bản đấy. »
Eva Tas Foundation là một tổ chức tư nhân tại Hoà Lan, được lập ra theo ước nguyện của một phụ nữ Do thái đến từ Đức và sau này sống tại Hà Lan (1933-2007), bà chủ biên một tạp chí về các nạn nhân của trại tập trung Auschwitz , đồng thời bà cũng là một người công sản giàu có, đó là lý do bà không được cảm tình của một số thành phần. Những năm cuối của thập nên 90, bà tham gia vào chi nhánh của PEN ở Hà lan và mong muốn sau khi bà mất đi Eva Tas Foudation sẽ xuất bản sách của những nhà văn, nhà thơ trong các nước mà tự do truyền thông bị bóp nghẹt. Eva Tas Foudation đã xuất bản sách của các nhà văn từ Ethopia, Honduras, China, Việt Nam ….v.v…các tập thơ của nhà thơ Bùi Chát và Lý Đợi cũng đã từng được Eva Tas Foundation xuất bản. Mục tiêu của nhà xuất bản này là phá tan bức màn kiểm duyệt của các nước độc tài, ngăn cấm tự do thông tin bằng cách giúp đỡ tài chánh, xuất bản sách cho những bloggers, nhà văn, nhà thơ tại các quốc gia đó. Ông Rudolf Geel cho biết:
«Chúng tôi mong muốn mọi người biết những gì xảy ra trên thế giới trong lãnh vực kiểm duyệt, nó diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, ở Trung Quốc diễn ra một cách khác và ở Việt Nam lại diễn ra theo một cách khác. Chúng tôi có nhiều quan hệ với nhà văn bất đồng chính kiến hoặc những nhà văn bị theo dõi, chúng tôi giúp họ về tài chánh và chúng tôi giúp những nhà văn trong những quốc gia như thế xuất bản sách của họ.
Tôi không biết là tôi sẽ gặp những khó khăn hay không nhưng mà trách nhiệm của tôi trong khi tôi đang an toàn như thế này thì tôi phải viết hộ cho mọi người.
– Bùi Thanh Hiếu
Và nếu chúng tôi có thể xuất bản hàng loạt những cuốn sách như thế thì chúng tôi có thể có một hình ảnh tổng quát về cách cai trị trong một quốc gia, cách họ kiểm soát tự do ngôn luận của người khác và chúng tôi muốn phổ biến nó đến với những người quan tâm đến quyền tự do bày tỏ tư tưởng, vì thế điều quan trọng là chúng tôi không bán, chúng tôi phát miễn phí những quyển sách này »
“Nói trong im lặng” là phần thứ nhất của quyến sách thứ hai của Bùi Thanh Hiếu, một thanh niên giang hồ của ngõ Phất Lộc, được biết nhiều qua blog Người Buôn Gió của anh. Quyển thứ nhất “Đại Vệ chí dị “cũng thuộc dạng lịch sử giả tưởng, do nhà xuất bản Giấy Vụn xuất bản và Trẻ phát hành ở hải ngoại. Ông Bùi Thanh Hiếu cho biết đang tiếp tục cho phần 2 của quyển “Nói trong im lặng” phần này sẽ nói về số phận của những luật sư, ông Bùi Thanh Hiếu nói:
«Trong cuốn sách này thì tôi nói về người cầm bút, phần 1 tôi nói về người cầm bút. Phần thứ hai thì tôi nói về một nhân vật là luật sư, tức là ở Việt Nam thì có những nhân vật nhà văn, nhà báo, luật sư, họ gặp rất nhiều khó khăn, phần thứ hay này thì tôi viết về luật sư và vẫn là cái bộ máy của an ninh công quyền kia họ đàn áp, ở phần 2 này tôi viết về những luật sư. Nếu tôi tìm được người nào tài trợ xuất bản hoặc tôi sẽ dành dụm tiền tôi tự xuất bản lấy. Tôi sẽ dùng số tiền bán được giúp đỡ các anh em trong nước. Ngay như cuốn sách này được bản quyền 5000 € thì tôi cũng gửi mấy món tiền về cho một số người dân oan, dân nghèo trong nước cũng hết. »
Được một tổ chức ở Đức mời sang Đức để sáng tác, với những quyển sách như thế này,một ngày nào đó, phải trở về Việt Nam thì những gì sẽ chờ đợi ông, Bùi Thanh Hiếu nói :
«Tôi không biết là tôi sẽ gặp những khó khăn hay không nhưng mà trách nhiệm của tôi trong khi tôi đang an toàn như thế này thì tôi phải viết hộ cho mọi người. Mình ở trong nước mình đã sợ mình không dám xuất bản, mà nếu ở bên ngoài mình cũng sợ nốt thì bao giờ mình mới viết được ? bao giờ mình mới xuát bản cho độc giả hiểu được ? “
Luật sư, nhà văn, bloger, dân oan……đều cùng mang những chiếc còng vô hình trên quê hương của chính họ, nhà tù sẵn sàng đón rước họ xuyên qua những nghị định oan nghiệt. Tiếng nói của họ rơi vào khoảng không im lặng của hàng rào kiểm duyệt. Liệu họ có đủ nghi lực để thực hiện giấc mơ được biến suy nghĩ thành lời nói mà không bị bất cứ một hành động đàn áp nào ? Hay là rồi họ cũng phải khuất phục trước mạng lưới trùng trùng thủ đoạn của cơ quan an ninh đầy quyền lực để rồi trở thành như ông B. ở cuối đời :
Trong viễn cảnh về một tương lai gia đình yên ổn, mỗi lần ở thành phố ra, đi qua vườn hoa trước cửa dinh thủ tướng. Ông B cúi đầu không dám nhìn những người dân oan gầy còm, xơ xác đang trải chiếu nằm vỉa hè kêu oan vì mất đất.
Không phải riêng mình ông B cúi đầu. Có nhiều người viết như ông đã từng nhắm mắt để khỏi nhìn những cảnh trái ngang. Có người viết ra sự thật rồi lại chỉnh sửa năm bảy lần đến khi sự thật thành một điều mơ hồ……. Mỗi người viết ra sự thật đều phải đắn đo cái giá của mình phải trả, mỗi lần như thế, sự thật cứ vơi dần… “ *
Những người cầm bút những người bất đồng chính kiến, những người biết nói và dám nói lên tiếng nói của mình ở Việt Nam không bao giờ biết được số phận của mình sẽ trôi về đâu. Họ sẽ không bao giờ có một cuộc sống thanh thản như bao người an phận khác, mạng lưới an ninh bao trùm lên đời sống của họ, theo họ trên từng con hẻm. Người cựu chiến binh B cuối cùng cũng đã khép mình trước những thủ đoạn tinh vi của bộ máy an ninh khi ông đặt bút ký vào tờ biên bản rút lại lời khai, để vợ ông được tiếp tục đi dạy và để cánh cửa đại học cho đứa con gái được rộng mở.
Hồ sơ ông B. được đóng lại và số phận nghiệt ngã một nạn nhân khác lại âm thầm bắt đầu khi «Thành mở tủ lấy ra một bìa hồ sơ mới, nắn nói ghi tên hiệu hồ sơ… »*
* : Trích đoạn trong bản tiếng Việt của quyển «Nói Trong Im Lặng » Bùi Thanh Hiếu (bản tiếng Anh Eva Tas Foundation xuất bản)
Ông Nguyễn Ngọc Giao, một trí thức miền Nam ủng hộ miền Bắc cộng sản, tức thuộc “lực lượng thứ ba” thời Việt Nam Cộng Hòa, vừa kể lại một chi tiết nhỏ liên quan tới chuyện đi “học tập cải tạo” của một viên chức Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30/4. Ông Giao thuật rằng người tù khi trở về đã trả lời người con về chuyện đối xử trong tù cộng sản thế này:
“Bỏ qua đi. Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn”.
Về mặt sự thật, chúng ta không thể xác định câu trả lời này chính xác đến đâu. Trường hợp đây thực là lời nói của nhân vật chăng nữa, tôi cho rằng khả năng “có lẽ” đó quá nhỏ so với khả năng Việt Nam Cộng Hòa sẽ đối xử nhân bản (hơn) với miền Bắc, nếu Việt Nam Cộng Hòa thắng. Tại sao? Ở đây tôi chỉ dẫn lại hai trong số rất nhiều cứ liệu:
Con gái của một bộ trưởng “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” – tổ chức do miền Bắc lập ra để đối kháng bạo lực với Việt Nam Cộng Hòa – vẫn quan hệ thân tình với con Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và vẫn được Tổng thống quí mến, giúp đỡ.
Vợ của một thứ trưởng của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” vẫn sinh sống đàng hoàng tại Sài Gòn và còn làm việc trong nghành tòa án của Việt Nam Cộng Hòa.
Cứ liệu 1 có thể kiểm chứng trong hồi ký A Vietcong Memoir của ông Trương Như Tảng. Cứ liệu 2, hồi ký Những chuyến ra đi hoặc liên hệ ngay với tác giả/nhân chứng hiện còn sống: nhà nghiên cứu Lữ Phương.
Người như ông Nguyễn Ngọc Giao chắc chắn phải biết và trực nghiệm nhiều hơn các sự kiện, đặc tính khoan dung, đa nguyên, nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa như vừa kể. Vì vậy, nếu thực sự nhân vật đã có đánh giá như ông Giao viết, thì một người trí thức hiểu biết về Việt Nam Cộng Hòa và lại thường bày tỏ yêu mến tự do, dân chủ như ông Giao lẽ nào có thể thuật lại một cách vô tâm đến vậy? Nhất là trong tình trạng đất nước hiện nay?
Nghiên cứu, phê bình về “lực lượng thứ ba” đã có nhiều bài viết công phu, như của tác giả Nguyễn Văn Lục. Nhưng theo tôi, cái dở của họ không phải họ là người được sống trong thể chế văn minh (hơn) của miền Nam lại đi ủng hộ miền Bắc cộng sản. Bởi, sai lầm này dẫu quá đớn đau cho dân tộc cũng thường thôi nếu nhìn kỹ hơn về bản tính dân tộc và về bản thể con người. Cái dở của họ không phải là các hoạt động xã hội hiện nay của họ quá rụt rè so với thời Sài Gòn dẫu cái Ác hiện nay ác gấp nhiều lần trước. Bởi ai cũng chỉ có một thời sung sức nhất định. Cái dở của họ cũng không phải chuyện chưa xin lỗi dân tộc vì đã vô tình tiếp tay phá bỏ một chế độ văn minh hơn. Bởi Elton John đã viết: “Xin lỗi” hình như là từ khó nói nhất.
Cái dở, cái tồi của “lực lượng thứ ba” là đến tận hôm nay vẫn có người cố tình biện bạch cho sai lầm của bản thân bằng những cách tinh vi, nhưng thiếu lý tính.○
Image copyrightiStockHai cây viết gặp rắc rối cùng vì những gì viết trên Facebook
Ngay sau kỳ nghỉ lễ 2/9 vừa qua hai cây viết người Việt đã mất việc.
Một người làm báo trong nước và một người làm báo ở nước ngoài, cả hai đều bị xử lý vì những gì họ viết trên Facebook chứ không phải trong công việc thường ngày.
Nhà báo Đỗ Hùng bị miễn nhiệm khỏi chức Phó Tổng Thư ký tòa soạn Báo điện tử Thanh Niên và cũng bị Bộ Thông tin và Truyền thông thu hồi thẻ nhà báo.
Blogger Lê Diễn Đức bị đài Á châu Tự Do, RFA, hủy hợp đồng mà theo đó ông được sử dụng trang web của đài này để thể hiện cách nhìn của ông về các vấn đề thời sự.
Hiện trang blog của ông Đức trên RFA đã không còn truy cập được nhưng ông vẫn tiếp tục bảo vệ ý kiến của mình trên Facebook của ông nơi ông tuyên bố có 5.000 bạn và hơn 7.000 người theo dõi.
Nhà báo Đỗ Hùng trong khi đó đã xóa nội dung đã đăng trên Facebook cá nhân và hiện trang Facebook của ông cũng không thấy còn xuất hiện trên Facebook (6/9/2015).
Cách viết ‘tếu táo’
Cả hai nội dung được đăng trên Facebook của hai cây viết đều về những người đã khuất và về những sự kiện trong quá khứ.
Tuy nhiên nhiều người Việt có cách nhìn hoàn toàn khác nhau về những nhân vật được nêu và sự kiện được nêu.
Nhà báo Đỗ Hùng viết thông điệp “tếu táo” toàn dấu sắc, giờ đã không còn truy cập được, về các diễn biến ở Việt Nam cách đây 70 năm trong đó có đoạn:
“…[B]ác Ái Quốc, tướng Giáp với mấy chú, mấy mế xứ Pác Bó vác cuốc, vác giáo mác, vác súng ống xuống đánh Phát xít, đánh Pháp, cướp lấy khí giới, cướp thóc, chiếm bót, cứ thế đánh tới bến.
“Đánh tới cuối tháng 8, bác Ái quốc thắng lớn. Bác ấy với các chú kéo xuống Giáp Bát, chiếm phố, chiếm lấy bót phát xít, chiếm hết. Hết đánh đấm , bác ấy nói: “Các chú thắng phát xít, thắng Pháp, quá xuất sắc”. Tới tháng 9, bác ấy xuống phố bố cáo quốc khánh. Bác ấy nói: “Đất nước hết chiến đấu, hết đói kém. Phát xít cút. Đế quốc Pháp cút. Các mế, các chú, các cháu bé hết khóc lóc. Thế giới bác ái…”.
“Nói tới đó, bác Ái Quốc thắc mắc: “Bác nói thế các chú, các mế, các cháu có thấy quá lí nhí?” Bá tánh phía dưới đáp: “Chúng cháu thấy bác nói rất lớn. Nói thế quá tốt!”. Tướng Giáp đứng kế đó thét lớn: “Quyết chiến quyết thắng!”.
Sau quyết định thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ Hùng, một phong trào viết bình luận chỉ có dấu sắc đã diễn ra trên Facebook.
“Viết báo, nói xấu bác Ái Quốc, nói xấu tướng Giáp. Viết thế “đám cán ngố d[ố]t nát” tức tới chết. Chúng chém hết, đốt hết, chúng nói “đám chống đối, phá nước, giết hết…dám viết láo thế”.
Blogger Đoan Trang cũng chia sẻ trên Facebook phản ứng của một nhà báo giấu tên đề cập tới công văn thu hồi thẻ nhà báo của Thứ trưởng Thông tin Truyền thông Trương Minh Tuấn:
“Lính chú Tuấn tức tốc cách chức cái đứa viết láo. Chú Tuấn thích lắm, thấy thế ký giấy lấy giấy báo chí đứa ấy. Chú Tuấn quyết giết nó mất chức, chấm dứt cái kiếp báo chí chán ngán. Chú ghét dấu sắc, nếu có viết báo nhớ tránh dấu sắc. Có viết nhớ lấy dấu khác cấm viết dấu sắc.”
Nhưng cũng có nhiều người phản đối cách viết của ông Đỗ Hùng và cho rằng ông “đã xúc phạm đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và xuyên tạc về Cách mạng tháng Tám”.
Một người dùng Facebook được dẫn lời nói cựu nhà báo Thanh Niên là người “biến dị tư tưởng đội lốt nhà báo”.
Tranh luận lịch sử
Trong lời chia sẻ, vốn góp phần dẫn tới việc RFA cắt hợp đồng với ông, blogger Lê Diễn Đức viết về thất bại của quân lực Việt Nam Cộng hòa và của chiến dịch Đông Tiến của Việt Tân thời Tướng Hoàng Cơ Minh:
“Cả hàng trăm ngàn quân lính trong tay, vũ khí xềnh xàng mà còn bị bộ đội Bắc Việt đánh cho tan tành, chạy chít chết, cuối cùng phải đầu hàng, thì vài chục người đi qua rừng núi Thái Lan dựng “chiến khu” với mục đích “Đông Tiến”,”phục quốc” chỉ là trò cười, ảo tưởng, chứ “anh hùng” cái nỗi gì.
“Đây đích thực là một cuộc làm “chiến khu” giả lừa gạt bà con hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền, không hơn không kém! Niềm tin vào những “anh hùng vị quốc vong thân” ấy là niềm tin ngô nghê, mù quáng.”
Trong khi chỉ trích ông Đỗ Hùng “phỉ báng” và “bêu riếu” lãnh tụ, những người phản đối ông Hùng cho rằng ông Lê Diễn Đức đã nói “sự thật” và chỉ trích quyết định của RFA.
Họ nói quyết định của RFA gửi thông điệp tới các cộng tác viên với một số cơ quan truyền thông hải ngoại rằng “các người phải bẻ cong ngòi bút chửi cộng sản và không được đụng chạm đến Hoàng Cơ Minh thì mới không bị mất việc”.
Nhưng Trinity Hồng Thuận, một đảng viên Việt Tân bình luận trên Facebook của cô:
“[Ông] Lê Diễn Đức sau khi bày tỏ những quan điểm mang tính xúc phạm và gặp phải những phản ứng mạnh mẽ từ dư luận, ông đã bị những cơ quan truyền thông mà ông đang hợp tác cho nghỉ. Đơn giản vì họ đánh giá hành động của ông ảnh hưởng đến uy tín của họ, cũng như làm mất niềm tin mà độc giả / thính giả dành cho họ và họ muốn khẳng định sự không liên quan đối với những quan điểm này của ông.
“…Ông Đức không giống như nhà báo Đỗ Hùng, ông không bị một cơ quan thẩm quyền nào rút đi tư cách nhà báo, và chắc chắn là ông sẽ không bị một chính quyền nào lăm le đàn áp nếu tiếp tục bày tỏ quan điểm của ông. Chuyện những nhà báo trong nước không những bị rút đi tư cách cầm bút mà còn bị đàn áp, tù đày, vì có những bài viết “vượt quá khuôn khổ” là chuyện không quá xa lạ với tất cả chúng ta.”
Trininy Hồng Thuận cũng nói ông Đức đã “miệt thị đối những người lính” Việt Nam Cộng hòa và “nhục mạ” những đảng viên Việt Tân thế hệ đi trước.
Còn blogger Lê Diễn Đức đã dùng Facebook của ông để đáp lại:
“Tôi là người cầm bút. Nhiệm vụ của người cầm bút là nói lên và bảo vệ sự thật. Thất bại cay đắng ê chề của VNCH là sự việc không thể chối cãi và bức tranh những ngày cuối cùng của Tháng Tư năm 1975 quân lính chạy tán loạn, vứt bỏ quân phục đầy đường, là những gì tôi nói ra. Nhưng nói ra được hiểu là mạ lị quân lực VNCH.
“Mặt Trận Hoàng Cơ Minh là ý tưởng ảo tưởng thì đúng như nó đã xảy ra! Cán bộ nòng cốt của Mặt trận lấy danh nghĩa thu tiền của bà con là Hoàng Cơ Định đưa vào lợi tức của mình, bị đưa ra tòa án Liên bang Mỹ, vì tội gian lận thuế. Đó cũng là sự thật, nhưng nói ra là xúc phạm đến những người đã chết.”
Góc nhìn từ Anh
Trong các tranh luận liên quan tới nhà báo Đỗ Hùng, một số người dùng Facebook đã dẫn các quy định của BBC về sử dụng mạng xã hội mà theo đó các nhà báo BBC không được “nêu ý kiến riêng về các vấn đề chính trị” hay các vấn đề khác mà trách nhiệm của một nhà báo BBC không cho phép nêu ra.
Tuy nhiên có lẽ sẽ hợp lý hơn nếu so báo Thanh Niên với các tờ báo ở Anh, vốn có những tờ thiên tả và những tờ thiên hữu, chứ không bắt buộc phải có quan điểm “trung dung” như cơ quan có nguồn ngân sách từ lệ phí truyền hình thu từ dân và cũng dùng tài nguyên công cộng như sóng phát thanh và truyền hình.
Image caption Thẻ nhà báo ở Anh do một tổ chức tình nguyện, không liên quan tới chính quyền, cấp
Chẳng hạn báo Independent của Anh khi viết về cuộc khủng hoảng người tị nạn hiện nay ở châu Âu đã có bài viết với tít “Anh không có chỗ cho người tị nạn? Thế những phòng này thì sao?” kèm theo ảnh và dòng tin trên Facebook “Đây là nhà nghỉ ở nông thôn của ngoại trưởng Philip Hammond. Nhà 115 phòng.”
Tờ The Guardian thường có quan điểm ủng hộ BBC mỗi khi chính quyền tìm cách giảm ngân sách hay chỉ trích BBC nói chung trong khi Daily Mail có quan điểm ngược lại.
Cũng phải nói thêm những nhà báo BBC tham gia nghiệp đoàn có lựa chọn giữa thẻ nhà báo thông qua BBC hay thông qua nghiệp đoàn báo chí NUJ.
Cả BBC hay nghiệp đoàn sẽ đều đề nghị tổ chức không do chính phủ kiểm soát, UK Press Card Authority, cấp và chính quyền hoàn toàn không tham gia vào chuyện cấp thẻ nhà báo cho báo giới.
Điều kiện để được cấp thẻ báo chí chỉ là “có hầu hết hay toàn bộ thu nhập từ nghề báo”.
Liên quan tới trường hợp của blogger Lê Diễn Đức, BBC đã gọi điện thoại tới người phụ trách RFA nhưng hiện chưa liên hệ được để lấy phản hồi trực tiếp.
Trong lần trả lời phỏng vấn BBC Tiếng Việt hồi tháng Hai năm ngoái, Tổng Giám đốc RFA Libby Liu nói Đài Á châu Tự do đăng tải những thông tin mà chính quyền Việt Nam không cho phép xuất hiện ở trong nước.
Bà nói nếu “dòng chảy tự do thông tin” không bị ngăn thì RFA sẽ không có lý do để đưa những tin tức như hiện tại.
Còn về trường hợp cụ thể liên quan tới blogger Lê Diễn Đức, RFA cũng có thông báo trên Facebook mà theo đó:
“Đoạn viết của nhà báo Lê Diễn Đức công khai nhận định chủ quan về những người lính Việt Nam Cộng hòa, và quy chụp những người có tư tưởng, suy nghĩ và hành động riêng là “lừa gạt bà con Hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền” mà không có bằng chứng chứng minh. Từ đó gây ra mâu thuẫn, chia rẽ trong cộng đồng người Việt trong nước và Hải ngoại.
“Đối với các vấn đề lịch sử, chúng ta cần có góc nhìn khách quan, không thiên kiến và tôn trọng cả hai bên của cuộc chiến, dù thành hay bại, nhằm mục tiêu xa nhất là xóa bỏ hận thù, hòa hợp, hòa giải, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đó là một trong những mục tiêu, nguyên tắc của RFA.
“Do đó, trong các bài viết, RFA Việt ngữ dù có nói đến vấn đề lịch sử cũng đều cố gắng nói về hiện tại và tương lai. Những vấn đề hiện tại là hậu quả của quá khứ, chúng ta cần biết để khắc phục, hoàn thiện cho tương lai, chứ không phải bới móc, quy chụp mà không chứng minh.”
Image copyrightLe Dien Duc Ông Lê Diễn Đức nói RFA bị “áp lực dư luận rất nặng nề”.
Ban tiếng Việt Đài Á Châu Tự do gỡ trình bày về lý do chấm dứt hợp đồng với nhà báo Lê Diễn Đức khỏi trang Facebook của mình.
Trong status đăng hôm 6/9 mà nay không còn truy cập được (10:00 sáng giờ Hà Nội 7/9), quản trị viên trang Facebook của RFA Tiếng Việt giải thích rằng quan điểm cá nhân của nhà báo Lê Diễn Đức không phù hợp với những tiêu chí, mục đích và nguyên tắc của hãng nên họ đã chấm dứt hợp đồng.
Quyết định của RFA được đưa ra sau khi ông Lê Diễn Đức bình luận về điều ông gọi là ‘thất bại’ của quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng như chiến dịch Đông Tiến của Việt Tân thời Tướng Hoàng Cơ Minh.
“Cả hàng trăm ngàn quân lính trong tay, vũ khí xềnh xàng mà còn bị bộ đội Bắc Việt đánh cho tan tành, chạy chít chết, cuối cùng phải đầu hàng, thì vài chục người đi qua rừng núi Thái Lan dựng “chiến khu” với mục đích “Đông Tiến”,”phục quốc” chỉ là trò cười, ảo tưởng, chứ “anh hùng” cái nỗi gì.
“Đây đích thực là một cuộc làm “chiến khu” giả lừa gạt bà con hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền, không hơn không kém! Niềm tin vào những “anh hùng vị quốc vong thân” ấy là niềm tin ngô nghê, mù quáng,” ông Đức viết trên facebook cá nhân của ông.
Trả lời BBC ngày 5/9, ông Lê Diễn Đức nói đài RFA đã có quyết định trên do “bị áp lực dư luận rất nặng nề”.
“Họ thông báo ngưng hợp đồng với tôi hôm nay và gỡ mục báo xuống”, ông Đức nói thêm.
Bấy lâu nay ông Lê Diễn Đức viết các bài bình luận về thời sự liên quan tới Việt Nam trên blog mang tên ông trên trang web RFA tiếng Việt.
Hiện trang blog của ông Đức trên RFA đã không còn truy cập được.
Trong status trên Facebook, RFA tiếng Việt viết:
“Xét về mặt quan hệ, chuyện của RFA Việt ngữ với nhà báo Lê Diễn Đức là quan hệ dân sự.
“RFA Việt ngữ thấy rằng quan điểm cá nhân của nhà báo Lê Diễn Đức không phù hợp với những tiêu chí, mục đích và nguyên tắc của hãng, nên đã chấm dứt hợp đồng.
“Đây là một chuyện hoàn toàn bình thường trong xã hội dân sự thuần túy. Nếu có bất cứ khúc mắc nào, nhà báo Lê Diễn Đức hoàn toàn có quyền khởi kiện dân sự lên tòa án tại Hoa Kỳ,” quản trị trang này viết.
RFA tiếng Việt cũng so sánh về chuyện nhà báo Lê Diễn Đức với sự việc của nhà báo Đỗ Hùng của báo Thanh Niên mà nhiều bạn “đã có thắc mắc”.
“Hai sự việc này có điểm giống nhau: Đều xuất phát từ những bài viết trên trang cá nhân facebook, đương nhiên không phải là bài viết báo chí, không phải là hoạt động báo chí và hoàn toàn là chuyện cá nhân.
“Chúng tôi tôn trọng quan điểm cá nhân và các quyền tự do của mỗi người, trong đó có hai nhà báo Lê Diễn Đức và Đỗ Hùng.”
‘Hai sự kiện khác nhau’
“Tuy nhiên, hai sự việc này có những điểm hoàn toàn khác nhau.
“Anh Đỗ Hùng bị tước thẻ nhà báo bằng quyết định hành chính, bị giáng chức và kể cả cho thôi việc dưới sức ép từ phía chính quyền, của Ban Tuyên giáo của đảng cộng sản và từ Cơ quan an ninh quản lý lĩnh vực báo chí, không phải vấn đề dân sự.
“… Đoạn viết của nhà báo Lê Diễn Đức công khai nhận định chủ quan về những người lính Việt Nam Cộng hòa, và quy chụp những người có tư tưởng, suy nghĩ và hành động riêng là “lừa gạt bà con Hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền” mà không có bằng chứng chứng minh. Từ đó gây ra mâu thuẫn, chia rẽ trong cộng đồng người Việt trong nước và Hải ngoại.
“Đối với các vấn đề lịch sử, chúng ta cần có góc nhìn khách quan, không thiên kiến và tôn trọng cả hai bên của cuộc chiến, dù thành hay bại, nhằm mục tiêu xa nhất là xóa bỏ hận thù, hòa hợp, hòa giải, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đó là một trong những mục tiêu, nguyên tắc của RFA.
“Do đó, trong các bài viết, RFA Việt ngữ dù có nói đến vấn đề lịch sử cũng đều cố gắng nói về hiện tại và tương lai. Những vấn đề hiện tại là hậu quả của quá khứ, chúng ta cần biết để khắc phục, hoàn thiện cho tương lai, chứ không phải bới móc, quy chụp mà không chứng minh,”
“RFA Việt ngữ tôn trọng quan điểm cá nhân và quyền tự do cá nhân của blogger/nhà báo Lê Diễn Đức, nhưng những quan điểm cá nhân của anh Đức không phù hợp với nguyên tắc như đã nói ở trên, nên RFA Việt ngữ không còn cộng tác với anh Đức.
“Chúng tôi mong rằng, anh Đức có thể tìm kiếm cho mình một nơi cộng tác mới phù hợp với những quan điểm của anh,” RFA tiếng Việt viết thêm.
Không rõ nguyên nhân tại sao status này bị gỡ xuống.
Người Việt chúng ta có một câu nói rất hay, đó là “tre già măng mọc” để nói về sự tiếp nối thành tựu của thế hệ sau đối với thế hệ trước. Sự gìn giữ đó càng đáng trân trọng hơn khi xảy ra với một thế hệ sinh ra và lớn lên ở một nơi không phải là quê hương cội nguồn của mình. Cát Linh xin mời các bạn đến với đêm nhạc hội Nghệ Sĩ Trẻ, một chương trình dành cho những tài năng âm nhạc gốc Việt, là thế hệ thứ ba ở Mỹ.
Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy…
(Vivian Huỳnh với ca khúc Một chút quà cho quê hương)
Tiếng hát của Vivian Huỳnh với Ca khúc Một chút quà cho quê hương, sáng tác của cố nhạc sĩ Việt Dzung. Đây là một trong những cô bé, cậu bé được sinh ra và lớn lên ở Mỹ. Quê hương Việt Nam trong suy nghĩ của những mái đầu trẻ thơ này chỉ là một dãy đất hình chữ S với bao đời lịch sử thăng trầm qua lời kể của ông bà, cha mẹ. Khi lớn lên, tiếng mẹ đẻ đánh vần không tròn chữ, tròn âm, nhưng các em đã được nuôi dưỡng trong một gia đình, một cộng đồng mà văn hoá của người Việt Nam chưa bao giờ bị quên lãng.
Từ khi bắt đầu bập bẹ những tiếng nói đầu tiên, các em vẫn được nghe và nói tiếng mẹ, tiếng cha bằng ngôn ngữ của người Việt Nam. Rồi lớn lên, hoà nhập vào một thế giới tự do với nền giáo dục và ngôn ngữ không phải tiếng Việt Nam, thế nhưng, tâm hồn và trái tim của các em luôn cháy bỏng một tình yêu thiêng liêng dành về cho riêng một miền quê hương xa nửa vòng trái đất.
Nơi đó, các em biết là quê hương của mình.
Nơi đó, các em biết có những người anh hùng mà các em chỉ được nghe lời kể của người đi trước.
Nơi đó, các em biết đang có những con người phải chịu nhiều áp bức, mà với một tâm hồn “ăn chưa no, lo chưa tới” của mình, các em đã hiểu được rằng:
Việt Nam Ơi
Thời gian quá nữa đời người
Và ta đã tỏ tường rồi
Ôi cuộc đời, ngày sau tàn lữa khói
Mẹ Việt Nam đau
Từng cơn xót dạ nhìn đời
Người lầm than đói khổ nghèo nàn
Kẻ quyền uy giàu sang dối gian…(Việt nam tôi đâu)
Vivian Huỳnh tại Washington ngày 3-8-2013
“ Em cảm thấy rất là xúc động vì bài này là từ nhạc sĩ Việt Khang, là một người đấu tranh mà bây giờ còn ở trong ngục tù cộng sản, mà chỉ vì viết những lời nói lên sự yêu đất nước của mình, yêu quê hương của mình mà đã bị bắt và nhốt vô tù, nên em cảm thấy không có fair. Cho nên khi em hát bài này, em cảm thấy giống như là em giúp chú Việt Khang để nói lên sự yêu đất nước của em đến cả thế giới, và em hát bài này em feel giống như em ủng hộ những nhà đấu tranh ở Việt Nam.”
Vivian Huỳnh không phải là một gương mặt xa lạ với cộng đồng người Việt ở Mỹ. Năm 7 tuổi, cô bé đã hát ca khúc ‘Tôi nhớ tên anh’ của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với giọng ca trong vắt.
Tôi viết tên anh trên lá trên hoa.
Tôi viết tên anh trong trái tim tôi.
Tôi viết tên anh trên đá, trên vôi.
Tôi viết tên anh ngập nẻo đường đi ngàn lối… (Tôi nhớ tên anh)
Trong đêm nhạc hội Nghệ Sĩ Trẻ sắp diễn ra ở San Jose, cô bé sắp tròn 12 tuổi này sẽ trình diễn 3 bài hát: Việt Nam tôi đâu, I dream a dream và một bài hát cho chính em sáng tác có tựa đề là Ước mơ.
Nói về đêm nhạc hội Nghệ Sĩ Trẻ, nhạc sĩ Trần Quảng Nam, là một trong 14 thành viên của Câu lạc bộ Âm nhạc, một tổ chức phi lợi nhuận và cũng là ban tổ chức của nhạc hội này cho biết Câu lạc bộ được ra đời với ý nghĩa không chỉ là một sân chơi nghệ thuật, mà với mục đích khuyến khích những sáng tác và những hoạt động văn nghệ có tính chất sáng tạo.
“Câu lạc bộ Âm nhạc không phải là một sân chơi thôi, mà là một chỗ để cho mình có thể ươm mầm, giúp phát triển những hoạt động âm nhạc khác. Không riêng gì mầm non mà những người có tài năng khác nữa, trong lứa tuổi lớn hơn cũng có, nhưng họ ít có cơ hội đưa ra sân khấu.”
Đêm nhạc hội Nghệ Sĩ Trẻ sắp đến có thể xem là đêm diễn dành riêng cho những cô bé cậu bé gốc Việt tài năng nhất. Nhạc sĩ Trần Quảng Nam cho biết ông và Câu lạc bộ Âm nhạc mong muốn giới thiệu những nhân tài trẻ tuổi ấy trên một sân khấu chính thức, để khán giả có dịp biết đến họ như những người nghệ sĩ chứ không phải là những đứa bé bình thường.
“Chúng tôi đi mời những người họ đã có những phẩm chất và được cộng đồng ái mộ nhiều. Đó là 1 trong những tiêu chuẩn. Thứ hai là những đứa bé có những khả năng đặc biệt mà chưa ai biết đến. Lần này chúng tôi chọn ra được 8,9 người. Trong đó có những người trẻ chơi piano, đàn tranh, đàn guitar, số còn lại là những giọng hát. Có 2 giọng hát còn nhỏ, ở tuổi 12, 2 cô bé đã đi thi V-Kids và được số điểm cao nhất, sẽ đi vào vòng chung kết vào tháng 10. Có 1 cô bé khác đoạt được 2 giải của US Open về piano.”
Những tài năng mầm non mà nhạc sĩ Trần Quảng Nam nhắc đến có những nụ mầm chỉ mới 7 tuổi như Huỳnh Lê Vỹ Q-Tăng, “Gold Star” National Audition, huy chương vàng U.S. International Piano Competition-Piano Britney Nguyễn 12 tuổi, hai lần đoạt giải US Open Music Competion piano; cô bé Victoria Thuý Vy 11 tuổi nhưng đã tự ‘sáng tác’ cho mình bài hát Take a bath khi em… 4 tuổi. Không những hát hay, mà cô bé còn có khả năng chơi đàn piano và violon. Tiếng Việt ngọng ngịu đáng yêu, có nghe Victoria Thuý Vy tâm sự, mới thấy được nét đẹp văn hoá từ một gia đình gốc Việt, khi mà chữ Dạ của cô bé luôn có mặt ở đầu câu chuyện.
“ Dạ năm nay con được 11 tuổi. Con bắt đầu hát khi con 4 tuổi. Và con bắt đầu hát chương trình có khán giả khi con 6 tuổi. Khi con bắt đầu hát 4 tuổi con chưa biết tiếng Việt. Và khi con 4 tuổi con có viết 1 bài tên là ‘Take a bath’.
Khi được hỏi mình sẽ trình diễn bài hát nào trong đêm nhạc hội Nghệ Sĩ Trẻ, cô bé cho biết:
“Dạ trong ngày đó con sẽ hát bài Ngẫu hứng lý ngựa ô và Tôi Mơ.”
Tôi mơ
Cho tôi một làn mây trắng,
Lang thang về trên mái tranh già.
Cho tôi một cụm rau đắng,
Ðể nhai những lúc tôi còn xa nhà.
Cho tôi một khoanh bánh tráng,
Nhăn nhăn tựa như trán mẹ già.
Cho tôi một hàng cau đón gió
Lắc lư một buổi chiều cuối thụ… (Tôi mơ – Võ Thiện Thanh)
Victoria Thuý Vy, hay Vivian Huỳnh hay những cô cậu bé, những mầm non nghệ thuật gốc Việt trẻ tuổi này là một thế hệ nghệ sĩ mà nhạc sĩ Trần Quảng Nam nói rằng:
“Cho đến gần đây mình mới khám phá và biết được những người nghệ sĩ trẻ tuổi khoảng từ 6 đến 18 tuổi. Gần đây mới phát hiện ra, chứ mười mấy năm trước thì tìm không ra.”
Như một vòng tròn, như những cây tre già thì măng sẽ mọc, những cô bé cậu bé này sẽ trưởng thành, rồi sẽ có những cô bé cậu bé gốc Việt thế hệ thứ 4, thứ 5 kế thừa. Họ sẽ mãi là những tài năng, là tự hào của người Việt Nam trên đất Mỹ.
Giáo Già (Danlambao) – Văn hóa giáo dục Việt Cộng sau thời gian quá dài của 40 năm lộng hành nhồi sọ, “dạy con người tàn ác, mất nhơn tính”, đang bị một học sinh 14 tuổi cho là “cải lùi”, để tuổi trẻ và thế hệ thứ 3 dũng cảm bước lên làm lịch sử “cải tiến”…, để tới lúc, dù có thể là rất lâu, một tỷ lệ cao hơn học sinh Việt Nam có thể công khai, lớn tiếng chỉ trích Bộ Giáo dục và bất kỳ cơ quan nhà nước nào làm ăn tồi tệ…, để cái chính quyền gian ác, bất tài, thất đức… hiện nay bị đẩy lùi vào chỗ dơ bẩn nhứt của lịch sử.
*
Trong bài viết “Tại Sao Họ Lại Hung Ác Đến Vậy”, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc [xem hình], trên blog của đài VOA, ngày 25/8/2015, cho biết (xin trích nguyên văn):
Tối ngày 8 tháng 8 vừa qua, trong một quán karaoke ở Hải Phòng, nghĩ là anh Nguyễn Tuấn Định nhìn “đểu” mình, một số thanh niên dùng tuýp sắt đánh anh đến bị chấn thương sọ não, phải chở vào bệnh viện cấp cứu. Chưa đã cơn giận, các thanh niên này còn chạy đến bệnh viện dùng dao chém chết anh Định ngay trên băng-ca lúc chờ bác sĩ khám và chữa.
Mấy ngày sau, ở Bến Tre, Huỳnh Văn Phương và Lê Văn Tèo, cả hai đều 35 tuổi, đi xe gắn máy, bị đụng quẹt vào xe của anh Phạm Văn Phường, 25 tuổi. Phương và Tèo nhào xuống đánh anh Phường. Chưa đủ, Phương và Tèo chạy vào một căn nhà dọc đường lấy dao ra cắt cổ anh Phường. Nạn nhân chết ngay tại chỗ.
Ra đường thì thế; ở nhà có an toàn hơn không? Không. Cũng trong mấy tháng vừa qua, ở Việt Nam xảy ra mấy vụ giết người, ở đó, cả gia đình đều bị giết.
Như vụ giết người tại Nghệ An, chẳng hạn. Vy Văn Mằn vào vườn của anh Lô Văn Thọ hái trộm mấy trái chanh, bị anh Thọ bắt gặp. Hai người cãi vã nhau. Mằn nhào đến đánh anh Thọ. Chưa đủ. Mằn chụp con dao chém liên tục vào đầu anh Thọ khiến anh Thọ chết tại chỗ. Vợ anh Thọ, chị Lê Thị Yến thấy vậy sợ hãi ôm con chạy trốn. Mằn rượt theo. Gặp bà Chương, mẹ anh Thọ, Mằn chém chết; sau đó, chém chị Yến và cả đứa con chị địu trên lưng, mới một tuổi. Như vậy, chỉ vì mấy trái chanh, Vy Văn Mằn giết cả gia đình anh Lô Văn Thọ, kể cả một em bé sơ sinh.
Vụ giết người ở Nghệ An xảy ra chưa bao lâu thì đến vụ giết người cũng tàn độc không kém ở Bình Phước. Nguyễn Hải Dương, 24 tuổi, bị gia đình người yêu phản đối, bèn rủ bạn đến nhà người yêu cũ, giết sáu người trong gia đình, kể cả người mình từng yêu. Chỉ có một em bé chưa tới hai tuổi là được tha mạng.
Rồi xảy ra vụ án ở Yên Bái. Vì một sự tranh chấp nhỏ trên mảnh đất làm nương, Đặng Văn Hùng, 26 tuổi, xô xát với anh Trần Đức Long. Bị đánh, Anh Long bỏ chạy, Hùng rượt theo, chém tới tấp vào đầu vào cổ anh Long nhiều nhát. Chị Hoa, vợ anh Long, bỏ chạy. Hùng rượt theo, chém chị chết. Chưa hết. Hùng chạy vào nhà anh Long, chém chết em vợ anh Long. Cũng chưa hết. Thấy con trai anh Long, mới hai tuổi, đang đứng trên giường, Hùng “tiện tay” nhào đến chém mấy nhát khiến bé chết ngay tại chỗ.
Sau đó Giáo sư Quốc viết thêm: “Ở trường học, chỉ cần một chút xích mích, học sinh, kể cả học sinh nữ, ẩu đả và hành hạ nhau trước cái nhìn dửng dưng của các học sinh khác”.
Đi tìm nguyên nhơn của sự tàn ác mất nhơn tính đó, không tìm đâu xa, chỉ nhìn từ 40 năm trở lại đây, kể từ ngày Cộng sản Bắc Việt hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam, ngày 30-4-1975, hẳn ai cũng thấy việc VC giáo dục con trẻ như thế nào, và văn hóa VC thể hiện trong các tác phẩm văn chương như thế nào.
Xin nói qua một chút về chuyện giáo dục. Ở nhà trường, VC đã dạy tuổi thơ tinh thần gian ác ngay từ khi con trẻ vào lớp 1 bậc tiểu học. Trong quyển giáo khoa lớp 1, khi dạy toán cộng chúng đã dùng xác người để dạy học trò: “5 tên ngụy + 2 tên đế quốc bị bắn chết = 7”. Chỉ với bài toán cộng này mọi người nhận ra tính cách tàn bạo của nền giáo dục VC trong mục đích “dùng giáo dục học đường trang bị cho trái tim và khối óc tuổi thơ lên 5 lên 6 chuyện giết người”. Chúng đã nhồi sọ tuổi thơ; dạy tuổi thơ dửng dưng với chuyện giết người.
Trong khi trước đó, ở các lớp học của Việt Nam Cộng Hòa, cô giáo thường cho học sinh làm toán, đại khái như: Bà bán hàng mua 1 con gà $4 và 1 con vịt $3; tổng cộng là 3$+$4=$7; bà đem ra chợ bán, 1 con gà $5 và 1 con vịt $4; tổng cộng là $5+$4 = $9; nhờ đó bà lời được $9-$7 = $2. Nhìn qua bài toán này VC kết luận:“Bà bán hàng tượng trưng cho tư bản, chúng đã bóc lột của nhân dân $2”.
Để rồi từ đó, dạy tuổi thơ căm thù tư bản, căm thù những kẻ đã bóc lột nhân dân, làm cho nhân dân nghèo đói, khiến tuổi thơ ủng hộ cuộc “cách mạng giải phóng nhân dân khỏi bàn tay bóc lột của tư bản, khỏi cảnh nghèo đói, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu đẹp”.
Chưa hết, chính Đinh Thế Huynh (sinh năm 1953, quê Nam Định), Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI; từng là Tổng biên tập báo Nhân dân, Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam; lúc còn là một kẻ viết văn, trong bài viết “Trâu Cũng Đánh Mỹ”, được cho cô giáo dùng dạy học sinh trong lớp học, có nội dung được sao chụp lại đính kèm.
Trên lãnh vực giáo dục VC đã bịa chuyện để “nhồi sọ nhân dân” ngay từ lúc “nhân dân” còn quá nhỏ, chưa biết “đâu đúng, đâu sai”, chẳng những nghe cô giáo “dạy sao biết vậy”, lại còn hãnh diện về “kỳ tích” đánh Mỹ, giết Mỹ, của trâu; trâu còn biết giết Mỹ, sao em không biết giết Mỹ; trâu còn căm thù Mỹ, sao em không căm thù Mỹ. Trẻ thơ đâu biết “giết Mỹ” là “giết người” và “giết người” là “tàn ác”. Trẻ thơ bị nhồi sọ như vậy đó, khiến cho lớn lên con người mất hết nhơn tính, để rồi xem chuyện “giết người” là chuyện dửng dưng, không chút áy náy.
Bước sang lãnh vực văn học, sự tàn ác còn được thể hiện khủng khiếp hơn nữa. Xin kể qua một chút về kẻ được gọi là nhà văn Tạ Duy Anh, trong tác phẩm của mình ông này viết:
“… Quân ta ào lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ nguỵ cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng nguỵ bị mình xọc lê vào bụng, nghe ‘thụt’ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giãy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ.”
Không cần biết đó là chuyện có thật hay hư cấu, nhưng sự tàn ác của nó đã đến tận cùng của khủng khiếp. Chính cái tàn ác khủng khiếp đó đã tiêm nhiễm vào não trạng của bọn công an và côn đồ xã hội chủ nghĩa, khiến đâu đâu người ta ai cũng thấy sự tàn ác khủng khiếp của bọn cầm quyền xã hội chủ nghĩa, từ tên quản giáo trong các trại tù “cải tạo”, cho đến tên công an trên đường phố trấn áp người biểu tình chống Trung cộng xâm chiếm đất nước, đàn áp dân oan khiếu kiện, hay ôn hòa bày tỏ nguyện vọng, đấu tranh cho nhân quyền, đấu tranh dân chủ hóa Việt Nam…, hay nhẹ nhàng như đón chào người tù lương tâm mãn hạn tù.
Điển hình như cuối tháng 8 năm 2015 vừa qua, ngày 28 tháng 8 năm 2015, đoàn người đón tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật mãn hạn tù trở về bị hành hung (xem hình 1); trong số này có ông Lê Đình Lượng bị đánh đập gây thương tích (hình 2), cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Tam cũng bị hành hung (hình 3), anh Chu Mạnh Sơn bị đánh đổ máu đầu (hình 4) [Nguồn ảnh: Fb Thúy nga/Trần Khắc Đạt]…
Nhìn lại 40 năm qua, trong thời gian đầu, sự nhồi sọ và bạo lực gian ác của kẻ cầm quyền xã hội chủ nghĩa có khiến người dân Miền Nam sợ hãi; nhưng sự gian dối càng lúc càng lộ liễu và sự sợ hãi cũng càng lúc càng phai lạt, nhứt là kể từ thế hệ thứ hai, ánh sáng “cởi mở” rọi vào các hóc hiểm của lòng tham và ngang ngược ngụy biện xã hội chủ nghĩa đã không còn như trước, người dân đã lần hồi “sáng mắt”. Họ không còn tin nghe những gì VC nói. Họ đã tận mắt thấy những gì VC làm.
Đến thế hệ thứ ba, nhờ cuộc “giao lưu” với hải ngoại; đặc biệt nhờ nếp sống hải ngoại và truyền thông quốc tế dễ dàng truyền vào quốc nội; nhứt là nhờ internet, sự bưng bít và lừa gạt dư luận của VC không còn bị hơn 700 tờ báo và các đài truyền thanh truyền hình nhà nước VC “bịp” được nữa.
Tuổi trẻ ngày nay, nhứt là các blogger, đã nhờ facebook, twitter… dũng cảm tiến lên “làm lịch sử”, vận động quốc tế cùng vạch mặt công an côn đồ lộng hành. Nhờ vậy, các nhà ngoại giao và báo chí thế giới ngày càng râm ran hơn về vai trò của công an và côn đồ trong nỗ lực bịt miệng người dân không chỉ bằng nhà giam mà còn bằng bạo lực đường phố [xem hình Ông Felix Schwarz, tham tán Chính trị và Nhân quyền đại sứ quán Đức đang thăm hỏi anh Nguyễn Chí Tuyến tại nhà riêng – hồi 10:45 ngày 12/05/2015].
Được biết, nói về chuyện “an ninh giả danh côn đồ đánh dân là hạ sách”, ngày 16-6-2015, phóng viên Hoà Ái của đài RFA cho biết [nguyên văn]: “Hiện ngày càng có nhiều các nhà hoạt động ở VN bị côn đồ tấn công và hành hung, điển hình là trường hợp anh Nguyễn Chí Tuyến và anh Đinh Quang Tuyến bị đánh hồi tháng 5 năm nay. Sau đây, Hòa Ái có cuộc trao đổi ngắn với 2 anh Nguyễn Chí Tuyến và Đinh Quang Tuyến về những vụ việc liên quan” [Xem hình Anh Đinh Quang Tuyến (trái) và anh Nguyễn Chí Tuyến (phải) sau khi bị đánh hồi tháng 5 năm 2015].
Hòa Ái: Xin được chào 2 anh Nguyễn Chí Tuyến và anh Đinh Quang Tuyến. Câu hỏi trước tiên, xin được hỏi anh Nguyễn Chí Tuyến rằng có phải vụ việc anh bị côn đồ hành hung hồi đầu tháng 5 vừa qua là lần đầu tiên không, thưa anh?
Anh Nguyễn Chí Tuyến: Lần này coi như lần đầu tiên bị hành hung và bị tấn công nặng. Còn những lần trước thì họ sách nhiễu bằng cách bắt bớ và trong lúc đi biểu tình thì chúng tôi coi đấy là bình thường thôi. Nhưng lần này bị tấn công, bị hành hung thì khá nghiêm trọng vì có thể chưa đến mức lấy tính mạng của tôi, tuy nhiên nếu bị nặng hơn một chút thì tôi có thể bị mất trí nhớ hoặc là thành người bị mắt lòa. Cho nên tôi nghĩ rằng đây là lần nguy hiểm nhất đối với tôi, kể từ trước đến nay.
Hòa Ái: Thưa anh Đinh Quang Tuyến, từ khi bị đánh hôm 19/5 và anh nói là “công an mật vụ tấn công”, sau đó anh phải trải qua một cuộc giải phẩu để nâng sụn mũi, hiện nay sức khỏe của anh ra sao?
Anh Đinh Quang Tuyến: Sau khi bị đánh hôm 19, ngày 20,21,22 thì vào bệnh viện. Chiều 22 mổ, 8 giờ tối xong. Sau khi mổ thì đau. Đau đến sáng 23 thì đỡ hơn. May mắn là sau khi mổ không có biến chứng nào hết. Ngày 24 thì tôi cảm thấy khỏe, tháo băng ra được mặc dù bệnh viện kêu để 5 ngày. Uống thuốc chừng 3-4 ngày sau thì cảm thấy không đau nữa. May là rất mau lành…”
Đó là vài trường hợp điển hình, nó không khiến tuổi trẻ nao núng, sợ hãi, vì sau đó cuộc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền của hai anh Tuyến và nhiều bạn trẻ khác vẫn tiếp tục. Nó còn được tiến hành trên bình diện rộng hơn nữa. Trong cuộc đấu tranh đòi “diễn biến”, về mặt giáo dục, nhiều người đã làm gương thực hiện những “diễn biến” cụ thể, như hợp soạn “sách giáo khoa” dùng cho giáo viên dạy và cho học sinh học ở trường, mà không chờ đợi Bộ Giáo Dục và nhà nước CSVN làm.
Thật vậy, trong bài viết được cho đăng trên đài VOA, ngày 14.08.2015, phóng viên Khánh An cho biết: Nhà giáo Phạm Toàn, người lập ra nhóm Cánh Buồm, nói rằng: “Với hơn 10 năm làm việc nghiêm túc, nhóm đã hoàn thành bộ Sách giáo khoa tiểu học và cho ra mắt bộ sách này hôm 12/8. Bộ sách có sự tham gia của nhiều soạn giả nổi tiếng và được thông qua một ban duyệt bản thảo gồm nhiều nhà nghiên cứu, giáo sư, tiến sĩ. Nhóm đang bắt tay thực hiện bộ sách dành cho lớp 6 trở lên”.
Trong buổi hội thảo ra mắt “Sách Văn và Tiếng việt lớp 6” của nhóm Cánh Buồm hôm 12/8, đã bất ngờ gây thành tiếng vang sâu rộng trong dư luận. Nó cho biết, trong phần đặt câu hỏi, một học sinh lớp 8 tên Vũ Thạch Tường Minh, 14 tuổi, đã đứng lên phát biểu như sau [trích đoạn ghi âm được đăng tải lên mạng Youtube]: [Xem hình Vũ Thạch Tường Minh học sinh trường Hà Nội – Amsterdam đang phát biểu tại buổi ra mắt sách của nhóm Cánh Buồm. Ảnh và chú thích: RFA]
“Một điều mà con muốn nói với chính phủ Việt Nam, hay cụ thể hơn là Bộ Giáo dục, theo con, các vị bộ trưởng, thứ trưởng giáo dục không phải là nên áp dụng cả bộ sách này, mà là áp dụng cái lối giáo dục của bộ sách này vào giáo dục Việt Nam, bởi vì bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là, con không có tính từ nào khác nên con phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì cả. Nên bây giờ con muốn các vị bộ trưởng, thứ trưởng hãy thay đổi đường lối giáo dục của Việt Nam, có thể theo đường lối của Cánh Buồm cũng được, các vị có thể thay cả bộ sách giáo khoa cũng được. Các vị có thể nói là mất thời gian, nhưng con thấy là thời gian các vị cải tiến, cải lùi còn mất thời gian hơn. Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa, giáo dục Việt Nam cần được cách mạng. Đó mới là điều các vị trong Bộ Giáo dục nên làm. Còn nếu bây giờ các vị không làm thì đến khi nào con thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục con sẽ làm”.
Phát biểu thẳng thắn, không lập luận, không lý lẽ, của một cậu bé 14 tuổi này, đã gây thành trận “bão” dư luận. Video clip ghi âm cậu bé đã được lan truyền nhanh chóng trên mạng xã hội. Nó được gần nửa triệu lượt người xem chỉ sau 4 ngày.
Từ một vài sự kiện cụ thể nêu trên, mọi người hẳn thấy những giọt máu trên đầu những nhà đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ hóa Việt Nam…, như Nguyễn Chí Tuyến, Đinh Quang Tuyến…, sẽ là những giọt nước làm đầy cái “ly đấu tranh”, hoàn mãn cuộc đấu tranh, như Giáo Già từng nói, sau 40 năm trầm luân vì độc đảng độc tài Cộng sản “40 bước tới… bước”.
Cũng vậy, nền văn hóa giáo dục Việt Cộng sau thời gian quá dài của 40 năm lộng hành nhồi sọ, “dạy con người tàn ác, mất nhơn tính”, đang bị một học sinh 14 tuổi cho là “cải lùi”, để tuổi trẻ và thế hệ thứ 3 dũng cảm bước lên làm lịch sử “cải tiến”…, để tới lúc, dù có thể là rất lâu, một tỷ lệ cao hơn học sinh Việt Nam có thể công khai, lớn tiếng chỉ trích Bộ Giáo dục và bất kỳ cơ quan nhà nước nào làm ăn tồi tệ…, để cái chính quyền gian ác, bất tài, thất đức… hiện nay bị đẩy lùi vào chỗ dơ bẩn nhứt của lịch sử.
Image copyrightLe Dien Duc Nhà báo Lê Diễn Đức nói ông ‘vẫn bình tâm’ sau khi bị hủy hợp đồng
Đài Á châu Tự do (RFA) vừa ‘hủy hợp đồng’ với một nhà báo, blogger người Việt ở hải ngoại, sau một số bình luận của ông về điều được cho là ‘thất bại’ của Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam, theo nhà báo, blogger này.
Trả lời BBC ngày 5/9, ông Lê Diễn Đức nói đài RFA đã có quyết định trên do “bị áp lực dư luận rất nặng nề”.
“Họ thông báo ngưng hợp đồng với tôi hôm nay và gỡ mục báo xuống”, ông nói thêm.
“Tôi vẫn bình tâm và tiếc là RFA đã làm như thế”.
Hôm 30/8, ông Đức đã có bình luận trên Facebook với nội dung chỉ trích thất bại của quân đội Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam và của Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam – do Phó đề đốc Chuẩn tướng Hải quân Việt Nam Cộng hòa Hoàng Cơ Minh lãnh đạo vào những năm 80 của thế kỷ trước.
Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam được ông Hoàng Cơ Minh thành lập vào ngày 30/4 năm 1980 tại Nam California, Hoa Kỳ, đúng 5 năm sau khi ông di tản khỏi Việt Nam ngày Sài Gòn sụp đổ.
Đến năm 1981, tổ chức này đóng căn cứ gần biên giới Thái Lan – Lào, nơi ông Minh tổ chức đại hội lập ra Việt Nam Canh tân Cách mạng đảng ( Việt Tân) một năm sau đó.
Lực lượng của Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam được nói là vào khoảng 200 người, trong đó bao gồm một số sỹ quan của quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Image copyrightvietnam archivesPhó Đề đốc quân lực VNCH, ông Hoàng Cơ Minh, người được đề cập trong một bình luận gây tranh cãi của blogger Lê Diễn Đức trên FB cá nhân.
Trong giai đoạn từ 1982-1987, tổ chức của ông nhiều lần tiến hành các đợt hành quân nhằm xâm nhập vào Việt Nam để xây dựng căn cứ nhưng đều thất bại trước các đợt truy kích của quân đội Việt Nam, Lào, Campuchia.
Các đợt tiến quân bất thành cũng khiến lực lượng của tổ chức này bị tổn thất nặng nề, với nhiều thành viên bị chết trận hoặc bắt sống.
Trong cuộc hành quân cuối cùng vào tháng Tám năm 1987, ông Hoàng Cơ Minh bị thương và sau đó tự sát.
Bình luận gây tranh cãi
Bình luận trên trang Facebook cá nhân ngày 30/8 của nhà báo Lê Diễn Đức viết:
“Cả hàng trăm ngàn quân lính trong tay, vũ khí xềnh xàng mà còn bị bộ đội Bắc Việt đánh cho tan tành, chạy chít chết, cuối cùng phải đầu hàng, thì vài chục người đi qua rừng núi Thái Lan dựng “chiến khu” với mục đích Đông Tiến, phục quốc chỉ là trò cười, ảo tưởng, chứ anh hùng cái nỗi gì.”
“Đây đích thực là một cuộc làm chiến khu giả lừa gạt bà con hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền, không hơn không kém!”
“Niềm tin vào những anh hùng vị quốc vong thân ấy là niềm tin ngô nghê, mù quáng.”
Bình luận này sau đó đã bắt gặp sự phản đối từ một số nhà báo, blogger nổi tiếng trong và ngoài nước.
“Khi Lê Lợi mới khởi nghĩa đánh quân Minh, nếu lúc đó có anh Lê Diễn Đức, anh sẽ nói, quân Hồ Quý Ly có hàng vạn người trang bị chính quy mà còn bị chúng nó (quân Minh) đánh cho tan tác, thì một dúm nông dân thiếu đói của các ông làm nên trò trống gì?”, blogger Huỳnh Ngọc Chênh viết từ trong nước.
Image copyrightFB Le Dien DucMột vài bình luận trên trang Facebook cá nhân của ông Lê Diễn Đức.
Một ý kiến khác của luật sư Vũ Đức Khanh, từ Canada thì cho rằng “lịch sử rồi sẽ soi rọi và làm sáng tỏ những khúc quanh này nhưng bây giờ tôi chỉ mong các bạn nên có cái nhìn bao quát và đa chiều, nên tôn trọng những người đã nằm xuống và nên xem họ như nếu không thành công cũng thành danh”.
Phản hồi lại các ý kiến này, ông Lê Diễn Đức viết trong các bình luận ngày 31/8 trên trang Facebook cá nhân của ông:
“Một status đưa ra nhận định về một sự thật, nhưng cái viên thuốc đắng ấy không thể chữa hết bệnh cho những người thiếu can đảm và cực đoan.”
“Tôi không hề có ý khinh rẻ Việt Nam Cộng hòa, mà chỉ sử dụng một số từ mang tính hài hước, giễu cợt như “vũ khí xềnh xàng”, “chạy chí chết” (mà thực tế là như thế), nhằm so sánh cái “chiến khu” vớ vẩn của Mặt trận Hoàng Cơ Minh. Một số bạn đã không hiểu hết ý của tôi,” trang FB cá nhân của ông Đức viết.
BBC chưa có điều kiện liên lạc với cơ quan truyền thông mà ông Lê Diễn Đức đề cập ở trên để kiểm chứng thêm về các chi tiết.
Image caption Học giả Jonathan London bình luận về hiện trạng, triển vọng của xã hội dân sự ở VN cũng như thái độ của nhà nước với nó.
Xã hội dân sự ở Việt Nam đã có những bước phát triển ‘rất mạnh’ và ‘tích cực’ mặc dù quan niệm trong chính quyền và đảng cộng sản với thiết chế này vẫn còn chưa thực sự ‘thống nhất’, theo một nhà nghiên cứu chính trị và xã hội học từ Đại học Thành thị Hong Kong.
Trao đổi với BBC trong một chuyến thăm trụ sở của chúng tôi gần đây ở London, PGS. TS Jonathan London nói:
“Xã hội dân sự ở Việt Nam đã phát triển rất mạnh trong những năm qua, đó là một quá trình rất quan trọng cho sự phát triển chính trị, xã hội của Việt Nam.
“Vấn đề là khái niệm xã hội dân sự còn phức tạp quá. Nhiều khi, nhiều người nghĩ đến xã hội dân sự thì nghĩ rằng nó là ngoài bộ máy của nhà nước và đảng (CSVN).
“Như ở Việt Nam phức tạp quá bởi vì Việt Nam không có một phạm vi để có những hành động thực sự là độc lập, nên khái niệm dân sự ở Việt Nam rất phức tạp, có nhiều bộ phận khác nhau.
“Nói chung, trong khoảng 3-4 năm qua, xã hội dân sự là gì, là những hành động độc lập về những chuyện chính trị, xã hội, kinh tế trong nước thực sự là độc lập, là đã phát triển mà tôi nghĩ là tích cực.
“Còn nhiều hạn chế và có một số chuyện vẫn còn quá ‘chán’ và buồn, chẳng hạn như những người hành động, tự do về những vấn đề chính trị, xã hội bị sách nhiễu, bị bỏ tù v.v…
“Chuyện đó thì vẫn còn, nhưng từ phong trào cải cách Hiến pháp cho đến vấn đề giữ cây xanh ở Hà Nội, rõ ràng người dân Việt Nam đã tìm được tiếng nói của họ.
“Và điều đó là quan trọng. Nhiều khi tư duy của người dân trong một nước nào đó đi nhanh hơn so với chính quyền của nước đó, thì đó rõ ràng là tình trạng ở Việt Nam.
“Tôi cũng phải nói là nhiều khi những người khát tự do ở Việt Nam cũng rất là bức xúc, bởi vì qua mấy thập kỷ thì họ vẫn chưa có những quyền mà hiến pháp cũ đã hứa rồi,” ông Jonathan London đưa ra nhận xét.
Thái độ của chính quyền
Hoang Dinh Nam AFP GETTYViệt Nam vừa đánh dấu tròn 70 năm quốc khánh 2-9 và cuộc Cách mạng tháng Tám giành độc lập.
Dường như trong thời gian qua, có những ‘dạng thức’, tổ chức của xã hội dân sự đã và đang được nhà nước chấp nhận, hoan nghênh, nhưng có vẻ cũng có những ‘hình thức’, tổ chức khác của xã hội dân sự lại có thể là điều ‘dị ứng’, lo ngại đối với chính quyền ở Việt Nam.
Khi được hỏi đâu là thái độ thực sự của nhà nước và chính quyền Việt Nam hiện nay với xã hội dân sự, học giả người Mỹ nêu quan điểm:
“Thái độ thực sự của nhà nước Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là không nói được, bởi vì có rất nhiều thái độ khác nhau. Đó là một đảng dù bề ngoài thống nhất, đây không phải là một lời phê bình, mà bình thường là có nhiều quan điểm khác nhau ngay trong đảng về vấn đề là nên được xử lý thế nào.
“Vấn đề là đến nay vẫn còn những quan điểm không nói ra và tôi biết về những vấn đề nội bộ thì phải có những đường lối thống nhất. Nhưng theo tôi là ngay trong đảng thì có những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
“Có khả năng là sau Đại hội 12 (của Đảng CSVN) thì sẽ có một số thay đổi, bởi vì sẽ có một thế hệ trẻ hơn và có quan điểm khác hơn, thì có lẽ sẽ có một số tiến bộ. Nhưng tôi nghĩ là cho đến nay, chưa có một quan điểm thống nhất về vấn đề này.
“Mặt khác rõ ràng là không có quan điểm phải chống lại, phải giết hết xã hội dân sự như ở Trung Quốc, điều đó là một cái đáng mừng, không nên nói cám ơn cho ai cả. Bởi vì xã hội dân sự và quyền con người của Việt Nam chưa được tôn trọng đủ, nhưng việc Việt Nam đang tự do hơn và việc mà có người thể hiện quan điểm của họ một cách xây dựng, một cách rõ, thì điều đó tôi nghĩ là có nhiều tiến bộ.
“Tóm lại, Việt Nam còn phức tạp rất nhiều, nhưng theo tôi theo dõi tình hình chính trị, xã hội ở Việt Nam thì đã có một số tiến bộ và hy vọng trong vòng năm năm tới sẽ có những tiến bộ hơn nữa. Nhưng con đường không thể nào dễ dàng và tôi biết là có nhiều người ở ngoài và ở trong nước muốn một Việt Nam dân chủ đa nguyên, điều đó không thể có được ngay, nhưng Việt Nam có thể thay đổi một cách không phải là quá chậm.
“Nhưng một cách mà ai cũng muốn một xã hội ổn định, ai cũng muốn một trật tự xã hội, điều đó tôi nghĩ không có ai mà không đồng ý với nhau, vấn đề là làm sao có thể đẩy mạnh một quá trình phát triển đủ mạnh, để thực sự thay đổi tình hình trong nước,” ông Jonathan London nói với BBC hôm 28/8/2015.
Quý vị có thể theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn của BBC với PGS. TS. Jonathan London trên kênh Youtube của BBC Việt ngữ tại đây: http://bit.ly/1NMZnUZ
Dân oan biểu tình trước ngày 2/9/2015. Hình do thính giả gởi
Chính quyền Hà Nội vừa tổ chức diễu binh kỷ niệm 70 năm ngày Quốc khánh nước CHXHCNVN với sự tham gia của hơn 30 ngàn người vào hôm 2/9/2015. Trong chương trình hôm nay, Hòa Ái gửi đến những chia sẻ của quý khán thính giả và độc giả về sự kiện này.
“Bí Thư Xóm”
Trước hết, mời quý thính giả nghe bài thơ của tác giả “Bí Thư Xóm” gửi qua trang Facebook của ban Việt ngữ đài ACTD:
“Ly rượu đầy xin chúc mừng bạn
Quê hương mình Quốc khánh bảy mươi
Đảng vẫn vui tươi, dân vẫn khổ
Ngày tươi cười hai triệu đảng viên
Cùng vui lên hân hoan ca hát
Ca ngợi Người, ngợi Đảng…giàu sang
Bao nhiêu triệu lê la áo rách
Cơm không no, chăn co thiếu đắp
Sống cơ hàn từ Bắc chí Nam
Thân nam nhi làm trâu cho Ma-rốc
Gái dậy thì đón khách khắp Á châu
Ngươi già nua lê la khắp phố
Vé số buồn đánh mất tuổi thơ
Bao bôn ba lê la giữa chợ
Quê hương mình độc lập phải không anh?”
Quốc gia nào mà chẳng có Quốc khánh và dù nghèo đến đâu thì cũng phải tự hào và ăn mừng.
-Một thính giả
“Ăn mừng Quốc khánh mà dân còn đói rách thì ăn mừng có vui không?”
“Quốc gia nào mà chẳng có Quốc khánh và dù nghèo đến đâu thì cũng phải tự hào và ăn mừng.”
“Đối với Đảng CSVN là việc kỷ niệm bắt buộc phải làm vì đây là ngày họ cho là ngày Quốc khánh. Quốc gia nào cũng nên kỷ niệm ngày Quốc khánh của mình dù muốn hay không. Thế nhưng, quy mô của nó phải tổ chức ra làm sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của quốc gia cũng như là phù hợp với điều kiện sống của đất nước.”
“Chính quyền VN hay thích tổ chức những sự kiện linh đình là do người ta sử dụng những dịp như thế này để vớt vát chút lòng tin của người dân. Người ta muốn đánh bóng lại tên tuổi của họ, công trạng của họ trong quá khứ để cho thêm tính chính danh sự cầm quyền của họ mà thôi chứ còn người ta không quan tâm gì đến chuyện là chúng ta đang thâm hụt ngân sách thế nào, nợ công của chúng ta cao bao nhiêu.”
“Ông phó trưởng ban tuyên giáo Vũ Ngọc Hoàng chỉ ra chỗ đứng của VN không tương xứng so với lại những nước trước đây cũng có một thời gian chỉ ngang tầm như Hàn Quốc, như Đài Loan…thì bây giờ VN bị các nước đó bỏ xa quá. Đó là một thực tế đáng buồn và thật sự đất nước không đáng phải chịu một hoàn cảnh như vậy.”
“VN xét theo tỉ số GDP đầu người thì bằng 1-2/5 của Thái Lan, 1/4 của Hàn Quốc và 1/17 của Singapore. Như vậy là tụt hậu so với các quốc gia này từ 20 cho đến 35 năm.”
VN thực sự hòa bình được bao nhiêu năm?
“VN thực sự hòa bình được bao nhiêu năm? Chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc. Hòa bình thực sự sau năm 1988. Làm sao so sánh với Nhật hay Singpore?”
Nhà cầm quyền VN tưng bừng kỷ niệm 70 năm VN tuyên bố độc lập.
“Chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc chỉ kéo dài 33 ngày. Nhìn chung VN hòa bình đã được 40 năm. Buồn một nỗi, chính báo chí Nhà nước đã nói về chuyện mới đây VN thua Lào và Campuchia về trình độ sản xuất, năng lực cạnh tranh, công nghiệp sản xuất ôtô, tốc độ thu hút FDI…Từ ngày vào ASEAN, trong 10 nước có 4 nước nghèo gồm VN, Lào, Campuchia, Miến Điện. Bây giờ VN lại thua cả Lào và Campuchia mà ngay cả Miến Điện thì VN cũng đang trên đà thua. Thật buồn nẫu cả ruột.”
“Không nên so sánh như vậy làm gì sẽ rất kệch cỡm. Tư bản so với tư bản. XHCN thì VN hơn hẳn Bắc Triều Tiên và Cuba. Thế là tốt rồi.”
“Năm 1985, 1 đô la đổi 15 VNĐ. 30 năm sau, 1 Mỹ kim đổi được 22.500 VNĐ. Đó là một sự tăng trưởng ngoạn mục.”
“VN-Quốc gia rừng vàng biển bạc, tài nguyên phong phú thế mà vẫn cứ nghèo. Theo thống kê, mỗi người dân gánh nợ công tới 20 triệu đồng.”
“Ở TP.HCM ngày càng có nhiều người già xin ăn, bán vé số, ngủ vỉa hè từ các tỉnh miền Trung đổ về”.
“Dân đói nghèo vẫn quá nhiều. Chênh lệch giàu và nghèo quá lớn. Sau lễ duyệt binh 2/9 này, người dân vẫn với tinh thần yêu chế độ và Đảng CSVN nhưng họ không hiểu đấy là tiền thuế của 90 triệu dân tổ chức buổi lễ tốn kém này. Và từ ngày mai đồng bào và chiến sĩ cả nước lại làm việc và lao động đóng góp cho Đảng để sang năm lại được mừng Quốc khánh 2/9 và ngủ mê khi nhân loại thế giới đều thức còn mấy nước XHCN phải cùng thức canh giữ hoà bình thế giới.”
Nhân dân quê tôi rất bất bình. Tôi chỉ hỏi ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rằng ông làm quan có biết ai đổ xương máu hy sinh có ngày hôm nay không mà ông là Trưởng ban chống tham nhũng thì tại sao ông để quan chức tham nhũng tiền tỉ, xe hơi, nhà lầu, đất đai, ăn chơi xài phung phí?
-Nguyễn Đăng Duy
“Dù có nói gì thì ngày 2/9 cũng là một ngày định mệnh của dân tộc VN. 70 năm dài lắm ‘thất thập cổ lai hy’ mà những người còn sống chứng kiến bao nhiêu chuyện không hiểu nổi: xưa vận động dân xuống đường chống độc tài Ngô Đình Diệm, nay xuống đường chống Trung cộng thì bắt ; xưa kêu gọi sinh viên bãi khoá biểu tình chống chiến tranh, nay cấm tụ họp đông người; đâu rồi anh cán bộ binh vận rủ rỉ thầm thì lỗ tai khiến người lính chiến đào ngũ về quê, nay không thấy anh ra biển đảo kêu gọi giặc Tàu hồi hương đừng đâm thuyền dân chài nữa; đâu rồi cán bộ kinh tài vận động dân đóng góp tiền của cho kháng chiến, nay chỉ thấy thuế, phụ thu, phụ phí ụp xuống đầu dân.”
“70 năm huy hoàng rực rỡ nhất lịch sử dân tộc VN, có nhiều cái nhất : bị bóc lột, đàn áp, cướp đất, nợ nhiều, nghèo nàn, tụt hậu, những lãnh đạo chóp bu phát biểu ngây ngô như Bộ trưởng Giáo dục nói kỳ thi là ‘trận đánh lớn’ đánh gục nhiều học sinh nhất…”
“Nhắc đến VN là những trận đánh oai hùng, đổ biết bao xương máu oan uổng của nhân dân. Nói đến VN là nói đến những con sâu to và rất to, những con chuột lấp đầy trong bình là Đảng CSVN.”
“Nhân dân quê tôi rất bất bình. Tôi chỉ hỏi ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rằng ông làm quan có biết ai đổ xương máu hy sinh có ngày hôm nay không mà ông là Trưởng ban chống tham nhũng thì tại sao ông để quan chức tham nhũng tiền tỉ, xe hơi, nhà lầu, đất đai, ăn chơi xài phung phí? Tôi, Nguyễn Đăng Duy, tỉnh Quảng Trị.”
“Đường lối chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước nói luôn luôn đảm bảo quyền lợi cho người dân nhưng thực sự không phải như lời họ nói. Khi cách mạng VN ra đời thì họ giương cao khẩu hiệu ‘Ruộng đất cho dân cày’ bên cạnh khẩu hiệu ‘Độc lập dân tộc’. Thế nhưng bây giờ họ cướp hết đất của nhân dân; đẩy nhân dân vào cảnh nghèo đói, thất nghiệp, bần cùng; không đảm bảo quyền sống, quyền con người của nhân dân chúng tôi. Họ bắt người vô tội vào tù để họ cướp đất. Họ đánh đập, khủng bố, đàn áp người dân. Chúng tôi thật sự là thất vọng.”
“Suy nghĩ cho cùng chế độ Cộng sản cũng lạ lùng quá. Trong khi những người chóp bu của CSVN chẳng có thương dân, thương nước, thương đồng bào. Ôi! Trời ơi, tổ chức ngày 2/9 đi diễu hành hay đi diễn hành gì đó để làm gì mà trong khi dân thì đói do nạn cướp đất. Các anh ở trên cao không nhìn thấy sao? Các anh để cho những đàn em nhốt người ta mà trong khi đó lại bỏ tiền ra tổ chức ngày diễn hành. Các anh đàn áp người dân thật tình là không đúng. Đừng có theo chế độ Cộng sản đó nữa, làm khổ cho người dân mà thôi. Hãy mau mau dẹp chế độ Cộng sản đi.”
“VN nếu không thay đổi hệ thống chính trị thì đừng mong vươn mình. Đến bao giờ VN đa đảng, bầu cử tự do, được chọn người tài giỏi lãnh đạo thì người dân mới được ấm no hạnh phúc.”
“Thống nhất đất nước mà đến tận 40 năm sau vẫn chưa thể thống nhất lòng dân. Thắng nhưng vẫn bại.”
Mục “Trả lời Thư tín” đến đây xin tạm dừng. Kính mong quý khán thính giả và độc giả tiếp tục liên lạc với đài và đóng góp ý kiến về các vấn đề quý vị quan tâm qua email tại đại chỉ vietweb@rfa.org hoặc hoaai@rfa.org, hoặc qua hộp thư thoại tại số 202-530-7775.
Cảm ơn thời gian lắng nghe của quý thính giả cùng Hòa Ái trong mục “Trả lời Thư tín”. Kính chúc quý vị 1 ngày mới an vui. Hòa Ái kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong chương trình này lần sau.
Luật sư Trần Thu Nam cho rằng có yếu tố bất bình đẳng và bất hợp lý trong tiêu chí và quy định luật pháp trong đặc xá ở Việt Nam và các đợt đặc xá năm nay.
Đợt đặc xá hơn 18 nghìn tù nhân đợt 2-9 và năm nay bộc lộ một số vấn đề ‘phân biệt đối xử’, ‘không công bằng’ và ‘kém tiến bộ’ trong quan điểm và chính sách của nhà nước Việt Nam, theo ý kiến một luật sư và khách mời tại Bàn tròn Trực tuyến tuần này của BBC Việt ngữ.
Trao đổi với Bàn tròn với chủ đề “2-9 và đặc xá, câu lưu” hôm thứ Năm, luật sư Trần Thu Nam từ Văn phòng Luật sư Tín Việt & Cộng sự nêu nhận xét:
“Tôi có theo dõi trường hợp đặc xá của năm 2015 và đợt đặc xá của ngày 2-9 vừa rồi và cũng thấy rằng không có trường hợp nào liên quan đến những tù nhân mà thuộc chương an ninh chính trị được đặc xá.
“Và tôi có biết lá thư của vị dân biểu Mỹ (Alan Lowenthal) bày tỏ quan ngại, bày tỏ chính kiến của mình liên quan cái thất vọng trong quá trình đặc xá vừa rồi.
“Đứng về khía cạnh luật pháp và những người làm luật, tôi thấy rằng đợt đặc xá năm nay có những cái gọi là sự không công bằng.”
Và luật sư nêu lý do:
“Bởi vì luật không quy định rằng là những đối tượng nào được đặc xá, hay những đối tượng nào không được đặc xá mà chỉ quy định những trường hợp nào đủ điều kiện đặc xá, thì họ sẽ được hưởng chính sách đặc xá của nhà nước…
“Tuy nhiên trong trường hợp của năm nay, có một hướng dẫn của hội đồng xét đặc xá mà tôi cho rằng nó có một điều lạ trong đó, ghi rõ ràng trong hướng dẫn số 91 của hội đồng xét đặc xá là những trường hợp thuộc tội danh liên quan đến an ninh chính trị, an ninh quốc gia mà thuộc trường hợp ‘rất nghiêm trọng’ và ‘đặc biêt nghiêm trọng’, thì sẽ không được xét đặc xá.
“Như vậy thì trường hợp xét đặc xá năm nay có một sự phân biệt đối xử giữa các nhóm tội và đặc biệt nhóm tội liên quan đến chương an ninh quốc gia là không được xem xét đến, thì đó là một sự không công bằng.
Theo ông Trương Duy Nhất, trong số 4 tiêu chí để xét ‘đặc xá’, yêu cầu ‘nhận tội’ xếp cao nhất và là then chốt.
“Và việc vị dân biểu thể hiện sự thất vọng của mình thì tôi nghĩ rằng họ có cơ sở, bởi vì không một đối tượng nào trong số hơn 18 nghìn người, thuộc tội mà liên quan đến an ninh quốc gia được đặc xá.”
‘Kém tiến bộ’
Nhà báo, blogger Trương Duy Nhất, cựu tù nhân, người bị kết án tù giam vì ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ tuyên truyền, chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam’ theo điều 258 của Bộ luật hình sự, chia sẻ thêm với bàn tròn của BBC về vấn đề đặc xá và đợt thả tù 2/9/2015, ông nói:
“Tôi biết nhiều trường hợp tù thuộc dạng xâm phạm an ninh quốc gia nhưng thi hành án rất lâu rồi, thậm chí chỉ còn thời gian rất ngắn, nhưng cũng không được đặc xá trong đợt này.
“Họ cũng có nhận tội, chứ không phải là không nhận tội, tức là hội đủ điều kiện nhưng vẫn không được đặc xá, đó là cái thứ nhất.
“Có những nhân vật đặc biệt, ví dụ như chị Tạ Phong Tần và những nhân vật đặc biệt khác, dưới những sức ép của nước ngoài thì khi Việt Nam tham gia ký kết những cái này, TPP (Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương), chẳng hạn, hoặc dưới những sức ép như thế.
“Thì thay vì thả vào những đợt khác, đợt này họ không nhận tội, nhưng đặc xá vào dịp này thì đó là một cách lựa chọn khôn ngoan của nhà cầm quyền, nhưng tiếc rằng người ta đã không làm lựa chọn đó.”
Và blogger Trương Duy Nhất nêu câu hỏi: “Tại sao phạm nhân đặc biệt nguy hiểm khác, ví dụ phạm tội ma túy, giết người cũng được đặc xá trông dịp này, thậm chí tội phạm giết người mà họ chỉ chấp hành xong vừa đúng một phần ba bản án thôi.
“Cho nên để nói rằng tư duy về tội phạm, tư duy về nhận biết thế nào là độ an ninh, độ nguy hiểm đối với xã hội, đối với an ninh quốc gia, không lẽ những tội phạm đó lại ít nguy hiểm đối với an ninh quốc gia, ít nguy hiểm đến an toàn xã hội trong đợt này, so với tội phạm an ninh hay không?
“Cho nên tôi đoán đó là điểm yếu, mà còn là một tư duy kém tiến bộ trong cách nhìn nhận đặc xá, nhìn nhận tội phạm về chính trị và hình sự.”
Trên trang Facebook cá nhân của mình, Luật sư Lê Công Định, một cựu tù nhân chính trị, đưa ra bình luận về đặc xá. Thông điệp của luật sư có đoạn viết:
“Tù nhân chính trị là thành phần không thể kiếm chác ở họ, mà chỉ có thể dùng để đổi chác cho mục đích khác, nên họ không thuộc diện đặc xá bình thường. Do vậy, xin đừng ngạc nhiên hay buồn bã vì không tù nhân chính trị nào được trả tự do trong dịp này,” ông Lê Công Định viết.
Hăm hở, chờ đợi
Tù chính trị là ‘tài sản quý hiếm’ mà nhà nước để dành cho các dịp ‘đổi chác’ chín trị khác, theo ý kiến các nhà hoạt động xã hội ở VN được nghệ sỹ Kim Chi nhắc lại.
Bình luận về đặc xá cũng như quan điểm của Luật sư Lê Công Định trên Facebook, bà Kim Chi, nghệ sỹ điện ảnh, nhà hoạt động xã hội dân sự nói:
“Vì tôi không hiểu những điều như là nhà báo blogger Trương Duy Nhất nói đầy đủ như thế, cho nên lúc đầu tôi hăm hở lắm. Tôi nghĩ là 18.200 người thì nhất đình là trong đó có Tạ Phong Tần, có anh em hay là Bùi Minh Hằng này kia, thì tôi rất là chờ đợi.
“Khi không có chuyện đó xảy ra, thì tôi rất buồn, rất thất vọng. Nhưng mà sau đó tôi có được đọc bài ở trên Facebook của Luật sư Lê Công Định viết thì tôi mới hiểu ra.
“Và thôi thì tôi hiểu rồi, bởi vì anh em trong xã hội dân sự có bình luận là những tù nhân chính trị là những hàng quý hiếm mà quốc gia cần phải giữ lại, để có những sự đổi chác nó quan trọng hơn.”
Cũng hôm thứ Năm, một trong các trường hợp được đặc xá trong đợt 2/9 năm nay của Việt Nam, ông Đoàn Văn Vươn chia sẻ với Bàn tròn Trực tuyến về cảm tưởng của ông khi đoàn tụ với gia đình.
Ông Đoàn Văn Vươn, người vừa ra tù sau hơn 3 năm, 7 tháng do chống lại quan chức và chính quyền địa phương cưỡng chế đất đai và cơ sở sản xuất trong vụ án ở Cống Rộc, huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng gần bốn năm trước, nói:
“Khi tôi được đặc xá về với gia đình đợt này, tôi rất là hạnh phúc và cảm thấy xúc động,” kỹ sư Đoàn Văn Vươn chia sẻ với bàn tròn của BBC.
Việt Nam vừa kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Trong trả lời phỏng vấn của BBC ngày 26/8 vừa qua, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng viện nghiên cứu phản biện độc lập (IDS, đã tự giải thể) ở Việt Nam, thừa nhận 70 năm sau khi Việt Nam giành được độc lập “những mục tiêu dân giàu nước mạnh, những mục tiêu về độc lập dân tộc, kể cả những mục tiêu về dân chủ chưa đạt”.
Mặc dầu vậy, trước câu hỏi thế thì Việt Nam có cần một cuộc cách mạng toàn diện mới hay không, ông nói: “Tôi rất ghét cách mạng, tôi chỉ thích tiến hoá mà thôi. Bởi vì các cuộc cách mạng, nhìn suốt lịch sử thế giới, đều là các cuộc cách mạng vô cùng tàn bạo. Cái giá nó mang lại cho nhân loại hoặc cho từng dân tộc đều rất đắt, cho nên là dẹp cách mạng đi.”
Để xem Tiến sĩ Nguyễn Quang A có lý hay không, ta cần giải đáp các câu hỏi sau đây:
Một, cách mạng là gì?
Hai, có phải tất cả các cuộc cách mạng đều chủ trương bạo lực?
Ba, Việt Nam hiện tại có cần một cuộc cách mạng hay không?
Cách mạng là gì
Cách mạng là một sự thay đổi sâu sắc hoặc triệt để về chất, thường xảy ra trong một thời gian tương đối ngắn. Cách mạng xảy ra trong nhiều lĩnh vực như chính trị, xã hội, văn hoá, kinh tế,công nghiệp…Trong bài viết này, “cách mạng” được dùng với nghĩa “cách mạng trong lĩnh vực chính trị”.
Cách mạng là thay chế độ (thể chế) chính trị hiện tại bằng một chế độ chính trị tiến bộ. Xóa bỏ chế độ quân chủ để thiết lập nền cộng hòa, đó là cách mạng. Xóa bỏ chế độ thực dân để thiết lập độc lập dân tộc, đó là cách mạng. Xóa bỏ chế độ độc tài – toàn trị để thiết lập nền dân chủ – đa đảng, đó là cách mạng. Có cuộc cách mạng cùng một lúc thiết lập nền độc lập dân tộc và nền cộng hòa, có cuộc cách mạng thiết lập cùng một lúc nền cộng hòa và nền dân chủ – đa đảng. Và có cuộc cách mạng thiết lập cùng một lúc độc lập dân tộc, nền cộng hòa và nền dân chủ – đa đảng. Thông thường cách mạng được tiến hành với sự tham gia của một số đông quần chúng.
Tóm lại, cách mạng đồng nhất với tiến bộ và vì vậy là tuyệt đối cần thiết để thúc đẩy nhân loại phát triển. Chống lại cách mạng là chống lại tiến hóa xã hội.
Cũng cần phân biệt cách mạng với đảo chính là biến cố chính trị dẫn đến thay đổi lãnh đạo quốc gia, chính phủ nhưng không dẫn đến thay đổi chế độ chính trị.
Biến cố chính trị tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam dẫn đến Độc lập dân tộc và sự ra đời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào 2-9 cùng năm chắc chắn là một cuộc cách mạng không chỉ vì đã chấm dứt chế độ phong kiến mà ở đây là Đế quốc Việt Nam của hoàng đế Bảo Đại và khai sinh nền Cộng hòa mà trước hết vì đã thực hiện Quyền dân tộc tự quyết, thực hiện Độc lập dân tộc không trên cơ sở nhượng cho của phát xít Nhật. Còn cuộc cách mạng này ngay lúc đó đã thiết lập được một nền dân chủ – đa đảng hay chưa thì tôi sẽ bàn tới trong một bài viết khác.
Cách mạng không chỉ bằng bạo lực
Nói đến cách mạng thường người ta nghĩ đến bạo lực bởi đơn giản đối tượng phế bỏ là chế độ độc tài có quân đội và cảnh sát bảo vệ, mức độ độc tài càng cao thì khả năng cách mạng sử dụng bạo lực càng lớn.
Điển hình của cách mạng bạo lực là Cách mạng Pháp với việc đưa vua Louis XVI lên đoạn đầu đài. Tuy nhiên không phải cuộc cách mạng bạo lực nào cũng dẫn đến đổ máu. Cách mạng tháng Tám tại Việt Nam là bằng chứng. Thực vậy, dưới áp lực mạnh mẽ của các cuộc khởi nghĩa vũ trang do Việt Minh tiến hành và trong bối cảnh Nhật đang bảo hộ Đế quốc Việt Nam đã đầu hàng Đồng Minh, hoàng đế Bảo Đại quyết định thoái vị, trao chính quyền cho Việt Minh. Đó là lý do vì sao thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối đề nghị của quân Nhật dẹp Việt Minh bằng vũ lực. Chiều ngày25/8/1945, trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn, hoàng đế Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị và trao ấn, kiếm vàng biểu trưng cho vương quyền cho hai đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận, phụ thân của người viết bài này.
Mặc dù vậy, thực tế cho thấy đã có những cuộc cách mạng phi bạo lực.
Chỉ trong vài năm, từ 1989 cho đến 1991, thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ cộng sản dưới sức ép của các cuộc biểu tình bất bạo động ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Đáng tiếc là ở nhiều nước hậu cộng sản vẫn chưa có được tự do, dân chủ thực sự bởi các cựu lãnh đạo cộng sản vẫn tiếp tục nắm quyền, độc tài chỉ đổi dạng từ tập thể qua cá nhân mà thôi. Vì vậy ở các nước này lại diễn ra các cuộc cách mạng bất bạo động được biết đến dưới cái tên “cách mạng màu” đặc trưng bởi các cuộc biểu tình ngồi và tổng đình công. Kết quả là những kẻ tân độc tài đã phải cuốn gói. Đó là Cách mạng Hoa hồng tại Gruzianăm 2003, Cách mạng Cam tại Ukraina năm 2004, Cách mạng Hoa Tulip tại Kyrgyzstan năm 2005.
Các cuộc cách mạng bất bạo động cũng đã nổ ra ở các nước có chế độ độc tài phi cộng sản và một số đã thành công. Đó là Cách mạng lật đổ nhà độc tài Ferdinand Marcos do phong trào Sức mạnh Nhân dân tiến hành tại Philippines năm 1986, cuộc Cách Mạng Hoa Lài lật đổ nhà độc tài Ben Ali tại Tunisia, cuộc cách mạng lật đổ nhà độc tài Hosni Mubarak tại Ai Cập năm 2011…
Một cuộc cách mạng bất bạo động cho Việt Nam
Với Điều 4 Hiến pháp Việt Nam quy định “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, chế độ chính trị ở Việt Nam rõ ràng là chế độ độc tài – toàn trị. Dưới chế độ này các quyền con người và công dân cơ bản như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, tự do tín ngưỡng, tôn giáo… cho dù được ghi trong Hiến pháp đã bị công an đàn áp thẳng thừng. Bên cạnh đó, chính quyền cộng sản Việt Nam ra sức sử dụng vị trí độc quyền cai trị đất nước của mình để cướp bóc tài sản của người dân cũng như của quốc gia. Nghiêm trọng không kém, cũng chính để giữ quyền lực nhằm bảo đảm đảm mục tiêu ăn cướp này mà chính quyền cộng sản Việt Nam đã và đang làm ngơ cho Trung Quốc xâm chiếm chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam đặc biệt ở Biển Đông. Thực vậy, đối với chính quyền này Trung Quốc là chỗ dựa duy nhất để chống lại sự nổi dậy từ phía người dân.
Do đó, một cuộc cách mạng ở Việt Nam là chẳng thể đừng để cứu dân, cứu nước!
Vấn đề còn lại là cuộc cách mạng này sẽ diễn ra theo hướng nào, bạo động hay bất bạo động?
Sau Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945, Việt Nam đã trải qua 30 năm liên tục chiến tranh: kháng chiến chống thực dân Pháp từ 1946 đến 1954 và nội chiến có sự can thiệp quân sự của Mỹ trong bối cảnh chiến tranh lạnh từ 1955 đến 1975. Do máu đã đổ quá nhiều như vậy nên dù là chính đáng, là cấp thiết thì một cuộc cách mạng mới ở Việt Nam không thể lấy bạo lực làm phương tiện. Hơn thế nữa, sự thành công của cách mạng phi bạo lực trên thế giới, nhất là ở các nước cộng sản Đông Âu, càng làm cho các lực lượng dân chủ Việt Nam tin rằng đấu tranh bất bạo động hoàn toàn có thể đưa cuộc cách mạng của họ tới đích. Cụ thể, đó sẽ là biểu tình, đình công và các hình thức phản đối tập thể và ôn hòa khác đòi chính quyền hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp, thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, quyền của người lao động được ghi trong Hiến pháp cùng lúc với đòi hủy bỏ các điều 79, 88, 258 Bộ luật hình sự và các điều luật đàn áp nhân quyền khác, trả lại đất đai, nhà cửa đã bị chính quyền cưỡng đoạt…
Về phía chính quyền cộng sản Việt Nam, cũng như bất cứ chế độ độc tài – toàn trị nào khác, chắc chắn chính quyền này sẽ dùng bạo lực kiểu “Thiên An Môn 1989” để chống trả cách mạng đồng nhất máu những người biểu tình sẽ đổ. Việc chính quyền này tấn công, đánh đập dã man bằng công an và côn đồ, bắt bớ, bỏ tù hàng loạt người đấu tranh cho dân chủ – nhân quyền, “dân oan”, nhất là trong thời gian gần đây, đã cho thấy rõ điều đó. Tuy nhiên chắc chắn không kém là máu của người biểu tình ôn hòa một khi đã đổ thì điều này chỉ càng nung nóng quyết tâm “người trước ngã, người sau tiến” của khối người biểu tình, càng gây phẫn nộ và thôi thúc cả nước xuống đường vì một ngày mai dân chủ!
Dù tàn bạo đến đâu giới cầm quyền Việt Nam cũng hiểu không thể nào tránh khỏi sụp đổ, càng đàn áp thì tội với dân, với nước càng lớn nên cách tốt nhất là trì hoãn cái kết cục tất yếu kia được lúc nào hay lúc ấy. Một trong những thủ đoạn “câu giờ” này là tung tin rồi sẽ có một “Gorbachev Việt Nam” để giải thể chế độ cộng sản hay “chế độ cộng sản Việt Nam tự thủ tiêu” và vì vậy cách mạng là không cần thiết.
Sở dĩ tôi khẳng định giải pháp “Gorbachev Việt Nam” hay “chế độ cộng sản Việt Nam tự thủ tiêu” là thủ đoạn “câu giờ”, tức không thể có, bởi giới cầm quyền Việt Nam rất khác với giới cầm quyền Liên Xô. Thực vậy, giới cầm quyền Liên Xô là cộng sản quan liêu, tức ngộ nhận chủ nghĩa cộng sản sẽ mang lại công bằng và hạnh phúc cho con người và vì vậy một khi tỉnh ngộ thì họ dứt bỏ nó. Còn giới cầm quyền Việt Nam hiện nay về tổng thể là kẻ cướp theo đúng nghĩa đen của từ này như trên đã phân tích, mà kẻ cướp thì không thể có chuyện tự nguyện hoàn lương, trả lại tài sản và đền bù cho các nạn nhân của nó.
Như vậy, bỏ qua nhận định không chuẩn của ông về sự đối lập giữa “cách mạng” và “tiến hóa” bởi “tiến hóa” bao gồm “đột biến” hay “cách mạng”, Tiến sĩ Nguyễn Quang A với quan điểm “dẹp cách mạng” và những người có quan điểm tương tự đang tiếp tay, cho dù không cố ý, kéo dài sự tồn tại của chế độ cộng sản Việt Nam gắn với tội ác chống con người và thảm họa mất nước vào tay Trung Quốc.
Thành thử, một cuộc cách mạng bất bạo động là tất yếu, và không những thế, là cấp thiết cho Việt Nam trước khi mọi cái trở nên quá muộn!
Tác giả là một nhà bất đồng chính kiến và tù nhân chính trị Việt Nam, hiện là học giả khách mời tại Đại học Northwestern, Hoa Kỳ.
Ngày 1/9/2015 Ủy ban Gíam sát Tài chính Quốc gia ra khuyến nghị nói rằng Việt Nam chưa nên điều chỉnh chính sách lớn và điều chỉnh kế hoạch kinh tế – xã hội sau việc Trung Quốc ba lần liên tiếp phá giá nhân dân tệ và Ngân hàng Nhà nước cũng nhanh chóng điều chỉnh tỷ giá. Nam Nguyên phỏng vấn Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập về vấn đề liên quan, cuộc phỏng vấn qua điện thoại đã diễn ra trong lúc ông đang có mặt ở Cần Thơ để tham dự một cuộc hội thảo.
Chưa thể hiện một cách toàn diện
Nam Nguyên: Thưa Tiến sĩ, đã ba tuần sau khi Trung Quốc phá giá nhân dân tệ và Việt Nam cũng có hành động tương tự. Thưa cho đến nay có thể đánh giá sơ bộ mức độ ảnh hưởng đối với Việt Nam hay chưa?
Cho đến nay thì các tác động của việc điều chỉnh tỷ giá đối với Việt Nam nó mới bắt đầu lộ ra, chứ nó chưa thể hiện một cách toàn diện. Ví dụ như hôm nay thì mới biết là bên Than Khoáng sản do điều chỉnh tỷ giá họ lỗ 1.200 tỷ, rồi thì ngành điện cũng lỗ… họ dự kiến sẽ tính vào giá điện và như vậy sẽ tăng giá lên.
-TS Lê Đăng Doanh
TS Lê Đăng Doanh: Cho đến nay thì các tác động của việc điều chỉnh tỷ giá đối với Việt Nam nó mới bắt đầu lộ ra, chứ nó chưa thể hiện một cách toàn diện. Ví dụ như hôm nay thì mới biết là bên Than Khoáng sản do điều chỉnh tỷ giá họ lỗ 1.200 tỷ, rồi thì ngành điện cũng lỗ… họ dự kiến sẽ tính vào giá điện và như vậy sẽ tăng giá lên.
Một loạt các doanh nghiệp khác chắc cũng sẽ gặp khó, vì vậy cho nên tôi nghĩ rằng, cho đến nay tác động của việc điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam nó mới dần dần lộ ra. Còn một tác động nữa không thể xem thường, là có sự buôn lậu và biên mậu rất lớn từ Trung Quốc. Chúng ta đều biết chênh lệch nhập khẩu từ Trung Quốc do Tổng cục Thống kê của Việt Nam công bố thì thấp hơn con số của cơ quan thống kê của Trung Quốc khoảng 20 tỷ đô la. Với 20 tỷ đô la đó nhân lên với tỷ giá 21.000 đồng/USD thì chúng ta có thể thấy rằng lượng hàng hoá của Trung Quốc tràn vào Việt nam lớn như thế nào. Thế bây giờ hàng hóa đó lại còn rẻ hơn nữa thì chuyện này chưa đánh giá được hết là tác động của biên mậu và việc buôn lậu nó sẽ như thế nào.
Nam Nguyên: Thưa về việc Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia nói là chưa cần điều chỉnh chính sách lớn và điều chỉnh kế hoạch kinh tế – xã hội thì có là thụ động hay không?
TS Lê Đăng Doanh: Việc đánh giá như vậy là đánh giá dựa trên các biểu hiện cho đến bây giờ và cho đến bây giờ thì nó mới bộc lộ ra dần dần. Tôi nghĩ rằng, hiện nay chưa có một tính toán trên cơ sở mô hình hay định lượng nào về tác động của việc phá giá đồng nhân dân tệ và điều chỉnh tỷ giá của đồng Việt Nam đối với các doanh nghiệp Việt Nam và đối với kinh tế Việt Nam. Tôi nghĩ việc đó là cần phải làm trong thời gian tới đây.
Tiền đồng Việt Nam. Courtesy photo.
Nam Nguyên: Thưa, trong các khuyến nghị của Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia, thì cũng có nói là tâm lý thị trường đóng vai trò vô cùng quan trọng, nếu phần lớn các nhà kinh doanh, nhà đầu tư có cùng cảm nhận và phản ứng thì sẽ tạo một lực cung cầu rất lớn vượt tầm kiểm soát của các chính phủ. Thưa mức độ liên thông của Việt Nam với thế giới hiện nay như thế nào, nếu như có một kịch bản như thế xảy ra thì Việt Nam sẽ ra sao?
TS Lê Đăng Doanh: Tình hình kinh doanh của Việt Nam từ nay đến cuối năm và đầu năm 2016 sẽ còn diễn biến và tôi nghĩ đấy là một ý kiến đánh giá của Ủy ban thôi. Còn các anh em chuyên gia kinh tế của chúng tôi thấy là cần phải tiếp tục theo dõi và tiếp tục xem xét diễn biến như thế nào, chứ chúng tôi chưa dám có kết luận cuối cùng.
Nam Nguyên: Ủy ban cũng khuyến nghị là phải sẵn sàng với kịch bản xấu nhất, giả dụ như thế thì theo Tiến sĩ Việt Nam sẽ phải co cụm phải đối phó bằng những biện pháp gì?
TS Lê Đăng Doanh: Tôi nghĩ cách tốt nhất là đẩy mạnh cải cách, kể cả cải cách thể chế và tái cơ cấu nền kinh tế để nâng cao năng lực cạnh tranh và các doanh nghiệp cũng phải có sự điều chỉnh. Hiện nay tôi đang ở Cần Thơ và tôi vừa dự cuộc Hội thảo về kết nối các tỉnh An Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ. Tôi thấy là tinh thần các doanh nghiệp ở đây là rất cố gắng, họ muốn nắm bắt tình hình và sẽ có sự điều chỉnh để có thể cạnh tranh tốt hơn trong thời gian tới. Tôi thấy đó là tín hiệu rất đáng mừng của 500 doanh nghiệp có mặt hôm nay (4/9/2015) ở Cần Thơ.
Nam Nguyên: Thưa, Hội đồng tiền lương Quốc gia vừa chốt lại đề xuất tăng lương tối thiểu 2016 là 12,4% thôi, nó rất khác biệt với mức 16,8% mà Tổng Liên đoàn Lao động đưa ra và Phòng Thương mại Công nghiệp thì nói chỉ nên tăng lương 10% thôi. TS nhận định gì về việc này?
TS Lê Đăng Doanh: Tôi nghĩ đấy là sự thỏa hiệp có lẽ là các bên có thể chấp nhận được. Còn đối với doanh nghiệp thì nguyên tắc là chỉ có thể tăng lương trên cơ sở tăng năng suất lao động; mà nếu chưa tăng năng suất lao động mà đã tăng lương thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn rất lớn.
Nam Nguyên: Cảm ơn TS Lê Đăng Doanh đã trả lời Đài RFA.
Pham Cao PhongCây kiếm này được cho là ‘bảo kiếm’ được Vua Bảo Đại trao lại hôm 30/8/1945
Mùa thu năm trước Bảo tàng Lịch sử Việt Nam mang chuông sang gióng ở thủ đô Pháp.
Tám mươi hiện vật được chọn lọc và trưng bày tại Bảo tàng Guimet ở thủ đô Paris.
Triển lãm mang tên L’Envol du Dragon – Art royal du Vietnam’ tức ‘Thăng Long – Nghệ thuật Hoàng gia Việt Nam’.
Mang khoe nước người, muốn hóng cái khen, vơ tiếng nức nở nên đồ được cấp visa này không thể là loại tầm tầm. Nhiều thứ đẹp. Quảng cáo trang nhã.
Song có một hiện vật trái khoáy. Đó là một thanh kiếm rỉ đặt trong một góc khuất tệ hại, vốn được cho là do Vua Bảo Đại trao lại cho Việt Minh vào một ngày cuối tháng Tám năm 1945.
Pham Cao PhongSử ghi Vua Khải Định là người tiên phong dùng gươm thẳng thay vì gươm cong
Lưỡi kiếm thẳng, lai hình mẫu kiếm Pháp, riêng chuôi và đốc kiếm chạm khắc hình tượng đầu rồng hoàng gia như chú thích -Bien que la forme de cette épée soit française, le décor associé des dragons aux motifs traditionnels du Vietnam impérial – ‘Hình dạng của thanh kiếm này giống kiếm của người Pháp, nhưng cách trang trí chạm khắc hình rồng theo mô-típ truyền thống của hoàng gia Việt Nam’.
Âu đến Á, ngay từ giai đoạn đồ đồng với chiều dài hàng nghìn năm cho đến nay, hình ảnh chiếc kiếm là biểu tượng về quốc gia, luật pháp, quân đội, dòng họ. Thế sao thanh kiếm độc hành được mang sang xứ người có tên “An dân bảo kiếm” này lại không biết của ai?
Rỉ đã là quá, lại vô chủ. Lò rèn kiếm cung đình hay những người nghệ nhân tâm huyết tạo ra vật trang sức thần quyền, trưng cái oai, khoe cái sang của một ông vua không lẽ bốc hơi không sót lại một góc chữ ư, mà để oai linh một thời trơ trỏng và vớ vẩn ra thế ?
Những hình ảnh lịch sử ghi nhận chỉ có vua Khải Định tiên phong sắm gươm thẳng, lệch gu với các vua tiền bối.
Vậy “An dân bảo kiếm” có phải là sở hữu riêng của vua Khải Định? Lăng vua ở Huế cũng phô một pho tượng bằng đồng thửa tại Pháp, cao 1m60 hệt người thật. Tượng đặc tả vua ăn mặc và trang sức ai cũng giống và không giống ai với gù vai nguyên soái kiểu châu Âu, huy chương Bắc đẩu bội tinh Pháp, thẻ bài, khăn đóng An Nam, dận ủng kỵ binh châu Âu thêu rồng. Kiếm vua đeo rất gần hình dáng chiếc kiếm có mặt tại bảo tàng Guimet. Khổ là tay trái vua trưng bốn chiếc nhẫn lại nắm đốc kiếm nên không biết đây có phải là “An dân bảo kiếm” hay không.
Thanh kiếm gỉ
Thú vị là cuộc tìm kiếm chủ nhân thanh kiếm rẽ vào một hướng bất ngờ.
Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên-Huế cũng có một bức tranh mô phỏng cuộc chuyển giao quyền lực giữa vua Bảo Đại và phái đoàn Việt Minh tại Ngọ Môn ngày 30.8.1945.
Thanh kiếm vương quyền ngày tàn được vẽ là một thanh kiếm thẳng. Trong tâm niệm chung, kiếm thường có dạng cong, lưỡi đơn. Người hoạ sĩ thể hiện bức tranh lịch sử này đã căn cứ vào đâu để khôi phục lại hình ảnh đó? Dĩ nhiên phải có cội nguồn. Không ai dại phơi một bức tranh sai về chi tiết về sự kiện có một không hai đất cố đô, nơi quan trên ngó xuống, người ta xoi vào.
Pham Cao Phong Kiếm được cho là một trong những vật được Vua Bảo Đại trao lại khi thoái vị
Tại Huế 70 năm trước có tới 50.000 người chứng kiến ngày mặt rồng thất thế. Song đến nay tịch chẳng ai trong số đó phản hồi về việc đúng hay sai những chi tiết trong tranh. Vậy “An dân bảo kiếm” có phải là thanh kiếm ông vua cuối cùng của triều Nguyễn đã trao cho phái đoàn Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận? Thanh kiếm tượng trưng quyền lực trong ngày thoái vị 70 năm trước của vua Bảo Đại cũng gỉ, lưỡi kiếm cũng thẳng.
Cù Huy Cận kể trong hồi ký về việc trao ấn và kiếm: “Sau khi Bảo Đại đọc lời tuyên bố thoái vị, tới nghi thức trao ấn kiếm. Chiếc kim ấn truyền quốc làm bằng vàng ròng, nặng dễ đến ngót 10 kilôgam, anh Trần Huy Liệu vốn sức yếu phải gồng lên mới cầm nổi, còn tôi dĩ nhiên với cái tuổi 26 thì mươi cân cũng nhẹ nhàng thôi. Thú vị nhất là khi cầm cây kiếm, thấy vỏ ngoài dát vàng nạm ngọc rất đẹp, tôi thuận tay rút kiếm ra xem, ai dè bên trong lưỡi kiếm đã bị rỉ, tôi hồn nhiên nói ngay vào micro: “Thưa đồng bào, kiếm nhà vua rỉ hết rồi !…” Mọi người cười ồ. Bảo Đại cũng cười.”
Kiếm nào và ấn vàng nào được vua Bảo Đại chuyển giao ngày 30/8/1945? Xung quanh chuyện này có nhiều dị bản. Những ghi chép của Phạm Khắc Hòe, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận, Nguyễn Hữu Đang, lời kể của Thứ phi Mộng Điệp cũng như tài liệu đã công bố của phía Pháp có nhiều mâu thuẫn.
Chuyện tướng Pháp François Jean Antonin Gonzalez de Linares loan báo việc tìm thấy ấn vàng và kiếm triều Nguyễn, chắc chắn không phải ấn kiếm đã được trao hôm 30/8/1945, sau ngày Toàn quốc kháng chiến tại Nghĩa Đô ngày 28.2.1952 rồi tổ chức trao lại cho chính phủ Bảo Đại hôm 8.3.1952 có thể được xem như một đòn chiến tranh tâm lý đánh vào sự ngây thơ, cả tin của dân chúng về những câu sấm, những cơ trời “Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về”. Chính ông Phạm Khắc Hòe cũng múa câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để khuyên Bảo Đại nhường ngôi. Có trận đánh nào ở vùng này mà lính Pháp đào công sự gần chùa? Lính đi càn gần Hà Nội đào công sự để chống xe tăng Việt Minh tháng 2 năm 1952? Sự nhanh nhẩu trong vòng chỉ một tuần tìm ra báu vật và trao lại, không biên bản thẩm định đó là ấn kiếm thật hay giả, cũng như sự vắng mặt của Bảo Đại trong ngày Pháp tổ chức trao trả giải thích ra sao?
Bằng chứng thuyết phục hơn cả về chuyện trao trả ấn kiếm chỉ là đòn tâm lý là chiếc ấn truyền quốc quý nhất, được chính Gia Long gọi là chiếc ấn truyền ngôi là Kim bảo ấn “Đại việt quốc Nguyễn Vĩnh Trấn chi bảo – 大 越 國 阮 主 永 鎮 之 寶” đúc ngày 6 tháng 12 năm 1709 do chúa Nguyễn Phúc Chu làm hiện là sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Hà Nội. Tại sao?
Sách Đại Nam thực lục, do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn, chép lai lịch chiếc ấn: “Mùa đông tháng 12 ngày Nhâm Dần, đúc Quốc bảo. Sai Lại bộ Đồng Tri là Qua Tuệ Thư coi việc chế tạo. Năm ấy đúc xong, về sau liệt thánh truyền nhau lấy làm Quốc bảo. Đến khi Duệ tông Hiếu Định Hoàng đế (tức Chúa Nguyễn Phúc Thuần – Định Vương – 1765 – 1775) vào Nam, cũng đem ấn đấy đi theo. Duệ tông Hiếu Định Hoàng đế băng hà thì để lại cho Thế tổ Cao hoàng đế (tức là Nguyễn Thế Tổ – Phúc Ánh – 1802 – 1819).
AFP GETTYVua Bảo Đại (trong ảnh cùng Tướng Pháp Jean de Lattre de Tassigny hồi năm 1950 ở Buôn Mê Thuột) không có mặt trong buổi trao lại ấn kiếm năm 1952
“Bấy giờ binh lửa trên 20 năm, ấn ấy mất rồi lại tìm thấy nhiều lần. Mùa hạ năm Nhâm Dần, giặc (nhà Tây Sơn theo cách dùng văn từ của nhà Nguyễn) đánh Sài Gòn, Thế Tổ ra đảo Phú Quốc, điều khiển Ngô Công Quý mang ấn theo sau bị lạc. Đến khi Chu Văn Tiếp phá được giặc, rước vua hồi loan, Công Quý cũng từ Long Hồ đem ấn về hiến. Lại đến chiến dịch Ba Lai, quân Tây Sơn đuổi gấp, tòng thần theo vua mang ấn lội sông chạy, ấn rơi xuống nước, rồi người lội sau vướng chân chạm phải, lại mò được, đem hiến ở hành tại. Lại khi vua lánh giặc (chỉ nhà Tây Sơn) ra ngoài vụng đảo Thổ Châu, từ giá (mẹ vua) và cung quyến (vợ con vua) đều ở lại đảo, vua Xiêm sai tướng là Thát Xỉ Đa đem binh thuyền đến đón vua mời vào nước họ.
“Trong lúc thảng thốt, bụng dạ người Xiêm chưa lường được thế nào, vua mật sai tòng thần là Hựu đem ấn vượt biển lên bờ giấu kín. Khi vua đến thành Vọng Các, thấy vua Xiêm thết đãi rất cung kính, không có ý gì khác, vua mới sai người về đảo Thổ Châu để đón từ giá và cung quyến, tên Hữu cũng mang ấn ấy đi theo. Năm Gia Long, vua dụ Hoàng thái tử, tức Thánh tổ nhân Hoàng đế rằng: “Ấn báu này các đời truyền nhau, ngày xưa đã trải nhiều phen binh lửa, người chẳng chắc còn, mà ấn này vẫn cứ giữ trọn trước sau, chiếu văn và bổ dụng quan lại đều dùng ấn này, giữ tín trong nước, ai cũng hưởng ứng. Ấn này quan hệ với quốc gia không nhỏ, tức là ngôi báu trời cho vẫn có quỷ thần giúp đỡ, khiến cho ngọc bích của Triệu lại trở về. Vả lại nước ta liệt thánh nối nhau, chồng chất sáng hòa, hơn 200 năm, nay nhờ yêu dấu thiêng liêng mà thống nhất cả nước, phúc chứa vốn đã lâu đời… Huống là cái ấn Quốc bảo của tổ tiên ta để lại ư? Từ nay về sau nên lấy ấn này làm vật báu truyền ngôi. Con cháu ta phải đời đời để lại cho nhau, đừng làm mất đi mà truyền đến ức muôn năm dài lâu mãi mãi”.
Như vậy “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo” ngay khi hai chúa Thế tổ nhà Nguyễn là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương bị Tây Sơn Nguyễn Huệ quây bắt và chém chết tháng 9/1777 tại Cà Mau, chỉ còn cháu trai của Nguyễn Phúc Lân là Nguyễn Ánh lúc ấy mới 14 tuổi trốn thoát sau này trở thành vua Gia Long mà ấn vẫn không bị mất và những lời Gia Long được ghi rõ chính sử Nguyễn nói thay giá trị của bảo vật triều đại này. Nó hiện nằm trong tay chính quyền tiếp quản chính thức nhà Nguyễn thì phải hiểu thế nào cho đúng ? Vua Bảo Đại từ bỏ ngai vàng trở thành công dân Vĩnh Thụy thì đương nhiên đúng theo nguyên tắc phải trao lại ấn này chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Không một chiếc ấn nào khác có đủ tư cách về giá trị pháp lý cũng như tuổi đời lịch sử và văn bản chính thống triều Nguyễn bằng Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo trong việc chuyển giao ngai vàng!
Chiếc ấn này là chiếc thứ hai có tuổi cao nhất của triều Nguyễn, sau chiếc ấn “An Nam quốc thiên hạ thống đô nguyên soái Thụy quốc công” đúc đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, niên hiệu vua Lê Dụ Tông ở Bắc Hà hiện còn ấn tích trong An Nam quốc thư gửi cho Shogun (tạm dịch là lãnh chúa) Tokugawa Kitanomaru được bảo quản tại Lưu trữ quốc gia Nhật bản cùng nằm trong Palais Imperial quận Chiyoda Tokyo.
Theo ông Paul Boudet (1888-1948) các vua Nguyễn có 46 chiếc ấn, phần lớn được chế tạo sau thời Minh Mạng. Danh mục Kim bảo tỷ triều Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (bằng vàng, bạc, vàng pha đồng, bạc mạ vàng) là 44 chiếc. Sớm nhất là Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo (vàng 10 nặng 64,43 lạng), muộn nhất là Hoàng thái tử bảo (đúc năm 1939, vàng 10 nặng 63 lạng). Nặng nhất là Hoàng đế Tôn thân chi bảo (đúc năm 1827, Minh Mệnh, vàng 10 nặng 234,43 lạng) kế đến là Sắc mệnh Chi bảo (đúc năm 1827, Minh Mệnh, vàng 10 nặng 223,60 lạng).
Như vậy ngoài chiếc “An Nam quốc thiên hạ thống đô nguyên soái Thụy quốc công” còn dấu tích ở Nhật còn những ấn nào thiếu khác? Chiếc được cho là bị mất trong triển lãm năm 1961 ở Hà Nội và sau đó có thể đã bị nấu chảy là chiếc ấn nào? Ấn Bảo Đại mang sang Pháp được khoe “Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về” thực hư ra sao? Sự có mặt tại Hà Nội Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo với câu nói của Gia Long “Từ nay về sau nên lấy ấn này làm vật báu truyền ngôi. Con cháu ta phải đời đời để lại cho nhau, đừng làm mất đi mà truyền đến ức muôn năm dài lâu mãi mãi” có thể an ủi nhiều người rằng con cá to vẫn sờ sờ ra đấy mà không phải là con cá sổng. Chiếc ấn mà nhiều người cho là quốc ấn ông Bảo Đại thác lại cho bà Tây Monique Marie Eugène Baudot cũng chẳng mấy quan trọng. Ví như cái khất, cái nợ, như đồng tiền vay rồi không quỵt nổi, hối lại người khác máu đã cưu mang hùm thiêng ngày xa cơ. Mà Tây tìm thấy thì về lại trời Tây, như “cáo chết ba năm quay đầu về núi”.
Song chính vì thế câu chuyện trở nên rắc rối. Nếu đúng, mà phải đúng như thế tại sao Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo không được trưng bầy trong Bảo Tàng như chứng nhân ngày dòng chảy lịch sử đất Việt chuyển dòng cách đây đúng 70 năm ? Không một ai, không một dòng nào, không một người nào trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến sự kiện này chìa tay đưa nhân chứng lẽ ra có một không hai này ra ánh sáng. 70 năm tăm tối của Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo cộng thêm câu chuyện chiếc kiếm gỉ dẫn chúng ta đi về đâu. Nếu chiếc ấn này vắng mặt trong ngày thoái vị của vua Bảo Đại đồng nghĩa với việc chuyển giao ngai vàng là không thành thật và sự góp mặt của nhân chứng thứ hai là thanh kiếm gỉ củng cố thêm nhận định này.
Những góc khuất
Sự kiện Bảo Đại thoái vị ngày 30.8.1945 phải có những góc khuất
Nghi vấn đặt ra: kẻ nào dám trểnh mảng để quốc bảo mốc gỉ? Triều Nguyễn nổi tiếng hà khắc. Nguyễn Văn Thành là một thí dụ. Vì vỏn vẹn mấy vần thơ ngông của con trai mà khai quốc công thần này phò hai chúa Nguyễn từ thủa hàn vi, lập nhiều chiến công rường cột trong chiến tranh chống Tây Sơn còn bị bức tử, con trai trưởng Nguyễn Văn Thuyên lấy con gái vua Gia Long bị xử chém. Ông là tướng đi theo Định Vương Nguyễn Phúc Thuần từ năm 1773 lúc Nguyễn Ánh mới 11 tuổi, đánh trận từ Nam ra Bắc, đồng thời phụ trách biên soạn hai quyển sách quan trọng nhất của Triều Nguyễn là Hoàng Việt luật lệ (gọi Nôm là Luật Gia Long) và Quốc triều thục lục viết về chính sử nhà Nguyễn. Công lao lừng lẫy đánh trăm trận đến chức đại tướng rồi Thượng Công không được xét, chạy tới nắm áo vua van xin còn bị phủi tay, phải uống thuốc độc. Thế phường thấp cổ bé họng hưởng lộc Chúa há dám bỏ đồ thờ tự han rỉ, thân mọc ra được mấy đầu mà ghẹo gươm đồ tể ? Quàng cái tiếng người hầu trong cung đã đeo khoe rinh lên rồi thì chuyện được tuyển vào bảo quản đồ đạc thân thiết của vua chắc khối kẻ nhòm ngó, thậm chí chạy vạy để nương cái hơi cái bóng mà ngông với làng với xóm. Nhà nào lọt sàng xuống nia tót qua cửa cung được kén chùi đồ ngự bảo chắc phải lấy làm đắc ý, không có bụi cũng tìm ra để quét thì kiếm vua rỉ đến cốt hẳn là chuyện đáng nói.
AFP GETTYVua Bảo Đại tuyên bố thoái vị cách đây 70 năm
Lệ nhà Nguyễn được ông Phạm Khắc Hoè viết rõ: “Hàng năm vào ngày 20 tháng Chạp Âm lịch, triều đình tiến hành lễ Phất Thức. Phất thức là mở hầm lấy tất cả các thức ra để kiểm điểm và quét bụi bặm, lau chùi thật sạch rồi lại cất vào hầm khoá lại. Làm những việc này các quan từ nhị phẩm trở lên mới được dự lễ Phất thức và phải tự mình làm lấy mọi việc, đưa ra, cất vào, dọn dẹp lau chùi. Trong dịp lễ Phất thức tháng Chạp năm Giáp Thân (tháng Giêng năm 1945), tôi đã theo dõi sát việc kiểm điểm và các bản kiểm kê đều được làm lại bằng chữ Quốc ngữ chứ không phải bằng chữ Hán như trước.” Đó là một việc.
Việc thứ hai là những thanh kiếm và những đồ binh khí chiến tranh đều là những sản phẩm được chế tạo rất tốt. Nghệ thuật rèn kiếm ở một nước như Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao. Lưỡi kiếm Thái A của vua Gia Long bị quân Pháp lấy ngày 5 tháng 7 năm 1885 khi tấn công Huế là một ví dụ. Thanh kiếm được trưng bầy trong Bảo tàng quân đội Pháp Invalides vẫn sáng loáng mặc dù tuổi cao. Vậy ông Bảo Đại thửa ở lò rèn nào đất Thần Kinh thời thái bình hiền hoà một chiếc kiếm tuổi trẻ sức yếu? Chỉ có thể luận ra rằng đây là đồ giả, một cây kiếm rèn rất non, qua quýt, hoặc đồ dùng để diễn tuồng trên sân khấu. Trao nhau đồ giả đơn giản định nghĩa là lừa nhau. Mà lừa ngày thoái vị thì to chuyện rồi.
Lịch sử có thể sang trang như thế nào?
Bảo Đại bọc trong Đại Nội không biết những biến cố xảy ra với đất nước. Năm 1945 Việt Nam trải qua một nạn đói lịch sử đến hai triệu người chết. Không có một động thái nào được ghi nhận của nhà vua về thảm cảnh của đất nước. Ông cũng không biết đối thủ chính trị là ai khi nhận được bức điện của Việt Minh mới nói ông Phạm Khắc Hoè chạy ra ngoài nghe ngóng. Hài như chuyện sai ra chợ mua con cá, mớ rau.
Vua Bảo Đại viết:
“Sau đó ít lâu, giám đốc Bưu điện Huế xin được gặp tôi. Ông ta đưa cho tôi một điện tín nhận được từ Hà Nội. Nội dung bức điện tín: “Trước lòng quyết tâm của toàn thể dân tộc sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền độc lập quốc gia, chúng tôi kính cẩn xin Hoàng Thượng làm một cử chỉ lịch sử là trao quyền lại”. Điện tín này được ký bởi “Ủy ban Nhân dân Cứu quốc đại diện mọi đảng phái và mọi tầng lớp nhân dân”. Nhưng không có tên ai. Tôi không biết ai là những thủ lãnh …Đã đến lúc tôi phải có một sự lựa chọn để dung hòa số phận của tôi với số phận của dân tộc tôi… là tôi phải ra đi. – Nhưng ai là người tiếp nhận sự ra đi của tôi?
“Tôi bảo người em họ Vĩnh Cẩn và Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe ra ngoài thành Nội hỏi tin tức về Việt Minh. Cả hai trở về chả biết chi cả. Tôi đành đánh đại một bức điện tín gửi trống không “Ủy ban Nhân dân Cứu quốc” ở Hà Nội.”
Lẩn tránh lịch sử mà ông Phạm Khắc Hoè thoái thác là trong hồi ký không nói chiếc ấn nào và chiếc kiếm của ai đã được chuyển giao ngày 30.8.1945 trên lầu Ngọ Môn. Là người tổ chức, vận động vua thoái vị, người giữ trọng trách về giấy tờ, sổ sách của vua, thông thạo chữ Hán, là người xuất kho ấn vàng và kiếm sao ông bỏ qua chi tiết quan trọng này? Ông sơ sài:
“Chiều 27 và sáng 28 tháng 8 năm 1945, tôi cho kiểm kê lại các thứ tài sản trong Đại Nội để giao cho Chính quyền Cách mạng. Nói đến của công trong Đại nội lúc bấy giờ thì quý giá nhất là các đồ vật bằng châu báu ngọc ngà có tính lịch sử của các Vua Nguyễn. Các thứ này được cất trong một cái hầm lớn mé sau điện Cần Chánh.”
Trước đó chỉ có ba ngày ông là người đích thân kiểm tra đồ chuyển giao mà thanh kiếm kịp rỉ? Ông không muốn lưu lại dấu vết tên tuổi thanh kiếm và ấn báu ngày 30.8.1945 trên giấy trắng mực đen? Đây phải đặt một câu hỏi rất lớn. Ấn Đại Việt quốc Nguyễn vĩnh trấn chi bảo mới chính là Quốc ấn có được chuyển giao vào ngày ấy không? Chiếc ấn đó đi vào Bảo tàng lịch sử Việt Nam bằng con đường nào? Nguyễn Hữu Đang viết ấn có tên Vương quốc chi ấn. Nghĩa là nó đã được chọn đóng vai hình nhân thế mạng cho Đại Việt quốc Nguyễn vĩnh trấn chi bảo. Ngày thoái vị Bảo Đại còn giao cho phái đoàn Trần Huy Liệu thêm một bộ quân cờ bằng ngọc và nhiều vật dụng khác của nhà vua. Những vật này đâu phải là biểu tượng chuyển giao quyền lực. Liệu có phải chỉ là cách phân tâm? Hiện chúng ở đâu?
Khi ông Cù Huy Cận phát hiện ra thanh kiếm rỉ, ông Bảo Đại đã đánh trống lảng với câu hỏi? “Thưa Phái đoàn, từ nay tôi là một người dân bình thường của nước độc lập, xin Phái đoàn cho tôi một vật gì để kỷ niệm cái ngày này.?”
Hồi ký của Huy Cận ghi tiếp: “Ý kiến bất ngờ. Chúng tôi hội ý và tôi nhanh tay rút chiếc Huy hiệu cờ đỏ sao vàng mà Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên Huế tặng các thành viên của Phái đoàn và cài lên ngực Bảo Đại, đoạn nói to: “Xin đồng bào hoan nghênh công dân Vĩnh Thụy”.
Vua cũng quái, làm ông đại diện lúng túng phải kéo nhau ra hội ý. Bảo Đại lúc ấy 30 tuổi. Cái tuổi coi “biển chỉ nông đến đầu gối”. Là một tay chơi bạc nhà nghề, săn gái và săn thú. Ông đã nhìn con mồi của mình như thế nào? “Sáng ngày 25-8, có hai đặc phái viên, đại diện “Việt Nam Độc lập Đồng minh” từ Hà Nội vào: Trần Huy Liệu, trưởng phái đoàn, là phó chủ tịch Ủy ban. Một người gầy gò trông rất thảm hại, đeo kính đen để giấu cặp mắt lé. Người đi cùng là Cù Huy Cận, trông cũng quá tầm thường. Tôi hơi thất vọng. Trần Huy Liệu đưa cho tôi một giấy Ủy quyền có mang chữ ký không rõ là của ai.”
Trong tiếng Pháp dùng với nhau đến chữ “minable” (thảm hại) là quá lắm.
Bảo Đại có phải là người dễ bị hù dọa? Chắc chắn là không. Vậy ông sẽ làm gì ? Ông sẽ coi đó như những cuộc nổi loạn nông dân, hay cùng lắm như loạn Cần Vương của Hàm Nghi cuối cùng cũng thoái trào? Tây Sơn cường mạnh cũng không còn đất chôn thây trên cái ban công nhìn ra biển Đông mà người Pháp giúp xây dựng nên. Vậy chưa có súng nổ, đầu rơi, mới nhận mảnh giấy không ai ký mà khấu đầu nộp ấn kiếm và ngai vàng tổ tiên truyền lại đã hơn 200 năm? Sau này phát hiện đấy chỉ là một đảng lừa bịp, tống tiền lấy lại được ngai thì thiên hạ nhìn Thiên tử là con gì? Rồng chắc là không phải rồi. Tại sao không đi với ma mặc áo giấy?
Không biết vua Bảo Đại có thừa hưởng được gì nhiều ở đằng ngoại. Một gia đình cũng chẳng phải vừa. Ông ngoại Bảo Đại là Hoàng văn Tích là người dám nghĩ, dám làm, không nghĩ cũng làm. Khi vợ có con thứ hai liền đón chị vợ về chăm lo việc nhà, kèm phụ thêm việc giường chiếu với ông, có con với bà này sinh ra bà Hoàng Thị Cúc sau là mẹ đẻ của Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ. Mẹ bà Cúc xấu hổ với em gái, sinh con xong trở về quê tái giá. Bà Hoàng thị Cúc lại bị anh gán nợ vào làm người hầu trong phủ hai bà goá của vua Đồng Khánh. Từ chân vị kẻ osine, bà ẵm được ông hoàng có tiếng là không thích gần đàn bà lên giường, đúc ra vua Bảo Đại một bước lên bậc mẫu nghi thiên hạ. Cách mạng chỉ mới đặt mục tiêu “người cầy có ruộng”, sau còn đuối phải thu ruộng lại cho vào hợp tác xã. Bà cũng xuất thân thành phần nghèo khổ mà thành mẹ thiên hạ. Đường cách mệnh nào có kém. Khó phải ló cái khôn. Khôn ấy như thế nào ? Bảo Đại biết rất rõ Quốc bảo nhà Nguyễn song quyển sách “Con rồng An Nam” cũng không chỉ mặt nêu tên thanh kiếm và chiến ấn truyền ngôi. Một khoảng trống cố tình lướt qua như Đổng lý ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè. Chúng ta có được chứng kiến lịch sử đúng như sách báo viết hay không ?
Trần Huy Liệu không xa lạ gì với Đổng Lý Phạm Khắc Hòe. Ông Liệu là người tuyên truyền, giác ngộ bà Nguyễn Thị Hy thành vợ bé, có hai con với ông. Mặc dù ông Liệu đó có vợ là Nguyễn Thị Tý và bốn con ở quê. Bà Hy lại là vợ con trai trưởng Phạm Giao của Thượng thư Phạm Quỳnh bạn đồng môn với ông. Thời ấy miệng dân gian ghen ăn tức ở chửi dẻo ấy là phường “trốn chúa lộn chồng” hay “mèo mả gà đồng gặp nhau”. Trong một xã hội Nho giáo, khép kín ở mảnh đất bé tí như Huế vai vế Trần Huy Liệu với việc tòm tem này tự liệt vào hạng con cháu. Thậm chí có tin đồn rằng ông là người chủ mưu giết Phạm Quỳnh do tư thù. Sau này chính Trần Huy Liệu trong vai Bộ trưởng Thông tin và tuyên truyền đã dựng nên câu chuyện Lê Văn Tám đốt kho xăng Pháp. Báo hại bao nhiêu năm học sinh miền Bắc cứ phải nhai cái tầm phào khốn khổ. Con trai Trần Huy Liệu còn viết về cha: “Khi nghe tin Tòa Án quân sự Bungaria lần lượt kết án 2000 người là phản bội cách mạng phải chịu các bản án từ chung thân khổ sai đến tử hình thì ông Liệu còn mang tờ thông tin quốc tế ấy sang phòng Hồ Chí Minh: “Đấy, đồng chí Dimitrov, trong việc trấn áp phản cách mạng đã chặt hàng ngàn cái đầu phản động. Cụ có thấy cái chính quyền cách mạng nào hiền lành đến nhu nhược như chính quyền của Cụ không?”
Khi lần đầu tiên gặp Trần Huy Liệu, ông Phạm Khắc Hòe đã nêu câu hỏi rằng trong tháng Tám, Bảo Đại và ông đều chưa nhận được lương. Câu hỏi này có nhằm mục đích thăm dò thực quyền của những người đại diện cho một Ủy ban cách mạng? Chắc chắn. Cầm quyền, làm chủ thì phải có xèng cho người làm. Không xèng, đeo kính đen, chân thấp chân cao có phải là ăn trộm gà bị đánh què chân, cầm tờ giấy chữ ký lí nhí vào gặp, chủ nhà không lăn tăn ư? Lạ.
Nếu đã không phục Trần Huy Liệu và không tin vào quyền lực của Phái đoàn, Đổng lý Phạm Khắc Hòe hiến kế gì cho Bảo Đại? Như thế màn kịch đóng thế được dàn dựng. Một chiếc kiếm giả được tức tốc làm và ngày 28.8 Phạm Khắc Hòe vào kho trong điện Cần Chánh mà chỉ một mình ông được quyền vào và lựa một chiếc thế mạng cho quốc ấn “Đại Việt quốc Nguyễn vĩnh trấn chi bảo”?
‘Đáng đồng tiền bát gạo’
Trong Hồi ký chính trị “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc” ông Hòe có nhắc đến một câu bằng tiếng Pháp Bảo Đại nói khi bàn bạc với ông chuyện bàn giao chính quyền. Đó là câu “ça vaut bien le coup alors” – nôm na trong tiếng Việt – Đáng đồng tiền bát gạo – Cũng bõ công làm. Trong ngữ cảnh trước mắt thành dân đen, hồ hởi như thế cũng hơi quá. Khi bàn một canh bạc có lãi mới xoa tay “được đấy, quả này đậm! – Ca vaut bien le coup alors”.
Không ai đứng trước viễn cảnh ngày mai mất việc, tiền đồ tối như đêm 30 lại hỷ hả “ça vaut bien le coup alors”, chứ đừng nói một ông sắp mất ngai vàng ! Phái đoàn tiếp nhận việc chuyển giao chính quyền ngày ấy không phải là đối thủ xứng tầm với Bảo Đại và Phạm Khắc Hòe? Họ chỉ thấy ” cái quý ” ở bề ngoài lóng lánh, hý hửng cái nằng nặng ẵm về mà nhãng bỏ thêm vài chữ nữa về ấn ấy, kiếm ấy ra sao. Nguyễn Hữu Đang, người dựng kỳ đài cho ông Hồ đọc Tuyên Ngôn độc lập khá hơn, ông cấu ít sử cho vào trang viết về ngày 2.9.1945:
“Trở về phòng thường trực Ban Tổ chức, tôi yêu cầu Trần Lê Nghĩa, cũng là Phó Ban Tổ chức sửa soạn ngay một chiếc bàn con kiểu trang nhã có kèm theo một khăn phủ bằng nỉ hay lụa màu xanh lá cây và dặn:
“- Ấn, kiếm sẽ để trên bàn ấy kê trước mặt Cụ Hồ.
“Ấn và kiếm này đều bằng vàng là hai bảo vật tượng trưng cho quyền lực của nhà Nguyễn trên nửa phía Nam đất nước rồi trên toàn bộ đất nước. Lưỡi kiếm cũng bằng vàng như vỏ kiếm nhưng dày hơn, chỉ ngắn bằng hai phần ba vỏ kiếm, chỗ bản rộng nhất độ hai phân, vuốt nhọn như lá lúa. Vỏ kiếm chạm nổi tỉ mỉ. Bàn tay thợ điêu luyện đã gửi vào đây tinh hoa lao động mỹ nghệ. Nó đẹp huy hoàng như một nàng công chúa trong truyện cổ tích. Nó được làm từ bao giờ tôi không rõ. Còn ấn, theo một nhà nghiên cứu sử, nó được đúc vào quãng năm 1744, Đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Trên ấn hình vuông (núm to cũng hình vuông) Nguyễn Phúc Khoát cho khắc bốn chữ Hán “Vương quốc chi ấn” có ý nghĩa tuyên ngôn chính trị để tỏ thái độ ly khai, xưng vương, độc lập đối với triều Lê, thực chất là đối với chính quyền lũng đoạn của họ Trịnh, đồng thời cũng là bất chấp việc nhà Thanh chối từ phong vương cho chúa Nguyễn vì vua Lê vẫn còn.” (Hồi ký Nguyễn Hữu Đang).
Chiếc ấn từ Huế về theo những ghi nhận đương nhiên chính xác nhất phải là của Đổng lý ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè là 10 kg vàng ròng, Trần Huy Liệu kể lại chỉ nặng hơn 7kg, đến tay Nguyễn Hữu Đang đã ra mồ hôi, ngót đi còn 5 kg, như luộc rau muống. Ông thuật lại khá vui, 70 năm sau xem lại vẫn còn cười được :
“Đến lượt Trần Huy Liệu báo cáo. Tôi đứng sẵn trên chiếc bàn con để ấn, kiếm. Ông Liệu nói đến chỗ Bảo Đại trân trọng nộp ấn, kiếm, tôi sẽ bấm cánh tay ông để ông tạm ngừng lại. Rồi tôi, tay phải cầm lấy thanh kiếm, tay trái thản nhiên dùng năm đầu ngón tay nhón cái núm chiếc ấn, định cứ thế cùng một lúc giơ cả hai thứ lên cao để đồng bào thấy. Chẳng ngờ thanh kiếm tương đối nhẹ, một tay tôi thừa sức điều khiển, còn chiếc ấn bướng bỉnh cứ ỳ ra, không nhúc nhích – nó nhỏ thôi mà sao nặng quá thế! (sau này tôi mới biết nó nặng trên 5 kilôgam). Tôi vội buông thanh kiếm, dùng cả hai tay lấy hết sức lôi chiếc ấn lên cách mặt bàn độ ba mươi phân, luồn tay phải xuống phía dưới, lựa cho nó nằm trên cùi bàn tay để ngửa rồi cúi mình co cánh tay từ từ nâng thẳng nó lên như lực sĩ cử tạ. Trong khi tay trái với thanh kiếm giơ lên ngang chiếc ấn… Tôi cố đứng vững, hai tay dựng thẳng như thế bốn năm phút liền. Cánh tay nâng chiếc ấn bắt đầu mỏi, buốt và đe dọa sa đà dúi xuống. Tôi đã kịp thời hạ chiếc ấn lừa dối, tai ác xuống cùng với thanh kiếm thật thà, hiền lành thở phào nhẹ nhóm.
“Năm 1992, đọc hồi ký của ông Liệu, tôi mới biết ngày 30/8/1945, trên Ngọ môn, trong động tác trưng ấn, kiếm để đồng bào Huế coi, ông cũng đã chủ quan, bất ngờ và lúng túng, vất vả như tôi, thâm chí hơn tôi: Ông đuối sức đến suýt bị siêu vẹo. Cả hai chúng tôi đều kiệt xác, chưa bao giờ được cầm vàng tới vài đồng cân nên khó lường sức nặng của nó.”
Chữ ông dùng “chiếc ấn lừa dối, tai ác” cùng “thanh kiếm thật thà” không biết có thêm xa xôi gì không. Hữu Đang cũng chỉ vô tình ngó chữ Trần Huy Liệu kể về sự kiện này 47 năm sau. Yêu nhau củ ấu cũng tròn mà gần nửa thế kỷ sau mới đọc những dòng tâm huyết của cựu đồng chí thì kể ra người đời ăn ở với nhau khó biết bụng dạ.
Chiếc kiếm gỉ trong tay Huy Cận ngày 30.8.1945 biến thành một chiếc kiếm vàng trong tay Hữu Đang trong vòng có ba ngày. Mà vàng thì không ai dùng để làm kiếm và vàng cũng chẳng bao giờ rỉ. Ông Trần Huy Liệu trước đó đã nói có trình lên ông Hồ Chí Minh và thường vụ Trung Ương ấn và kiếm lặn lội mang về từ Huế. Họ đã phát hiện ra đây là việc giả mạo và thay vào đó một thanh kiếm khác? Vàng gỉ là vàng giả.
Một chi tiết trong ngày 2.9.1945 cũng được ông Hữu Đang kể lại về ông Hồ Chí Minh khá dí dỏm. Ông Hồ thường được mô tả như là người tinh tế, mưu lược. Ông Lê Giản Tổng giám đốc công an Bắc Bộ lúc đó đã từng kể chuyện ông Hồ Chí Minh khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa Archimedes Patti và Lư Hán để thoát khỏi tay tướng Tưởng Chu Phúc Thành ở Đại bản doanh Bộ tư lệnh quân đoàn 63 tại khu Đồn Thuỷ. Bảo Đại cũng khen Hồ Chí Minh: “Nói thật, tôi thích tư thế của ông (Hồ) hơn những lãnh tụ quốc gia, thật sự chỉ là bù nhìn của bọn Tàu. Trong sự hỗn độn tôi thấy Hồ chí Minh vẫn giữ được trầm tĩnh.”
Pham Cao PhongTriều Nguyễn có hơn 40 chiếc ấn các loại nhưng hiện không được trưng bày đầy đủ
Nguyễn Hữu Đang viết gì: “Trần Huy Liệu báo cáo xong, tôi vẫn đứng cạnh micrô để tiếp tục điều hành buổi lễ. Quay về phía Nguyễn Lương Bằng, đại diện Tổng bộ Việt Minh ngồi ở hàng ghế đầu, tôi sẽ cúi đầu, lùi lại một bước để nhường chỗ, tỏ ý mời ông đến phát biểu ý kiến như đã ghi trong chương trình.
“Bỗng Cụ Hồ đứng phắt dậy, nhanh nhẹn cầm lấy thanh kiếm, thong thả bước tới micrô, rút mạnh lưỡi kiếm ra khỏi vỏ rồi vừa giơ nó lên cao hết tầm tay, vừa thét lớn đến làm rung động không gian quảng trường, chậm rãi dằn từng tiếng:– Thanh kiếm này là để chặt đầu những tên phản quốc.”
Ông Hồ Chí Minh đã nổi giận vì học trò của ông bị qua mặt? Cạnh câu nói “Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?” khác cái cử chỉ, khác cái tông “Thanh kiếm này để chặt đầu những tên phản quốc”, khác lắm.
Vậy chiếc kiếm trưng bày ở bảo tàng Guimet nhiều khả năng là chiếc kiếm ngày 30.8.1945. Kiếm giả là rõ rồi. Nhưng vứt đi thì không dám, mà bầy cũng rởm. Đi mắc núi, về mắc sông. Hệt như chuyện món gân gà Tào Tháo. Nuốt không trôi, dai nhách. Ấn giả, kiếm gỉ ngày thoái vị, góc khuất lịch sử ấy sao mà lớn thế!
70 năm đi qua người Việt trong nước mới được xem hai lần cái gia tài họ giành được triều đại Nguyễn. Họ sẽ phải chờ bao lâu nữa mới được xem đầy đủ 44 cái ấn triều Nguyễn, hy vọng hé thêm những cánh cửa bí mật. Mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa?
Thất nghiệp và nghèo đói làm gia tăng đội ngũ cửu vạn
Cửu vạn đợi hàng để chở – Với mỗi kg hàng kéo thuê thế này họ sẽ được trả hai ngàn đồng.
RFA PHOTO
Nạn buôn lậu không phải mới có; nhưng vấn đề mà chúng tôi muốn nói ở đây là đội ngũ cửu vạn đã gia tăng một cách bất thường bởi nạn thất nghiệp và nghèo đói. Điều này dẫn đến tình trạng cửu vạn liều lĩnh, chấp nhận mọi nguy hiểm để kiếm đủ tiền mua gạo mỗi ngày. Đây cũng là cơ hội để dân buôn lậu hoành hành, chèn ép cửu vạn và chấp nhận mất hàng nếu bị bắt vì lấy số nhiều làm lãi. Có thể nói rằng biên giới Việt – Lào ở Khe Sanh, Hướng Hóa, Quảng Trị là cái ổ buôn lậu lớn hiện nay.
Mất mùa và thất nghiệp
Những trận gió Lào gay gắt cùng lổn ngổn các công trình xây dựng mọc lên từ những đám ruộng đã đẩy người nông dân lùi dần vào thất nghiệp và chán chường. Nếu như các công trình xây dựng, các dự án đã dần cắt nhỏ, thu hẹp đám ruộng của người nông dân thì gió Lào cùng cái nóng như thiêu như đốt, khô hạn đã làm cho người nông dân hoàn toàn tuyệt vọng trên đám ruộng của họ. Họ buộc phải chọn tha phương cầu thực hoặc lây lất giữa quê nhà.
Người được cấp hai sào lận. Bây giờ người ta dồn điền đổi thửa, mình còn ruộng ít hơn. Gió Lào mình cũng ít sợ so với nước lụt, sợ không phơi được lúa. Nhưng gió Lào cũng ghê lắm, gió mà không mang hơi nước, cây cối khô hết…
-Chị Hồ Thị Lùng
Chọn công việc nặng nhọc, nguy hiểm như khuân vác hàng lậu, còn gọi là cửu vạn cũng là một phương cách cứu đói của các nông dân mất ruộng hoặc mất mùa. Đặc biệt là các nông dân, thợ rừng đồng bào thiểu số Vân Kiều, Pa Kô. Chị Hồ Thị Lùng, dân tộc Vân Kiều, hiện trú ở Hướng Nghiệp, Hướng Hóa, chia sẻ: “Người được cấp hai sào lận. Bây giờ người ta dồn điền đổi thửa, mình còn ruộng ít hơn. Gió Lào mình cũng ít sợ so với nước lụt, sợ không phơi được lúa. Nhưng gió Lào cũng ghê lắm, gió mà không mang hơi nước, cây cối khô hết…”
Theo chị Lùng, hiện nay, số lượng người đồng bào thiểu số tham gia làm cửu vạn, bốc hàng thuê cho các chủ buôn lậu tại Khe Sanh, Hướng Hóa có thể lên đến hàng ngàn người. Họ không đồng loạt làm việc mà luân phiên theo thứ tự trong tuần. Bởi quá nhiều cửu vạn nhưng có ít chủ buôn lậu nên các chủ buôn chia làm ba phiên để cửu vạn khỏi bị thiệt thòi.
Nghĩa là trong một tuần có sáu ngày, bỏ ngày đầu tuần vì đây là ngày công an biên phòng và bộ đội biên phòng giao ban, họ sẽ làm việc gắt gao. Những ngày khác, cứ mỗi nhóm được làm việc hai ngày, sau đó đến nhóm khác, ba nhóm chia nhau làm việc trong sáu ngày. Mỗi ngày, nếu bốc vác cật lực người ta sẽ kiếm được từ 150 ngàn đồng đến 200 ngàn đồng. Đối với nông dân nghèo, quen chịu khổ, hai trăm ngàn đồng là một con số mơ ước. Chính vì vậy không ai bỏ qua cơ hội này.
Ngày càng nhiều người dân nơi đây làm cửu vạn thồ hàng lậu vì mất mùa dẫn đến đói, nghèo. RFA PHOTO.
Như vậy, nếu chia đều trong một tháng, mỗi cửu vạn sẽ kiếm được một triệu sáu trăm ngàn đồng nếu siêng làm việc và mọi chuyện suông sẻ. Thời gian còn lại, người ta sẽ đi hái măng rừng hoặc kiếm củi rừng để bán thêm. Tính ra thu nhập cao hơn rất nhiều so với việc bám đám ruộng khô cằn mà không biết cuối mùa sẽ ra sao.
Trường hợp không may mắn, nếu như bị bắt hàng, mất hàng do bỏ chạy, chủ hàng sẽ trừ tiền để đền hàng, thường thì chủ hàng chịu 50% và cửu vạn chịu 50% giá trị gùi hàng. Nếu mất hàng, có khi tiền khuân vác cả tháng chỉ đủ để bù vào gùi hàng. Chính vì vậy mà bằng mọi giá, cửu vạn phải băng rừng, luồn lách để mang hàng về đúng điểm tập kết. Bởi mỗi ký lô hàng khuân vác chỉ được trả từ hai ngàn đồng đến ba ngàn đồng. Trung bình, một người siêng năng, khỏe mạnh, mỗi ngày phải gùi đủ một trăm ký lô hàng lậu băng rừng về đến điểm tập kết thì kiếm được hai trăm ngàn đồng.
Với một phụ nữ quen làm việc trong rừng, quen vác củi và chịu đựng mưa nắng, chị Lùng nói rằng mỗi lần gùi, chị có thể gùi được từ bốn chục đến năm chục ký lô hàng. Thường là hàng điện tử hoặc các loại nhu yếu phẩm, nếu là thuốc lá thì không thể gùi được khối lượng như vậy vì hàng nhẹ, kềnh càng, mỗi lần gùi có thể hai chục hoặc ba chục ký lô. Nhưng bù vào, hàng thuốc lá lậu được trả đến bốn ngàn đồng trên mỗi ký nên dân cửu vạn rất ưa được khuân vác thuốc lá.
Khối lượng hàng lậu khổng lồ
Một cửu vạn khác tên Hồ Văn Tính, người dân tộc Pa kô, chia sẻ thêm: “Gió Lào thì từ tháng tháng Ba đến tháng Sáu, nó làm khô hết ruộng nương, rừng rẫy. Bữa nay bắt đầu mùa mưa rồi đây. Năm nay thì mưa cũng mưa bình thường chứ chưa mưa lụt to như mấy năm đâu, bởi mùa mưa mới bắt đầu…”
Gió Lào thì từ tháng tháng Ba đến tháng Sáu, nó làm khô hết ruộng nương, rừng rẫy. Bữa nay bắt đầu mùa mưa rồi đây. Năm nay thì mưa cũng mưa bình thường chứ chưa mưa lụt to như mấy năm đâu, bởi mùa mưa mới bắt đầu…
-Ông Hồ Văn Tính
Theo ông Tính, nếu tính khối lượng hàng hóa mỗi ngày tuồn qua đường rừng, xuyên về Việt Nam có thể lên đến hàng chục tấn, thậm chí vài chục tấn. Bởi lấy số lượng cửu vạn nhân với số lượng hàng hóa của anh ta/chị ta khuân vác được thì sẽ biết ngay lượng hàng lậu đi vào Việt Nam mỗi ngày.
Ông Tĩnh cho biết thêm là hàng hóa tuy từ bên Lào tuồn sang Việt Nam nhưng lại có gốc gác Trung Quốc là chủ yếu. Hầu hết hàng hóa Trung Quốc sản xuất tại một số điểm bí mật ở các vùng thôn quê tại Lào đều được đưa sang Việt Nam theo cửa khẩu Quảng Trị. Nghĩa là không như trước đây, hàng hóa Trung Quốc sản xuất tại Trung Quốc. Hiện tại, một số đầu nậu, nhà sản xuất hàng lậu của Trung Quốc sang Lào thuê mặt bằng, thuê nhân công để sản xuất một số mặt hàng như trứng gà, vỏ lốp xe, bàn ủi, linh kiện điện tử và đặc biệt là đồ chơi trẻ em.
Trong dịp Tết Trung Thu này thì người ta sản xuất bánh Trung Thu và đồ chơi trẻ em nhiều nhất. Ngày nào cửu vạn cũng chuyển sang Việt Nam từ vài tấn đến hàng chục tấn bánh Trung Thu do các chủ người Trung Quốc sản xuất tại đất Lào. Và số lượng đồ chơi trẻ em được chuyển sang Việt Nam thì nhiều vô kể, không thể kiểm soát được.
Theo ông Tính, hầu hết hàng hóa Trung Quốc không có nhãn mác, không có xuất xứ rõ ràng đều có địa điểm sản xuất tại đất Lào, khác xa với người ta tưởng là Trung Quốc sản xuất các loại hàng này tại Trung Quốc. Đương nhiên không loại trừ số lượng hàng hóa khổng lồ từ Trung Quốc cũng không có nhãn mác tuồn sang Việt Nam. Nhưng hiện tại, có vẻ như hàng hóa Trung Quốc sản xuất trên đất Lào, không có nhãn mác chảy sang Việt Nam theo đường hàng lậu đang phát triển cao, khó mà kiểm soát được số lượng cũng như mức độ nguy hiểm của nó.
Và cũng theo ông Tính, hầu hết nông dân nghèo khổ ở các huyện trong tỉnh Quảng Trị đều đổ xô về Hướng Hóa để làm cửu vạn chứ không riêng gì các nông dân của các tộc người thiểu số hoặc các nông dân bị mất đất mới tham gia công việc này mà hầu hết những người có thu nhập thấp đều tìm đến làm cửu vạn. Bởi nghề khuân vác, cửu vạn như một lối thoát của nạn thất nghiệp, mất đất và mất mùa tại đây. Cái nghèo đã đưa chân người nông dân đến với công việc này!
Những người dân oan có mặt tại Hà Nội bắt đầu xuống đường diễu hành biểu tình lớn, kéo vào trung tâm TP Hà Nội với sự tham gia của gần 1000 người phản đối bản án của bà Cấn Thị Thêu.(tháng 11, 2014). File photo Chính quyền Hà Nội luôn cho rằng xã hội Việt Nam hiện đang rất ổn định, đặc biệt mỗi khi xảy ra những bất ổn ở những nước trong khu vực như đánh bom, biểu tình quần chúng…
Thực chất có đúng thế không hay đang có rất nhiều mầm mống bất ổn trong nước?
Những vụ ‘chém giết’
Vào mấy tháng gần đây truyền thông trong nước loan tin một số vụ thảm sát được mô tà là ‘kinh hoàng’ như vụ giết chết 6 người trong một gia đình tại Bình Phước; rồi vụ cả 4 người trong một nhà bị giết giữa rừng ở Nghệ An, chuyện thảm sát ở Khe Sanh, Quảng Trị; rồi ở huyện Chư Prong tỉnh Gia Lai mới hôm ngày 23 tháng 8, hung thủ dùng dao chém chết 4 người và làm bị thương 3 người…
Dân tiếp tục kêu oan
Hiện nay tại Hà Nội nhiều người dân từ các địa phương khắp nơi trên cả nước thường xuyên tập trung với những biểu ngữ kêu oan về những hành xử của chính quyền địa phương đối với họ trong nhiều năm qua.
Một cựu tù nhân bị bắt và bỏ tù khi quay lại cảnh cưỡng chế trái luật của cơ quan chức năng, bà Cấn Thị Thêu, cho biết lý do vì sao họ phải liên tục đến các cơ quan công quyền trung ương tại Hà Nội để khiếu kiện:
“ Họ cướp hết đất của chúng tôi, chúng tôi đi kiếu kiện 7 năm trời theo đúng chính sách, pháp luật của nhà nước; nhưng họ cứ ‘dưới đùn lên, trên đùn xuống’ không giải quyết cho chúng tôi. Chúng tôi không còn cách nào nữa: đòi một ngày không được, chúng tôi phải đòi hai ngày, 1 tháng không được, phải đòi 2 tháng… Chúng tôi sẽ tiếp tục đi đòi cho đến khi nào họ trả lại quyền lợi cho chúng tôi, chúng tôi mới dừng đấu tranh.
Họ cướp hết đất của chúng tôi, chúng tôi đi kiếu kiện 7 năm trời theo đúng chính sách, pháp luật của nhà nước; nhưng họ cứ ‘dưới đùn lên, trên đùn xuống’ không giải quyết cho chúng tôi
bà Cấn Thị Thêu
Chúng tôi nghĩ họ thể hiện bản chất ăn cướp của họ: cướp hết đất của chúng tôi, đẩy chúng tôi vào cảnh nghèo đói, cùng quẩn; này họ cho rằng chúng tôi đi như thế là mất cảnh quan đô thị, mất vệ sinh. Điều đó theo tôi cho thấy họ không suy nghĩ gì đến người dân chúng tôi cả, họ chĩ lo vơ vét cho đầy túi tham của họ, bỏ mặc người dân sống đói nghèo, lay lắt! Đó là điều mà chúng tôi căm thù, lên án họ.
Chúng tôi mong muốn những bà con trong và ngoài nước cùng chúng tôi lên án những hành vi, hành động phi pháp của nhà nước Việt Nam gây ra tội ác, đẩy chúng tôi đến cảnh phải khổ thế này: bị tù oan sai, bị đánh đập, bị mất hết tư liệu sản xuất. Chúng tôi mong muốn tất cả bà con giúp đỡ nhân dân chúng tôi.”
Nhiều lần cơ quan chức năng các địa phương đã đến tại thủ đô đưa người dân về lại quê quán của họ. Cơ quan chức năng cho rằng người dân đi khiếu kiện là gây mất vẻ mỹ quan của thành phố, gây bất ổn xã hội. Tuy nhiên ngày càng có nhiều người vì bị đối xử bất công, vụ việc của họ không được giải quyết theo đúng pháp luật của chính quyền Hà Nội đưa ra nên họ cho rằng chính hành xử của cơ quan công quyền mới là nguyên nhân dẫn đến những bất ổn trong xã hội.
Người dân biểu tình phản đối Trung Quốc lấn chiếm lãnh hải cũng bị đánh đập bắt bớ
Nhận định thực tế
Ông Vũ Văn Luân, tổng thư ký Liên chi hội Nuôi trồng thủy sàn Nước lợ huyện Tiên Lãng, người được cựu tù nhân Đoàn Văn Vươn ủy quyền đứng đơn một số vụ kiện khi ông này đang ở trong tù, đưa ra nhận định về nguyên nhân dẫn đến những bất ổn tại Việt Nam như sau:
“Theo như Mác nói, một xã hội phát triển phải có những yếu tố: dân chủ và phân chia quyền lực. Dân chủ để phản biện và phân chia quyền lực để giám sát. Nhưng xã hội Việt Nam không học theo Mác nên sự độc quyền cực lớn: độc quyền nhà nước và tham nhũng. Việt Nam đang rơi vào 2 cái ‘bẫy’ này.
Tôi khẳng định nếu không có báo chí tư nhân thì không có tiếng nói phản biện của người dân trong xã hội này. Nếu không có tiếng nói phản biện thì không thể nào tìm được một hình ảnh và một gương lãnh đạo tốt cho xã hội.”
Còn theo cựu tù nhân lương tâm, mục sư Nguyễn Trung Tôn ở Thanh Hóa, thì sự ổn định hiện nay ở Việt Nam chỉ là giả tạo:
Khi nói đến bất ổn xã hội có thể bằng cách đánh giá này, đánh giá kia; nó không chỉ thể hiện trên bề nổi mà có thể là những tảng băng ngầm, như những khối ung thư tiềm ẩn trong lòng xã hội
mục sư Nguyễn Trung Tôn
“ Khi nói đến bất ổn xã hội có thể bằng cách đánh giá này, đánh giá kia; nó không chỉ thể hiện trên bề nổi mà có thể là những tảng băng ngầm, như những khối ung thư tiềm ẩn trong lòng xã hội. Ví dụ như khi người dân đến ủy ban nhân dân xã, công an xã để làm việc, trong tâm thức, suy nghĩ của họ luôn ẩn chứa sự sợ hãi vì công quyền Việt Nam nhiều khi làm việc không căn cứ trên cơ sở pháp luật. Vừa dùng luật pháp vừa dùng luật rừng; khi nào không dùng được luật pháp, họ sử dụng đầu gấu, luật rừng để ép người dân phải đồng thuận, chấp nhận vào một số điều họ không đồng ý.
Đó là sự bất ổn xã hội trầm trọng, nó như một khối ung thư, một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm và có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Không phải là nổ bom chỗ này, bắn giết người chỗ kia mà cho là bất ổn mà khi ý thức của người dân đầy đủ thì họ khắc phục được những hậu quả đó, xã hội vẫn phát triển và người dân vẫn bảo đảm được những quyền lợi chính đáng của họ.
Còn ở Việt Nam, tuy rằng họ dùng tất cả mọi biện pháp để trấn áp không để những vụ việc xảy ra trên mặt bề nổi, nhưng lại âm thầm cho phép sự ra tay của xã hội đen làm cho bất ổn xảy ra âm thầm, ngấm ngầm và triệt tiêu đi tinh thần, ý chí của người dân; làm cho người dân trở nên những người luôn mang trong mình sự sợ hãi. Thậm chí triệt tiêu đi ý thức tranh đấu làm cho người ta trở nên nhu nhược.
Đó là sự bất ổn có thể giết chết cả một thế hệ, một dân tộc trong tương lai.”
Một người từ Quảng Nam, mục sư Lưu Văn Kiều, cũng có nhận định về tình hình hiện nay ở Việt Nam:
“ Thực ra đây là sự im lặng trước cơn bão. Khi gặp những người nông dân ‘dốt chữ’ mới nghe họ nói, nghe họ phản ứng như thế nào về chính quyền, về đảng cộng sản, về cuộc sống hiện tại thì mới thấu được tình hình. Nên như tôi nói đây là sự yên lặng trước cơn bão. Chắc chắn sẽ bùng phát. Đã là một lò thuốc súng rồi thì vấn đề chỉ cần có một ngòi nổ. Theo tôi nghĩ phải có một phong trào, bắt đầu từ tự phát. Sự tự phát không làm được gì nhưng nó khích lệ tinh thần của một số con người, một số sự kiện mà khi có sự kiện xãy ra rồi thì với ‘điểm nóng’ đó vô tình những sự kiện trước đó khích lệ cho họ và sẽ có một ngòi nổ lớn.”
Nhiều người trong nước thừa nhận họ rất bất an trong tình hình hiện nay. Tất cả mọi thành phần đều là đối tượng của những mối đe dọa hiện diện tại nhiều nơi; trong khi đó chính quyền luôn nhắc rằng ‘đa nguyên, đa đảng’ và dân chủ như những quốc gia khác là ‘quá trớn’; như thế sẽ dẫn đến những vụ đánh bom, phá hoại chứ không ‘bình lặng’ như ở Việt Nam.
Ông Trương Tấn Sang kêu gọi xây dựng một quân đội vững mạnh để bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ Việt Nam – Reuters
Trong bài diễn văn nhân ngày lễ Quốc khánh 02/09/2015, chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu gọi cảnh giác về những mối « đe dọa » hiện nay đối với toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, gián tiếp nói đến Trung Quốc.
Trong bài diễn văn đọc tại Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội, sáng nay, kỷ niệm 70 năm Quốc khánh Việt Nam, ông Trương Tấn Sang đã nhấn mạnh đến « những tranh chấp chủ quyền biển, đảo ngày càng gia tăng trên biển Đông », ám chỉ đến tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam với Trung Quốc ở vùng biển này.
Theo ông Trương Tấn Sang, những tranh chấp đó « đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta ».
Trong bài diễn văn này, chủ tịch nước của Việt Nam còn kêu gọi xây dựng một quân đội vững mạnh để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ông Trương Tấn Sang cũng không quên lên án những người mà ông gọi là « các lực lượng thù địch » vẫn chống phá chế độ và « xóa bỏ các thành quả cách mạng ».
Tuy vậy, chủ tịch nước của Việt Nam thừa nhận rằng nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang « làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ».
Ông Trương Tấn Sang đọc bài diễn văn nói trên trước khi diễn ra cuộc diễu binh, diễu hành mừng Quốc khánh, với sự tham gia của hơn 30.000 người, thuộc lực lượng công an, quân đội, các đoàn thể, các sắc tộc thiểu số ….. Nhưng trong cuộc diễu binh, Việt Nam không phô bày những thiết bị quân sự nào như xe tăng, đại pháo, tên lửa ……
Nhân ngày Quốc khánh năm nay, chính quyền Hà Nội đã trả tự do cho khoảng 18.500 phạm nhân, thế nhưng trong số này không có một tù chính trị nào.
Thật chẳng ngoa khi mô tả thế giới cộng sản đều là những “trại súc vật” hay trại giam khổng lồ nhưng có cái cổng tiếp đón, cái phòng tiếp tân rất huy hoàng lộng lẫy. Bước vào cổng đã như thấy bày ra trước mắt viễn cảnh một chân trời tự do hạnh phúc đầy hứa hẹn, nhưng chỉ cần anh nào tưởng bở mà lỡ bước chân vào là “ban quản giáo” sẽ có người ra tiếp đón ngay, nắm nhẹ cánh tay âu yếm dắt anh vào sâu hơn. Đến lúc anh nhận biết là mình đang đi vào “trại” và muốn quay ra thì đã muộn rồi. Đường tới “Thiên đường ảo vọng” này là con đường độc đạo, một chiều, có cưỡng bức, mà là cưỡng bức tuyệt đối, bước chân đi là cấm kỳ trở lại.Muốn quay ra, dù chỉ quay ra phía cái cổng chào đón lúc mới vào, cái cổng 1945 với hình ảnh “Cha già 55 tuổi” đọc lời tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ, có tiếng nhạc Tiến quân ca và Diệt phát xít… cũng đâu có dễ dàng? Dù anh có khôn ngoan mượn cớ “đi toilette” để tìm đường tẩu thoát thì cũng không thoát khỏi con mắt quản lý rất nhà nghề và cái bàn tay định hướng bằng sắt bọc nhung, vừa biết tàng hình, chơi trò ú tim, thoắt là thầy tu thoắt thành du đãng. Một nghệ thuật “cướp” tài tình như vậy thật xứng danh “lục lâm vạn thế sư biểu”. Bọn cướp khắp thế gian xưa nay cứ bị trừng trị vì chúng còn ngu, không biết rằng: Muốn cướp thật lớn thì trước hết phải “cướp” được chính quyền và mị được dân, muốn mị được dân thì phải có một lý thuyết bánh vẽ thật hoàn chỉnh. Có những bửu bối ấy rồi lo gì không thắng?
Nhưng “cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra”, thật thà mới là cha quỷ quái! Những ngày đầu tháng 9 này, con ngáo ộp mang tên “Quốc khánh” được hiện ra với hai bộ mặt khác nhau đến kịch liệt. Một bộ mặt “Quốc khánh” hiện ra trên các chương trình VTV “lề đảng” với những thước phim hồi ức của thời khắc 1945 là rất hào hùng và những màn ca múa mừng ngày kỷ niệm tràn đầy hớn hở và tính biết ơn. Một chân dung khác của “Quốc khánh” hiện ra trên các trang báo “lề dân”, thì hiện nguyên hình một kịch bản đánh tráo rồi phản bội, mở đầu cả một thời kỳ lầm lạc đau buồn cho Dân tộc Việt Nam, nay đang phải gắng hết sức bình sinh cũng chưa thoát được ra. Vậy “Quốc khánh” ấy thực ra là Quốc hận! (*)
“Hận” vì những gì mà “CMT8 và Quốc khánh 2-9” đem lại cho dân cho nước chẳng những là số không mà còn là số âm, kết quả âm mà phải trả giá quá đắt bằng cả máu xương và làm bại hoại ly tán cả dân tộc. Về Độc lập thì từ Chính phủ Trần Trọng Kim đã có độc lập rồi, mà dù có còn thuộc Pháp chăng nữa thì sau này cũng sẽ độc lập, và có thuộc Pháp thì cũng còn khá hơn rất nhiều so với làm chư hầu của kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa thâm hiểm và gian ác như hiện nay. Về Dân chủ tự do thì bất kỳ một thể chế nào cũng tốt hơn chế độ CS, dủ là chế độ Trần Trọng Kim, Bảo Đại hay Ngô Đình Diệm… dù còn non kém thì cũng là một thể chế mở, có non kém thì theo thế giới cũng khá dần lên như gương các nước xung quanh. Còn thể chế CS là một thể chế đóng khung trong khuôn ý thức hệ CS, thiết kế ngai vàng vững chắc để những cái “đểu cáng lên ngôi”, có những hàng rào giới hạn mang tính bản chất không thể vượt qua.
Trong bài “ Một chủ nghĩa sai lầm và những quốc hận” tôi đã trích những lời trao đổi của trí thức trong nước hiện nay, cho thấy bây giờ dân ta đang “một cổ hai tròng” rất khó gỡ ra, và hai cái tròng đó đã quàng vào cổ dân tộc Việt Nam ngay từ ngày 2 tháng 9 năm 45 và nó ngày càng xiết lại. Chuyện lạ đời là dân bị mất nước trước hết vào tay người trong nước là nạn nội xâm, dân mất đất và mất tự do bị lưu vong ngay trên đất nước mình, còn đội ngũ cầm quyền thì cai trị dân mình theo cung cách một đội quân viễn chinh, như một đội quân chiếm đóng vậy. Hỏi không “hận” sao được?
Mặc cho “bộ máy quản giáo của nhà tù lớn” này có tô vẽ “ngày Tuyên ngôn Độc lập 2 tháng 9” là thành quả vĩ đại thì nó chỉ đem lại lợi ích vĩ đại cho bộ máy quản giáo ấy (gồm mười mấy ông bà vua tập thể và các tổ chức ăn theo, gồm những ai chỉ biết còn đảng còn mình, những ai biết nương theo quyền lực và những kẽ hở của nó để làm giàu…), còn tuyệt đại dân chúng thì chỉ ước gì đi ngược thời gian về năm 1945 để làm cho cái gọi là thành quả “vĩ đại” ấy đừng xảy ra thì hơn, để dân tộc Việt Nam được thảnh thơi tiến bước kịp bạn bè, không bị vướng một thứ vòng Kim- Cô nào hết! Khi ông TBT Nguyễn Phú Trọng sang Tàu, họ cho gặp anh hề Lục Tiểu Linh Đồng đóng vai Ngộ Không là nhắc khéo cái vòng Kim-Cô vẫn trên đầu ông đó.
Ông cha ta vẫn dạy “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Mặc cho những người thu được chiến quả khổng lồ cứ tung hô chiến thắng là lẽ đương nhiên, còn nhân dân Việt Nam vừa thấm đau và thấm nhục một cuộc chiến bại, đại chiến bại, thì xin thưa với tổ tiên, lũ chúng con đây ngàn đời cũng chẳng dám quên.
Công an đã hỏi TS Nguyễn Quang A những gì tại sân bay Nội Bài?
TS Nguyễn Quang A được gia đình và bạn bè chào đón sau hơn nửa ngày bị công an sân bay Nội Bài cầm giữ và xét hỏi. Courtesy of NguyenLanThang’s Facebook
Chiều ngày 1 tháng 9 TS Nguyễn Quang A bị tạm giữ tại phi trường Nội Bài Hà Nội sau chuyến đi thăm nhiều nơi trên đất Mỹ. Ông bị giữ hơn 12 giờ đồng hồ để điều tra về những gì mà công an cho rằng đã quan hệ với những nhân vật chống phá nhà nước tại hải ngoại.
Ai tổ chức để đi những đâu?
Mặc Lâm có cuộc phỏng vấn ngắn với ông để tìm hiểu nội dung mà công an đưa ra cũng như những phản ứng của ông, một nhà hoạt động cho xã hội dân sự hàng đầu của Việt Nam hiện nay. Trước tiên ông cho biết:
Tiến sĩ Nguyễn Quang A: Thật sự là họ mời tôi đến đồn công an của sân bay Nội Bài. Chỗ mà họ đưa tôi đến không phải là đồn công an mà là phòng cách ly của nhà ga T2. Trên giấy mời thì họ ghi là có một ông thiếu tá tên Khôi nhưng trong phòng ấy thì có thêm hai người nữa mặc sắc phục và hai người mặc thường phục. Hai người mặc thường phục không nói năng gì cả trừ ở đoạn cuối. Hai người mặc sắc phục nói năng, hỏi han rất là lễ phép và tử tế. Một người chuyên lo ở chỗ máy tính.
Mặc Lâm:Vâng, thưa Tiến sĩ, theo như ông có ghi lại trên Facebook của mình là họ rất quan tâm đến việc Tiến sĩ đã ghé thăm đài Á châu Tự do cũng như các nơi khác. Tiến sĩ có thể cho biết là những câu hỏi họ đặt ra cho ông như thế nào hay không vì tất cả mọi chuyện đều công khai hết. Vậy họ hỏi về điều gì?
Tiến sĩ Nguyễn Quang A: Vâng, họ hỏi tôi đi sang Hoa Kỳ, ở San Jose gặp gỡ những người họ nêu tên lên như là Trịnh Hội, anh Công rồi giáo sư Đoàn Viết Hoạt, kể cả anh Khanh bên đài RFA của anh nữa. Họ nói đó là những người đã được nhà nước coi là các thế lực phản động, chống đối Việt Nam. Họ bảo là đi tiếp xúc như thế thì quan hệ của tôi với các nhân vật đó là như thế nào. Họ hỏi là ai tổ chức để đi những đâu… Họ đặt vấn đề như thế với giọng bình thường thôi, không có gì nghiêm trọng cả.
Tôi bảo không trả lời gì cả vì việc bắt giữ tôi trên danh nghĩa là mời như thế này là chuyện tôi hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Câu hỏi của họ cũng như cách đặt vấn đề của họ khi nói đây là những người chống đối Việt Nam, đã được bộ Công an, báo chí của bộ nêu như thế. Tôi bảo ý kiến hay là nhận xét, đánh giá của bộ là chuyện của bộ. Với tôi, tôi không quan tâm đến việc đánh giá của các anh.
Mặc Lâm:Thưa Tiến sĩ, trong chuyến đi thăm các nước và gặp gỡ nhiều nhân vật ở nước ngoài như vậy thì Tiến sĩ có nghĩ rằng nó mở cho Tiến sĩ một cái nhìn khác về vấn đề tự do dân chủ cũng như xã hội dân sự mà Tiến sĩ đã rất cổ vũ trong rất nhiều năm qua không, thưa ông?
Tiến sĩ Nguyễn Quang A: Chắc chắn, bởi vì khi tôi tiếp xúc với rất là nhiều người ở trong các lĩnh vực khác nhau ở các nước thì tôi thấy việc những người theo những chí hướng khác nhau, theo những tổ chức khác nhau, họ hoạt động hết sức là bình thường; Còn rất đáng tiếc là ở Việt Nam này thì bất kể người nào, tổ chức nào mà hoạt động không theo đúng cái cách mà đảng Cộng sản Việt Nam họ muốn thì đều bị coi là thế lực thù địch cả. Đấy là cách suy nghĩ hết sức ấu trĩ, sai lầm.
Việc của tôi đơn giản cũng chỉ là giúp cho họ bớt cái sai lầm đấy, hiểu các hoạt động cho nó đúng. Trong một xã hội có rất là nhiều người khác nhau, có nhiều tổ chức khác nhau và các tổ chức đấy có thể theo đuổi những mục tiêu khác nhau, thậm chí là những mục tiêu đối lập. Tuy nhiên, cái cách mà họ giải quyết các mối xung đột đấy đều theo cách dân chủ chứ không phải là bằng cách lên án nhau là kẻ thù như ở Việt Nam.
Mặc Lâm:Xin được hỏi Tiến sĩ một câu hỏi cuối: Trước khi Tiến sĩ được thả ra thì họ có bắt Tiến sĩ cam kết một điều gì đó hoặc là phải ký những văn bản nào hay không, thưa ông?
Tiến sĩ Nguyễn Quang A: Ngay từ đầu tôi đã nói rằng hành động của họ là bất hợp pháp và tôi không trả lời câu hỏi của họ cũng như không ký bất cứ một cái gì. Họ muốn làm một cái biên bản, tôi cũng không được ngó cái biên bản đấy nhưng mà tôi nói ở đoạn cuối “ Các anh thích làm biên bản gì thì các anh ký với nhau và đó là chuyện của các anh. Tôi không cần phải xem, tôi không cần phải đọc và tôi cũng không bao giờ ký cả. Thật sự thì tôi không có cam kết cái gì và ký cái gì cả.
Ông Đoàn Văn Vươn, người vừa được đặc xá nhân dịp 2/9 năm nay sau thời gian hơn 3 năm, bảy tháng bị tù giam trong vụ án chống lại cưỡng chế đất ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng năm 2012, nói ông ‘vô tội’ và ‘sẽ vẫn hành động như trước’ nếu một lần nữa bị ‘dồn vào thế cùng.’
Trao đổi với BBC hôm 01/9/2015, sau khi nhận quyết định ‘ân xá’ của Chủ tịch nước Việt Nam, ông Vươn nói “tôi buộc phải đứng dậy” và cho rằng “việc làm của tôi là việc làm cần thiết”.
Ông Vươn (trái, trong hình) cho hay ông đã bị cáo buộc tội ‘âm mưu giết người’ và luôn khẳng định mình vô tội.
Ông nói: “Tôi hoàn toàn không đồng tình cái việc này”.
‘Vẫn làm như vậy’
Người đã đối đầu với các quan chức địa phương ở huyện Tiên Lãng và gây ra một ‘vụ xôn xao’ vô tiền khoáng hậu vài năm về trước, buộc nhiều quan chức chính quyền địa phương ở Hải Phòng bị ra tòa, cách chức, thuyển chuyển công tác do các ‘sai phạm’ cho hay ông sẽ tiếp tục kiện pháp lý để đòi bồi thường.
Ông Vươn nói: “Tôi hoàn toàn không đồng tình và tôi đã ủy quyền cho người của tôi làm đơn giám đốc thẩm về vụ án hành chính.”
Khi được hỏi liệu ông có phải là vô tội hay không và nếu vậy thì nhà nước phải ‘thả ông vô điều kiện’, hơn là ‘đặc xá, ân xá’ với ông và người em trai là ông Đoàn Xuân Quý, ông Vươn nói:
“Đúng ra là như thế, đúng ra là phải thả tôi ra ở ngay thời gian tạm giam tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.”
Đôla Mỹ và đồng nhân dân tệ của Trung Quốc.Photo: RFA
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ năm 2001, Trung Quốc liên tục đạt xuất siêu và tích lũy một khối dự trữ ngoại tệ cao nhất thế giới vì tương đương với bốn ngàn tỷ Mỹ kim. Khi kinh tế hụt hơi thì khối dự trữ đó có thể là một loại quỹ chiến tranh để Bắc Kinh đối phó với thách đố của tình hình không? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện này qua phần trao đổi của Nguyên Lam với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do.
Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, từ vài ngày qua, nhiều nguồn tin quốc tế báo tin là lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu bán Công khố phiếu Hoa Kỳ trong kho dự trữ ngoại tệ để có thanh khoản ứng phó với nhiều khó khăn tài chính trước mặt. Động thái ấy gây quan ngại cho thị trường Hoa Kỳ vì có thể làm sụt giá trái phiếu và tăng phân lời hay lãi suất tại Mỹ. Trước khi tìm hiểu về hậu quả của biện pháp này, chúng ta sẽ vào cái gốc của hồ sơ ngoại hối của Bắc Kinh, là kho dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc. Xin đề nghị ông lần lượt trình bày cho bối cảnh của vấn đề.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Sau khi được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001, Trung Quốc mở rộng việc buôn bán với thế giới bên ngoài và đạt mức xuất siêu rất cao, là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Nhờ số xuất siêu và chế độ kiểm soát ngoại hối, là can thiệp vào việc mua bán ngoại tệ với tỷ giá thấp của đồng nội tệ là đồng Nguyên, Trung Quốc tích lũy được một khối dự trữ ngoại tệ rất cao, có lúc được ước lượng là lên tới gần bốn ngàn tỷ.
– Chúng ta không quên là vào giai đoạn ấy, các nước Đông Á vừa bị vụ khủng hoảng tài chính biến thái thành khủng hoảng kinh tế nên xứ nào cũng có phản ứng tích lũy một khối ngoại tệ thật cao. Trung Quốc cũng vậy, mà dùng chính sách ngoại hối là hối suất thấp của đồng Nguyên để đông lạnh số tiền chảy vào kinh tế nhờ xuất khẩu nên mới có lượng dự trữ thuộc loại cao nhất.
– Với nhiều người thì đấy là một kho đạn hay một “quỹ chiến tranh” có thể giúp xứ này đối phó với dao động của thị trường và còn tác động vào quan hệ kinh tế với các nước khác theo chiều hướng có lợi cho mình. Thật ra tình hình đã đổi khác từ vài năm nay nên kho đạn ấy sắp cạn!
Nguyên Lam: Như mọi khi, ông khởi sự với một kết luận gây chú ý là kho đạn của Bắc Kinh đang cạn trong khi thế giới lại sợ rằng một chủ nợ của nước Mỹ đang bán tài sản làm kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, chúng ta tìm hiểu tiếp xem Trung Quốc đã làm gì với kho dự trữ ấy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Nói chung, khi có một lượng tài sản trong tay, người ta không cất vào kho vì tài sản ấy có thể mất giá, mà nên đem đầu tư ra ngoài. Nhưng khi đầu tư thì cũng phải tính rằng đầu tư vào đâu thì có lời mà vẫn có thể kịp thời đổi ra tiền mặt cho an toàn. Vì vậy, có hai tiêu chuẩn quyết định cho việc sử dụng khối dự trữ ngoại tệ ấy, là đầu tư có lời mà an toàn.
– Theo hai tiêu chuẩn ấy, Trung Quốc đầu tư vào thị trường trái phiếu Hoa Kỳ, tức là cho nước Mỹ vay tiền bằng cách mua Công khố phiếu Mỹ. Lý do ở đây là thứ nhất, thị trường trái phiếu Hoa Kỳ có đặc tính sâu rộng nhất, lớn hơn tổng số của năm nước đi sau; và thứ hai, có mức lưu hoạt cao nhất, nghĩa là dễ đổi ra tiền mặt đem về cho an toàn mà ít bị mất giá. Thí dụ cho đơn giản là trên thị trường Mỹ, nếu có đem vào hay rút ra cả trăm tỷ thì cũng không gây dao động mạnh như với thị trường Nhật, Euro hay thị trường Anh, hoặc đồng Phật lăng Thụy Sĩ. Vì vậy, Bắc Kinh mới “chọn mặt gửi vàng”, bằng cách gửi tiền cho Mỹ vay.
– Huống hồ việc đó còn có lợi về ngoại thương cho Bắc Kinh là nhờ tiền nhiều và rẻ, thị trường Mỹ càng nhập khẩu hàng hóa và tạo ra việc làm cho nhân công Trung Quốc. Vì vậy, cùng với đà xuất siêu, Trung Quốc trở thành chủ nợ lớn nhất của Hoa Kỳ, với tài sản Mỹ trị giá khỏang một ngàn bốn trăm tỷ đô la qua nhiều ngả đầu tư khác nhau.
Nguyên Lam: Có lẽ thính giả của chúng ta đang hiểu ra điều ông đã trình bày kỳ trước là một thế “phân công lao động” kỳ lạ, là Trung Quốc cho Mỹ vay tiền để dễ mua hàng của Trung Quốc và đôi bên đều có lọi trong thế hợp tác này. Có phải là như vậy không, thưa ông?
Hồi tháng 8 vừa qua Trung quốc đã cho phá giá đồng nhân dân tệ tới gần 2%
Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Thưa đúng vậy, nhưng ở đây ta nên chú ý đến hai mặt ấn tượng và thực tế hay hiện tượng và bản chất.
– Về hiện tượng thì Trung Quốc được tiếng là chủ nợ số một của Mỹ, tức là có thể chi phối kinh tế và cả chính trị Hoa Kỳ. Khi ấy, đã có người ví von với ngụ ngôn rằng Tầu là con kiến chắt bóp để nuôi con ve sầu Mỹ cứ ve ve suốt mùa Hè! Nhưng về thực chất thì như ta nói kỳ trước, họ giàng số phận kinh tế vào sức tiêu thụ của thị trường Mỹ, của người dân Mỹ. Sự thật thì Trung Quốc quá lệ thuộc vào xuất khẩu mà thị trường Mỹ lại chỉ nhập khẩu có 12% nhu cầu tiêu thụ. Hậu quả là Bắc Kinh được tiếng là chủ nợ số một của Mỹ mà cái miếng hay thực lực lại là túi bạc của dân Mỹ. Kể từ năm 2008, khi dân Mỹ tiêu xài ít và nhập khẩu ít hơn là Trung Quốc bắt đầu lâm nạn.
– Tôi phải nhắc lại và nhấn mạnh đến quan hệ ấy vì nhiều người có cảm quan sai, kể cả vài chính trị gia ồn ào của Hoa Kỳ, rằng Bắc Kinh có ý đồ lũng đoạn kinh tế Mỹ qua chính sách ngoại hối với đồng bạc rẻ để thành chủ nợ của Hoa Kỳ. Thực chất ở đây lại khác. Dù Bắc Kinh có ý thao túng đi nữa thì khách nợ số một là Mỹ mới nắm dao đằng chuôi với khoản tài sản rất lớn do Bắc Kinh gửi sang Mỹ qua khối Công khố phiếu này.
– Sáu năm về trước, một giới chức kinh tế cao cấp của Bắc Kinh đã than là dù ghét Mỹ lắm thì vẫn phải cho Mỹ vay tiền, tức là vẫn đầu tư tài sản của mình vào thị trường Hoa Kỳ. Vì vậy họ cố tìm các ngả đầu tư khác để dần dần bớt lệ thuộc vào mức tiêu xài của Hoa Kỳ. Chuyện ấy đã rõ rệt hơn kể từ năm 2013. Nói cho cùng, nếu kinh tế Trung Quốc thật sự vững mạnh và ổn định thì họ thiếu gì cơ hội đầu tư ở bên trong mà vì sao cứ gửi qua Mỹ với phân lời quá rẻ. Chỉ vì sự an toàn!
Nguyên Lam: Câu chuyện quả là ly kỳ! Bây giờ, ta mới nói đến kho đạn của Trung Quốc. Thưa ông, Bắc Kinh hiện có bao nhiêu tiền và xoay trở thế nào với cơn sóng gió tài chính đang xảy ra?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Theo các ước tính mới nhất thì dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh vào cuối Tháng Bảy lên tới ba ngàn 650 tỷ đô la, có giảm so với số cao nhất là gần bốn ngàn tỷ năm 2013. Trong số đó, Bắc Kinh có chừng một ngàn 200 tỷ trực tiếp mua Công khố phiếu của Mỹ và cỡ 200 tỷ mua gián tiếp qua một cơ sở của họ tại Bỉ, vị chi là 1.400 tỷ, dù có nhiều thì vẫn chưa tới 10% của số công trái Mỹ. Còn lại là hai ngàn 250 tỷ thì có 900 tỷ cam kết vào các kế hoạch bành trướng thế lực kinh tế của Bắc Kinh, như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á châu AIIB, hay Tân Ngân hàng Phát triển của nhóm BRICS, và hàng loạt dự án trong kế hoạch Nhất Đới Nhất Lộ của Con Đương Tơ Lụa. Ngoài ra, Bắc Kinh vừa trích ra 48 tỷ đô la cho Ngân hàng Phát triển Trung Quốc CDB và 45 tỷ đô la cho Ngân hàng Xuất Nhập Cảng Export-Import Bank of China.
– Bây giờ, giữa cơn khủng hoảng, nếu Bắc Kinh muốn giữ giá đồng Nguyên trong một hạn ngạch nhất định từ nay đến cuối năm thì có thể mất thêm mỗi tháng 40 tỷ đô la, tức là nội năm nay sẽ mất 200 tỷ nữa. Tất cả những số liệu trên chỉ là ước lượng và còn có thể thay đổi hàng ngày qua nhiều biến động dồn dập như ta có thể thấy trên các thị trường quốc tế. Và mình cũng chẳng nên quên núi nợ khổng lồ của Trung Quốc có thể đã vượt quá 28 ngàn tỷ đô la.
Nguyên Lam: Thưa ông, phải chăng vì vậy mà tuần qua Bắc Kinh bắt đầu bán Công khố phiếu Mỹ để thu về đồng đô la hầu ứng phó với những đòi hỏi mới? Nếu như vậy thì hậu quả sẽ là gì cho thị trường Hoa Kỳ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Vì cảm quan ấn tượng sai, nhiều người cứ lo rằng khi Bắc Kinh bán Công khố phiếu Mỹ thì sẽ gây bất lợi cho Hoa Kỳ vì làm trái phiếu Mỹ mất giá, tức là làm tăng phân lời trái phiếu trên thị trường Hoa Kỳ khiến kinh tế Mỹ gặp khó khăn. Sự thật lại rắc rối hơn vậy.
– Việc Bắc Kinh bán tháo Công khố phiếu Mỹ không làm tăng lãi suất ngắn hạn trên thị trường Hoa Kỳ. Lãi suất ngắn hạn ấy là do Ngân hàng Trung ương Mỹ quyết định và có thể tăng nhẹ từ nay đến cuối năm sau khi đã hạ tới sàn từ cuối năm 2008. Lãi suất dài hạn thì tùy vào sự tính toán của thị trường theo quy luật cung cầu, nhưng tính toán đó thật ra vẫn căn cứ trên lãi suất ngắn hạn. Trong mấy ngày qua, khi Bắc Kinh kín đáo thông báo cho Bộ Ngân khố Hoa Kỳ và bắt đầu xả Công khố phiếu ra ngoài thì phân lời trái phiếu, là lãi suất dài hạn tại Mỹ, lại chẳng tăng như người ta sợ hãi. Ngay trong giả thuyết là phân lời tăng vọt vì sự hốt hoảng của thị trường thì Ngân hàng Trung ương Mỹ vẫn thừa khả năng chống đỡ. Đó là hoãn nâng lãi suất, hoặc thậm chí dùng lại biện pháp bất thường là “tăng mức lưu hoạt có định lượng” hay “quantitative easing”. Cụ thể là mua vào Công khố phiếu và trả bằng đồng đô la, tức là bơm tiền vào kinh tế.
– Nhìn cách khác, nếu Bắc Kinh bán tháo tài sản của họ dưới dạng Công khố phiếu Mỹ thì tài sản đó càng mất giá và họ sẽ lỗ nhiều hơn khi tiếp tục bán ra. Ngược lại, hậu quả là việc Mỹ kim sụt giá chưa chắc đã gây họa cho Hoa Kỳ: tiền Mỹ càng sụt giá thì hàng Mỹ thêm rẻ và càng dễ bán. Hãy nhìn Nhật Bản mà xem, từ ba năm nay, Chính quyền của Thủ tướng Shizo Abe chỉ mong đồng Yen sụt giá để cứu nguy kinh tế của mình. Vả lại, tiền Mỹ sụt giá lại còn giảm áp suất quá tai hại hiện nay cho nhiều nước Á Châu!
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin tổng kết cuộc trao đổi về “kho đạn của Bắc Kinh”. Thưa ông, thính giả của chúng ta nên ghi nhận những gì từ các chi tiết quá phức tạp về kinh tế tài chính lẫn chính trị của kho dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Lãnh đạo Bắc Kinh giàng số phận kinh tế của mình vào sức tiêu thụ và nhập khẩu của xứ khác nên lệ thuộc vào thiên hạ mà cứ tưởng là có thể xưng hùng xưng bá với khối dự trữ ngoại tệ rất cao. Thật ra, họ thắt lưng buộc bụng người dân để có một kho đạn chủ yếu vẫn là Made in USA. Có những lúc họ tưởng rằng sẽ dùng kho dự trữ ấy như võ khí để ép Mỹ mà chẳng biết là họ chỉ kê khẩu súng nước vào đầu nhà tiêu thụ Hoa Kỳ đang khát nước mà thôi!
– Phũ phàng hơn vậy là nay họ mới thấy mình hết đạn vì chỉ còn chừng 700 tỷ đô la để đối phó với đời. Khi ấy, mỗi tháng có thể mất 40 tỷ để giữ giá đồng Nguyên, hoặc sẽ mất 40 tỷ vì nạn tẩu tán tài sản khi đồng Nguyên sụt giá. Mất cửa này hay cửa khác thì cũng là mất thế lực và uy tín của một quốc gia chỉ có cái thế mà chưa có cái lực!
Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa đã phân tích sự thể rất đỗi ly kỳ này.
Các nhà bảo tàng ở VN hiện nay cho dù được đầu tư rất lớn, song không thu hút được sự quan tâm của du khách.
Nguyên nhân do đâu và cần có các giải pháp gì để khắc phục tình trạng này?
Ở VN, hệ thống các nhà bảo tàng khá phong phú về số lượng, hầu hết ở các tỉnh và thành phố đều có những nhà bảo tàng, tuy vậy các nhà bảo tàng hiện nay vẫn chưa thực sự thu hút khách.
Lạm dụng tuyên truyền trong các bảo tàng
Trao đổi với VnExpress, Tiến sĩ Vũ Mạnh Hà, Phó giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia cho biết, những ngày trong tuần khách đến xem bảo tàng rất thưa thớt. Trung bình mỗi tháng bảo tàng Lịch sử Quốc gia chỉ đón khoảng 2.000 khách, giảm hơn 10% so với những năm trước.
Nhận xét về hệ thống các nhà bảo tàng ở VN, từ Sài gòn, ông Vũ Hưng một chuyên viên tổ chức Du lịch Văn hóa bày tỏ:
“Du khách vào VN thì chương trình bao giờ cũng có việc viếng thăm một nhà bảo tàng nào đó trong ngày đầu tiên. Tuy vậy do sự đơn điệu cũng như tính chất của các nhà bảo tàng ở VN rất giống nhau, nên du khách không ấn tượng lắm.”
Trả lời câu hỏi, nguyên nhân do đâu các nhà bảo tàng VN hiện không thu hút được du khách? TS. Nguyễn Văn Huy nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học VN nói với chúng tôi:
“Nguyên nhân trước hết là do trình độ của cán bộ làm công tác bảo tàng còn hạn chế, ít có sự sáng tạo dẫn đến cách trưng bày không hấp dân, hơn nữa cách làm bảo tàng đã quá cũ là kiểu của 50-60 năm trước. Cái thứ 2 là đa phần các nhà bảo tàng có một nguồn kinh phí khá hạn hẹp. Một điểm nữa cũng ảnh hưởng tới chất lượng của bảo tàng là lộ trình và thiết kế trưng bày, thiết kế đồ họa thì họ vẫn làm theo một lối mòn.”
Sự gắn kết giữa bảo tàng và công tác du lịch chưa tốt, hơn nữa tính tuyên truyền bị lạm dụng trong hầu hết các nhà bảo tàng do đó không tạo được ấn tượng cho du khách nước ngoài. Ông Vũ Hưng chia sẻ:
Sự gắn kết giữa bảo tàng và công tác du lịch chưa tốt, hơn nữa tính tuyên truyền bị lạm dụng trong hầu hết các nhà bảo tàng do đó không tạo được ấn tượng cho du khách nước ngoài
“Khách du lịch họ nói rằng bảo tàng của các bạn thông tin thì ít, hiện vật thì không có tính đặc trưng, đơn điệu và mang tính tuyên truyền, bài trí chưa tốt. Theo tôi muốn tạo nên sự khác biệt để thu hút du khách cần phải có sự thay đổi về tư duy, vì cách trưng bày mang nặng tính tuyên truyền như hiện nay nó sẽ mất đi tính sự thật và khiến cho du khách mệt mỏi.”
Theo VTC News cho biết, trong số hơn 120 bảo tàng của cả nước hiện nay, rất nhiều bảo tàng xây dựng tốn kém với kinh phí rất lớn nhưng hoạt động không hiệu quả. Như Bảo tàng Hà Nội được đầu tư với kinh phí 2.300 tỉ đồng, đáng lẽ phải là một trong những điểm đến của đông đảo người dân. Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn ngược lại.
Bên trong Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (TPHCM)
Nhận xét về thực trạng này, TS Nguyễn Văn Huy chia sẻ:
“Cái tính chuyên nghiệp của nó chưa tốt, vì thế bảo tàng Hà nội xây dựng tòa nhà xong được 6 năm rồi song vẫn chưa có cái trưng bầy hoàn chỉnh, điều mà lẽ ra người ta phải chuẩn bị trước từ 5-10 năm trước. Điều đó cho thấy cách ứng xử trong việc chuẩn bị nội dung cho các nhà bảo tàng chưa tốt, các nhà quản lý và lãnh đạo chưa hiểu và chưa tôn trọng tính nghề nghiệp trong lĩnh vực này. ”
Khách du lịch họ nói rằng bảo tàng của các bạn thông tin thì ít, hiện vật thì không có tính đặc trưng, đơn điệu và mang tính tuyên truyền, bài trí chưa tốt
Ông Vũ Hưng
Tuy vậy, trong thời gian qua, ngành bảo tàng VN cũng có những hoạt động được cho là tích cực, như sự tham gia của các cá nhân kết hợp với các viện bảo tàng của nhà nước trong việc giới thiệu các di vật đến với công chúng. TS Nguyễn Văn Huy nhận định:
“Trong vài ba chục năm gần đây, các di sản văn hóa được lưu trữ trong các bộ sưu tầm của tư nhân, các bảo tàng của tư nhân cũng đã được phép hình thành ở VN. Các bảo tàng của nhà nước cũng thường hay kết hợp với các tư nhân để mượn các bộ sưu tập để trưng bày tại các bảo tàng của mình, tôi nghĩ đó là những điều tốt.”
Những người làm bảo tàng phải kết hợp các hiện vật với nhau thành một chuỗi các câu chuyện bình dị dễ hiểu, vấn đề quan trọng nhất là bảo tàng biết kể những câu chuyện như thế nào với người khách, có như vậy mới hấp dẫn được du khách. TS. Nguyễn Văn Huy ghi nhận:
Bảo tàng phải thực sự nhìn lại mình và các cấp chính quyền quản lý cũng phải có sự thay đổi trong các mặt
Ông Vũ Nguyễn Ngọc Chi
“Phải chú trọng đến việc hợp tác quốc tế để tạo cơ sở và nhận thức làm thế nào để có một bảo tàng tốt? Thì tôi nghĩ yếu tố con người là yếu tố quan trọng, bên cạnh đó cần coi trọng chất lượng hoạt động, chất lượng trưng bày, chất lượng tổ chức. Vì chỉ có đề cao chất lượng thì các bảo tang mới thu hút được khách thăm quan.”
Khi được hỏi, để công tác của các nhà bảo tàng đạt hiệu quả, theo ông cần phải có các giải pháp cụ thể như thế nào?
Ông Vũ Nguyễn Ngọc Chi, cán bộ Phòng Quản lý bảo tàng, Cục Di sản Văn hóa – Bộ Văn Hóa, TT&DL cho biết:
“Bảo tàng phải thực sự nhìn lại mình và các cấp chính quyền quản lý cũng phải có sự thay đổi trong các mặt. Đã gìn giữ rồi thì phải quan tâm đến việc đưa đến cho công chúng được hưởng thụ và phát huy cái đó đến đâu, đó là một câu chuyện mà các bảo tàng đang nhìn lại mình để điều chỉnh.”
Nói về ý nghĩa của các Viện bảo tàng trong đời sống văn hóa-xã hội hiện nay, TS. Nguyễn Văn Huy nói:
“Các viện bảo tàng giữ một vai trò rất quan trọng trong xã hội, ở đấy vai trò trước hết của bảo tàng là lưu giữ các di sản ở các thể loại khác nhau, có thể là các thể loại liên quan đến lịch sử, những di sản liên quan đến văn hóa, những di sản liên quan đến thiên nhiện và cần phải lưu giữ những cái đấy để cho các thế hệ sau được hiểu và khai thác.“
Hệ thống các nhà bảo tàng là nơi lưu giữ những di sản văn hóa vô giá, đồng thời cũng là điểm du lịch văn hóa. Nếu như chúng ta biết quản lý một cách khoa học thì các công trình văn hóa này sẽ có sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước – những người vốn tò mò và thích tìm hiểu. Điều đó không chỉ góp phần cho công tác giáo dục mà còn nâng cao đời sống văn hóa xã hội cũng như phát triển kinh tế của đất nước.
TS Nguyễn Quang A được gia đình và bạn bè chào đón sau hơn nửa ngày bị công an sân bay Nội Bài cầm giữ và xét hỏi. Courtesy of NguyenLanThang’s Facebook
Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động dân sự tại Hà nội bị công an giữ lại làm việc với cơ quan công an trong sân bay Nội Bài từ 9h30 sáng hôm nay, khi ông xuống phi trường Nội Bài.
Nhắc lại, Tiến sĩ Nguyễn Quang A từ Hà Nội sang châu Âu tham dự Hội thảo hè do các trí thức Việt Nam trong và ngoài nước tổ chức tại Berlin trong hai ngày 24 và 25 tháng bảy. Sau đó ông sang Hoa Kỳ và có những buổi nói chuyện về sự phát triển của xã hội dân sự trên con đường dân chủ hóa tại Việt Nam.
Côn đồ tấn người đi đòi trả tự do cho TS Nguyễn Quang A
DL – Sáng nay, ngày 1/9/2015, Tiến sỹ Nguyễn Quang A vừa trở về Việt Nam từ Mỹ đã bị câu lưu ở sân bay Nội Bài hơn 12 tiếng đồng hồ, và được trả tự do vào lúc hơn 12 giờ đêm 1/9.
Những người hoạt động nhân quyền đi đón TS Quang A ở sân bay Nội Bài, Hà Nội đã bị những tên côn đồ tấn công trong sự thờ ơ của nhân viên an ninh sân bay.
Theo lịch sử chính thống của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam hiện nay, cách đây 70 năm, vào ngày 19/8, tại Hà Nội Mặt trận Việt minh do đảng cộng sản lãnh đạo giành lấy chính quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ngày 25/8 một biến cố tương tự xảy ra ở Sài gòn. Và cuối cùng là ngày 2/9/1945, ông Hồ Chí Minh, người đứng đầu đảng cộng sản và Mặt trận Việt minh tuyên bố một nước Việt nam độc lập.
Tất cả những sự kiện đó được gọi là cuộc cách mạng tháng Tám, thời điểm khởi đầu cho sự cầm quyền độc tôn của đảng cộng sản trên từng phần và cuối cùng là toàn bộ nước Việt nam ngày nay. Những tuần lễ tháng tám hàng năm đều được nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo cho tổ chức lễ hội rất trọng thể.
Nhà báo, blogger Lê Diễn Đức điểm lại tất cả những sự kiện lịch sử trong thời gian đó cách đây 70 năm, và ông nêu lý do vì sao Mặt trận Việt minh đã chiến thắng trong thời điểm đó:
Mục đích của Việt Minh trong sáng, rõ ràng đã đánh đúng vào lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp, Nhật, nên tập hợp được lực lượng quần chúng đông đảo. Khi Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh tiếp tục cuộc vận động, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến 9 năm và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.
Cũng có những nhà phân tích lịch sử cho rằng sự kiến tháng tám năm 1945 không hẳn là một cuộc cách mạng, mà nó chỉ là một chính biến. Chính biến ấy thành công do lợi dụng được khoảng trống quyền lực giữa quyền lực của thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật bản trong giai đoạn tranh tối tranh sáng cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Trang Bauxite VN bình luận:
Cách mạng đã 70 năm tuổi nhưng không có bất kỳ một công dân Việt Nam nào biết có một hình ảnh nào khác về cách mạng ngoài hình ảnh mà bộ máy tuyên truyền dàn dựng lên. Chắc chắn rất nhiều người ngạc nhiên và không tin khi học giả nước ngoài viết rằng Cách mạng tháng Tám thực chất chỉ là một cuộc chính biến, một cuộc khởi nghĩa, ngay cả các nước láng giềng Việt Nam cũng đã có nước làm cách mạng “na ná”Việt Nam. Tóm lại cái gọi là”cuộc cách mạng long trời lở đất” thực ra cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện thôi.
Hơn nữa có người còn nói rằng trong cuộc cách mạng này, những người cộng sản đã cướp thành quả của những tổ chức cách mạng khác.
Ông Nguyễn Gia Kiểng, người thành lập tổ chức Tập hợp dân chủ đa nguyên đấu tranh cho dân chủ tại Việt nam không đồng ý với những nhận định này. Ông nói rằng những người cộng sản cho rằng cuộc cách mạng của họ là quan trọng, là long trời lở đất cũng không quá đáng, vì cuộc cách mạng ấy thay hình đổi dạng nước Việt nam cho đến ngày nay.
Ông Nguyễn Gia Kiểng cũng nói rằng những người cộng sản không cướp thành quả của ai cả, mà họ có được những thành quả ấy sau bao nhiêu hy sinh. Ông Kiểng so sánh đảng cộng sản với các tổ chức khác như Quốc Dân Đảng hay Đại Việt, những tổ chức yếu ớt và không đủ lực lượng để tạo nên một biến chuyển gì vào thời điểm quan trọng đó.
Cuộc cách mạng đem lại những gì sau 70 năm?
Ông Nguyễn Gia Kiểng nói tiếp về cuộc cách mạng của những người cộng sản:
Lỗi lớn nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam là đã kéo đất nước Việt Nam vào ngõ cụt, vào thảm kịch, chứ không phải là vì họ tranh giành ngày 19/8. Họ có thể xứng đáng nắm chính quyền vào ngày 19/8. Lẽ ra sau ngày 19/8 Việt Nam phải đi theo một hướng khác, nhưng nó đã bị lôi kéo vào quĩ đạo cộng sản. Kết quả là 30 năm chiến tranh, 6 triệu người chết, bao nhiêu gia đình ly tán, con người hận thù lẫn nhau đến tận ngày hôm nay.
Lỗi lớn nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam là đã kéo đất nước VN vào ngõ cụt, vào thảm kịch, chứ không phải là vì họ tranh giành ngày 19/8. Họ có thể xứng đáng nắm chính quyền vào ngày 19/8. Lẽ ra sau ngày 19/8 Việt Nam phải đi theo một hướng khác, nhưng nó đã bị lôi kéo vào quĩ đạo cộng sản
Ông Nguyễn Gia Kiểng
Theo ông Kiểng, một trong những gia tài mà người cộng sản để lại sau 70 năm cầm quyền là sự thờ ơ của người dân Việt nam, đặc biệt là giới trẻ. Ở trong nước thì thanh niên quan tâm đến những ngày kỷ niệm tháng tám như một cơ hội để vui chơi, mà thanh niên Việt ở nước ngoài thì bị mất gốc rất sớm, Việt nam đối với họ chỉ còn là một kỷ niệm.
Giải thích điều đáng buồn đó ông Kiểng nói:
Sau ngày 19/8 Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản
Tại sao có sự lãnh đạm đối với đất nước như vậy? Bởi vì chế độ cộng sản không chỉ đã làm cho người ta phẫn nộ, mà còn làm người ta chán nản đối với đất nước. Phải nói là thảm kịch Việt Nam đã rất lớn. Thành tích của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất kinh khủng. Cách Mạng Tháng Tám đáng lẽ ra phải là một cơ hội vinh quang của Việt Nam nhưng đã trở thành một thảm kịch lớn.
Blogger Nguyễn Vũ Bình, người từng làm việc cho cơ quan lý luận của đảng cộng sản mô tả hình ảnh của chế độ mà những người cộng sản thành lập và duy trì cho đến nay trong bài viết mang tên Phác họa chân dung một chế độ. Trong bài này ông Bình cho rằng việc cầm quyền của đảng cộng sản được dựa trên ba nền tảng:
1/Sự gieo rắc sợ hãi trong dân chúng đối với bộ máy của đảng,
2/ Thiết lập sự lệ thuộc của dân chúng vào đảng,
3/ Kiểm soát tư tưởng của dân chúng bằng cách chia rẽ họ và đốc thúc họ tố cáo, kiểm soát lẫn nhau.
Nguyễn Vũ Bình viết tiếp:
Đi sâu vào phân tích cách thức guồng máy chuyên chính vô sản hoạt động nghiền nát tất cả sự phản kháng của người dân mới thấy được nghệ thuật cai trị của cộng sản. Đó cũng chính là nghệ thuật tiêu diệt và đày đọa con người.
Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm
Nhà báo Lê Diễn Đức
Trong một lần trao đổi gần đây với đài Á châu tự do, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một cựu tù chính trị cũng có nhấn mạnh đến kinh nghiệm cai trị của đảng cộng sản trong mấy mươi năm qua, và điều đó chính là một trở ngại cho con đường dân chủ hóa Việt nam.
Nhà báo Lê Diễn Đức thì trích lời nhà bất đồng chính kiến Luật sư Nguyễn Văn Đài về bản chất của cuộc cách mạng, hay chính biến tháng 8/1945
Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm
Kết quả của cuộc cách mạng ấy, theo blogger Lê Vũ Bình, sẽ dẫn tới một tương lai không hề sáng sủa, giống như sự sụp đổ của hàng loạt nhà nước cộng sản khác trong thế kỷ 20.
Những nhà nước cộng sản đã không thể xây dựng được một nền kinh tế theo đúng nghĩa tạo ra của cải vật chất. Trong khi, để duy trì một hệ thống khổng lồ bảo đảm sự vận hành và thống trị, nó lại cần một nguồn lực vô tận, điều không bao giờ có được. Chính vì vậy, các chế độ cộng sản, sau khi đã tạo ra được lâu đài thống trị uy nghi, cuối cùng đều tự sụp đổ vì sức nặng của chính nó. Và Việt nam chắc chắn cũng không phải là ngoại lệ.
Một điều cũng đáng ghi nhận trong thời điểm 70 năm sau cách mạng tháng tám 1945, ông Vũ Minh Giang, người được coi là nhà lý luận hàng đầu của những người cộng sản hiện nay nói với báo chí Việt nam điều mà ông nhận ra về sự cần thiết hay không của các cuộc cách mạng:
Tôi từng tham dự một hội nghị quốc tế nhân kỷ niệm 200 năm cách mạng tư sản Pháp. Tại đây giới sử học đưa ra một luận điểm mới và lạ. Họ đánh giá cao những cuộc cải cách trong lịch sử, trong đó cải cách Meiji được phân tích rất nhiều. Thậm chí họ còn cho rằng con đường cải cách là cách đi thông minh và cần tới tầm nhìn của giới lãnh đạo, biết mình lạc hậu để cải đổi. Cách mạng bùng nổ ra khi chính quyền cản trở sự phát triển, không chịu đổi thay nên bị lật đổ.
Điều ông Giang phát hiện ra ở thế kỷ 21 cũng là điều mà nhà văn Lỗ Tấn bên Trung quốc gửi gấm qua lời nói ngô nghê của nhân vật AQ của ông cách đây gần 100 năm Cách mạng là… Cách cái mạng!
Làm gì?
Nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng cuộc cách mạng tháng tám 1945 là một cái bẫy đã đưa cả dân tộc Việt nam vào một đại bi kịch ngày nay. Bà kêu gọi hãy chôn cái bẫy đó xuống, điều đó không phải chỉ tốt cho người dân mà còn cho cả những người đang cầm quyền nữa:
Và không chỉ dân đâu, chính những người có quyền lực đang hành ác hiện nay cũng cần thoát khỏi chiếc bẫy đó, vì chẳng quyền lực, địa vị, tiền bạc nào tồn tại được mãi mãi. Họ và con cháu họ cũng cần được trở lại làm người, sống trong tự trọng và bình an.
Chúng ta không nên quy kết buộc tội lẫn nhau. Chúng ta nói lên những trách nhiệm nhưng phải nói Cách Mạng Tháng 8 đã như thế không phải là do trách nhiệm riêng của Đảng Cộng Sản mà là trách nhiệm của cả một thế hệ trí thức VN. Lớp trí thức đó đã bất lực để cho một đảng, có lẽ vì cuồng tín và thiển cận, kéo đất nươc vào thảm kịch
Ông Nguyễn Gia Kiểng
Blogger Song Chi thì đặt câu hỏi Một chế độ tồi tệ đến thế chúng ta vẫn chịu được. Thì là lỗi của chúng ta hay lỗi của nhà cầm quyền?
Và bà nhận định tiếp dường như sự phản kháng của người dân Việt nam cho đến nay chỉ mang ý nghĩa tiêu cực:
Có vẻ như lâu nay lối thoát duy nhất của chúng ta là… chửi. Chúng ta chửi chế độ, chửi bọn quan tham, bọn bán nước, bọn bất tài… Chưa bao giờ trước đây người dân VN từ ông tài xế taxi, bà bán bún ngoài chợ cho tới dân trí thức, các blogger, nhà báo tự do…có thể thoải mái chửi chế độ, chửi nhà cầm quyền đến thế. Nhà cầm quyền có biết không? Thừa biết. Nhưng tại sao họ vẫn để lơ? Thứ nhất là vì người ta chửi nhiều quá, nếu bất cứ ai chửi chế độ cũng bắt bớ, giam cầm thì có mà bắt mà giam hàng chục triệu người. Thứ hai, bởi vì chửi không làm cho chế độ này sụp được, thậm chí chửi nhiều khi còn là một cách xả xú páp, chẳng thà để dân chửi cho hả rồi dân lại lùi lũi lo kiếm ăn còn hơn dân ôm lấy nổi căm giận trong lòng và một ngày xuống đường, đấu tranh lật đổ chế độ.
Chúng ta chửi không làm cho chế độ này sụp đổ được
Cùng tìm câu trả lời là phải làm gì trước hiện trạng hôm nay, Ông Nguyễn Gia Kiểng nhấn mạnh rằng trách nhiệm trước bi kịch của dân tộc ngày nay là không chỉ của riêng những người cộng sản:
Đến giờ phút này chúng ta không nên quy kết buộc tội lẫn nhau. Chúng ta nói lên những trách nhiệm nhưng phải nói Cách Mạng Tháng 8 đã như thế không phải là do trách nhiệm riêng của Đảng Cộng Sản mà là trách nhiệm của cả một thế hệ trí thức Việt Nam. Lớp trí thức đó đã bất lực để cho một đảng, có lẽ vì cuồng tín và thiển cận, kéo đất nươc vào thảm kịch.
70 năm sau, một tia hy vọng được nhóm lên khi một lớp trí thức trẻ, dù còn ít đã dấn thân trên con đường dân chủ hóa Việt nam, không câu nệ quá khứ, mà đòi hỏi nhà cầm quyền hãy làm những gì mà mình đã đặt ra.
Trong bài Giải pháp tránh sự sụp đổ sau 70 năm, người cựu tù chính trị Nguyễn Tiến Trung viết:
Việc vi phạm hiến pháp, pháp luật phải chấm dứt ngay. Đó cũng nhằm tránh sự sụp đổ. Đó cũng chính là giải pháp cho Việt Nam, toàn dân, kể cả các đảng viên cộng sản yêu nước, bắt tay nhau hiện thực hóa “nhân dân làm chủ, pháp luật chuẩn mực”, bắt đầu từ bản hiến pháp của toàn dân.
Tránh sự sụp đổ phải chăng cũng chính là ý tưởng cho một cuộc dân chủ hóa mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A nói với chúng tôi rằng ít tốn kém cho dân tộc nhất. Và cũng có thể tránh cái mà nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng các cuộc cách mạng thường hay ăn thịt những đứa con của mình, tránh cái mà AQ của Lỗ Tấn nói Cách mạng là… Cách cái mạng!
Cách đây đúng 10 năm, ngày 29 tháng 8-2005, ông Võ Văn Kiệt, cố Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam (1991-1997) đã lên tiếng kêu gọi đoàn kết dân tộc. Theo ông đòan kết dân tộc là đoàn kết từ già đến trẻ, từ trên đến dưới, từ Bắc chí Nam, từ Quốc gia đến Cộng sản, và từ trong nước đến hải ngoại. Những lời kêu gọi của ông có hàm ý đánh giá lại lịch sử của một thời đại. Thời đại 30 năm sau khi thống nhất đất nước. Những lời kêu gọi của ông vào lúc ấy đều được báo chí trong nước và quốc tế đăng tải và phân tích. Phần nhiều những nhà tường thuật và phân tích đều dành cho ông chân tình và thiện cảm, ngay cả những báo chí ở trong nước như tờ Tuổi Trẻ và nhật báo Nhân Dân, mặc dầu những điều phát biểu của ông đều nhằm mục đích chống lại hàng ngũ tả khuynh trong đảng Cộng sản Việt Nam hiện tại.
Cố Thủ tướng VC Võ Văn Kiệt, trong quá trình kêu gọi Đoàn kết dân tộc, đã viết: “Đại đoàn kết dân tộc, cội nguồn của sức mạnh chúng ta…Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam…Tư tưởng‘thành phần chủ nghĩa’ đã dẫn tới hai kết quả: làm mất đi nhiều tài năng của một bộ phận đáng kể trong dân tộc,đồng thời đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy có bản chất về chính trị nhưng lại không đủ chất lượng trong quản lý và xây dựng… Rất tiếc là ý thức đoàn kết dân tộc lại một lần nữa bị phần nào xao nhãng bởi bịnh chủ quan và say sưa vì chiến thắng, bởi những cái nhìn hẹp hòi, biệt phái bởi chuyện phân biệt thắng thua, bởi kỳ thị ta-ngụy… Hầu hết, sĩ quan, quân đội, viên chức trong chính quyền cũ cũng đều mong muốn được sống trong hòa bình, hòa hợp…Một đội ngũ đông đảo công thương gia và trí thức miền nam có những khả năng kinh nghiệm trên nhiều lãnh vực khác nhau, là một vốn quí, có thể đóng góp vào việc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, giàu mạnh. Nhưng vì kinh tế khó khăn đời sống bế tắc, cộng với phương thức quản lý xã hội quá cứng nhắc và tình trạng kỳ thị thành phần đã làm cho một số người yêu nước, muốn đóng góp cho đất nứơc cũng đành dứt áo ra đi!… Trong thế giới ngày nay nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như vậy không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển. Trong cuộc đua tranh phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí mà còn phải dựa vào kiến thức học vấn sự nhận thức về các qui luật của thiên nhiên và của xã hội…”
Những lời kêu gọi của ông có sức mạnh khơi dậy lòng yêu nước của mọi thế hệ, của mọi tầng lớp nhân dân, Cộng sản và Quốc gia. Nhất là các thế hệ trẻ ở trong nước cũng như ở hải ngoại:
– Tiến sĩ Sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, phát biểu trên tờ báo Tuổi Trẻ ngày 30/8/05: “Đọc lại bài viết của Nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt tôi mong ước con cháu của những người Cộng sản cũng như con cháu của những người chống cộng sản mãi mãi không còn coi nhau là kẻ thù nữa. Mọi người Việt Nam có chung một kẻ thù: đó là sự nghèo nàn, lạc hậu của đất nước!”.
– Hoài Lan, Bắc Ninh, điện thư cho BBC London:“Trong thời Ông Kiệt làm Thủ Tướng, nền kinh tế chuyển đổi mạnh, từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Nhân dân được hưởng tự do làm ăn hơn. Kinh tế vì thế được cải thiện phần nào. Ông cũng là người đẩy mạnh quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, làm cho Việt Nam thêm bạn bớt thù. Hiện nay trong đảng cộng sản cũng có nhiều người cùng quan điểm với ông. Tôi hy vọng ông không chỉ ‘Nói hay’ mà phải ‘Làm hay’ nữa, như ông đã từng làm khi còn đương nhiệm. Xin ông một lần nữa chiến đấu vì tương lai của dân tộc. Để một ngày nào đó khi ra nước ngoài, chúng ta có thể ngẩng cao đầu, không phải xấu hổ cuối gầm mặt xuống và nói “I come from Viet Nam”.
– Thành Hoàn, từ Kansas City, thư điện cho BBC London: “Tư Tưởng của Ngài Cựu Thủ tướng cũng chưa muộn. Vậy Ngài hãy thực hiện ngay bây giờ, làm cách mạng một lần nữa tôi tin chắc nhân dân Việt Nam sẽ nhớ ơn Ngài mãi mãi”.
Quả thật, không ai có thể nghi ngờ được cái chất trong sáng và tính tích cực của lời kêu gọi của ông. Xuyên suốt những phần lý luận của ông, ông nêu ra những lỗi lầm của chính quyền cộng sản trong việc say mê chiến thắng, kỳ thị, đấu tranh giai cấp, phân chia thắng bại, ta-ngụy, xem thường trí thức chuyên môn và kỹ thuật v.v…Thật sự ông nói thật nhiều, nhưng chung qui cái sai lầm của trong vòng 30 năm qua, ông đã rõ biết và nắm chắc nó, nhưng ông không dám gọi đích danh nó, tố cáo nó. Ông khiếp sợ nó mặc dầu nó chỉ là một cụm từ: “Chuyên Chính Vô Sản”. Vâng, Chuyên Chính Vô Sản -CCVS- đáng khiếp sợ thật!
CCVS đã giết hại bao nhiêu triệu con người ưu tú của nhân loại. Nó là cốt tủy cột sống của chủ nghĩa Cộng sản. CCVS được đẻ ra từ họng súng, từ Đấu Tranh Giai Cấp. Staline và Mao sử dụng nó để thủ tiêu, truy diệt những ai dám chống lại đường lối lãnh đạo chuyên chính của họ. Nó đã đóng góp lớn lao trong việc xây dựng thiết lập chủ nghĩa và chính quyền cộng sản trên khắp thế giới. Và cũng chính nó cũng đã hủy diệt chế độ cộng sản. Vì thống trị đất nước bằng chuyên chính vô sản, nền kinh tế các quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa sa sút, và tụt hậu; kỹ thuật sản xuất nghèo nàn, trí thức bị khinh thường, phân phối lao động không hợp lý, đưa đến nghèo đói thảm hại và những tệ nạn khác của xã hội: mãi dâm, tham nhũng… Sống trong Xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, người dân lúc nào cũng bị vây hãm bởi bạo lực Đấu Tranh Giai Cấp, thiếu thốn mọi thứ, Tự Do, Dân Chủ bị cưỡng đoạt, một xã hội khép kín, làm cho người ta run sợ lẩn tránh. Cuối cùng, thành trì kiên cố nhất của vô sản, Mạc Tư Khoa, hoàn toàn sụp đổ năm 1990.
Đối với tổ quốc ta, CCVS đã gây ra biết bao nhiêu tội ác. Nhất là trong 40 năm trở lại đây. Sau ngày Thống Nhất Đất Nước, vì những yếu tố tả khuynh cực đoan trong tư tưởng của người Cộng sản Việt Nam trong hàng ngũ Cách mạng, khiến họ mù quáng quên đi tình nghĩa dân tộc, gây thêm hận thù, chồng chất thêm uất hận. Họ không cần tập hợp những lực lượng xã hội rộng lớn khác. Họ xem thường giới trí thức. Họ đề cao giai cấp đấu tranh, thủ tiêu và giết hại những người yêu nước cả Bắc lẫn Nam, nhất là tại miền Nam. Nhà tù và trại tập trung được mọc lên khắp nơi trong nước, từ trên núi cao đến đồng bằng, từ thôn quê đến thành phố. Họ là Mao, là Stalin, là Pol Pot, xem thường và nếu cần họ thẳng tay triệt hạ những người trí thức tiến bộ, yêu nước, không phục tùng CCVS. Người Cộng sản Việt Nam tả khuynh cực đoan đã sai lầm khi họ đặt sức mạnh của đội ngũ trí tuệ dưới sức mạnh của đội ngũ cơ bắp. Họ mù quáng, không nhận biết, chính những tiến bộ về kỹ thuật mới thay đổi bộ mặt của xã hội chứ không phải đấu tranh giai cấp.
Sự thất bại trong 40 năm qua, chủ yếu không phải chỉ nằm ở chỗ Cách mạng vấp phải những sai trải nghiệm trong trong lúc tiếp cận với nguồn năng lực kinh tế dồi dào, với khối trí thức rộng lớn và khối chuyên gia giàu kinh nghiệm của miền Nam, mà còn một nguyên nhân khác nữa dẫn đến sự thất bại đó là sự hy sinh cuộc sống của dân tộc cả nước, hy sinh lợi ích vật chất và tinh thần của con người, của đời sống gia đình và cá nhân, tất cả nhân danh tập thể, bất chấp lợi ích từng người.Trong khi đó nhiều vị lãnh đạo, trong hàng ngũ lãnh đạo ĐCSVN vơ vét tài sản miền Nam, tham nhũng hàng triệu triệu đô la Mỹ. Đã thế họ còn tố cáo lẫn nhau, công khai giành giật. Tất cả chỉ vì đói, nghèo nàn và lạc hậu, họ đâm ra bảo thủ, ích kỷ, phản bội lại lịch sử, bám chặt lấy Chuyên Chính Vô Sản.
Trong thời chiến chính quyền cộng sản tại miền Bắc nắm lấy cái thắt lưng của người lính mà sống. Sang thời bình họ xoay lưng lại, phản bội lại người lính ra mặt. Điểu tận cung tàn, sau chiến tranh người lính bị ném vào bóng tối của lịch sử một cách thô bạo: chế độ nghèo nàn, sức khỏe không được chăm bón, tận tình điều trị. Phần nhiều là họ bi sốt rét rừng, bị lao, bị nghiện rượu và thuốc lá và trầm cảm nặng. Không nơi nương tựa, những anh em phục viên bộ đội, ăn đường ngủ bụi, từ miền Bắc đi vào Nam, đi vào Sàigòn, xin du khách, ngoại kiều, ăn mày từng đồng, từng xu, gửi về nuôi vợ nuôi con. Những người cựu chiến binh này suy nghĩ như thế nào, khi họ hồi tưởng lại có một thời họ đã đi “B” vì Tổ quốc, vì Thống nhất đất nước! Hôm nay họ cũng đi “B” để thực hiện một cuộc sống của ăn mày! Một Trung tá quân đội nhân dân, sau 75, giải thể, trở thành một ‘đầu nậu’ bán số đề để kiếm sống giữa Thủ Đô Hà nội. Máu và nước mắt đã rỏ xuống đầu ngọn bút của các nhà văn nhà thơ yêu nước: Phùng Khắc Bắc với bài thơ Ngày Hòa Bình Đầu Tiên, Lê Lựu trong Thời Xa Vắng, Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, Chu Lai trong Vòng Tròn Bội Bạc, Ăn Mày Dĩ Vãng, Hồ Tĩnh Tâm trong Ông Tám Đờn Cò… và các nhà văn khác nữa, khi họ miêu tả mặc cảm đớn đau của người lính, sau 75, bị Nhà Nước Chuyên Chính Vô Sản phản bội.
Đó là chưa kể, sau 75, hàng triệu chiến sĩ của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và công nhân viên chức miền Nam bị tù đày, bị hành hạ và vùi dập trong các nhà tù, trong các trại học tập cải tạo.
Khi viết tới đây, tôi nhớ Đặng Tiểu Bình, năm 1951, trên máy bay từ Trùng Khánh về Bắc Kinh để nhậm chức Quân Ủy Trung Ương, trăn trở lớn nhất của họ Đặng là “90 vạn, 60 triệu và 600 ngàn”. Đó là nhiệm vụ trả lại cuộc sống làm ăn lương thiện cho 90 vạn quân của Tưởng bỏ lại, 90 vạn đồng bào anh em, mới hôm qua ở hai chiến hào, hôm nay cùng chung một chiến trận cố tâm đánh thắng ‘nhất cùng nhì bạch’. Đó cũng là xây dựng lại cuộc sống cộng hòa nhân dân cho 60 triệu người. Và đó cũng là nhiệm vụ làm sao biến đổi quân chiến đấư 600 ngàn người lính thành một đội quân công tác vận động quần chúng…”(Lý Kiện/Đặng Tiểu Bình 3 Lần Vào Ra Trung Nam Hải). Thú thật, là người Việt yêu nước không ai ưa gì họ Đặng, một tên Tàu cộng gian ác đã từng xách nhiễu và đánh phá biên giới tổ quốc ta vào tháng 2/79. Nhưng trên quan điểm nhận thức về đạo lý làm người với tình dân tộc, thì họ Đặng quả là con người mà tất cả chúng ta phải học hỏi và noi theo! Song, chúng ta thử tự hỏi: tại sao Trung quốc có được một Đặng Tiểu Bình mà Việt Nam ta lại không? Có nhiều câu hỏi chúng ta phải nói rằng chúng ta lấy làm hổ thẹn khi không tìm ra được câu trả lời hợp lý!
Lúc sinh thời, khi nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm gọi là “Cụ Hồ”.
Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị sát hại trong cuộc đảo chánh 1963, một nhóm phóng viên quốc tế hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ông nghĩ gì kẻ thù của Ông đã bị giết chết ?”. Cụ Hồ trả lời: “Ông Ngô Đình Diệm là một người yêu nước. Nhưng, ông ta yêu nước theo cách của ông ta…”.Tại sao, sau 75, Cách mạng không suy nghĩ như “Cụ Hồ”, “Cụ Ngô” suy nghĩ ? Cách mạng đánh mất cơ hội. Cách mạng không theo chân lịch sử.
Hôm nay sau 10 năm, chúng ta đọc lại bài: “ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC- CỘI NGUỒN CỦA SỨC MẠNH CHÚNG TA”, của cựu Thủ Tướng Võ văn Kiệt, chúng ta vô cùng xúc động trước những lời tự thú cao cả, can đảm, thẳng thắng và anh dũng! Được biết cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã qua đời hôm 11 tháng 6-2008 tại bịnh viện ở Singapore, Người đã để lại cho chúng ta một di sản rất quí báu nhắn nhủ chúng ta: Đại đoàn Kết Dân Tộc – Cội Nguồn của Sức Mạnh Của Chúng Ta…
Trong hiện tại, tất cả mọi người dân Việt đều suy nghĩ về 40 năm qua. Không ai bằng lòng với khoảng thời gian đã mất. Ai cũng hối tiếc vì thời gian quá nhanh, chúng ta chưa làm được những gì có thể gọi là những bước đột phá trong xây dựng đất nước và con người. Nhưng chúng ta cũng có rất nhiều hy vọng: tuổi trẻ hôm nay đã và đang lên đường, cùng góp sức với cha ông. Khối lượng khổng lồ trí thức trẻ trong nước và khối chuyên gia rộng lớn trên mọi ngành nghề đang sống lưu vong ở hải ngoại, đang lớn lên từng ngày, từng giờ, đang chờ đợi chánh phủ trong nước hãy biến những lời tự thú thành thực tế, có những hành động quả cảm hơn để hóa giải với những sai trái trong quá khứ, từ bỏ Chuyên Chính Vô Sản và nhìn nhận quyền tư hữu của con người. Hãy tạo cơ hội đồng đều cho mọi công dân của tổ quốc, trong nước hay lưu vong tại hải ngoại, để họ có thể cống hiến năng suất trí tuệ cũng như lao động để dựng xây một Việt Nam tiến bộ, văn minh, tự do, dân chủ, công bình và bác ái.
Chúng ta muốn nói, trước thềm Đại Hội XII của ĐCSVN vào quí 1/2016, không ai có quyền chần chừ, 90 triệu đồng bào ta phải lên tiếng và hành động, trước khi 40 năm nữa sẽ qua rất nhanh!./.
TS Nguyễn Văn Phú từ ĐH Strassbourg, Pháp cho rằng Việt Nam cần có các biện pháp giảm, thoát khỏi lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.
Trục trặc kinh tế và chao đảo trên thị trường tài chính Trung Quốc gợi ý trở lại các bàn luận về chủ đề ‘Thoát Trung’ hay tránh, giảm điều được cho là lệ thuộc thái quá về kinh tế và nhiều mặt khác của Việt Nam vào Trung Quốc, theo các chuyên gia và nhà bình luận xung quanh Bàn tròn thứ Năm tuần này của BBC.
Trao đổi với các vị khách tại bàn tròn với chủ đề ‘Rối loạn kinh tế Trung Quốc – ảnh hưởng khu vực và Việt Nam’ hôm 27/8/2015, kinh tế gia Nguyễn Văn Phú, từ Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia và Đại học Strasbourg, Pháp, nói:
“Trung Quốc phát triển hay không, đó là vấn đề của Trung Quốc, bây giờ vấn đề đặt ra là phía Việt Nam, chúng ta phải làm gì?
“Chúng ta thoát Trung, chúng ta có nên hợp tác phát triển kinh tế hay là một mặt gì đó với Trung Quốc hay không thì đó là vấn đề của chúng ta (Việt Nam), chúng ta phải tự quyết định.
“Chỉ riêng về vấn đề kinh tế, thì chúng ta thấy có nhiều vấn đề, nhiều bất cập, như các quý vị đã nghe, là buôn lậu, nhập siêu hay đầu tư công… ở Việt Nam không có hiệu quả.
“Bây giờ chúng ta phải làm những mặt đó, chúng ta phải làm thế nào cho những vấn đề đó tốt hơn, có như vậy chúng ta mới có thể tồn tại được song hành với Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu hóa.
“Chúng ta có thể phụ thuộc lẫn nhau, nhưng bởi vì có toàn cầu hóa, bởi vì những sự tương tác đó sẽ giúp nhau win-win (cùng thắng), chúng ta sẽ đạt thắng lợi trong lâu dài,” Tiến sỹ Nguyễn Văn Phú nêu quan điểm.
Bình luận về trục trặc và rối nhiễu vừa qua trong nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt các xáo trộn trên thị trường chứng khoán thể hiện qua các hiệu ứng như ‘vỡ bong bóng’ và phản ứng tâm lý ‘hoảng loạn’ thậm chí tác động vượt ra ngoài Trung Quốc, nhà nghiên cứu kinh tế từ Pháp, nói:
“Tình hình này nó cũng giống như là ở Việt Nam khi mới mở cửa thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng ở Việt Nam quy mô nhỏ hơn nhiều, thành ra không có tác động gì trên thế giới cả.
vtv6.vtv.vnĐể tránh lệ thuộc kinh tế Trung Quốc, Việt Nam phải mạnh mẽ chuyển hướng mà đặc biệt hướng tới ‘công nghệ nguồn’, theo TS. Lê Xuân Nghĩa.
“Còn Trung Quốc đây là một nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, do đó có một hiện tượng gì ở Trung Quốc thì cả thế giới sẽ bị ảnh hưởng, đó là điều chắc chắn.
“Còn ý kiến nữa là đến tận bây giờ đánh giá là nó đã có điểm dừng hay chưa thì đúng như anh Trần Trang (khách mời, phóng viên BBC Tiếng Trung) đã nói, chúng ta cũng chưa biết được.
“Bởi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nữa, mà tôi nghĩ là cần phải nghiên cứu thêm vấn đề này, nhất là các nghiên cứu để cảnh báo trong thời gian tới…,” TS. Nguyễn Văn Phú nói.
Chuyển hướng mạnh mẽ
Ngay trước cuộc tọa đàm bàn tròn trực tuyến, một chuyên gia kinh tế từ Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, nguyên Vụ trưởng Vụ Chiến lược Phát triển Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cũng nêu quan điểm về ‘thoát Trung’ trong dịp này.
Trao đổi với BBC hôm thứ Năm, Tiến sỹ Lê Xuân Nghĩa nói:
“Thực ra các chuyên gia của Việt Nam cũng đã đặt vấn đề này với chính phủ từ cách đây vài ba năm, sau vụ mà Trung Quốc mang giàn khoan vào, thế nhưng mà chuyện lệ thuộc kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề có tính cơ cấu và nó có tính quy luật.
“Tức là nó giống như là đàn chim nhạn bay ở trên trời, thế thì muốn thay đổi thứ tự của đàn chim nhạn bay trên trời thì Việt Nam phải có một cải cách mạnh mẽ mà đặc biệt là phải cải cách hướng tới công nghệ nguồn.
“Chứ còn như hiện nay chúng ta phụ thuộc nhiều vào công nghệ của Trung Quốc, thế còn giải quyết vấn đề này chỉ bằng tỷ giá hối đoái hoặc biện pháp tài chính không thôi thì không ổn, mà nó phải là một chương trình tái cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng tiếp cận công nghệ nguồn của Nhật Bản hoặc của Mỹ.
Phóng viên Ben Ngô của BBC Việt ngữ từ Bangkok cho rằng ‘thoát Trung’ phải là một quá trình dài hơi để chuẩn bị mà không phải là ‘ngày một, ngày hai’.
“Và muốn làm được điều ấy, tôi nghĩ rằng Việt Nam phải đi từng bước, đầu tiên ví dụ như là phát triển công nghiệp phụ trợ, rồi cùng với việc gia nhập các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hoặc là TPP (Hiệp định Hợp tác Đối tác Xuyên Thái Bình Dương) chẳng hạn, tận dụng những cơ hội ấy để tiếp nhận công nghệ nguồn của Mỹ.
“Và hơn nữa, Việt Nam cũng phải có những chuyển hướng rất mạnh từ những doanh nghiệp khởi nghiệp, rồi từ hệ thống giáo dục, đào tạo, theo hướng phải thúc đẩy thị trường công nghệ phát triển thì mới có thể thay đổi được tình hình.
“Còn nếu chúng ta mà công nghệ vẫn cứ lạc hậu, đương nhiên là chúng ta vẫn phải xếp hàng như một đàn chim nhạn bay trên trời thôi,” ông Lê Xuân Nghĩa nói với BBC.
Quá trình dài hơi
Đóng góp từ Bangkok cho cuộc Tọa đàm Bàn tròn, phóng viên Ben Ngô của BBC Việt ngữ, nêu quan điểm về vấn đề ‘thoát Trung’ của Việt Nam.
Anh nói: “Chuyện thoát Trung tôi nghĩ nó không phải là ngắn hạn mà nó là một quá trình dài hơi, chuẩn bị về từ kinh tế cho tới thể chế.
“Có tạo cú hích thì nó mới đúng nghĩa của từ này.
“Tôi nghĩ chuyện đó không có trong ngày một ngày mai, mà nó cần trong quá trình để chuẩn bị tốt hơn cho việc này.”
Còn kinh tế gia Bùi Kiến Thành, nhà phân tích về chính sách tài chính, kinh tế vĩ mô từ Hà Nội, nêu quan điểm với Tọa đàm:
“Việt Nam ở ngay cạnh nách của Trung Quốc, mình (Việt Nam) có biên giới rất dài đối với Trung Quốc, cho nên mình luôn luôn có ảnh hưởng và mình muốn thoát Trung, không phải thoát Trung về kinh tế mà thoát Trung về nhiều mặt.
Kinh tế gia Bùi Kiến Thành cho rằng trong hợp tác kinh tế với Trung Quốc, Việt Nam cần tìm ra những cơ hội và phát huy lợi thế của mình tốt hơn.
“Nhưng có cái chúng ta hợp tác với Trung Quốc có lợi, chúng ta phải nghĩ đến vấn đề hợp tác với Trung Quốc có phần nào chúng ta phải xem lại hay không
“Vấn đề đối với thương mại, ngoại thương, chúng ta (Việt Nam) bị nạn buôn lậu rất nhiều, vì vậy trong tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc, chúng ta bị vấn đề nhập âm rất là nhiều từ Trung Quốc.
“Mà cái nhập âm đó một phần rất là lớn là do cái tiểu thương biên mậu, hay là hàng lậu từ Trung Quốc qua, thì đó là một khía cạnh của vấn đề.
“Nhưng đối với tôi vấn đề lớn không phải ở đấy, vấn đề lớn là giữa Việt Nam với Trung Quốc, Việt Nam có cái gì chúng ta có thể phát triển lên, hợp tác tốt, để chúng ta có thể lợi, có cái lợi thế và thương mại với Trung Quốc, chúng ta nên khai thác thị trường Trung Quốc cho tốt.
“Chúng ta xuất khẩu qua Trung Quốc cho tốt và chúng ta có thể khai thác những tiềm năng của Trung Quốc mà có lợi thế cho Việt Nam, chúng ta phải nghiên cứu.
“Thì đây là một cơ hội, tôi không thấy đây chỉ là một nguy cơ. Trong nguy cơ nó có vừa ‘nguy’, vừa ‘cơ’, tức là nguy hiểm và cơ hội, thì chúng ta phải khai thác những gì là có được sự hợp tác chung trong hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc với Việt Nam,” ông Bùi Kiến Thành nói với cuộc tọa đàm của BBC.
Quý vị có thể theo dõi toàn bộ cuộc tọa đàm trên kênh Youtube của BBC Việt ngữ tại đây.
Image caption TS Lê Đăng Doanh cho rằng Việt Nam đang cấp bách cần tới một cuộc đổi mới hai về thể chế và kinh tế, xã hội.
Sau 70 năm Cách mạng Tháng Tám và gần 30 năm cuộc Đổi Mới khởi xướng từ Đại hội lần thứ sáu của Đảng Cộng sản, Việt Nam nay đang có nhu cầu ‘cấp bách’ tiến hành một cuộc ‘ Đổi Mới lần hai‘ về cải cách kinh tế – xã hội và thể chế.
Ý kiến trên được một nhà phân tích kinh tế, chính trị Việt Nam đưa ra bên lề một Hội thảo tư tại Đại học Humboldt, CHLB Đức trong dịp Hè 2015.
Trao đổi với BBC tại Berlin, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, nêu quan điểm:
“Việt Nam hiện nay đang đứng trước một yêu cầu rất cơ bản và cấp bách là đổi mới lần thứ hai, mà trong đó trọng tâm là cải cách thể chế.
“Một là Việt Nam đang hội nhập rất sâu và thể chế của Việt Nam có nhiều điểm chưa tương thích với thể chế mà Việt Nam đang hội nhập.
“Điều thứ hai cũng quan trọng là với thể chế hiện nay của Việt Nam, thì xếp hạng của Việt Nam về ‘môi trường kinh doanh’ của Ngân hàng Thế giới về ‘năng lực cạnh tranh’ của Diễn đàn Kinh tế thế giới và về ‘chỉ số cảm nhận tham nhũng’ của Tổ chức Minh bạch Quốc tế đều rất thấp và chậm có cải tiến.”
Trở ngại chính
Trước câu hỏi đâu là trở lực chính cho một cuộc đổi mới, cải cách lần thứ hai về kinh tế, thể chế, nếu có ở Việt Nam trong thời gian tới đây, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh cho hay:
“Trở ngại chính cho cuộc cải cách lần thứ hai ấy là có một số người hiện nay đã hình thành các lợi ích nhóm và những người ấy có chức, có quyền.
“Họ dùng quyền, chức vụ của họ để thu lợi một cách bất chính và lợi ích nhóm một cách bất chính đó đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ ra, nhưng cho đến nay chưa thấy đã làm được những động tác gì để giảm lợi ích nhóm và kiểm soát lợi ích nhóm.
“Và chính những người này là những người hiện nay đang trì hoãn, cản trở hoặc không muốn thực hiện cải cách thể chế.”
Khi được hỏi đâu là nút bấm chính mà Việt Nam cần nhấn vào đó để khai mở và khởi động cuộc cải cách lần thứ hai này, nguyên thành viên Ban cố vấn của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dưới thời các ông Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, nói:
Việt Nam đã nhận thức được trở lực chính cho cải cách, nhưng liệu có thể dám xử lý để vượt qua và đi tới? Hoang Dinh Nam AFP
“Cuộc cải cách hai đó, cái nút bấm đó phải là quyết định của Quốc hội cải cách một cách rất cơ bản mô hình thể chế của Việt Nam hiện nay, phải đảm bảo có các tổ chức giám sát độc lập để giám sát quyền lực, để giám sát bộ máy, giám sát việc chi tiêu của chính phủ và giám sát việc đầu tư công một cách độc lập.
“Và người dân có thể tham gia. Vì Chính phủ Việt Nam hiện nay tuyên bố là chính quyền ‘của dân, do dân, vì dân’ và ‘dân biết, dân làm, dân tham gia’, nhưng hiện nay không có luật tiếp cận thông tin thì người dân biết gì?”
Giám sát độc quyền
Và nhà phân tích nhấn mạnh thêm khi đưa ra một ví dụ về ai giám sát các tổ chức độc quyền ở Việt Nam hiện nay.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói: “Cần phải có một bộ máy trực tiếp và độc lập để giám sát, chứ nếu không có bây giờ ai giám sát công ty độc quyền?
“Bây giờ cũng lại Bộ ấy vừa quản lý nhà nước, vừa là chủ sở hữu lại vừa giám sát mấy ông độc quyền.
“Ông độc quyền thì ông có quyền của ông ấy, tài chính của ông ấy, tiền bạc của ông ấy rất lớn, thế còn dân đông đảo như thế này, thì dân biết gì? Chả biết gì cả, lại cũng không có quyền, cho nên dân trở thành một đa số im lặng.
“Còn một số thiểu số hết sức có quyền lực và có khả năng chạy đến nói với ông này, nói với ông kia, rồi lobby (vận động hành lang) các chính sách, các luật pháp, các dự án đầu tư công…
“Và Việt Nam chưa có luật về lobby, tức là không biết những ai được ảnh hưởng gì tới những quyết định của Chính phủ. Đầy là những điều mà chúng ta (Việt Nam) cần phải làm trong thời gian sắp tới đây.
“Và điều ấy không dễ dàng bởi vì nó sẽ hạn chế, thậm chí nó tước bỏ lợi ích nhóm của một số người, nhưng một số người hiện nay giàu lên rất nhanh vì người ta có quyền ăn chênh lệch giá đất, vì là người ta cho phép ai đó đốn hết gỗ ở Tây Nguyên đi.
“Vì là người ta cho phép ai đó được khai thác mỏ, tài nguyên, rồi sau đó (tài nguyên) mỏ đó được xuất đi đâu cũng không rõ ràng.”
Nhân tố hy vọng
Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội 6 đã khởi động cuộc đổi mới kinh tế và thể chế, trước câu hỏi liệu Đại hội lần thứ 12 tới đây ‘có dám’ đưa ra một cuộc đổi mới hai mang tính chất lịch sử hay không, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nêu quan điểm:
Image copyrightBBC World ServiceViệt Nam đã cam kết gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), theo nhà phân tích.
“Hiện nay đang có những nhân tố để chúng ta có thể hy vọng, nhân tố rất quan trọng là chuyến thăm lịch sử của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Hoa Kỳ và được Tổng thống Obama đón tiếp rất trọng thị ở phòng Bầu dục và trong đó hai bên đã có cam kết tôn trọng lẫn nhau.
“Và Việt Nam cam kết sẽ gia nhập Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), nếu gia nhập cái đó, Việt Nam phải tôn trọng một số cam kết về mặt nhân quyền, về mặt tự do được thành lập công đoàn.
“Và nhân quyền ở đây không có cái gì to tát, cũng không có câu chuyện gì là diễn biến hòa bình cả, đấy là quyền của người dân được biết thông tin.
“Đấy là quyền của người dân được phát biểu ý kiến, đấy là quyền của người dân được biểu tình; như là đốn cây xanh ở Hà Nội thì người dân có quyền đi biểu tình để phản đối việc đốn cây xanh ấy. Tất cả điều đó không có gì ghê gớm cả và một quyền nữa là quyền lập hội.
“Tất cả quyền đó, Hiến pháp Việt Nam đã có quy định, nhưng đến bây giờ chưa có luật, thì hy vọng Đại hội 12 này sẽ có một bước chuyển biến và thừa nhận những quyền đó, thực thi Hiến pháp mà chính Quốc hội Việt Nam đã thông qua,” Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói với BBC.
Quý vị có thể theo dõi toàn văn nội dung cuộc phỏng vấn của BBC với TS. Lê Đăng Doanh trên kênh YouTube của chúng tôi tại đây.
Thời gian qua, đã có nhiều hy vọng và phán đoán rằng trong dịp lễ Quốc Khánh 2/9 năm nay sẽ có nhiều tù nhân chính trị – tù nhân lương tâm được trả tự do.
Trong cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ còn dấy lên niềm tin tưởng lạc quan rằng lần này có thể đón mừng “toàn thể tù nhân chính trị ở trong nước được trở về cuộc sống tự do” dựa trên cơ sở thực tế là chưa bao giờ cộng đồng người Việt lại tham gia ranh đấu sôi nổi, rộng khắp như vừa qua, vận độn sát sao các dân biểu, thượng nghị sỹ, các hội đoàn nhân quyền, dân chủ từ các tiểu bang cho đến ở Thủ đô Washington DC, với kết quả là chưa bao giờ các chính khách Hoa Kỳ nhận đỡ đầu nhiều tù nhân chính trị ở Việt Nam như hiện nay. Nhiều nhà bình luận thời sự quốc tế cũng lạc quan không kém, khi ghi nhận lời cam kết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Barack Obama tại Tòa Bạch ốc rằng “vấn đề nhân quyền cũng là mối quan tâm lớn của chúng tôi, để nhân dân ngày càng có nhiều quyền tự do”.
Ai cũng có thể nhận ra rằng một khi người lãnh đạo CS nhận ra rằng trả tự do cho một số đáng kể tù nhân chính trị, dù chưa trả hết toàn bộ, sửa đổi vài điều khoản phi lý trong bộ Luật Hình sự về vi phạm an ninh quốc gia, công nhận quyền lập công đoàn độc lập của người lao động, thì Việt Nam có thể dễ dàng được đón nhận vào Khối TTP với rất nhiều điều lợi, và từ đó Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ có thể nâng cao, rất cao, uy tín của mình ở trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Thế nhưng sự thật cho đến nay là không phải như thế.
Sự thật oái oăm và phủ phàng là vào dịp Quốc khánh 2/9 sắp tới sẽ có đến 17.000 tù nhân được đặc xá, nhưng…trong đó có thể không có một tù nhân chính trị nào, hoặc nếu có cũng chỉ là không đáng kể, theo nguồn tin chính thức từ Hà Nội, qua lời của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là như vậy. (theo mạng Thời báo VN của Hội nhà báo VN độc lập, 22/8).
Thế là toàn dân ta lại bị lừa. Tổng thống Obama đã bị bịp. Công luận thế giới đã bị ăn một quả lừa to đùng. Hằng trăm gia đình, vợ chồng, con cái, bạn bè người thân các tù nhân chính trị ăn phải quả đắng không sao chịu nổi của chính quyền CS, nói một đằng làm một nẻo, đến độ trơ trẽn, lạnh lùng và gian ác đến mức vô cùng tận.
Tại sao ở Miến Điện và ở Cuba chính quyền quân phiệt và cộng sản có thể trả tự do cho 43 đến hàng ngàn tù chính trị một lúc mà lãnh đạo CSVN lúc này lại không thể làm như thế ? Sao mà họ keo kiệt, ngang ngược về chính trị đến vậy?
Đó là câu chất vấn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chất vấn 16 uỷ viên Bộ Chính trị – Vua tập thể đang nắm quyền toàn trị. Đó cũng là câu hỏi xoáy sâu trong tim gan mỗi công dân Việt Nam yêu nước, thương dân, làm sao lại để xảy ra một tình hình trái khoáy, trớ trêu, cực kỳ nguy hiểm đến vậy? Và nay phải làm gì để cứu nước trong cơn hoạn nạn, trong cảnh trầm luân không lối thoát này?
Đây có thể là cuộc thách thức và cuộc khiêu khích cuối cùng của một chế độ toàn trị Cộng sản trơ trọi lạc lõng giữa thế giới dân chủ hùng mạnh và phát triển, một thái độ thách thức và khiêu khích láo xược đối với dân tộc, với lịch sử kiên cường của dân tộc Việt Nam, với tổ tiên và các thế hệ con cháu chúng ta, không một ai là người Việt Nam chân chính có thể bỏ qua được.
* Blog của nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nhà báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài VOA. Ðối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.
Việt Nam không cần có thêm cách mạng mà chỉ cần cải tổ, đổi mới ‘ổn định’, ‘dài hơi’, theo các nhà phân tích.
Việt Nam sẽ không cần tới một cuộc cách mạng mà có thể chỉ cần tới ‘cải cách, đổi mới’ có tính cách dài hơi và ổn định, theo ý kiến các nhà quan sát về chính trị – xã hội Việt Nam.
Trao đổi với BBC nhân dịp nhìn lại 70 năm cuộc Cách mạng Tháng 8 và ngày độc lập 2/9/1945, trước hết, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng viện nghiên cứu phản biện độc lập (IDS đã tự giải thể), nói:
“Tôi rất ghét cách mạng, tôi chỉ thích tiến hoá mà thôi,” nhà vận động cho xã hội dân sự ở Việt Nam nói với BBC bên lề một cuộc Hội thảo tư ở Đại học Humboldt, Berlin, CHLB Đức dịp hè này.
“Bởi vì các cuộc cách mạng, nhìn suốt lịch sử thế giới, đều là các cuộc cách mạng vô cùng tàn bạo. Cái giá nó mang lại cho nhân loại hoặc cho từng dân tộc đều rất đắt, cho nên là dẹp cách mạng đi.” Tiến sỹ Quang A giải thích quan điểm của mình.
Khi được hỏi liệu Việt Nam hiện nay có cần có thêm một cuộc cách mạng toàn diện nữa hay không sau bảy thập niên diễn ra cuộc cách mạng mùa thu 1945, cũng tại khuôn viên Đại học Humboldt, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, nói:
“Tôi nghĩ là không cần một cuộc cách mạng toàn diện nhưng mà cần những thay đổi dài hơi và ổn định.
“Chứ nếu mà không thì dân tộc Việt Nam và đất nước Việt Nam sẽ trả một giá rất là lớn.”
Rất lấy làm tiếc
Trước câu hỏi liệu các mục tiêu căn bản mà cuộc cách mạng, cướp chính quyền, giành độc lập mà Việt Nam thực hiện 70 năm về trước đã đạt được hay chưa, TS. Nguyễn Quang A ‘lấy làm tiếc’ và cho rằng Việt Nam ‘chưa đạt được’.
Image copyrightAFPImage caption Việt Nam đã đạt được ‘độc lập’ nhưng mục tiêu tự do, dân chủ, nhân quyền như đích đến vẫn chưa đạt được, theo nhà bình luận.
Ông giải thích: “Chưa đạt là bởi vì tất cả những mục tiêu dân giàu nước mạnh, những mục tiêu về độc lập dân tộc, kể cả những mục tiêu về dân chủ chưa đạt, rất đáng tiếc là sau bảy mươi năm.”
Các cuộc cách mạng có thể được coi là một ‘điểm khởi đầu’, dù được cho là quan trọng ra sao, thế nhưng sau đó, quốc gia trải qua cuộc cách mạng ấy cần phải ‘đi tiếp’ những gì nữa, đặc biệt là đối với Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay và sắp tới.
Trả lời câu hỏi này của BBC, Giáo sư Ngô Vĩnh Long nêu quan điểm:
“Trước hết phải nhắc lại khi Hồ Chí Minh ra tuyên ngôn độc lập “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”
‘Độc lập tiếng Anh gọi là ‘Free From’ (tiếng Anh gọi là Independence).
“Còn ‘Tự do’ gọi là ‘Free To’, tức là Việt Nam hiện giờ vẫn chưa có tự do để dân chúng có thể làm những gì mà họ muốn được, để tạo ra một đất nước mới, dân chủ như anh Nguyễn Quang A đã nói.”
Người cày có ruộng?
Khi được đề nghị cho biết liệu các mục tiêu như người cày có ruộng, công nhân có xưởng mà cuộc cách mạng ban đầu đề ra đến nay đã đạt được đến đâu trên thực tế, Tiến sỹ Nguyễn Quang A nói:
“Thật sự là vào giữa những năm 50, đúng là người cày có ruộng với cuộc cải cách ruộng đất.
“Nhưng mà sau đó lại hợp tác hoá, đến nay sở hữu đất đai thuộc sử của toàn dân, người cày không có ruộng, đấy là một điều rất rất đáng tiếc.”
Còn đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, nhà quan sát này nói tiếp:
“Công nhân, rất đáng tiếc đến bây giờ các cuộc đình công nổ ra trong những năm vừa qua rất là nhiều.
“Thật sự là mối quan hệ giữa công nhân và giới sử dụng lao động là càng ngày càng lên cao.
Trí thức và quần chúng VN, bất kể giới nào, cần phải tự ý thức được các quyền lợi của mình mà không cần chờ đợi ‘xin cho’, theo nhà phân tích.
Và Đảng Cộng sản Việt Nam lẽ ra tự xưng là tiên phong của giai cấp công nhân thì phải để cho giai cấp công nhân tự đứng ra tổ chức, đấu tranh với giới chủ.
“Đáng tiếc Đảng Cộng Sản Việt Nam bây giờ là Đảng ủng hộ giới chủ và giai cấp công nhân bây giờ là giai cấp bị chèn ép đủ đường,” nhà phân tích nói.
‘Tự xé mở dù’
Có người cho rằng văn hóa nói chung và chính trị nói riêng có thể có điểm tương tự như một ‘chiếc dù’ mà đã là ‘dù thì phải mở tung’.
Trước câu hỏi liệu hiện nay trí thức Việt Nam nói riêng và quần chúng Việt Nam nói chung đã được ‘mở cây dù đó’ chưa và liệu họ có nên được hưởng ‘cái dù mở’ đó hay không, Giáo sư Ngô Vĩnh Long nói:
“Cây dù chưa được hưởng, nhưng được hé một tí.
“Và cũng là nhờ sự tranh đấu của trí thức Việt Nam và của bao nhiêu người Việt Nam.”
Còn Tiến sỹ Nguyễn Quang A bình luận thêm:
“Tôi thì nghĩ rằng giới trí thức hay bất kể giới nào không cần phải đợi hay phải được mở cái dù ấy ra.
“Tự mở cái dù ấy ra hoặc tự xé cái dù ấy ra. Bởi vì đấy là cái quyền mà Hiến Pháp quy định.
“Đừng đợi người ta mở cho mình. Mình phải mở lấy và đấy là điều quan trọng,” ông nói với BBC tại khuôn viên Đại học Humboldt, Berlin trong dịp Hè này.
Mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi của BBC với TS. Nguyễn Quang A và Giáo sư Ngô Vĩnh Long tại đây và theo dõi chuyên mục đánh dấu 70 năm Cách mạng tháng Tám của Việt Nam và kết thúc Thế chiến II trên trang Diễn đàn của BBC Tiếng Việt tại đây.
Tấm ảnh Hoàng Thành trước trụ sở bộ Giáo Dục đang được chia sẻ nhiều trên Facebook
Một thanh niên sống ở Hà Nội đã bị công an bắt hai lần trong hai ngày qua sau khi có hành vi phản đối Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hôm 26/8, ông Hoàng Thành cho BBC Tiếng Việt biết ông đã bị công an ‘hỏi thăm’ vì cầm tấm biển ghi ‘Học sinh, sinh viên không phải là chuột bạch’ trước trụ sở Bộ hôm 23/8.
Ông kể: “Công an yêu cầu tôi lập tức lên phường để ‘hỗ trợ thông tin’ về việc này. Lúc đầu tôi không đồng ý nhưng đành chịu.
Công an lập biên bản với một tập hình ảnh chụp từ Facebook cá nhân của tôi. Biết tin tôi đang ở phường, bạn tôi là facebooker Thảo Gạo, nhà báo Đoan Trang đã đến yêu cầu dừng ngay sự việc bởi công an đã không làm đúng thủ tục hành chính khi đưa tôi lên đây lập biên bản mà không có giấy mời”.
Tuy phía công an đã để ông Thành ra về vì áp lực của nhóm ‘đòi thả người’ nhưng công an khu vực vẫn tiếp tục đến nhà ông vào tối hôm đó.
“Về phía công an, tôi cám ơn họ đã trao đổi lịch sự”, ông Thành nói.
BBC Tiếng Việt cũng có hẹn phỏng vấn video trực tuyến với ông Thành lúc 16:00 chiều 26/8 nhưng trước đó ông nhắn tin cho biết công an đang ở nhà ông.
‘Quyền phản biện chính sách’
Hôm 27/8, trả lời phỏng vấn của BBC Tiếng Việt, ông Thành giải thích hành động cầm tấm biển trước Bộ Giáo dục phát xuất từ nỗi bức xúc khi chứng kiến cuộc xét tuyển đại học ‘như chứng khoán’.
‘Nhiều gia đình lục đục, đổ vỡ vì đứa con không thi đậu đại học, cô cậu thí sinh cay đắng, tự ti, suy sụp vì thất bại…’, ông mô tả trên Facebook.
Ông nói: “Tôi không muốn thêm một lời chỉ trích, kẻo lại có người bảo tôi ‘chỉ biết chửi, chẳng làm được gì’.
Nhưng tôi muốn mỗi người trong chúng ta, nhất là các thí sinh hiểu rằng chúng ta có quyền phản biện chính sách, có quyền tham gia vào tiến trình ra quyết định trong các vấn đề lớn của đất nước”.
Do đó, ông không ngại mình sẽ gặp rắc rối khi phát đi thông điệp:
“Này Bộ Giáo dục và Chính phủ Việt Nam, học sinh – sinh viên chúng tôi không thể cứ mãi là chuột bạch cho các cuộc thử nghiệm vĩ đại của các vị!”.
Đây là lần đầu tiên, ông Thành công khai tiếng nói phản biện trên Facebook và nhận được nhiều phản hồi tích cực từ cộng đồng mạng.
Tiếp tục bị bắt
Sau khi đã được tự do chiều 26/8, bạn bè ông Thành nói ông tiếp tục bị bắt giữ sáng 27/8, ngày có cuộc tụ họp phản đối của các bạn trẻ trước Bộ Giáo dục và Đào tạo
Blogger Đoan Trang, một trong những người tới đồn công an phường Yên Hoà yêu cầu trả tự do cho ông Thành chiều 26/8, viết trên Facebook của bà:
“[T]ừ chiều tối và đêm qua đến sáng nay (27/8) [Hoàng Thành] đã liên tục bị công an khu vực quấy rối, hăm dọa. Từ sáng sớm, họ đã bao vây cổng nhà Thành, liên tục bấm chuông, gọi điện đòi vào nhà kiểm tra hành chính (?).
“Thành mệt quá nên không mở cửa. CA tiếp tục gọi cho chủ nhà trọ của Thành, ép ông phải đến tận nơi lôi cổ “thằng Thành” ra ngoài. Cùng lúc đó, em gái của Thành cũng phải ra ngoài để đi học. CA tranh thủ lúc chủ nhà đến và em gái Thành phải mở cửa, đã ập vào trong và dùng sức mạnh lôi Thành lên đồn.
“Hiện giờ Hoàng Thành đang bị giữ ở đồn CA phường Yên Hòa, 253 Nguyễn Khang, Hà Nội. Lý do ban đầu mà CA đưa ra để làm việc với Thành là “kiểm tra hành chính”, tuy nhiên CA cũng như Thành, cũng như chúng ta, đều hiểu lý do chính là vì Thành đã giương cao tấm poster tuyên bố mình không muốn làm chuột bạch – ngay trước cổng Bộ Giáo dục và Đào tạo, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam.”
Đoan Trang cũng viết Hoàng Thành sinh năm 1990 ở Hải Phòng, là cựu sinh viên ngành tiếng Nhật.
Thị trường chứng khoán châu Á sụt giá vì Trung QuốcCổ phiếu sụt giá mạnh ở Trung Quốc và khắp châu Á hôm 21/8, sau khi các số liệu mới công bố về lĩnh vực sản xuất mang tính sống còn của Bắc Kinh thấp hơn so với dự kiến
Chứng khoán Mỹ hôm thứ ba đã tăng giá trở lại trong một thời gian ngắn, nhưng chỉ số Dow Jones đã giảm thêm gần 1,3% vào lúc kết thúc ngày giao dịch. Các nhà phân tích cho rằng sóng gió hiện nay trên các thị trường chứng khoán trên thế giới phát xuất từ những mối lo ngại là kinh tế Trung Quốc có lẽ đang gặp phải những sự khó khăn lớn hơn so với dự đoán trước đây.
Hôm thứ ba Trung Quốc đã giảm lãi suất 0,25% và nới lỏng những qui định về tỉ lệ ngân khoản dự trữ của các ngân hàng để bơm thêm tiền vào hệ thống tài chánh nhằm kích thích nền kinh tế. Tuy đã góp phần làm cho các thị trường ở Âu Châu và Hoa Kỳ được bình ổn đôi chút, những hành động đó vẫn chưa đủ để ngăn chận đà tuột dốc của các thị trường chứng khoán ở Á Châu.
Ông Kevin O’Leary, một nhà phân tích của Quỹ Đầu tư O’Shares, cho rằng sở dĩ như vậy là vì triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc vẫn còn u ám.
“Thay vì nghĩ rằng Trung Quốc tăng trưởng với tỉ lệ 8%, chúng tôi nghĩ rằng họ sẽ tăng trưởng 5% hoặc 6%. Đó là mức tăng trưởng thấp hơn 20% so với dự đoán.”
Ông Eric Wiegand, một nhà quản trị đầu tư cấp cao của công ty tài chánh US Bank, cho rằng tình hình đó khiến cho một số nhà đầu tư né tránh những sự bất trắc trong thị trường cổ phiếu ở Trung Quốc, và thay vào đó, họ tìm mua những loại trái phiếu bán với giá rẻ.
“Đối với các nhà đầu tư Mỹ, chúng tôi nhận thấy điều này đang tạo ra những cơ hội. Chúng tôi vẫn tin là vẫn còn những sự hấp dẫn rất lớn của các loại trái phiếu khi nói tới thị trường cổ phiếu quốc nội.”
Tuy nhiên, nếu Trung Quốc không ổn định được tình hình, bất kỳ sự hồi phục nào của các thị trường Âu Châu và Hoa Kỳ cũng đều không thể kéo dài. Ông Nicholas Lardy, một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về kinh tế Trung Quốc, cho biết như sau.
“Tôi nghĩ rằng lý do chính khiến cho Trung Quốc quan trọng nhiều như vậy là Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới. Đây là nền kinh tế ngoại thương lớn thứ nhì thế giới. Do đó, nếu thành tích kinh tế của Trung Quốc bị yếu kém, phần còn lại của thế giới sẽ phải trả một cái giá.”
Đối với các thị trường tài chánh trên khắp thế giới, sự dao động của giá cả mỗi lúc một lớn. Điều đó có thể thấy rõ tại Phố Wall hôm thứ ba, khi chỉ số Dow Jones tăng tới 3,5% trong những vụ mua bán lúc ban đầu để rồi tụt mạnh xuống tới mức âm vào lúc kết thúc ngày giao dịch.
“Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?…”
(Theo hồi ký “Đèn cù” của Trần Đĩnh)
Những oan hồn tạo ra từ 70 năm nay trên con đường cách mạng ấy đã và đang rộn ràng hòa vào những đôi mắt sống của người dân. Những mắt ấy mở chong đêm ngày theo dõi và tính sổ những cuộc bội phản nhân dân, đợi ngày kết thúc cái chính thể phi tự nhiên ấy , tới một cuộc Đại Giải Oan cho nước Việt.
Giết và giẫm đạp cả thi thể “Mẹ nuôi cách mạng”
Những chứng nhân của thời Cải cách ruộng đất hoặc những người đã đọc, đã nghe kể qua câu chuyện này thì không thể không bị ám ảnh về số phận đau thương của bà và hàng triệu người VN khác bởi chính sự phản trắc, sự tàn ác của chính những người đứng đầu đất nước và cán bộ đội cải cách thời đó. Không một lý do nào có thể biện minh cho những tội ác ấy.
Người ta vẫn phải nhắc đến người đàn bà ấy, gần 70 năm nay, từ ngày bà bị chính quyền cách mạng xử tử . Không năm nào không nhắc, nhất là mỗi khi đến dịp rầm rộ kỷ niệm cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2/9. Chuyện không thể cũ đi, vì nỗi oan chưa được giải và nguyên nhân của những cuộc oan mới ngày càng chồng chất trên đầu nhân dân VN.
Oan hồn của người đàn bà ấy, và hàng triệu người VN khác đương nhiên không thể không bay lượn trên bầu trời Ba Đình, chong triệu đôi mắt đợi ngày kết thúc của cái thể chế phản trắc ấy, bởi cái gì dối trá và đi ngược lại quyền lợi đất nước thì sẽ đến ngày tự hoại.
“Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta đã cảm thấy có gì nên cứ lạy van “các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh.” Du kích quát: “đưa đi chỗ giam khác thôi, im!.” Bà ta vừa quay người thì mấy loạt tiểu liên nổ ngay sát lưng…Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?” Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy…”(Qua lời kể của Tiêu Lang, phóng viên báo Cứu quốc trong đội cải cách ruộng đất- Trần Đĩnh ghi)
Ngày ấy Việt Minh cướp chính quyền thành công và có ngày Cách mạng tháng Tám 1945.
Bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long ngây ngất hạnh phúc vào ngày ấy. Lý tưởng giải phóng nô lệ, tự do dân chủ bình đẳng bác ái mà bà theo đuổi nay đã được Việt Minh hứa thực thi trên đất nước của bà.
Người đàn bà ấy đã “phóng xe nhà có cắm cờ đỏ sao vàng, từ Hải Phòng lên Thái Nguyên nơi quân Nhật còn chiếm đóng, đến tận Đình Cả Võ Nhai để báo tin cho con trai và đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành được chính quyền”.
Tư liệu cho biết, bà được người Việt Minh tôn xưng là “Mẹ nuôi của cách mạng”, mẹ nuôi của Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ và Trường Chinh. Cái người đàn bà ngây thơ một lòng tin yêu cách mạng ấy đã cứu giúp rất nhiều đầu lĩnh cao cấp nhất của Việt Minh như , Hoàng Quốc Việt, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị …
Bà không biết rằng chính bà và nói đúng hơn là hầu hết dân VN, đã sập một cái bẫy lớn nhất, tàn bạo nhất, chỉ do đã quá ngây thơ tin vào những lừa mỵ. Bà đã đặt quá nhiều ảo tưởng vào một miếng mồi đặt sẵn trong bẫy.
Đó là miếng mồi được phun thứ nước hoa gây áo giác về lý tưởng giải phóng dân tộc và xóa áp bức, nô lệ.
Dù bà có công lớn với Việt Minh bao nhiêu đi nữa, dù bà có là mẹ nuôi cách mạng, thì cửa bẫy cũng đã sập xuống. Thân xác bà không lâu sau sẽ tan nát bởi các con nuôi của chính bà – những người đã qua thời hàn vi, nay chững chạc đứng trong hàng nguyên thủ quốc gia hãm hại.
Bà Năm vốn là một người lam lũ làm lụng mà có tài kinh doanh. Bắt đầu từ buôn sắt vụn, bà dần tậu ruộng vườn, đồn điền và hiệu buôn.
Theo nhiều tư liệu để lại thì bà Năm đã làm theo lời ngon ngọt của Tổng Thư ký Hội nhà văn VN Nguyễn Đình Thi. Ông Thi cũng có được đức lớn như nhiều người cầm bút VN khác, là thành danh và lập nghiệp, vinh thân phì gia suốt đời bởi tài năng dẫn dụ kẻ khác bỏ tiền của ra và chết bỏ xác cho cách mạng, còn số phận của những người đã nghe theo ông thì ông phủi tay.
Bà Năm đã bỏ phần lớn tài sản ra để giuisp đỡ nuôi nấng nhiều đoàn quân và và nhiều đầu lĩnh quyền lực nhất của Việt Minh trong đó có Hồ Chí Minh…
Đó là thời Việt Minh còn hàn vi trứng nước, bất cứ lúc nào cũng có thể chết đói hoặc bị bắt giam bởi quân chính phủ Pháp nên họ cần bà và những nhà địa chủ, tư sản, những trí thức nổi tiếng và họ cần xương máu của dân để lập nên ngai vàng cho họ. Thuở ấy, ngay cả việc mua vài khẩu súng thì Việt Minh cũng phải trông vào tài ăn nói để khuyến dụ dân bỏ vàng ra cho họ thông qua “Tuần lễ vàng” ….
Bà Năm là một trong những người đóng góp công của lớn nhất cho Cách mạng Tháng tám. Ngoài nhà cửa, lương thực vải vóc thóc gạo thuốc men vô kể, bà đã đóng góp tương đương 700 lạng vàng. Sau cách mạng 1945, bà cũng theo cách mạng tản cư lên Thái Nguyên, mua lại đồn điền của một ông Tây và tiếp tục dùng đồn điền, tiền bạc hỗ trợ kháng chiến. Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội đã được che chở và nuôi nấng trong đồn điền của bà.
Khi chính phủ VNDCCH tổ chức Tuần lễ vàng, bà lại đóng góp hơn 100 lạng vàng. Khi thực hiện lệnh “tiêu thổ kháng chiến”, bà tự tay san bằng khu biệt thự Đồng Bẩm tại Thái Nguyên để hưởng ứng.
Người VN không lạ gì điển tích bát cơm Xiếu mẫu ngày xưa, Hàn Tín thuở hàn vi đói khát, gặp được bà Xiếu mẫu giặt sợi bên sông mang cho bát cơm ăn. Sau này hiển đạt, ông đã mời bà Xiếu mẫu đến để bái tạ, trả ơn cả ngàn lạng vàng.
Các cán bộ Việt Minh và cách mạng tháng 8 cùng quan chức VN sau này thì luôn làm ngược lại ông Hàn Tín và đức cư xử của người Việt. Họ ăn vô số bát cơm của bà Năm, mặc quần áo bà, ở nhà bà. Bà nuôi quân, bà cho tiền mua súng, nhưng họ trả ơn bằng cách chà đạp và giết bà cũng như giết nhiều ân nhân khác của cách mạng.
Vì bà chỉ có công, không có tội nên để giết bà, các con nuôi, bây giờ đã là chủ tich, phó chủ tịch nước và toàn những chức danh thuộc hàng đứng đầu nước VNDCCH đã gán cho Mẹ nuôi tội “giả dối nhằm chui sâu leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại” và tội “tư sản địa chủ cường hào gian ác”.
Nhiều người đưa ra chứng cứ khẳng định rằng Hồ Chí Minh đã viết bài ““Địa chủ ác ghê” ký bút danh là C.B(của Bác) đăng trên báo Nhân dân ngày 21/7/1953. Chính bài báo này là đòn sấm sét, đổ cho bà tội “làm chết 23 gia đình gồm có 200 người…Giết chết 14 nông dân, tra tấn đánh đập hàng chục nông dân…, đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến…”.
Thuở các vị này còn phải sống nhờ vào “bát cơm Siếu mẫu” của bà, họ âu yếm gọi bà là Mẹ Nuôi. Khi cách mạng thành công, vài năm sau, chính quyền đã đủ lông đủ cánh, có Trung quốc tư vấn dạy dỗ và nuôi nấng, lại có cả mấy chục triệu dân đóng sưu thuế cung phụng, thì chính những đầu lĩnh đó đã ký lệnh đem bà ra đấu tố, lăng mạ bà. Bà bị họ phát động cho cả ngàn người đổ tội và chửi rủa, tịch thu hết tài sản.
Rồi bà bị bắn bằng một loạt đạn hèn hạ từ sau lưng.
Nhớ công ơn nuôi nấng của bà, các con nuôi ưu tiên cho Mẹ cho bà được xử chết đầu tiên để làm điểm tựa phát động “cuộc cách mạng long trời lở đất”.
Chưa đủ, họ còn cho đội cải cách ruộng đất nhảy lên giẫm đạp xác bà cho gẫy nát để lọt vào cỗ áo quan rẻ mạt. Hai con trai của bà, dù cũng đã tham gia cách mạng lập công lớn nhưng cũng bị đấu tố, dù còn sống sót nhưng cả đời cũng bị trù dập và suốt đời sống trong địa ngục vì nỗi oan khuất trút lên đầu cả dòng họ.
* “Người bịt râu”
Con bà Năm đội đơn gần 70 năm đi đòi công lý cho bà và gia đình nhưng tận đến bây giờ, dù đảng và nhà nước VN biết rõ, những tác giả gây ra tội ác ất chết từ lâu nhưng nhà cầm quyền hiện tại cũng không chịu trả lại công bằng cho gia đinh bà.
Để làm được cách mạng tháng 8 và xây dựng được thể chế cộng sản và vận hành nó, người ta phải có gan đem Mẹ nuôi cách mạng ra hành hạ, giết chết rồi giẫm đạp lên xác. Cũng phải có gan tráo trở đổ tội và giết hại bao đồng chí mình – những đồng chí đã vì lý tưởng mà đem của nhà, đem tri thức ra để xây dựng những chi bộ đầu tiên cho cách mạng, làm cái nôi nuôi nấng đưa Việt Minh, đưa kháng chiến đến thắng lợi?!
Để làm được cuộc cách mạng và thể chế cộng sản, họ cũng phải có gan đổ tội cho người vô tội, dám chửi bới nhục mạ cha mẹ theo số đông để sống sót hoặc để tiến thân. Họ phải đủ gan để “thà giết nhầm mười người còn hơn bỏ sót một địch” và đào tận gốc trốc tận rễ trí thức cùng những người tài giởi giàu có!
Theo hồi ký “Đèn cù “ của Trần Đĩnh thì lúc đó ông là phóng viên báo Nhân dân được Trường Chinh cử viết bài tường thuật về vụ đấu tố. Hồ Chí Minh đã ngụy trang bằng cách bịt râu, Trường Chinh thì đeo kính râm bí mật tới dự vụ đấu tố.
Đến khi sửa sai cải cách ruộng đất, oan án của bà Năm, dù những người có quyền lực nhất đều biết nhưng cũng không chịu làm chỉ vì họ không thể thừa nhận cái sai và tội ác của chính họ trực tiếp gây ra và tiếp tục che giấu.
Cải cách Ruộng đất đi kèm Chỉnh đốn Đảng là quà tặng mang tính “bom nguyên tử”, “bom chất độc” đầu tiên mà cách mạng đã giáng cho những ân nhân của họ và người dân VN. Bằng việc vu oan, cướp, tra khảo và giết, họ đã đem ruộng đất cướp được chia cho bần cố nông nhưng để cướp đoạt lại vĩnh viễn vào 3 năm sau đó – 1959 cho đến tận bây giờ dưới mỹ từ “sở hữu toàn dân”.
Từ 1959 đến nay, rồi qua và Hiến pháp 1980, Luật Hợp tác xã 1990, người VN bị tước đoạt quyền sở hữu ruộng đất, sống vật vờ hồn xác trên mảnh đất mình đổ mồ hôi xương máu. Riêng nông dân cũng phải gánh hơn một ngàn loại và lệ phí ngoài sưu cao thuế nặng để nuôi bộ máy tham nhũng một cổ ba tròng. Chưa đủ, họ hoàn toàn có thể bị chính quyền kết hợp với một lực lượng bạo quyền nào đó cướp đi bất cứ lúc nào và khi họ có phản ứng kêu oan thì sẽ bị đàn áp, bắt giam thậm chí đánh chết trong đồn công an và con cháu, anh em gia đình cũng bị trả thù thành không chốn nương thân.
* Hãy chôn chiếc bẫy xuống địa ngục vì đây là thế giới Người
Đó là thành quả Cách mạng Tháng Tám. Thành quả của một chính thể độc tài cộng sản. Đó chính là chiếc bẫy khổng lồ với bộ răng sắc nhọn trường tồn đã 70 năm trên đầu dân VN. Chiếc bẫy đó đã quy định đường ray vận hành cho nó: bất cứ ai lên cầm quyền cũng phải quay ra phản bội quyền lội nhân dân, đất nước và dân tộc để giữ ghế và quyền lợi riêng cùng phe nhóm.
Lẽ ra người VN đã có thể an lòng lắng dịu với những số phận đau thương do những chính sách và hành vi sai lầm của chính quyền cách mạng gây nên, nếu như những nhà cầm quyền thế hệ ấy và thế hệ sau biết cư xử công bằng, minh oan, đền bù cho họ và vận hành bộ máy cầm quyền theo đúng những điều họ đã hứa ban đầu khi hô hào dân nổi dậy giúp họ giành chính quyền.
Nhưng không, ngay cả thế hệ sau này không liên quan gì đến tội ác thời các thế hệ tiền bối đã làm nhưng họ cũng không sửa sai, lại tiếp tục lừa mỵ và phản trắc người dân
Người oan đã chết, thân xác họ đã tan hòa vào đất, nhưng nỗi oan và món nợ mà xã hội nợ họ thì tồn tại mãi mãi trong người sống. Nỗi oan đó chỉ lắng dịu đi khi xã hội giải oan cho họ bằng hành động, chứ không chỉ bằng lời nói.
Hãy chôn chiếc bẫy xuống địa ngục, vì đây là thế giới Người.
Và không chỉ dân đâu, chính những người có quyền lực đang hành ác hiện nay cũng cần thoát khỏi chiếc bẫy đó, vì chẳng quyền lực, địa vị, tiền bạc nào tồn tại được mãi mãi. Họ và con cháu họ cũng cần được trở lại làm người, sống trong tự trọng và bình an.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và quốc khánh 02/9, có rất nhiều người đã đề cập tới ý nghĩa của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, với nhiều khía cạnh và góc độ. Tôi đồng ý với anh Nguyễn Gia Kiểng trong bài viết “Nhìn lại Cách mạng tháng Tám”, về vấn đề lực lượng và thực lực của đảng cộng sản Việt nam trong thời điểm bước ngoặt của thời cuộc. Độc lập dân tộc là điều cần thiết, không thể nhân nhượng và cần được đánh dấu một cách mạnh mẽ sau một thế kỷ đất nước chịu cảnh đô hộ. Cuộc Cách mạng tháng Tám đã diễn ra, đảng cộng sản là tổ chức có thực lực nhất, cũng như có sự chuẩn bị để tiếp nhận và xây dựng lên một nhà nước mới. Nhưng kể từ khi nhà nước mới ra đời, nhân dân Việt nam đã rơi vào vòng nô lệ của chế độ độc tài toàn trị cộng sản.
Có một vấn đề rất lớn và quan trọng, với những mục đích (về lý thuyết) rất cao đẹp, trong sáng và với những con người nhiệt huyết, yêu nước như vậy tại sao nhà nước lại đưa nhân dân tới hết thảm họa này tới thảm họa khác? Điều mà phần lớn những người tham gia xây dựng lên nhà nước cộng sản và tham gia vận hành hệ thống chuyên chính vô sản không hiểu, và không tưởng tượng nổi, những thảm họa của người dân đều là những bước đi cần thiết của nhà nước cộng sản. Quan trọng hơn, những thảm họa đó đã được lên kế hoạch, chuẩn bị rất chu đáo, kỹ lưỡng và bài bản. Chúng ta lấy hai ví dụ, để chứng minh lập luận này. Cải cách ruộng đất (CCRĐ), ngay từ những năm 1953-1954, Việt nam đã cho cán bộ sang Trung quốc học tập kinh nghiệm bài bản về cải cách ruộng đất. Quá trình tập huấn kéo dài mấy năm, khi diễn ra CCRĐ vẫn còn được các chuyên gia Trung quốc sang hướng dẫn và uốn nắn kịp thời. Một điểm đặc biệt chứng tỏ sự chuẩn bị của nhà cầm quyền Việt nam, kế hoạch sửa sai có trước khi CCRĐ diễn ra. Mục tiêu tối thượng của CCRĐ là bần cùng hóa nhân dân để áp đặt sự thống trị, đó chính là nhận thức triệt để, khái quát nhất của học giả Hoàng Văn Chí trong cuốn sách “Từ Thực dân tới Cộng sản”. Tương tự như vậy, với mục đích đập tan sự kháng cự và phản kháng của tất cả các thành phần công, binh, cán, chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nhà nước cộng sản Việt nam đã bắt ép 1,5 triệu người thuộc các thành phần trên đưa vào các trại cải tạo, lao tù để đày đọa. Với một số lượng lớn người như vậy, tất cả đều được thực hiện bài bản, nhịp nhàng không thể nói chưa có sự chuẩn bị trước mà nhà cầm quyền Việt Nam lại thực hiện nổi việc đó. Cuối cùng, họ đã thành công mỹ mãn, hầu như không có một sự phản kháng đáng kể từ các lực lượng còn lại của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Nhưng vẫn còn đó, một sự thắc mắc còn lớn hơn. Tại sao nhà nước Cộng sản Việt Nam có thể dẫn dắt nhân dân đi hết từ thảm họa này tới thảm họa khác? Tức là họ đã không hề gặp một sự phản kháng nào đáng kể, điều gì đã làm người dân phải chịu đựng đảng cộng sản và chế độ như vậy? Đi sâu vào phân tích cách thức guồng máy chuyên chính vô sản hoạt động nghiền nát tất cả sự phản kháng của người dân mới thấy được nghệ thuật cai trị của cộng sản. Đó cũng chính là nghệ thuật tiêu diệt và đày đọa con người. Có thể có ba trụ cột chính xây dựng thành một cơ chế khép kín, hoàn hảo để kiểm soát và cai trị người dân.
Trước hết, gieo rắc nỗi sợ hãi cho người dân. Phải khẳng định rằng, sự tàn bạo của chế độ cộng sản là không hề có giới hạn. Nhưng sự kinh khủng đó không phải đơn giản mà có được, mà đó là cơ chế được áp dụng hay cho phép của các đảng cộng sản nói chung và đảng cộng sản Việt Nam nói riêng. Điều đặc biệt là, cơ chế khủng bố được thực hiện trước hết trong nội bộ đảng ở tất cả các cấp, không giới hạn, kể cả cấp cao nhất. Chúng ta thấy nội bộ Quốc tế Cộng sản, nội bộ các đảng cộng sản các nước đều cho phép và duy trì sự khủng bố ngay trong nội bộ. Như vậy, các đảng cộng sản đã sử dụng cơ chế chọn lọc tự nhiên để tìm ra những hạt nhân lãnh đạo. Từ sự cho phép và khuyến khích khủng bố trong nội bộ, tức là những đồng chí với nhau như vậy, khi ra thực hiện các nhiệm vụ bên ngoài, như thực hiện khủng bố đối với người dân và kẻ thù (hoặc đảng đối lập), những lãnh đạo cộng sản không hề run tay và chớp mắt. Như thế mới bảo đảm yêu cầu của quan cách mạng. Chính sự khủng bố từ trong nội bộ ra tới bên ngoài như vậy, người dân nhìn thấy hoặc nghe nói tới cộng sản, đã không còn hột máu nào, nói gì tới phản kháng.
Thiết lập sự lệ thuộc. Làm cho người dân sợ chưa đủ, các chế độ cộng sản còn thực hiện việc thiết lập sự lệ thuộc hoàn toàn của người dân vào chế độ. Họ thực hiện điều này bằng hai bước. Bước một, bần cùng hóa nhân dân bằng cải cách ruộng đất, đánh tư sản (miền bắc và miền nam) để áp đặt sự thống trị; bước hai, xây dựng nền kinh tế kế hoạch, ép người dân vào các nhà máy, xí nghiệp và hợp tác xã. Ép người dân lệ thuộc về kinh tế vào nhà nước là mục tiêu của chế độ để dễ bề cai trị và sai khiến.
Bước cuối cùng, kiểm soát tư tưởng của người dân bằng cách xây dựng cơ chế tự giám sát và tố cáo lẫn nhau của chính người dân. Họ làm điều này bằng cách xây dựng các tổ chức đoàn thể, các tổ chức ngoại vi hệ thống mạng lưới an ninh, đặc tình, vv…người dân bắt buộc phải giám sát và tố cáo lẫn nhau. Với cơ chế này, bất kể sự phản kháng nào của người dân đều dễ dàng bị phát hiện và vô hiệu hóa ngay từ trứng nước.
Với sự vận hành và hoạt động của ba trụ cột quan trọng này, chế độ cộng sản đã nghiền nát, ngay từ trong suy nghĩ, tới ý chí và hành động phản kháng của người dân để duy trì sự thống trị. Chỉ có một điều, để làm được những điều này, những nhà nước cộng sản đã không thể xây dựng được một nền kinh tế theo đúng nghĩa tạo ra của cải vật chất. Trong khi, để duy trì một hệ thống khổng lồ bảo đảm sự vận hành và thống trị, nó lại cần một nguồn lực vô tận, điều không bao giờ có được. Chính vì vậy, các chế độ cộng sản, sau khi đã tạo ra được lâu đài thống trị uy nghi, cuối cùng đều tự sụp đổ vì sức nặng của chính nó. Và Việt nam chắc chắn cũng không phải là ngoại lệ./.
Xin thú thực với bạn đọc, bản thân tôi cũng phát ốm lên khi nhìn thấy bài viết hoặc tài liệu có tiêu đề dân chủ là gì? hoặc thế nào là dân chủ? Số lượng lớn các bài viết, tài liệu về vấn đề này, cùng với sự mơ hồ, dàn trải của các định nghĩa, khái niệm về dân chủ là những lý do quan trọng dẫn tới cảm giác bội thực của người đọc. Tuy nhiên, vì vấn đề quá quan trọng, trong bối cảnh Việt Nam sắp có những chuyển biến lớn về thể chế, nên chúng ta không thể không tìm hiểu rốt ráo về khái niệm nói riêng và nội dung của dân chủ nói chung.
Khi tôi đi vào tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết, nguyên lý về tự do, về dân chủ, về việc xây dựng thể chế dân chủ, tôi đã vô cùng sửng sốt khi phát hiện ra rằng, không có một định nghĩa chung về dân chủ. Thật kỳ lạ! các sách báo còn chỉ ra rằng, tính đến những năm 60 của thế kỷ XX, có trên 500 định nghĩa, khái niệm về dân chủ!!! Chúng ta biết rằng, định nghĩa, khái niệm của một thuật ngữ chính là để chỉ ra yếu tố cốt lõi nhất của nội hàm khái niệm đó. Vậy mà chúng ta có, tính đến những năm 60 thế kỷ trước, trên 500 định nghĩa, có nghĩa là chưa chỉ ra được yếu tố cốt lõi, của khái niệm, của nền dân chủ. Như vậy, việc chưa tìm ra các yếu tố, nguyên lý cốt lõi và cách thức xây dựng, thực hiện và thực thi các yếu tố đó trong các thể chế dân chủ sau này chính là nguyên nhân dẫn tới các nền dân chủ chỉ dừng lại ở mức dân chủ tuyển cử, không có được nền dân chủ tự do mà người dân hằng mong đợi.
Việc xây dựng các thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới còn rất nhiều khiếm khuyết. Đặc trưng của các thể chế dân chủ, của việc xây dựng thể chế dân chủ là sự dàn trải, liệt kê. Chúng ta biết, thể chế dân chủ hiện nay bao gồm rất nhiều định chế như hiến pháp dân chủ, tam quyền phân lập, tản quyền hay cơ chế liên bang… như vậy, bất kỳ nền dân chủ nào cũng bao hàm đầy đủ các định chế đó. Tuy nhiên, vì không xác định được định chế cốt lõi, chi phối tất cả các định chế khác mà phần lớn các nền dân chủ đều dừng lại ở ngưỡng cửa của dân chủ tuyển cử.
Quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về khái niệm dân chủ, cá nhân tôi nhận thấy, hầu như các tác giả đều đồng ý với nhau định nghĩa đúng một cách chung nhất: Dân chủ là phương thức tổ chức xã hội bảo đảm cao nhất tự do của con người. Tuy nhiên, tất cả đều dừng lại ở khái niệm tự do, không xác định được rõ ràng khái niệm này. Chính vì bế tắc ở khái niệm tự do mà nhiều người đã không đi tới cùng định nghĩa chung, đúng đắn và được nhiều người công nhận ở trên. Tự do là thuật ngữ phổ biến nhất, quan trọng nhất nhưng hóa ra lại khó định nghĩa nhất theo hướng xây dựng thể chế dân chủ bảo đảm tự do của con người.
Tự do, theo tác giả bài viết này, là một ý niệm. Ý niệm tự do bao hàm các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi một cá nhân. Khi nói rằng, tự do của con người là các quyền con người thì nhiều người hiểu được và đồng ý ngay, nhưng thiếu mất một vế quan trọng, đó là khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi một cá nhân. Đây là mấu chốt chính của thuật ngữ, khái niệm về tự do. Như vậy, có thể đi tới khái niệm về dân chủ hàm chứa tự do của con người như sau:
Dân chủ là phương thức tổ chức xã hội bảo đảm cao nhất các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi một cá nhân
Với khái niệm này, chúng ta đã xác định được cốt lõi của dân chủ, nội hàm quan trọng nhất của thể chế dân chủ. Chỉ có từ nội hàm cốt lõi này, mới xác định được đường hướng xây dựng thể chế dân chủ. Đó là việc xây dựng cơ chế nào để bảo đảm khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân, và ai là chủ thể, là người bảo vệ các quyền con người đó hiệu quả nhất.
Cơ chế để bảo đảm khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi một cá nhân chính là tòa án nhân quyền. Đây là một cơ chế hoàn toàn mới được xây dựng để thỏa mãn yêu cầu cho các cá nhân tự bảo vệ các quyền con người của mình. Chủ thể bảo vệ các quyền con người chính là những người bị vi phạm nhân quyền, quyền con người. Chỉ có bản thân các cá nhân mới là người bảo vệ các quyền con người của mình một cách hữu hiệu nhất.
Nhưng để người dân tự bảo vệ các quyền con người của mình, ngoài cơ chế (tòa án nhân quyền) thì nhận thức của người dân về tự do, dân chủ là yếu tố vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, việc phổ biến các kiến thức về quyền con người, về tự do, về dân chủ và việc cập nhật các luật lệ liên quan tới quyền con người là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi một nền dân chủ./.
Tại hội nghị kết nối các doanh nghiệp nhỏ và vừa toàn quốc tổ chức ngày 8/8 tại Đà Nẵng, bà Phạm Chi Lan đã đưa ra mấy nét chấm phá về bức tranh kinh tế hiện nay của Việt nam. Rằng gia nhập ASEAN 20 năm nay rồi mà Việt Nam vẫn còn nằm trong nhóm 4 nước lạc hậu nhất trong khối (cùng với Lào, Campuchia và Myanmar). Rằng so với 10 năm trước, qui mô DN chỉ còn 1 nửa và có xu hướng… li ti hóa – theo cách nói của Ts Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam…
Bà Phạm Chi Lan chỉ ra một số nguyên nhân như công nghệ ở hàng thấp nhất (trong số các nước tham gia TPP) dẫn đến năng lực cạnh tranh kém, doanh nghiệp không thể tiếp cận với chính sách khuyến khích của nhà nước. Bà cho rằng, công nghệ thấp không hoàn toàn thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp mà phải được Nhà nước ưu tiên quan tâm. Thế nhưng “hệ thống chính sách của chúng ta nói rất nhiều, rất hay về đổi mới công nghệ nhưng trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp cho biết họ không thể tiếp cận được với những chính sách khuyến khích của Nhà nước. Chỉ ai tự có năng lực thì mới tự đổi mới công nghệ được thôi chứ còn họ “quên” đi tất cả những cái của Nhà nước, bởi vì chi phí để nhận được ưu đãi có khi lại còn lớn hơn cả mức được ưu đãi. Đó là điều rất đau gây cản trở cho sự phát triển công nghệ của chúng ta!”
“Chi phí để nhận được ưu đãi có khi lại còn lớn hơn cả mức được ưu đãi” – ý kiến này của bà Phạm Chi Lan cho thấy bóng dáng cái gì đã cản trở khiến doanh nghiệp không mặn mà với chính sách khuyến khích của Nhà nước cũng như cơ hội do FTA (Hiệp định thương mại tự do) đem lại. Rồi bà cho biết, đó là nạn tham nhũng. Khi làm ra 1 đồng thì mất tới 1,02 đồng cho chi phí bôi trơn, tức là làm ra không đủ để bôi trơn thì “doanh nghiệp còn gì để tái đầu tư, để mở rộng được? Và doanh nghiệp sẽ co lại vì họ làm được 1 nhưng có những ông khác không làm gì cả mà tước đoạt của họ hơn 1 thì tội gì họ làm nữa”. Bà Phạm Chi Lan gọi đây thuộc chi phí ngoài pháp luật, là một chỉ số xếp hạng về thể chế, mà Việt Nam ở thứ hạng rất kém.
Có vẻ đã quá thất vọng về tương lai của nền kinh tế VN, bà Phạm Chi Lan “tiết lộ” ý kiến của các chuyên gia Ngân hàng thế giới cho rằng VN là nước “không chịu phát triển”:
“Một số chuyên gia World Bank còn nói đùa Việt Nam có lẽ là mô hình kỳ lạ nhất thế giới. Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển! Đầu tư nhiều đến thế, ODA nhiều đến thế (20 năm qua lượng ODA đổ vào Việt Nam lên tới gần 90 tỉ USD) nhưng đến bây giờ vẫn không phát triển được thì chỉ có thể là… không chịu phát triển”.
Không phải chưa có ai nghĩ đến cái mô hình kỳ lạ ấy nhưng các chuyên gia của WB là người nói ra, và biểu đạt một cách rất ấn tượng. Họ vạch ra đúng bản chất của nền kinh tế VN rất thật, rất hài lẫn cả đau xót và chua chát nữa.
Bà Phạm Chi Lan đã chỉ ra rất đúng nguyên nhân làm cho nền kinh tế VN trì trệ, không phát triển được, đó là tham nhũng. Tham nhũng sinh ra kém về năng lực cạnh tranh, qui mô danh nghiệp ngày càng teo đi, công nghệ thấp, làm cho các chính sách khuyến khích của nhà nước, các kết quả đàm phán FTA không tới được các doanh nghiệp.
Hàng trăm doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cả nước tham dự hội nghị kết nối do Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tổ chức tại Đà Nẵng ngày 8/8 (Ảnh: HC)
Gốc rễ của vấn đề
Nhưng đâu là nguyên nhân của nguyên nhân, nghĩa là cái gì đẻ ra tham nhũng thì không thấy bà Chi Lan nói tới. Không phải bà không biết mà bà không thể nói toạc ra trong một hội nghị như thế. Tuy nhiên, bà cũng hé mở khi nói tới vai trò của Nhà nước: “Việt Nam cũng phải cạnh tranh với Nhà nước của các nước khác về thể chế, môi trường kinh doanh, năng lực điều hành nền kinh tế vĩ mô…”. Bà cũng dè dặt hy vọng: “Nhà nước sẽ phải thay đổi nhiều về hệ thống luật pháp, chính sách trong nước cho phù hợp với các cam kết. Và từ đó đổi mới kinh tế sang hệ thống kinh tế thị trường đầy đủ sẽ giúp cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam tốt hơn, bình đẳng hơn!”
Trở lại vấn đề tham nhũng. Tham nhũng từ đâu ra? Ai nuôi dưỡng nó? Rõ ràng, nó lợi dụng các kẻ hở của cơ chế, nó được bao che, câu kết chặt chẽ thành một hệ thống kiên cố từ trung ương đến cơ sở. Tất cả những tệ nạn, những yếu kém của nền kinh tế và các lĩnh vực khác của xã hội sinh ra từ chế độ độc tài. Mọi biện pháp nếu đưa ra cũng chỉ là chữa cháy, mà chữa không khéo, thì càng chữa, đám cháy càng lan to. Với thể chế này, tham nhũng không thể chấp dứt hoặc bị đẩy lùi. Vì vậy, trước khi nghĩ đến các biện pháp thì phải nghĩ đến việc đổi mới chính trị đã. Đây mới là gốc rễ của vấn đề.
Đổi mới kinh tế cần phải đi đôi với đổi mới chính trị. Năm 1986, mới chỉ đổi mới (thực chất là sửa sai) một phần, gỡ bớt rào cản cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, VN đã đạt được một số thành tựu, cứu được đất nước “đứng bên bờ vực thẳm” nhưng cũng chỉ dừng tại đó vì không có sự đổi mới về chính trị. Mác có một luận điểm đúng, đó là “quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp, nó trở thành lực cản của sự phát triển. Sẽ tới một mức độ nào đó, cái vỏ chật hẹp ấy phải vỡ ra ngoài ý muốn của con người.
Cái vỏ ấy đang được những người bảo thủ cố gắng níu giữ, gia cố, hàn vá. Biết đó là lực cản nhưng họ không đủ can đảm để thay đổi, điều đó có nghĩa là họ “không chịu phát triển”.
Hiến pháp 2013 vẫn xác định Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vẫn xác định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vẫn xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, VN đã phải trả giá quá đắt. Trong lĩnh vực kinh tế thì thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần duy nhất xảy ra tham nhũng, tham nhũng một cách khủng khiếp, là nơi đốt tiền ngân sách tàn bạo nhất, làm khánh kiệt ngân sách quốc gia. Cán bộ to tham nhũng lớn, cán bộ nhỏ tham nhũng vừa, còn nhân viên thì ăn cắp. Thành phần kinh tế tư nhân không có tham nhũng vì không ai tự ăn cắp của mình. Nhưng họ phải chơi trong một sân chơi bất bình đẳng trước đối thủ được hưởng nhiều ưu đãi về vốn, đỡ bị sách nhiễu hơn về thủ tục, chi phí bôi trơn cũng thấp hơn và đặc biệt là không phải chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của mình, nếu được “coi là” không có sai phạm mà chỉ yếu kém về năng lực. Nếu bị cách chức, hoặc buộc về hưu sớm thì họ vẫn còn một tài sản khổng lồ do tham nhũng mà có. Còn trong kinh tế tư nhân nếu kinh doanh thua lỗ thì chịu phá sản, không những mất hết vốn đầu tư mà còn lâm vào cảnh nợ nần.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Số doanh nhân nào còn tồn tại được là những người có năng lực kinh doanh (trừ những công ty được người nhà nước dựng nên làm “sân sau” hay kinh doanh có sự hậu thuẫn của người nhà nước). Ngược lại, các nhà quản lý kinh tế được nhà nước bổ nhiệm, cho dù họ không có tài cán gì cả.
Nói như thế để thấy rằng, quản lý kinh tế nhà nước như hiện nay thì quá đơn giản trong khi làm kinh tế tư bản, tư doanh đòi hỏi những yêu cầu khắt khe và đầy may rủi.
Kinh tế nhà nước thì tham nhũng, kinh tế ngoài quốc doanh bị chèn ép không ngóc đầu dậy được làm cho bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế VN hết sức ảm đạm. Còn những người ra sức cổ vũ cho nền kinh tế định hướng XNCH, lạc quan tếu về tương lai của nền kinh tế VN thì chính họ cũng chẳng tin. Họ nói vì lợi ích cá nhân của họ mà thôi.
Không chỉ lĩnh vực kinh tế, tất cả các lĩnh vực khác của xã hội như y tế, giáo dục, hành chính, tư pháp đều cho thấy một viễn cảnh bi đát. Tham nhũng len lỏi vào tất cả các bộ phận của guồng máy vận hành xã hội mà chưa bao giờ đẩy lùi được nó, ngược lại, càng ngày nó càng lấn tới. Hết nghị quyết này đến nghị quyết khác, hết lãnh đạo này đến lãnh đạo khác hô hào chống tham nhũng, nhưng tệ nạn này ngày càng lan rộng và nguy hiểm như HIV đã phát triển đến giai đoạn cuối. Chống không được, các vị đành lắc đầu than thở “sâu nhiều quá”, “ăn của dân không từ một cái gì”.
Làm sao để VN “chịu phát triển”?
Làm thế nào để thay đổi tình trạng tụt hậu hiện nay. Điều này có nhiều chuyên gia nhận ra nhưng không dám nhắc tới, mà ai nhắc tới thì bị cho là suy thoái, thậm chí phải gánh chịu hệ lụy, đó là phải cải tổ thể chế. Bà Phạm Chi Lan chẳng đã cho rằng chỉ số xếp hạng về thể chế của VN xếp ở mức rất thấp, rằng VN cần phải cạnh tranh về thể chế đó sao?
Mong muốn đủ thứ nhưng cứ luẩn quẩn với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, với định hướng XHCN thì VN không bao giờ thoát ra khỏi tình trạng hiện nay, vì tham nhũng và mọi sự tiêu cực, trì trệ khác được sinh ra và nở rộ từ thể chế hiện tại.
Thể chế hiện nay không nên nói là lỗi thời, không còn phù hợp mà là sai lầm. Chưa cần phân tích, lý luận, chỉ cần quan sát cũng thấy rõ CHXH là hoang tưởng. Không phải ngẫu nhiên mà Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đồng loạt sụp đổ trong vòng vài năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Không phải ngẫu nhiên mà xét riêng trong một quốc gia bị chia cắt, trước đó, nền kinh tế và mọi lĩnh vực xã hội khác là như nhau, thế nhưng nửa nào theo XHCN thì khốn khó, ì ạch, còn nửa kia phát triển với tốc độ rất nhanh. Điều này ta có thể thấy rõ khi so sánh giữa Bắc với Nam Việt Nam, CHDC Đức với CHLB Đức trước đây và Bắc Triều Tiên với Hàn Quốc, Trung Hoa lục địa với Đài Loan hiện nay.
Để chứng tỏ cho thế giới biết VN từ “không chịu phát triển” trở thành “chịu phát triển”, cần phải cải tổ thể chế hiện nay. Đó là cách cứu VN thoát khỏi vùng trũng của thế giới. Cần phải xây dựng một nền dân chủ đa nguyên. Tất nhiên, không phải mọi sự tồi tệ sẽ nhanh chóng chấm dứt khi chuyển sang nền dân chủ nhưng nó sẽ được kiểm soát dần dần cùng với quá trình hoàn thiện của thể chế mới. Khi ấy sẽ có những cơ chế kiểm soát lẫn nhau, có tam quyền phân lập, có nhà nước pháp quyền. Khi người dân được làm chủ thực sự, thấy chính quyền, tài sản chung của xã hội cũng là của mình thì họ mới quan tâm, mới đóng góp được tâm huyết, tài năng thực sự vào việc quản lý đất nước. Khi ấy VN mới khả dĩ nói đến thoát khỏi mô hình kỳ lạ nhất thế giới, mới có thể nói với các chuyên gia Ngân hàng thế giới rằng chúng tôi đã “chịu phát triển”.
Tấm ảnh phụ huynh khóc ròng vì nộp hồ sơ cho con trong xét tuyển đại học đợt một được nhiều người chia sẻ trên Facbook
Báo trong nước đăng tải thông tin Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận ‘nhận trách nhiệm về bất cập trong xét tuyển đại học đợt một’.
VnExpress tường thuật ông Luận thừa nhận ‘những bất cập trong đợt xét tuyển đại học đầu tiên gây phiền hà, tốn kém cho người dân, đồng thời công bố những chỉ đạo khắc phục trong đợt xét tuyển thứ hai’.
Báo này viết: “Việc để thí sinh đăng ký tới bốn ngành trong một trường, được thay đổi nguyện vọng trong 20 ngày là không hợp lý, tạo ra sự căng thẳng cho thí sinh, phụ huynh”.
“Báo cáo cho thấy, có gần 43.000 thí sinh cả nước đã thay đổi nguyện vọng, tập trung ở khoảng 30 trường đại học.”
“Nhiều người phải đi lại, chờ trực tại các trường đại học gây nên sự tốn kém, phiền hà”.
Ông Luận được VnExpress dẫn lời giải thích “Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trong đó có phần trách nhiệm lớn của Bộ Giáo dục là chưa cân nhắc hết tính phức tạp và hiệu ứng ngược của những giải pháp.
Thay mặt Bộ, tôi xin nhận trách nhiệm về việc này”.
Nhưng trên các mạng xã hội, có ý kiến đòi ông Luận từ nhiệm.
Các facebooker còn lập fanpage ‘Chúng tôi yêu cầu Phạm Vũ Luận từ chức’ với hàng ngàn lượt like.
Nhân chuyện thời sự, người ta nhắc lại chuyện ông Luận từng nói ‘Tôi coi đổi mới giáo dục lần này là trận đánh lớn’ trong một bài báo trên VnExpress cách đây gần hai năm.
“Bước vào trận đánh, từ tướng lĩnh đến binh lính phải quyết tâm, tin vào chiến thắng, sẵn sàng trả giá. Tôi coi thực hiện đề án đổi mới giáo dục lần này là một trận đánh lớn”, ông Luận được VnExpress dẫn lời.
‘Cần thay ngay Cục trưởng Cục khảo thí’
Hôm 22/8, trả lời phỏng vấn của BBC, ông Nguyễn Quốc Cường, chuyên viên tuyển sinh Cơ quan đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo tại TP Hồ Chí Minh, cho biết:
“Tôi không tán đồng việc người ta kêu gọi thay Bộ trưởng Giáo dục vì trong lúc này vẫn cần người lèo lái.
Nhưng tôi thấy cần thay ngay ông Mai Văn Trinh, Cục trưởng Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, thuộc Bộ Giáo dục”.
Theo ông Cường, việc xét tuyển ‘gây hoang mang, hỗn loạn, bất an cho toàn xã hội trong mấy ngày qua có nguyên do chính yếu là Cục trưởng Cục khảo thí chưa có kinh nghiệm làm tuyển sinh.
“Việc Bộ để Cục khảo thí ôm đồm quản lý dữ liệu, cho thí sinh chọn bốn nguyện vọng trong một đợt phá vỡ hệ thống hướng nghiệp.”
“Tôi cho rằng nếu không thay ngay Cục trưởng Cục khảo thí thì với cách làm này tình trạng đợt xét tuyển thứ hai cũng không khá gì hơn”, ông Cường nói.
Các báo trong nước ví von ‘sự gay cấn, căng thẳng, lo lắng, rút ra nộp vào của đợt xét tuyển một không khác phiên giao dịch của một sàn chứng khoán’.
Hôm 21/8, báo Tuổi Trẻ đăng bài về một phụ huynh ở Hà Tĩnh phải thuê xe cấp cứu 115 đi ra Hà Nội để rút và nộp hồ sơ cho con.
Ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc Trung tâm cấp cứu 115 Hà Tĩnh, xác nhận vào ngày 20/8 đơn vị này có một chiếc xe được thuê ra Hà Nội để làm thủ tục hồ sơ xét tuyển đại học, báo này viết.
Hà Nội và Washington đã có nhiều động thái thắt chặt quan hệ trong những năm gần đây
Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Bình Minh hôm 21/8 đã có phát biểu trước báo giới nhân 70 năm thành lập ngành ngoại giao Việt Nam.
Trong bài phát biểu được báo điện tử VnExpress dẫn lại, ông Minh đã đề cao quy tắc ‘dĩ bất biến, ứng vạn biến’ trong chính sách ngoại giao của Hà Nội trong bối cảnh hiện nay.
Ngoại trưởng Việt Nam cũng thừa nhận những khó khăn trong quá trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông và nói Việt Nam cần “đi đầu trong việc xây dựng các cơ chế khu vực” để đảm bảo lợi ích quốc gia.
Ông cũng cho biết đã học được từ cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch ‘sự kiên định, trên cơ sở đường lối chủ trương vận dụng linh hoạt, tạo ra được nhiều bạn bè nhất để thực hiện đường lối đối ngoại’.
Ngày 22/8, BBC đã có buổi phỏng vấn với nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt về những phát biểu này.
BBC: Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh trong phát biểu hôm 21/8 nhận định ‘vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, trong khu vực chưa bao giờ cao đến thế’, ông có đồng ý với ý kiến này?
Nghiên cứu gia Hoàng Việt: Ở đây cá nhân tôi cho rằng một mặt thì Việt Nam đã có một vị thế tương đối mới, thể hiện trong mối quan hệ giữa Việt Nam và các cường quốc trên thế giới mà đặc biệt là với Hoa Kỳ.
Chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Hoa Kỳ cho thấy mối quan hệ song phương đã có nhiều phát triển vượt bậc.
Đối với các cường quốc khác thì Việt Nam cũng đang phát huy đẩy mạnh thế mạnh của mình.
Nhưng tôi cho rằng thế mạnh của Việt Nam vẫn chưa được phát huy đúng tiềm năng.
Nói cho cùng thì sức mạnh ngoại giao vẫn phụ thuộc vào sức mạnh nội lực.
Dù ngoại giao Việt Nam đã làm hết sức, trở thành đối tác chiến lược của nhiều quốc gia lớn, nhưng nội lực của Việt Nam rất hạn hẹp và điều này đang làm ảnh hưởng đến vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hà Nội đang duy trì các cuộc trao đổi cấp cao với Bắc Kinh trong nỗ lực kiềm chế căng thẳng trên Biển Đông
BBC: Ông nghĩ như thế nào về ý kiến nói Việt Nam bị ‘lạm phát đối tác chiến lược’, thưa ông?
Nghiên cứu gia Hoàng Việt: Tôi có đọc bài nghiên cứu về vấn đề này của tác giả Lê Hồng Hiệp. Tôi đồng ý với tác giả ở chỗ là Việt Nam nên chọn những đối tượng đặc biệt để làm đối tác chiến lược.
Hiện nay Việt Nam đang trải mối quan hệ đều khắp ra, không có điểm ưu tiên. Cho thấy nguồn lực của Việt Nam bị dàn trải và không có điểm nhấn.
BBC: Ông Phạm Bình Minh cho rằng Việt Nam cần phải đi đầu trong việc xây dựng các cơ chế khu vực để đảm bảo lợi ích quốc gia và góp phần đảm bảo ổn định khu vực, ông nghĩ gì về định hướng này?
Nghiên cứu gia Hoàng Việt: Trong quá trình toàn cầu hóa như bây giờ, nếu Việt Nam tự đứng một mình mà không tham gia vào thì như phương Tây nói là ‘chậm chân thì lỡ tàu’. Không tham gia được thì không biết luật chơi người ta đặt ra như thế nào và không được tham gia vào ngay quá trình định hình luật chơi.
Việt Nam đã phải trả giá rất nhiều trong các định chế thương mại quốc tế và rất vất vả khi hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh thương mại quốc tế thì đến bây giờ Việt Nam cũng đã có vai trò tích cực hơn trong các cơ chế quốc tế khác như ASEAN.
Vai trò của Việt Nam trong ASEAN cũng giúp tạo dựng những hành lang để hướng tới khu vực mà cụ thể là việc Việt Nam cùng ASEAN tìm kiếm hướng đi cho tranh chấp Biển Đông với Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC)
BBC: Nhân nói đến COC, ngoại trưởng Việt Nam thừa nhận vấn đề khó khăn hiện nay là các bên liên quan, trong đó có Trung Quốc, phải ‘cùng có mong muốn và hành động’ để đạt được điều đó. Những động thái gần đây của Bắc Kinh có thể hiện sự mong muốn đó hay không, và liệu Việt Nam có nên ủng hộ ASEAN đơn phương tiến tới COC không, thưa ông?
Nghiên cứu gia Hoàng Việt: Thứ nhất là cho đến bây giờ thì trong nội bộ ASEAN đã thống nhất được nội dung bản nháp số 0 do Indonesia đề xuất về COC. Đến bây giờ thì 10 quốc gia ASEAN đã gần như đồng ý với nội dung đó.
Tuy nhiên vấn đề là bên tham gia với ASEAN là Trung Quốc thì họ chưa muốn và đó là vấn đề khó khăn nhất của COC lúc này.
Trung Quốc thì khi nào chưa giành được lợi thế rõ ràng trên Biển Đông thì đương nhiên họ chưa dừng lại.
Sau khi giành được lợi thế rõ ràng rồi thì họ sẽ ký một luật chơi và buộc các quốc gia ASEAN khác tham gia tranh chấp trên Biển Đông không được lặp lại như của họ.
Ngay cả trong nội dung của COC thì phía Trung Quốc đã không bằng lòng với ASEAN.
Trong bản nháp số 0 thì nói rằng khu vực tranh chấp bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng Trung Quốc thì nói rằng COC là dành cho Trường Sa mà thôi, không nói đến Hoàng Sa.
Một loạt các điều khoản mà Trung Quốc vẫn đang tìm cách câu giờ để đợi có một lợi thế thực sự. Tôi nghĩ rằng trong tương lai gần mà cụ thể trong năm nay, thì COC chưa thể ra đời được.
Trung Quốc hiện không thừa nhận có tranh chấp ở khu vực quần đảo Hoàng Sa
BBC: Ông Phạm Bình Minh đề cao tầm quan trọng của việc “tăng cường điểm đồng, giảm bớt bất đồng” đối với những quốc gia có chung lợi ích với Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về nỗ lực của Hà Nội nhằm ‘tăng điểm đồng, giảm bất đồng’ với Hoa Kỳ, một nước cũng có nhiều lợi ích trong ổn định, an ninh và tự do hàng hải trên Biển Đông?
Nghiên cứu gia Hoàng Việt: Hoa Kỳ và Việt Nam đều muốn hòa bình, an ninh và ổn định trên Biển Đông vì nó đem lại lợi ích cho tất cả các bên, trong đó Việt Nam là quốc gia trực tiếp tham gia tranh chấp trên biển và Hoa Kỳ với tư cách là một cường quốc biển.
Khác biệt giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mà phía Việt nam hay nhắc là ý thức hệ, thể chế và các cách nhìn khác nhau về nhân quyền, dân chủ, tự do.
Nhưng những sự bất đồng này đã được thu hẹp vì những lợi ích lớn lao hơn. Điều đó có thể thấy được trong chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng.
Lần đầu tiên một tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam được Tổng thống Hoa Kỳ đón tiếp trong Phòng Bầu dục tại Nhà Trắng, điều đó cho thấy một nỗ lực rất lớn.
Phía báo chí Việt Nam khi tường thuật về công tác chuẩn bị cho chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng thì cũng đề cập đến việc phía Hoa Kỳ lúng túng trong việc chọn thủ tục và nghi lễ ngoại giao nào cho nhân vật này.
Chuyến thăm cũng gặp nhiều sự phản đối từ cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Trong bối cảnh nhiều sự khác biệt, khó khăn như vậy nhưng trong chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ, hai bên ký kết và có những tuyên bố chung như vậy thì tôi cho rằng đã có những bước tiến lớn và đó là bằng chứng cho thấy có thể thu hẹp những bất đồng và hướng tới những lợi ích lớn hơn.
Campuchia gần đây đã bắt giữ Thượng Nghị sỹ đối lập Hong Sok Hour, người bị cáo buộc đã đăng các tài liệu giả mạo về một hiệp ước biên giới giữa Campuchia với Việt Nam
BBC: Ngoại trưởng Việt Nam đề cao quy tắc ‘dĩ bất biến, ứng vạn biến’ trong chính sách ngoại giao của Hà Nội. Theo ông thì quy tắc này có ý nghĩa gì trong bối cảnh hiện nay và có còn phù hợp với bối cảnh hiện nay không.
Nghiên cứu gia Hoàng Việt: Tôi nghĩ rằng câu nói này vẫn còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Cái bất biến ở đây được hiểu là chủ quyền lãnh thổ quốc gia và độc lập tự do dân tộc.
Còn bằng phương cách nào, trong giai đoạn nào thì là vạn biến, có thể thay đổi, có thể bước đi thế này hay thế kia nhưng sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc phải bảo vệ.
BBC: Ông Phạm Bình Minh đã khẳng định sẽ “không thể có xung đột trên biên giới” giữa Campuchia và Việt Nam, theo ông liệu đây có phải là một nhận xét chủ quan?
Nghiên cứu gia Hoàng Việt: Đối với chính khách như ông Phạm Bình Minh thì không thể phát biểu chủ quan mà không dựa trên những điều xác thực.
Vừa rồi thì Đảng Cứu Quốc của ông Sam Rainsy đã đưa lại vấn đề biên giới giữa Việt Nam, Campuchia và cho rằng phía Việt Nam đã có những điều gian dối, như cướp đất của Campuchia.
Thủ tướng Hunsen đã có phản ứng bằng việc mượn bản đồ Liên Hiệp Quốc để so sánh với bản đồ mà Việt Nam và Campuchia tham chiếu khi phân định, cắm mốc biên giới giữa hai nước.
Cho đến bây giờ thì bản đồ mà ông Hunsen mượn và bản đồ hai bên sử dụng khi cắm mốc đã được xác định là một.
Campuchia cũng mới cho bắt một thượng nghị sỹ thuộc Đảng cứu quốc bị cáo buộc tung ra những tài liệu giả mạo.
Điều đó cho thấy là phía Việt nam cũng hiểu và có tinh thần thiện chí để ký kết với các bên láng giềng trong việc phân giới cắm mốc để tạo dựng những ổn định giữa các bên.
Phía Việt Nam đã làm tốt việc phân giới cắm mốc với Trung Quốc và đang xúc tiến với các quốc gia láng giềng khác, trong đó có Campuchia.
Theo tôi được biết thì biên giới Việt Nam Campuchia đã gần hoàn tất, ngoại trừ 8 điểm.
Tôi nghĩ ông Phạm Bình Minh tin rằng Việt Nam đã làm đúng luật quốc tế, không có những sai phạm, gian dối ở đây.
Chúng ta đều phải dựa trên luật pháp quốc tế làm cơ bản và nếu anh làm đúng thì lẽ phải sẽ thuộc về anh.
Trùng tu nghĩa trang tại Galang. Photo by vankhothuyennhan
Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tổ chức chuyến đi mang tên “Về Bến Tự Do” đến bốn nước Indonesia, Philippines, Malaysia và Thái Lan trong 20 ngày vào tháng 8 năm nay. Đó là những nơi từng in dấu chân của những người Việt Nam đi tìm đường tỵ nạn sau biến cố 1975.
Những nơi đó còn lại gì và mong muốn của những người trở lại ra sao? Biên tập viên Gia Minh của Đài Á Châu Tự do trình bày những ghi nhận được qua chặng Malaysia.
Cảm xúc & hồi tưởng cựu thuyền nhân
Đó là một vài chia sẻ và lời hát của hai cựu thuyền nhân trên chiếc xe buýt đưa đoàn đến đảo Bidong, Malaysia nơi mà nhiều người Việt tỵ nạn từng tạm trú trước khi được đưa đi định cư tại một quốc gia thứ ba.
Ông Kha Văn Long sống tại Australia chia sẻ những suy nghĩ và cảm xúc khi trở lại nơi từng cưu mang ông:
“Sau 34 năm tôi mới quay trở lại thì những hình ảnh của 34 năm về trước hiện ra rất xúc động và tôi đi thăm viếng một vài nghĩa trang thì rất thương cảm những người đã đi mà không đến!”
Bác sĩ Trương Lâm Bảo Chi hiện sống tại Canada cũng cho biết:
… những hình ảnh của 34 năm về trước hiện ra rất xúc động và tôi đi thăm viếng một vài nghĩa trang thì rất thương cảm những người đã đi mà không đến!
– Ông Kha Văn Long, Australia
“Trong chuyến đi tôi có nghe anh Sơn trong Ban tổ chức nói có những ngôi mộ chôn tập thể hằng mấy chục người, hằng mấy trăm người của những tàu bị chìm và xác tấp vào. Chúng tôi cũng rất hy vọng.
Hôm qua đến Mã Lai đi thăm mộ chôn tập thể đầu tiên chôn 46 người, trong đó có một bé trai và hai bé gái. Điều đó làm tôi xúc cảm nhớ đến hai đứa em con của cậu tôi mà cậu tôi mang theo. Tôi được người khác kể lại là khi tàu chìm thì người cha để con lên vai và cùng chìm và chúng tôi rất xúc động.”
Ông Ngô Đức Hữu, một người từng tìm lại hầu hết những nơi mà thuyền nhân Việt Nam đặt chân đến trong khu vực Đông Nam Á trong những năm sau biến cố 1975 cũng có trình bày:
“Tôi cảm nhận được rằng đến ngày hôm nay đi qua đất nước Mã Lai, Nam Dương người ta vẫn nhớ tiếng nói của người Việt Nam. Họ biết người Việt Nam trở về nên họ bập bẹ một số tiếng Việt, nên mình cảm thấy rất sung sướng. Tại vì chắc có làm điều gì đó thì người ta mới nhớ đến mình được.”
Cầu nguyện cho thuyền nhân bỏ mạng trên biển
Những người tham gia chuyến Về Bến Tự Do chặng Malaysia trước khi ra đảo Bidong được đưa đi thăm những mộ phần của thuyền nhân Việt Nam chết trước khi cập được bờ biển vùng Terengganu, Malaysia.
Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam trong 10 năm qua, tức từ năm 2005 đến nay tìm được chừng 2500 trong số theo thống kê của Liên hiệp quốc là từ 300 ngàn đến 500 ngàn thuyền nhân Việt Nam bỏ mình trên biển trong những đợt vượt biên bằng thuyền để tìm đến bến bờ tự do.
Có nhiều chuyến tàu mà người đi trên đó chết hết nên khi xác họ tấp vào bờ đã được cư dân địa phương chôn tập thể. Có những mộ tập chể chôn xác gần 50 người, có mộ chôn gần 140 người…
Trên đảo Bidong là mộ phần của những thuyền nhân chết trong khi chờ được đi định cư. Có người vì bị từ chối sau tiến trình thanh lọc nên đã tự tử vì quá tuyệt vọng.
Mộ phần của những người không may đó được Văn Khố Thuyền nhân trùng tu với sự đóng góp tài chính của nhiều đồng bào gốc Việt tại nhiều nơi trên thế giới. Và nhiều cư dân địa phương từng chôn cất người chết năm nào, tiếp tục chăm sóc mộ phần của những người không may.
Đoàn lần này đến thăm, lập đàn chẩn tế cầu siêu theo nghi thức Phật Giáo cũng như nguyện cầu theo nghi thức Công giáo dưới sự chủ trì của 6 vị sư, một ni cô Phật giáo và một linh mục Công giáo.
Bốn buổi lễ được tiến hành tại các khu nghĩa trang Panji, Balai Bachok, Kuala Terengganu và tại cầu jetty đảo Bidong.
Kế hoạch duy trì và giáo dục cho thế hệ trẻ
Những cựu thuyền nhân khi nhìn thấy phần mộ được tu sửa đều rất vui mừng; tuy nhiên họ cũng có suy nghĩ làm sao có sự thăm viếng thường xuyên và tu bổ; nhất là những mộ phần trên đảo Bidong. Nơi này cây rừng mọc rất nhanh. Khu trại tỵ nạn trước đây nhìn vào như một rừng xanh.
Theo lời của nhiều cựu thuyền nhân thì đến nay những nhà cửa vào thời họ sống như cơ quan của Liên hiệp quốc, thư viện, nhà cung cấp vật phẩm… đều không còn nữa. Trên đồi tôn giáo ngôi chùa cũ chỉ còn nền và các tượng Phật mất đầu, nhà thờ Công giáo chỉ còn bức vách Cung Thánh, đài Đức Mẹ, bệ bia ghi ơn những quốc gia và tổ chức giúp cứu thuyền nhân Việt Nam…
Đó là những chỗ để cho các thế hệ sau hiểu lý do tại sao họ được sinh ra ở những đất nước khác, tại sao cha mẹ họ lại phải chịu bỏ tính mạng để ra đi như vậy!
– BS Kenneth Lê
Đây là tấm bia mà chính quyền Hà Nội yêu cầu phía Malaysia đập bỏ. Nhưng theo lời của một người trong ban tổ chức thì dấu cắt bê tông dưới chân theo họ là tấm bia được đưa đi để ở nơi nào đó và hy vọng một ngày trong tương lai nó sẽ được trả về lại vị trí cũ.
Một cựu thuyền nhân khi đến Bidong còn tuổi vị thành niên và nay đã thành danh tại Hoa Kỳ, bác sĩ trẻ Kenneth Lê cho biết:
“Em thấy ở Bidong, Galang, còn Bataan thì không được nhiều lắm nhưng cũng khang trang lắm rồi. Đó là những chỗ để cho các thế hệ sau em nữa khi họ muốn tìm hiểu lý do tại sao họ được sinh ra ở những đất nước khác, tại sao cha mẹ họ lại phải chịu bỏ tính mạng để ra đi như vậy! Trong những chuyến em đi thì có những cô chú đem theo con của họ, tức thế hệ thứ nhì sinh ra ở Mỹ, Úc hay Canada. Các em nhỏ đó cũng 15, 16, 19, 20, 21, 22…tuổi rồi nên cũng có thể nhận ra tại sao cha mẹ phải đi như vậy. Những lần đi đều đến nghĩa trang cũng như có bảo tàng nên các em cũng hiểu được.”
Những cựu thuyền nhân nay đã bước sang tuổi 60, 70 thậm chí 80 đều cũng mong muốn những khu mộ phần và những di tích các trại tỵ nạn được gìn giữ và có kế hoạch để thế hệ con cháu của họ lớn lên tại những quốc gia tự do biết và đó là cách giáo dục về nguồn cội Việt Nam cho các cháu.
Giám đốc Văn Khố Thuyền Nhân, ông Trần Đông cho biết trong thời gian tới sẽ tiến hành dự án bảo tàng thuyền nhân Việt Nam trên mạng. Đây là cách thức để những bạn trẻ có cơ hội tìm hiểu về giai đoạn lịch sử của người Việt Nam sau năm 1975.
Một cửa hàng hải sản khô ở chợ Đầm, Nha Trang. RFA photo
Hải sản đúc từ nhựa mềm giống hệt hải sản thật và len lỏi vào Việt Nam, sau đó tấn công vào các khu chợ hải sản đặc biệt của Việt Nam để chính người bán một thời gian dài không phát hiện. Và người mua phải tiền mất tật mang cho đến khi nó được phát hiện thì mọi chuyện đã quá muộn. Từ cá ngựa cho đến hải sâm, rắn biển, bào ngư, đồi mồi… Tất cả đều bị Trung Quốc nhái hàng, đẩy vào các khu chợ chuyên về hải sản như chợ Cồn, Đà Nẵng, chợ Đầm, Nha Trang. Đặc biệt, tại chợ Đầm, Nha Trang, chuyện này đang làm đau đầu nhiều nhà buôn.
Tràn lan hàng nhái, hàng giả
Một người buôn bán tại chợ Đầm, Nha Trang, không muốn nêu tên, chia sẻ: “Tất cả mọi loại hàng ở Nha Trang đều có. Nếu mua đồ khô thì có lẫn hàng giả. Khi mình đốt mà nó chảy nhủ mủ xuống là đồ nhựa giả. Còn nếu đốt mà nó cong lên không nhủ mủ thì là hàng thật.”
Theo người này, các loại hải sản dùng để ngâm rượu như cá ngựa, sâm biển, bào ngư đang bị làm giả một cách khủng khiếp. Trong đó một loại sản phẩm cao cấp, cũng có thể gọi là hải sản vì nó bắt nguồn từ các hải đảo như yến sào cũng đang bị làm giả và bán đầy rẫy trên thị trường Việt Nam.
Người này nói rằng trong suốt hai mươi lăm năm buôn bán hải sản khắp các miền đất nước, kinh nghiệm đầy mình nhưng ông vẫn không tài nào nhận biết được đâu là hải sản giả, đâu là hải sản thật một khi đã ngâm nó trong rượu. Chuyện này cũng giống y hệt gạo giả, trứng gà giả và yến sào giả. Những thứ này cũng làm giống y hệt như mặt hàng thật từ mẫu mã cho đến mùi vị, sắc màu, độ cứng mềm, độ dẻo… Có thể nói rằng khó mà phân biệt giả thật.
Người này lấy ví dụ từ một tổ yến sào. Ông nói rằng ngay cả tổ yến thật cũng qua xử lý nhiều lần bằng chất tẩy để làm sạch, nó không còn nguyên vẹn là chiếc tổ yến lúc lấy trên vách đá xuống. Không những thế, người ta còn nhuộm màu thành huyết yến, hoàng yến, tẩy trắng thành bạch yến. Sản phẩm mang đầy màu sắc công nghiệp. Chính vì mang đậm màu sắc công nghiệp nên người ta dễ dàng làm giả, làm nhái theo qui trình công nghiệp.
Và hiện tại, trên thị trường Việt Nam, các sản phẩm bạch yến, hoàng yến, huyết yến giả có nguồn gốc Trung Quốc bày bán đầy rẫy thị trường. Nhìn chung thì không đến nỗi độc hại nhưng chất lượng của nó hoàn toàn không có bởi nó được tinh chế từ bột cây chuối chóc và bột củ bình tinh cộng với hương yến điều chế từ các lò công nghiệp. Những loại yến như vậy có giá tương đối mềm và hay bày bán ở các khu vực gần bệnh viện để người mua đi thăm bệnh. Về giá trị dinh dưỡng, nó chỉ giúp cho cơ thể có thêm tinh bột và một số vitamin từ củ chuối chóc và củ bình tinh, một tổ yến bổ tương đương với một dĩa cơm bình dân, có khi không bằng.
Hải sản khô cao cấp. RFA photo
Đáng sợ hơn là các loại hải sản dùng để ngâm rượu, vốn được đồn thổi là giúp cơ thể bổ dương cường tráng, kiện khí hồi xuân. Chính vì những đồn thổi này mà nhiều người đã xem nó như một thứ thần dược giúp bảo vệ hạnh phúc gia đình, giúp gia đình khỏi cảnh ông ăn chả bà ăn nem… Vân vân và vân vân…
Nhưng hầu hết không biết rằng những sản phẩm hải sản thật như cá ngựa, rắn biển, hải sâm và bào ngư chỉ có giá trị giúp con người bồi bổ một phần nào đó, tránh bị thiếu dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng lâu dài chứ không bao giờ trở thành thần dược như đã nói. Chất thực sự kích thích chính là rượu mạnh được ngâm với các thứ này. Và những thứ hải sản ngâm rượu chỉ có thể giúp người uống giải mỏi, đỡ căng thẳng sau một ngày làm việc.
Nhưng vì người ta quá tin vào tính năng thần dược theo lời đồn thổi nên những bình rượu có xuất xứ không rõ nguồn gốc do các nhà buôn chuyên mang hàng từ Trung Quốc về bán nhanh chóng được tiêu thụ trên thị trường.
Hải sản nhựa ngâm rượu lâu năm
Một người buôn hải sản khác tên Nguyệt, hiện đang bán hải sản tại chợ Đầm, Nha Trang, chia sẻ thêm: “Ở Nha Trang, nhiều loại lắm, từ cá ngựa, bào ngư, mực một nắng… Hàng thì tùy từng chỗ, có nhiều hàng phải lấy từ Phan Thiết. Một số thì lấy từ ngư dân nhưng mà muốn ngon thì phải đi ngược ra Vạn Giã..”
Theo bà Nguyệt, chỉ có một cách duy nhất để tránh mua nhầm hải sản nhựa do Trung Quốc tuồn vào Việt Nam là người nhà buôn hãy mua hàng trực tiếp từ ngư dân Việt Nam, tuyệt đối không mua của những nhà buôn chưa có uy tín trên thị trường.
Tất cả mọi loại hàng ở Nha Trang đều có. Nếu mua đồ khô thì có lẫn hàng giả. Khi mình đốt mà nó chảy nhủ mủ xuống là đồ nhựa giả. Còn nếu đốt mà nó cong lên không nhủ mủ thì là hàng thật.
– Một người buôn bán tại Nha Trang
Với kinh nghiệm buôn bán gần mười năm, bà Nguyệt tin rằng ngư dân Việt Nam luôn thật thà, họ đánh bắt được thứ gì thì bán thứ nấy chứ không làm hàng đểu, hàng nhái. Khác với ngư dân Trung Quốc, có thể là ngư dân giả, họ bán những sản phẩm đểu mang từ đất liền ra tàu cá để ngụy trang. Đã có nhiều người mắc phải cái bẫy hàng giả của họ.
Ngư dân Việt Nam vẫn còn giữ tính cách thật thà, chưa bao giờ bán hàng giả cho bà. Và đương nhiên, một người nhà buôn có trách nhiệm có thể thử trước sản phẩm mình bán ra thị trường, thao tác này tốn rất ít thời gian. Chỉ cần dùng một mũi dao nhọn khều vào sản phẩm, là nhựa dẻo hay thật thì biết ngay.
Chỉ có những người buôn thiếu trách nhiệm và uy tín mới mua đi bán lại một cách dễ dàng, không kiểm tra chất lượng. Và cũng chỉ có khách hàng thiếu trách nhiệm với sức khỏe mới không chịu kiểm tra rõ chất lượng sản phẩm trước khi mua. Chính vì vậy mà có những hủ rượu dầm suốt năm năm, mười năm vẫn còn nguyên vẹn hình thù những gì ngâm bên trong. Mãi cho đến khi người ta thử lấy vật ngâm ra xem thì mới biết nó bằng nhựa dẻo.
Theo bà Nguyệt, vấn đề hàng giả, hàng nhái, đặc biệt là các loại hải sản nhái đã tràn lan trên thị trường. Mức độ nguy hiểm của nó thì miễn bàn. Bà Nguyệt chỉ biết khuyên người tiêu dùng hãy bớt đi một chút thời gian để thử sản phẩm trước khi mua và cũng nên bớt đi tính sĩ diện hão. Bởi ngày xưa ông bà chúng ta có cào rừng múc biển lên dầm để uống đâu mà vẫn sống khỏe, sống thọ. Bây giờ, càng uống nhiều rượu bổ, càng mau đến bệnh viện.
Để kết thúc câu chuyện hải sản đểu, hải sản nhái, bà Nguyệt trích dẫn một câu nói của cổ nhân: “Bệnh vào từ miệng, họa ra từ miệng”. Chưa bao giờ người Việt lại siêng uống rượu, nhậu nhẹt và sưu tầm đồ bổ, đồ quí như bây giờ. Và cũng chưa bao giờ nhiều thứ bệnh đe dọa như bây giờ! Hiện tại, căn bệnh khác mang tên Trung Quốc cũng đang đe dọa người Việt khôn lường!
Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định có các chính sách tôn trọng quyền tự do, tôn giáo tín ngưỡng và quyền không tôn giáo, tín ngưỡng.
Dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo mới được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đưa ra bàn thảo, lấy ý kiến tạo ra một số phản ứng và góc nhìn trái ngược nhau trong một số thành viên của giới quan sát và giáo phẩm ở Việt Nam.
Hôm 20/8/2015, một cựu quan chức lãnh đạo Văn phòng Quốc hội Việt Nam nói với BBC ông tin rằng dự luật là một ‘bước tiến bộ đột phá’, trong khi một vị chức sắc tôn giáo từng lên tiếng phản biện dự án luật này thời gian gần đây giữ quan điểm cho rằng dự luật này ‘siết chặt tôn giáo’.
Bình luận với BBC hôm thứ Năm từ Sài Gòn, ông Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội, nói:
“Đúng là một bước tiến bộ đột phá rất quan trọng, trong đó cái mà tôi chú ý nhiều nhất là muốn hoạt động tôn giáo thì đăng ký, chỉ đăng ký chứ không phải xin phép.
“Ở Việt Nam mà xin phép thì nó qua nhiều ngõ lắm.
“Cho nên chỉ đăng ký thì được hoạt động, thì tôi cho là nếu thực hiện được điều đó thì đó là tiến bộ vượt bậc,” Luật sư Thuận nói.
Quan điểm khác biệt
Trong khi đó, Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Lợi, thành viên một nhóm chức sắc giáo phẩm liên tôn từ Việt Nam, có quan điểm khác biệt.
Ông nói:
“Đây là một sự nâng cấp Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo của năm 2004 và văn bản mới này dài gấp đôi…
“Chúng ta thấy rằng đây là một văn bản mà nó siết chặt các tôn giáo hơn và làm cho những tự do liên quan tới quyền tự do tôn giáo trở thành những cái gọi là tội pháp hình sự cả.”
Và ông đưa ra lời giải thích:
“Bởi vì tất cả mọi chuyện trong cái dự luật tôn giáo này đều phải xin phép nhà nước và chờ sự cho phép của nhà nước”, Linh mục Phê-rô Nguyễn Văn Lợi đưa ra lời nhận xét với BBC.
Hôm 14/8, dự luật nói trên đã được trình ra Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam xem xét và cho ý kiến.
Theo trang nhà của Đài tiếng nói Việt Nam (vov.vn), một số thành viên ủy ban này cho rằng luật tôn giáo, tín ngưỡng phải thể hiện rõ “quan điểm đảm bảo quyền của người dân nhưng không có nghĩa không có sự quản lý nhà nước.”
Mặc dù có những ý kiến khác nhau ngay trong các thành viên Ủy ban, theo cổng thông tin điện tử của Quốc hội Việt Nam (quochoi.vn), ‘đa số các thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội’ của Việt Nam đã ‘nhất trí với việc cần thiết phải ban hành Luật’.
Được biết, dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo này có kết cầu gồm 11 chương, 67 điều và được cho là nâng cấp từ một Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành và có hiệu lực từ năm 2004.
Nhân viên ngân hàng đang đếm tiền đồng Việt Nam. AFP photo
Đúng như tiên đoán của các chuyên gia, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hôm 19/8 đã tiếp tục hạ giá tiền đồng 1% và nới biên độ tỷ giá từ 2% lên 3%. Trước đó vào ngày 12/8 Ngân hàng Nhà nước đã nới biên độ tỷ giá từ 1% lên 2%. Như vậy Việt Nam đã nhanh chóng giảm giá tiền đồng theo sau Trung Quốc. Mức độ hạ giá đồng tiền Việt Nam, theo ước tính của chuyên gia kinh tế TS Vũ Đình Ánh là 5,07% so với USD tính từ đầu năm tới nay.
Tiền đồng hạ giá…
Trả lời Nam Nguyên vào tối 20/8, TS Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia đã đánh giá về hai lần điều chỉnh tỷ giá và biên độ của Ngân hàng Nhà nước mới đây. Ông nói:
“Lần thứ nhất để phản ứng với việc Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ, còn lần thứ hai họ tính Mỹ chuẩn bị điều chỉnh tăng lãi suất cho nên mình phải có biện pháp phòng vệ trước. Đồng thời lần điều chỉnh đầu nó cũng dẫn đến chuyện dân chúng và các ngân hàng thương mại mua ngooại tệ vào quá trời! Nó có sự chuyển dịch tài sản từ đồng Việt Nam sang đồng đô la, cho nên để ngăn ngừa chuyện đó ngân hàng trung ương điều chỉnh với cường độ tương đối mạnh và họ dự kiến duy trì tỷ giá này ổn định cho đến hết quý 1 năm sau, để tránh tình trạng dân chúng găm giữ ngoại tệ và các ngân hàng thương mại thì mua ngoại tệ vào.”
Báo chí Việt Nam trong đó có tờ Thời báo kinh tế Việt Nam cho rằng, sự điều chỉnh hạ giá tiền đồng của Ngân hàng Nhà nước, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ là không còn đường nào khác. Lập luận này dựa vào sự lệ thuộc kinh tế Trung Quốc của Việt Nam với mức nhập siêu quá lớn. Mặc dù Tổng Cục Hải quan dự báo năm 2015 nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc khoảng 35 tỷ USD. Thực tế trong 7 tháng vừa qua Việt Nam đã nhập siêu 19,3 tỷ USD từ Trung Quốc và diễn biến trên thị trường cho thấy, mức nhập siêu này có thể vượt xa các dự báo.
Lần thứ nhất để phản ứng với việc Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ, còn lần thứ hai họ tính Mỹ chuẩn bị điều chỉnh tăng lãi suất cho nên mình phải có biện pháp phòng vệ trước.
– TS Lê Xuân Nghĩa
Khi Ngân hàng Nhà nước tăng gấp đôi biên độ tỷ giá lên 2% vào ngày 12/8/2015 như một hình thức hạ giá tiền đồng, các chuyên gia kinh tế trong đó có bà Phạm Chi Lan đã khuyến cáo Ngân hàng Nhà nước nên mạnh dạn hạ giá đồng tiền Việt Nam. Thậm chí TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách thuộc Đại học Quốc gia Hà nội còn khuyến nghị, là Việt nam nên chủ động phá giá tiền đồng, nếu Trung Quốc phá giá 5% thì Việt Nam nên phá giá cao hơn như 6%-7%. Lúc đó Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế hiện sống ở Hà Nội đã nói với chúng tôi:
“Đây là một bài toán, nếu tư duy điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường mà không điều chỉnh cho nó tương xứng đến một mức độ nào đó, không phải nhất thiết họ 4,6% mình cũng phải 4,6%. Nhưng nếu với biên độ quá hẹp thì cũng không có tác dụng lớn lắm và cái đó sẽ gây hệ lụy đặc biệt cho khả năng cạnh tranh cũng như ảnh hưởng xuất khẩu và vấn đề nhập siêu của Việt Nam.”
Việt Nam không áp dụng chính sách thả nổi đồng tiền, như nhiều quốc gia khác theo nền kinh tế thị trường. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quyết định tỷ giá ngoại hối và trong nhiều năm qua, nhà điều hành đã chỉ điều chỉnh cầm chừng, mức độ hạ giá tiền đồng trong khoảng 1%-2% một năm. Năm 2015 này, Ngân hàng Nhà nước đã tỏ ra đáp ứng nhiều hơn đối với tín hiệu thị trường trong điều hành chính sách tiền tệ.
… Lợi hay hại?
Liên quan tới các tác động tích cực của việc phá giá đồng tiền Việt Nam, TS Lê Xuân Nghĩa nói với Ban Việt ngữ RFA:
Nhân viên ngân hàng Việt Nam đang đếm đô la Mỹ. AFP photo
“Trước hết các nhà xuất khẩu người ta cảm thấy có lợi, bởi vì lâu nay đồng đô la tăng giá và đồng Việt Nam vẫn giữ nguyên. Cho nên đồng Việt Nam trên thực tế tăng giá đối với các đồng tiền khác như đồng Yên, đồng Euro và đồng đô la.
Để hỗ trợ cho xuất khẩu mình phá giá thêm vài ba phần trăm thì các hàng hóa Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài được cạnh tranh tốt hơn. Với lại Trung Quốc phá giá như vậy mà hàng hóa Việt Nam xuất ra nước ngoài phần lớn giống như của Trung Quốc. Nếu như mình không phá giá tương ứng thì hàng hóa cạnh tranh với hàng Trung Quốc ở nước ngoài cũng yếu đi.
Điểm thứ ba hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam rất là mạnh nếu mình không phá giá đồng tiền một chút thì sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị trường nội địa cũng mạnh và cũng cản trở sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam.”
Ngày 12/8 trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi TS lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương ở Hà Nội tuy đồng thuận về chủ trương hạ giá tiền Việt để khuyến khích xuất khẩu và giảm bớt làn sóng hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc đã và đang tràn ngập thị trường nội địa. Tuy vậy ông đã lên tiếng cảnh báo về tác dụng không mong muốn đó là gánh nợ công của Việt Nam sẽ tăng lên. TS Lê Đăng Doanh nhận định:
Biện pháp này chắc chắn sẽ làm cho tăng thêm chi phí để trả nợ công vì nợ công của Việt Nam được trả bằng đồng Đô La và nếu như điều chỉnh tỷ giá và nới biên độ như thế này thì nợ công sẽ tăng thêm nữa.
– TS Lê Đăng Doanh
“Tôi cũng xin lưu ý rằng biện pháp này chắc chắn sẽ làm cho tăng thêm chi phí để trả nợ công vì nợ công của Việt Nam được trả bằng đồng Đô La và nếu như điều chỉnh tỷ giá và nới biên độ như thế này thì nợ công sẽ tăng thêm nữa.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi là không những nợ công sẽ tăng lên mà doanh nghiệp cũng phải tăng chi phí trả nợ vay ngân hàng bằng ngoại tệ. TS Lê Xuân Nghĩa phát biểu:
“Nợ công, rồi doanh nghiệp phải trả nợ bằng đô la sẽ tốn nhiều tiền Việt Nam hơn thì đúng là như vậy. Nhưng dù sao tổng số tiền đi vào Việt Nam mà trừ đi tổng số tiền đi ra Việt Nam thì nó vẫn dương khoảng 5 tỉ đô la, cái dương đấy là có lợi.”
Tuy TS Lê Xuân Nghĩa không đi vào chi tiết, nhưng nhiều chuyên gia khác đã phát biểu trên báo chí là lượng kiều hối hàng năm mười mấy tỷ USD là một nguồn ngoại tệ quan trọng, một thứ viện trợ không hoàn lại.
VnExpress bản tin trên mạng ngày 19/8/2015 cho biết Ngân hàng Nhà nước sẵn sàng bán ngoại tệ để can thiệp thị trường. Trước đó trên hệ thống truyền thông nhà nước, ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết dự trữ ngoại hối quốc gia tính đến cuối tháng 7/2015 là 37 tỷ USD và 10 tấn vàng. Ông Bình từng nhấn mạnh đây là số ngoại tệ tiền tươi thóc thật, sẵn sàng sử dụng bất cứ lúc nào. Tuy vậy Ngân hàng đa quốc gia HSBC nhận xét rằng, mức dự trữ ngoại tệ 37 tỷ USD của Việt Nam chẳng nhiều nhặn gì và Bộ Tài chính còn đề nghị cho ngân sách vay từ quỹ dự trữ này. Điều này khiến Ngân hàng Nhà nước thiếu cơ sở để thực hiện cam kết của mình.
Thực tế giá trị tiền Việt Nam hiện nay ra sao. Sau quyết định mới nhất ngày 19/8, phá giá tiền đồng 1% và nới biên độ tỷ giá lên 3%, về nguyên tắc các ngân hàng được phép giao dịch tiền Việt và đô la Mỹ không thấp hơn 21.233 đồng và không cao hơn 22.547 đồng ăn 1 đô la Mỹ.
Ngân hàng ANZ là tổ chức quốc tế sớm tiên đoán, nếu Việt Nam không hạ giá tiền đồng thêm nữa thì từ nay đến cuối năm, tiền đồng Việt Nam vẫn có thể mất giá tối đa 5,1%. ANZ tức Ngân hàng Australia-New Zealand đánh giá dè đặt hơn các chuyên gia Việt Nam, tổ chức này cho rằng sau ba lần điều chỉnh tỷ giá và nới biên độ, đến nay trên thực tế tiền đồng Việt Nam hạ giá 4,5%, ít hơn mức 5,07% mà TS Vũ Đình Ánh phát biểu trên báo mạng VnEconomy hôm 19/8/2015.
Ngân hàng đa quốc gia HSBC dự báo tỷ giá cuối năm 2015 sẽ lên mức 22.800 đồng/USD. Nhìn lại tỷ giá cách đây 5 năm, tháng 1/2010 một đô la Mỹ đổi được khoảng 18.479 đồng mà nay đã lên tới 22.547 đồng. Đồng tiền Việt Nam sẽ đi về đâu trong tương lai là điều mà những người làm công ăn lương phải âu lo.
NHÂN ĐỌC PHÁT BIỂU CỦA ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG TẠI ĐẠI HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM LẦN THỨ X
Trong bài phát biểu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh báo chí cần “phê phán, bác bỏ các thông tin, quan điểm sai trái, âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực phản động, thù địch”.
“Thế lực phản động”, “kẻ phản động” là các từ xuất hiện khá thường xuyên trong các phát biểu của ông Trọng, và tôi chưa thấy ông định nghĩa chúng như thế nào. Nói chuyện với nhau mà chưa có cùng định nghĩa hay cùng cách hiểu về thuật ngữ thì dễ tạo điều kiện cho người này đánh tráo khái niệm, đánh lừa người kia, hay ít nhất cũng dễ hiểu lầm nhau.
CHÚNG TA NÊN HIỂU ‘PHẢN ĐỘNG’ LÀ GÌ?
Cách hiểu như dưới đây do người viết tổng hợp gọn lại khi tra từ “phản động” tiếng Anh [reactionism, reactionist, reactionary] trong các từ điển Oxford Dictionary, Merriam-Webster, Britannica Encyclopedia…
“Phản động”, dùng như tính từ, chỉ một hệ thống các quan điểm, triết lí, niềm tin… về kinh tế-chính trị nhằm a) tái lập lại tình trạng phát triển xã hội của giai đoạn trước giai đoạn hiện tại, hoặc b) chống lại các thay đổi căn bản về chính trị, xã hội.
Cách hiểu này bao hàm rằng “phản động” có tính chất đi ngược chiều tiến hóa, tiến bộ, văn minh.
“Thế lực phản động”, “người phản động” là thế lực, là người có tư tưởng, khuynh hướng chính trị phản động.
VẬY THÌ NHƯ THẾ NÀO LÀ ‘PHẢN ĐỘNG’? THẾ LỰC NÀO, NGƯỜI NÀO LÀ ‘PHẢN ĐỘNG’?
Mang ý nghĩa như nói trên của từ “phản động” vào thực tế cuộc sống chính trị và xã hội trước mắt, chúng ta thấy gì? Xin mời quí độc giả cùng nhau xem xét 3 khía cạnh dưới dây:
1) Khía Cạnh Chính Thể: Chính thể Dân Chủ Tự Do với Tam Quyền Phân Lập là kinh nghiệm đúc kết từ mấy ngàn năm lịch sử. Các lí thuyết chính trị-xã hội về Tự Do Dân Chủ cùng các phương pháp, công cụ xây dựng xã hội Tự Do Dân Chủ được phát triển mạnh mẽ trong thế kỉ Ánh Sáng cách nay bốn trăm năm cho tới nay ngày càng hoàn thiện. Chính thể này được các quốc gia áp dụng thay thế chính thể độc tài quân chủ trước đó. Hiện nay đa số các quốc gia trên thế giới áp dụng chính thể này, và những quốc gia áp dụng thành công nhất trở thành các nước giàu mạnh, ấm no nhất. Mười quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới đều áp dụng chính thể này.
Vậy thì, người ủng hộ Việt Nam theo chính thể Dân Chủ Tự Do với Tam Quyền Phân Lập là người tiến bộ. Người muốn Việt Nam nằm dưới chính thể độc tài, độc đảng và toàn trị là người “phản động”. Sau sự kiện phá bỏ bức tường Bá Linh và các nước Đông Âu, Nga từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản để theo chính thể Dân Chủ Tự Do vào cuối thập niên 1980, người ủng hộ xây dựng chủ nghĩa Cộng sản là người “phản động”.
2) Khía Cạnh Tự Do Tư Tưởng: Thời đại hiện nay là thời đại Công Nghệ Thông Tin và Tri Thức. Tri Thức thì không có giới hạn, không có rào cản, còn Công Nghệ Thông Tin nhằm đẩy nhanh tốc độ lan truyền học thuật và tri thức. Môi trường đa nguyên thúc đẩy phát triển tri thức. Mười quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới đều có môi trường chính trị-xã hội đa nguyên.
Vậy thì, người ủng hộ đa nguyên tại Việt Nam là người tiến bộ. Người muốn Việt Nam không có đa nguyên là người “phản động”. Người ủng hộ lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng duy nhất cho đất nước là người “phản động”.
Người ủng hộ truyền bá thông tin, tự do báo chí là người tiến bộ. Người chống lại, cấm đoán báo chí tư nhân là người “phản động”.
3) Khía Cạnh Làm Chủ Xã Hội và Tiếp Cận Quyền Lực Chính Trị: Dân chúng là chủ của xã hội. Dân chúng chọn lựa chính quyền làm việc cho quốc gia và gạt bỏ chính quyền họ thấy không vừa ý. Dân chúng bình đẳng trong việc tiếp cận hệ thống quyền lực chính trị của quốc gia. Các quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ứng cử, bầu cử… vừa là các quyền căn bản của người dân vừa để bảo đảm quyền làm chủ xã hội của họ. Dân chúng trong 10 quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới đều hưởng các quyền tự do căn bản này.
Vậy thì, người ủng hộ và tranh đấu cho các quyền tự do lập đảng, tự do ứng cử, bầu cử tại Việt Nam là người tiến bộ. Người không muốn dân chúng Việt Nam có các quyền căn bản này là người “phản động”.
Thưa các độc giả, nếu quí vị đồng ý với người viết về 3 khía cạnh nói trên thì quí vị nghĩ sao về lập trường của đảng CSVN? Lập trường đó tiến bộ hay phản động?
Lập trường này được ông Tổng Bí thư nêu rõ ràng trong lời kêu gọi của ông đối với lực lượng báo chí qua bài phát biểu tại đại hội Hội nhà báo Việt Nam:
“…kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch, lợi dụng tự do, dân chủ, đòi “đa nguyên đa đảng”…
Thế lực mà ông Tổng bí thư gọi là thù địch, thế lực đó đòi “đa nguyên, đa đảng”, vậy thế lực đó tiến bộ hay phản động?
Còn ông Tổng Bí thư, người nhất quyết dùng bạo lực bắt giữ đất nước xây dựng chủ nghĩa Cộng sản và nằm dưới chế độ độc tài của một đảng cộng sản duy nhất, lập trường của ông tiến bộ hay phản động?
Dân tộc Việt Nam có cam chịu bị kềm giữ mãi trong vòng chậm tiến và lệ thuộc Trung Cộng hay không?
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Trần Phan từng làm việc tại Việt Nam, châu Âu và châu Mỹ. Trước đây làm việc nhiều năm tại Procter & Gamble (Mỹ), Hoffman La Roche (Thụy Sĩ) ở vị trí quản lý. Hiện đã nghỉ làm việc cho các công ty đó.
Sức khỏe của cộng đồng doanh nghiệp thể hiện tình trạng nền kinh tế. Việt Nam được các chuyên gia cho rằng nếu bớt được tình trạng nhũng nhiễu thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên và nâng cao năng lực cạnh tranh cho họ.
Nhiêu khê sinh nhũng nhiễu
Có thể nói nạn hối lộ, đút lót là đầu cuối của thể chế, khi thể chế thiếu công khai minh bạch, thủ tục hành chính nhiêu khê thì đẻ ra các chi phí bôi trơn.
Các chuyên gia kinh tế nhiều lần nêu ra vấn đề, làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam khi mà kết quả điều tra cho thấy, để kiếm được 1 đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp phải sử dụng 1 đồng đút lót bôi trơn. Điều này được TS Lê Đăng Doanh nêu ra trong Diễn đàn Kinh tế mùa Xuân 2015 tổ chức ở Vinh hồi tháng 4 vừa qua. Gần đây ngày 8/8/2015 tại cuộc hội thảo ở Đà Nẵng, chuyên gia Phạm Chi Lan cũng đã lập lại điều này.
Trước đây mức độ tham nhũng nhũng nhiễu được coi là thông thường là 30%. Sau đó được nâng lên thậm chí có lúc tới 50%. TS Phạm Chí Dũng, TP.HCM
Trao đổi với chúng tôi, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long từ Hà Nội nhận định:
“Một đồng lợi nhuận phải bỏ ra 1,02 đồng chi phí bôi trơn. Tất cả những hệ lụy, những mặt trái, mặt tiêu cực này xã hội đều đã nhìn thấy và chính phủ cũng tỏ quyết tâm giải quyết vấn đề này. Nhưng thực tế giải quyết được đến đâu thì phải chờ xem, có biến lời nói thành hành động có kiên quyết hay không.”
Có vẻ như tình trạng kinh tế tụt hậu của Việt Nam so với các nước Đông Nam Á khác bắt nguồn từ nhiều vấn đề, như không thực sự có kinh tế thị trường, tài nguyên nguồn lực quốc gia được ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là chính đất đai. Tuy vậy các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp Việt Nam nói chung không phát triển lên được, do tình trạng tham nhũng hối lộ trầm kha và là bi kịch của đất nước.
TS Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo độc lập một tổ chức tự phát không phụ thuộc chính quyền, nhận định:
“Trước đây tôi chỉ nghe mức độ tham nhũng nhũng nhiễu được coi là thông thường là 30%. Tỷ lệ này thường được áp dụng trong xây dựng cơ bản từ vốn ngân sách nhà nước và được coi là bình thường, có nghĩa là cứ 100 đồng thì phải cắt ra 30 đồng để coi là hoa hồng, lại quả, hối lộ cho một số quan chức. Sau đó tỷ lệ 30% đó được nâng lên thậm chí có lúc tới 50% và đáng chú ý là tỷ lệ này chừng mực nào đó lại được áp dụng vào trong lãnh vực tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA.”
Đút lót, hối lộ: Chuyện thường ngày ở huyện
Đút lót hối lộ trở thành một chuyện thường tình, không một doanh nghiệp nào ở Việt Nam lại không từng sử dụng phí bôi trơn. Đút lót từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn vì mọi thủ tục quá rườm rà và để công việc có thể chạy được doanh nghiệp phải chấp nhận đút lót.
Có những chuyện không thể nào hiểu nổi, một thí dụ nhỏ là một doanh nghiệp xuất khẩu muốn xuất khẩu 1 container hàng ra nước ngoài, chủ doanh nghiệp đã lên danh mục phí bôi trơn tới từng chi tiết.
Ngay cả đi thuê container để vô hàng cũng phải hối lộ cho nhân viên phụ trách ở cảng để không phải chờ đợi, được giao container tốt, rồi hải quan kiểm hóa, kết thúc hồ sơ thông quan… mỗi khâu đều có phí bôi trơn thì công việc mới chạy.
Tại Hội thảo Đà Nẵng ngày 8/8/2015, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan dẫn kết quả điều tra đáng tin cậy đã nói, ở Việt Nam trung bình cứ 1 đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp phải mất 1,02 đồng bôi trơn. Giả dụ nếu bớt tham nhũng được 50% thì doanh nghiệp được tăng lợi nhuận 50%. Báo chí trích lời bà Phạm Chi Lan nói rằng, đó là lý do doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhỏ đi so với trước.
Bài toán này Việt Nam đang xử lý và đang giải quyết, nhưng xử lý đến đâu và giải quyết có hiệu quả hay không thì phụ thuộc vào sự quyết tâm, quyết liệt và sự nghiêm minh của pháp luật và của nhà cầm quyền.
TS Ngô Trí Long, Hà Nội
Cần phải dân chủ hóa
Trả lời chúng tôi Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long nhận định, điểm chính là vấn đề cải cách đổi mới thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách bộ máy hành chính, cơ cấu đội ngũ cán bộ và những thủ tục hành chính. Hiện nay do thủ tục hành chính phức tạp gây ảnh hưởng môi trường đầu tư, vì vậy đã làm cho những chi phí bôi trơn hay, phí hay lệ phí tăng lên, những mặt đó là tiêu cực.
Trong hai năm 2014 và 2015, trọng tâm của chính phủ trong thời gian này là cải thiện môi trường đầu tư. Năm 2014 cố gắng bằng ASEAN-6 và 2015 cố gắng cải thiện môi trường đầu tư bằng ASEAN-4, tức nhóm 4 nước phát triển nhất của ASEAN. Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long nhấn mạnh:
“Chính phủ đưa ra những biện pháp hết sức cụ thể nhưng thực tế triển khai và kết quả thực hiện cũng chưa là bao, cần phải giải quyết sao cho có hiệu quả hơn. Hay nói cách khác là lời nói và hành động phải đi đôi với nhau và có sự kiểm soát, giám sát một cách chặt chẽ và phải có chế tài thực sự nghiêm minh xử lý những vấn đề còn nhũng nhiễu gây ra những chuyện không tốt đối với hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đây là một trong những biện pháp rất tốt để giải quyết vấn đề vấn nạn tham nhũng hiện nay. Bài toán này Việt Nam đang xử lý và đang giải quyết, nhưng xử lý đến đâu và giải quyết có hiệu quả hay không thì phụ thuộc vào sự quyết tâm, quyết liệt và sự nghiêm minh của pháp luật và của nhà cầm quyền Việt Nam.”
Một chuyên gia Cơ quan phát triển quốc tế của Hoa Kỳ (USAID) ông Olin McGill từng nhận định là thu nhập đầu người của Việt Nam đáng lẽ có thể tăng gấp 5 lần. Nhưng Việt Nam không đạt được điều này là vì điều hành không hiệu quả. Theo lời ông McGill, thủ tục xuất nhập khẩu ở Việt Nam không thông thoáng, với lượng thời gian kéo dài 21 ngày như hiện nay, ước tính Việt Nam đang thất thoát khoảng 15% tổng kim ngạch thương mại hằng năm.
Ví dụ nhỏ của ông McGill đủ làm mọi người giật mình. Nếu môi trường kinh doanh ở Việt Nam được cải thiện, thì tất nhiên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao. Môi trường kinh doanh tốt thường được thể hiện ở những nước có nền dân chủ pháp trị. Xem ra con đường cải tổ ở Việt Nam vẫn còn dài dằng dặc.
Bà Suu Kyi (trái) không cho biết cụ thể liên minh với ông Shwe Mann (phải) sẽ làm việc như thế nào
Lãnh tụ đối lập Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi, vừa tuyên bố bà sẽ lập liên minh với ông Shwe Mann, nguyên chủ tịch đảng cầm quyền Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP) mới bị truất quyền.
Lãnh tụ đối lập Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi, vừa tuyên bố bà sẽ lập liên minh với ông Shwe Mann, nguyên chủ tịch đảng cầm quyền Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP) mới bị truất quyền.
Bà lên tiếng khi Quốc hội tái họp vào thứ Ba, phiên cuối cùng trước khi diễn ra tuyển cử toàn quốc vào tháng 11 tới đây.
Tuần trước ông Shwe Mann đã bị truất chức. Việc truất chức ông được xem như một hành động dứt khoát của Tổng thống Thein Sein nhằm nắm chặt quyền lực chính trị trước khi có tuyển cử.
Phát biểu vào khi các đại biểu Quốc hội tụ họp, bà Suu Kyi nói việc Tổng thống truất quyền ông Shwe Mann hôm thứ Tư tuần trước đã cho thấy rõ “ai là kẻ thù, ai là đồng mình”.
Bà nói Liên đoàn Dân tộc vì Dân chủ (NLD) sẽ làm việc với “đồng minh”.
Bà Suu Kyi, người từng được tặng giải Nobel về Hòa bình, đã cùng với Anh và Mỹ bày tỏ quan ngại về việc truất chức ông Shwe Mann ngay trước khi diễn ra tuyển cử, cuộc tuyển cử đầu tiên kể từ khi có cải cách dân chủ bắt đầu từ năm 2011.
“Đây không phải những gì bạn chờ đợi tại một nền dân chủ có hiệu lực,” bà nói về hoàn cảnh dẫn tới việc truất chức ông Shwe Mann, và nói thêm rằng những chia rẽ trong đảng cầm quyền USDP có lẽ sẽ đem lại thêm hậu thuẫn cho đảng NLD tại cuộc bầu cử sắp tới.
Bà Suu Kyi tại Nay Pyi Taw khi Quốc hội chuẩn bị họp lần cuối trước khi tổ chức tuyển cử vào tháng 11
Quân đội vẫn có ảnh hưởng lớn tại Miến Điện bất chấp những cải tổ chính trị từ năm 2011.
Các phóng viên cho biết liên minh giữa bà Suu Kyi và ông Shwe Mann rất có ý nghĩa vì ông vẫn có vai trò quan trọng trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, và ông được nhiều người nhìn nhận có thể là một ứng viên Tổng thống có thể thỏa hiệp.
Chính bà Suu Kyi không thể ra tranh cử thể theo các điều khoản trong Hiến pháp do chính phủ quân nhân soạn thảo.
Bà không cho biết cụ thể liên minh của bà với ông Shwe Mann sẽ làm việc ra sao nhưng một lĩnh vực có thể hợp tác đó là sửa đổi Hiến pháp để cho phép bà có thể ra tranh cử chức vụ Tổng thống.
Về phần mình thì chính phủ Miến Điện hôm thứ Ba đã tìm cách giảm nhẹ việc truất chức ông Shwe Mann mà họ miêu tả là “một phần công việc bình thường” của một đảng chính trị.
Ông Chris Haye, dân biểu đảng Lao động Úc (bên trái)
08182015-intervw-aust-sena-abt-vn-hr.mp3
Ngày 14 tháng Tám vừa qua, vòng Đối thoại nhân quyền Việt-Úc lần thứ 12 diễn ra ở Canberra, ông Chris Haye, một dân biểu liên bang thuộc đảng lao động dành cho Đài Á Châu Tự Do buổi nói chuyện về nhận định của ông đối với nhân quyền tại Việt Nam.
Cát Linh: Xin chào ông Chris Haye. Là thành viên liên bang thuộc đảng lao động Úc và là người quan tâm đến tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, ông có thể cho biết những ý kiến của ông đưa ra trong vòng đối thoại nhân quyền Việt – Úc lần thứ 12 tổ chức tại Canberra tuần qua?
Mr. Chris Haye: Xin chào thính giả của đài Á Châu Tự Do. Ngày 14 Tháng Tám vừa qua tại Canberra đã diễn ra cuộc hội thảo lớn về nhân quyền. Đây là một cơ hội cho những ai quan tâm đến vấn đề nhân quyền hiện tại ở Việt Nam. Về cơ bản thì đây là một cuộc thảo luận diễn ra theo đúng qui tắc luật pháp (formal discussion), nhằm đảm bảo rằng những vấn đề chúng tôi đưa ra được sự quan tâm của chính phủ Úc. Tôi đã không tham dự trực tiếp vào vòng đối thoại. Nhưng, trước đó, tôi đã gửi thông điệp cho người chịu trách nhiệm tổ chức những điều mà tôi cho là nên đề cập trong cuộc hội thảo. Tôi cũng nhấn mạnh rằng nhân quyền là vấn đề cần được quan tâm ở Việt Nam.
Cát Linh: Xin được hỏi là gần đây, ông có theo dõi về những trường hợp bắt giữ người trái phép, đặc biệt là đối với những nhà đấu tranh, những tù nhân chính trị đang bị giam cầm trái pháp luật tại Việt Nam?
Tôi cũng nhấn mạnh rằng nhân quyền là vấn đề cần được quan tâm ở Việt Nam
Mr. Chris Haye
Mr. Chris Haye: Tôi là người đại diện cho một số đông người Việt tỵ nạn chọn đến Úc Châu làm quê hương sau khi Sài Gòn thất thủ. Con cháu của họ cũng trưởng thành, là một công dân Úc từ đó. Cho nên, họ là những người có cái nhìn thấu đáo và sâu sắc nhất về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Là người đại diện cho họ và với quyền hạn của một dân biểu liên bang, tôi có trình lên chính phủ Úc và đề nghị họ nên quan tâm đến những trường hợp của những nhà đấu tranh dân chủ đang bị giam cầm tại Việt Nam. Ví dụ như cha Nguyễn Văn Lý, người đấu tranh cho tự do tôn giáo đang bị giam cầm. Một trường hợp khác là bà Bùi Thị Minh Hằng. Bà đang bị giam trong tù và không chịu ký giấy nhận tội. Tôi nghĩ rằng bà Hằng không nhận tội vì bà hiểu rõ bộ máy chính quyền.
Trong một lần được hân hạnh tiếp đón thủ tướng Úc tại văn phòng của tôi, tôi đã trình bày cho ông trường hợp của bà Bùi Thị Minh Hằng. Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều cảm phục tinh thần đấu tranh của người phụ nữ này.
Tôi xin nói rằng, chúng tôi tin tự do không chỉ là quyền hiến pháp, mà là một giá trị ưu tiên. Khi một quốc gia đã ký kết những hiệp ước quốc tế, quốc gia đó phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Ý tôi muốn nói nghĩa vụ đó không phải chỉ dành cho lợi ích kinh tế quốc gia, mà còn phải là lợi ích của công dân quốc gia đó.
Cát Linh: Chúng tôi được biết ông đã không đến dự đối thoại nhân quyền Việt-Úc vừa qua. Điều này có vì 1 lý do cụ thể nào không thưa ông?
Mr. Chris Haye: Điều này khá đơn giản. Vì tôi là dân biểu liên bang thuộc đảng lao động, đảng đối lập với phe đối lập bảo thủ ở Úc đang cầm quyền hiện tại. Tôi không tham dự vào những vấn đề thuộc quốc hội hay chính phủ. Nhưng chúng tôi biết những đề nghị mà chúng trình lên chính phủ chắc chắn sẽ có được sự quan tâm.
Cát Linh:Cảm ơn ông Chris Haye đã dành cho chúng tôi buổi nói chuyện này.
Các vụ nổ xảy ra ở Thiên Tân khuya thứ Tư 13/08/2015 với những quả cầu lửa khổng lồ, những tiếng nổ kinh thiên động địa và khung cảnh hoang tàn của ngày tận thế sau đó, nỗi đau của thân nhân những người lính cứu hỏa trẻ tuổi bị chết và mất tích… đã để lại ấn tượng khó quên cho những người chứng kiến.
« Công xưởng thế giới » đã trở thành một quả bom nổ chậm khổng lồ, mà không ai có thể biết rõ mãnh lực cũng như mối nguy hiểm thực sự của nó – như những ngọn núi lửa luôn chực chờ gây kinh hãi cho nhân loại.
Đành rằng các tai nạn cũng đã từng xảy ra tại những nơi khác, chẳng hạn vụ nổ nhà máy AZF tại Pháp tháng 9/2001. Nhưng Trung Quốc là một trường hợp khác hẳn, ở cực điểm. Riêng trong sáu tháng đầu năm nay, theo thống kê chính thức đã có gần 139.000 tai nạn công nghiệp tại Trung Quốc, làm cho 27.000 người chết. Những con số kinh khiếp, và chắc chắn là đã bị giảm thiểu so với sự thật !
Trước đó trong năm 2014, có 931 công nhân bị thiệt mạng vì tai nạn hầm mỏ. Năm 2013, có thể kể hai tai nạn quan trọng : vụ nổ một đường ống dẫn dầu của Sinopec ở Thanh Đảo làm 62 người chết và 136 bị thương, vụ hỏa hoạn một nhà máy chế biến gia cầm ở Cát Lâm làm 120 người chết.
Trong mỗi tai nạn, đều phát hiện những vi phạm các quy định cơ bản như cửa thoát hiểm bị khóa hoặc thậm chí không có cửa thoát hiểm, công nhân không biết gì về an toàn lao động… Các doanh nghiệp bỏ qua vấn đề an toàn để giảm chi phí, và nạn tham nhũng giúp họ thoát khỏi những vụ thanh tra hiếm hoi.
An toàn lao động không được chú ý, các tiêu chí bị bỏ qua, tham nhũng lan tràn ở mọi cấp độ, thiếu vắng sự minh bạch, thói quen giấu diếm mỗi lần xảy ra thảm họa…Tất cả những khuyết điểm, hay đúng hơn là sự băng hoại của « mô hình Trung Quốc » nay đã phơi bày trước toàn thế giới qua tai nạn ở Thiên Tân.
Tầm cỡ của thảm họa và sự hiện diện của khối lượng lớn các chất độc hại, khiến người ta liên tưởng đến một thảm họa khác, đó là tai nạn Tchernobyl ở Ukraina năm 1986. Điểm tương đồng đáng sợ : nhà máy điện nguyên tử này vốn là một trong những niềm hãnh diện của siêu cường Liên Xô thời ấy, và tai nạn là một trong những điềm báo trước cho sự sụp đổ của chế độ cộng sản xô-viết.
Các nhà phân tích cho rằng lịch sử chỉ lặp lại. Cũng như trong vụ Tchernobyl, chính quyền khẳng định là mối nguy chỉ khu trú ở một khu vực nhất định, rằng không có gì phải lo ngại vì hơi độc thực ra không đến nỗi nguy hiểm lắm. Rồi đến vài năm sau người dân mới biết được thiệt hại to lớn về nhân mạng và ảnh hưởng đến môi trường – thực sự là bi kịch.
Vấn đề không phải ở chỗ thiếu vắng luật lệ về rủi ro công nghiệp, mà là sự chểnh mảng và nạn tham nhũng đã ngăn trở mọi áp dụng nghiêm túc các quy định.
Trong những ngày gần đây, chính quyền Bắc Kinh chủ yếu lo khóa chặt các mạng xã hội, thay vì thông tin cho nhân dân mình. Với thói quen giảm nhẹ hậu quả các tai nạn, chính quyền ngày càng khó kìm hãm sự phẫn nộ của người dân tại chỗ, gia đình các nạn nhân, các công dân và cư dân mạng.
Hôm nay 200 người dân Thiên Tân trở thành vô gia cư sau vụ nổ đã biểu tình đòi bồi thường thiệt hại. Và mai đây, một khi những người mất tích bị khẳng định là không còn có thể trở về, sự giận dữ của thân nhân họ trước những người có trách nhiệm – mà chẳng hề thể hiện tinh thần trách nhiệm – chắc hẳn sẽ còn lên cao.
Vào lúc mà thế giới đặt câu hỏi về các nguy cơ của tình trạng nền kinh tế Trung Quốc chựng lại, thảm họa Thiên Tân nhắc nhở những hạn chế của « mô hình Trung Quốc » : muốn phát triển hài hòa trong một nền kinh tế thị trường theo kiểu tư bản, nhưng lại trong một hệ thống toàn trị cộng sản.
Người ta không thể mãi tự xưng là động lực của nền kinh tế thế giới, trong khi không mang lại bảo đảm tối thiểu về an ninh và an toàn cho mạng lưới công nghiệp của mình. Vấn đề là ở chỗ, mục tiêu này liệu có thể đạt được mà không có sự hiện diện của các lực lượng đối trọng, cơ quan điều phối và các phương tiện truyền thông độc lập hay không. Nói cho cùng, đó là sự thiết lập một chế độ đa phương, dân chủ.
Và như thế, những lời hứa của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc – được đánh dấu bằng chiến dịch chống tham nhũng mang tính khoa trương – sự chuyển đổi sang một « nền kinh tế tri thức », chú trọng tính sáng tạo và tôn trọng các điều kiện lao động cũng như môi trường, chỉ là những khẩu hiệu suông đối với hàng bao nhiêu triệu người dân Trung Quốc đang mong đợi cuộc sống có chất lượng tốt hơn.
Còn đối với thế giới, thảm họa vừa xảy ra tại thành phố cảng Thiên Tân, như trên đã nói, là dấu hiệu báo trước những nguy cơ từ quả bom nổ chậm vĩ đại, mà ba thập kỷ qua vẫn được coi là công xưởng của toàn cầu.
Ngày 25 tháng 3 năm 2015 tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) mở chiến dịch “Tháo còng báo chí” (Press Uncuffed ), Tạ Phong Tần được nêu tên trong danh sách 9 người trên khắp thế giới. RFA files
Vào đầu tháng tám năm nay, tin từ gia đình của người nữ tù nhân chính trị Tạ Phong Tần cho biết là cơ quan công an Việt nam đã tiếp xúc với bà với lề đề nghị bà làm đơn xin đi Hoa Kỳ để được trả tự do. Tin này cùng với những thông tin về đợt đặc xá sắp tới nhân ngày quốc khánh Việt nam 2/9, làm nhiều người hy vọng là sẽ có một số tù nhân chính trị được thả trước thời hạn.
Hy Vọng
Luật sư Nguyễn Văn Đài, một cựu tù chính trị nhận xét những diễn biến xung quanh đợt đặc xá nhân ngày 2/9 năm nay:
“Ngày hôm 15 vừa rồi thì ông Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch hội đồng đặc xá trung ương đã ngồi cùng với một ban liên ngành gồm Bộ công an, Tòa án tối cao, Mặt trận Tổ quốc, và Bộ tư pháp. Thì theo luật về đặc xá thì các cơ quan này họ sẽ tư vấn cho hội đồng đặc xá trung ương những trường hợp đặc xá đặc biệt. Ở đây chúng ta hiểu những trường hợp đặc xá đặc biệt là họ không có căn cứ trên tiêu chuẩn nào cả. Tức là có thể người đó không có nhận tội, không chịu cải tại, hay cái việc mà họ đánh giá hạnh kiểm, lao động trong trại là kém.
Việc ân xá đặc biệt nằm trong hai lý do. Một là vì lý do nhân đạo, hai là vì các mối quan hệ quốc tế của họ mà họ sẳn sàng đặc xá những tù nhân như vậy. Thì đây là trường hợp đầu tiên mà truyền thông chính thống Việt nam đưa tin về những trường hợp đặc xá đặc biệt.”
Tuy nhiên theo ghi nhận của anh Nguyễn Anh Tuấn, thành viên của tổ chức dân sự Voice thì chuyện đặc xá đặc biệt đã từng được truyền thông chính thống trong nước đề cập đến. Đó là vào năm 2013 khi ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang thăm Hoa Kỳ.
Xung quanh chuyện có thả tù nhân chính trị vào ngày 2/9 tới đây hay không, Luật sư Nguyễn Văn Đài đề cập đến chuyện Bộ chính trị, cơ quan quyền lực nhất Việt nam đã họp vào lúc ông Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng đang ở Hawaii để đàm phán về Hiệp ước đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương:
“Những cái chuyện này từ xưa đến nay rất hiếm khi xảy ra, bởi vì khi Bộ chính trị đã họp, để ủy thác một vị Bộ trưởng việc đàm phán với Hoa Kỳ, thì chắc chắn nó liên quan đặc biệt đến những vấn đề chính trị, những vấn đề nhân quyền.”
Việc ân xá đặc biệt nằm trong hai lý do. Một là vì lý do nhân đạo, hai là vì các mối quan hệ quốc tế của họ mà họ sẳn sàng đặc xá những tù nhân như vậy. Thì đây là trường hợp đầu tiên mà truyền thông chính thống Việt nam đưa tin về những trường hợp đặc xá đặc biệt
Luật sư Nguyễn Văn Đài
Theo ông Đài thì ông hy vọng là sắp tới đây các tù nhân chính trị như bà Tạ Phong Tần, nhạc sĩ Việt Khang, ông Phạm Minh Vũ,… và một số người nữa sẽ được trả tự do.
Nhà báo Trương Duy Nhất, cũng là một người tù chính trị vừa được trả tự do trong năm nay cũng hy vọng là những người như ông Đài đề cập cùng với ông Trần Huỳnh Duy Thức sẽ được trả tự do. Ông nhận xét rằng trong chuyến thăm Việt nam vừa qua, ông John Kerry Ngoại trưởng Mỹ có lên tiếng về vấn đề nhân quyền, và vì thế ông Nhất rất hy vọng là người nữ tù chính trị Tạ Phong Tần sẽ được trả tự do.
“Khi Ngoại trưởng Hoa kỳ đã nêu tên thì những sức ép, những động thái đối với chính phủ Việt nam tất nhiên có đủ sức mạnh để chị Tần có thể đi.”
Nhưng một cựu tù chính trị khác là ông Nguyễn Tiến Trung lại có một nhận định tương đối khác:
“Theo Trung thì sẽ có một số trường hợp tù nhân chính trị được thả. Nhưng mà một số người được quốc tế chú ý đặc biệt như chị Tạ Phong Tần, hay anh Trần Huỳnh Duy Thức thì sẽ khó khăn hơn nhiều tại vì nhà nước Việt nam muốn các anh chị ấy ra nước ngoài chứ không phải ở trong nước, cho nên là nếu các anh chị ấy không muốn rời Việt nam thì Trung nghĩ là khó được đặc xá trong đợt này.”
Nhà báo Trương Duy Nhất lại cho rằng điều đó không thành vấn đề, ông chứng minh bằng trường hợp người tù chính trị Nguyễn Văn Hải Điếu Cày, một người bạn tù của ông được trả tự do sang Hoa Kỳ:
“Trước khi anh Hải Điếu cày đi thì Bộ công an họ cử một đoàn vào làm việc cũng theo như cái kiểu họ làm việc với chị Tạ Phong Tần bây giờ. Họ bảo anh ấy làm một cái đơn xin ra tù trước thời hạn, nhưng mà đời nào anh ấy làm! Rồi cuối cùng anh ấy cũng đi.”
Vô hiệu hóa và đổi chác
Trong lịch sử tù chính trị ở Việt nam trong vài chục năm trở lại đây đã có nhiều trường hợp người tù bước thẳng từ trại giam ra sân bay để đi ra nước ngoài, như ông Đoàn Viết Hoạt, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải,… Nói về việc này, anh Nguyễn Anh Tuấn tự đặt mình vào vị trí của nhà cầm quyền Việt nam:
“Mình cứ tưởng tượng mình là nhà nước thì mình sẽ chọn ai. Thứ nhất trong bối cảnh hiện nay sẽ chọn những người nào mà phía Mỹ gia tăng áp lực. Những người đó có thể là Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng, hoặc Anh Ba Sàm, tức là các trường hợp phía Mỹ người ta gia tăng áp lực nhiều. Một phương án nữa, ưu tiên của họ nữa là sẽ chọn những người mà họ tin rằng sau khi ra tù thì sẽ không còn tranh đấu gì được nhiều, ví dụ như hồi năm ngoái, trường hợp Đinh Đăng Định, khi đó đang bệnh tật, thì họ nghĩ rằng cho ra tù thì không sớm thì muộn cũng qua đời thôi, không thể đóng góp gì được nhiều nữa.”
Trường hợp anh Hải Điếu cày, rồi trước đây là trường hợp Cù Huy Hà Vũ, rồi anh Nguyễn Tiến Trung, những trường hợp này khi trả tự do thì đồng thời lúc đó lại có những thỏa ước giữa Việt nam và Mỹ
nhà báo Trương Duy Nhất
Ông Nguyễn Tiến Trung cũng chia sẻ quan điểm này khi nói về những người tù bước thẳng từ trại giam ra sân bay quốc tế:
“Theo Trung thì có lẽ họ sợ những người đó có một sự ảnh hưởng lớn trong xã hội, hay họ sợ những người có thể trở thành lãnh tụ của phong trào dân chủ, nên không thể để trong nước mà phải trục xuất ra nước ngoài.”
Trở lại vấn đề công luận lâu nay nói rằng chính quyền Việt nam đổi chác số phận những người tù chính trị để lấy những quyền lợi thương mại, ngoại giao, nhà báo Trương Duy Nhất có nhận xét:
“Cái đó có đúng hay không thì phải hỏi các quan chức chính phủ, tôi không thể trả lời cái điều đó được. Nhưng mà sự việc nó xảy ra là như thế này: từ xưa đến giờ, một số nhân vật, một số vụ án nổi cộm, có hiệu ứng, ví dụ như trường hợp anh Hải Điếu cày, rồi trước đây là trường hợp Cù Huy Hà Vũ, rồi anh Nguyễn Tiến Trung, những trường hợp này khi trả tự do thì đồng thời lúc đó lại có những thõa ước giữa Việt nam và Mỹ!”
Chính quyền Việt nam chưa bao giờ công nhận chuyện đổi chác như vậy. Tuy nhiên trong bộ luật về đặc xá hiện hành, được ra đời vào năm 2007, có điều số 21 về những trường hợp đặc xá đặc biệt, điều này nói rằng những trường hợp đặc xá đặc biệt là để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại của Nhà nước.
Như vậy những lời bình luận về việc nhà nước Việt nam đổi tù chính trị lấy lợi ích ngoại giao bấy lâu nay không phải là không có cơ sở.
Trả lời chúng tôi rằng liệu khi nào thì chuyện này sẽ chấm dứt, Luật sư Nguyễn Văn Đài trả lời:
“Việc này không phụ thuộc vào chính quyền cộng sản Việt nam, cũng không phụ thuộc vào Hoa kỳ. Mà việc này kết thúc khi nào là phụ thuộc vào nội tại phong trào dân chủ Việt nam. Khi phong trào dân chủ Việt nam tự mình đứng lên, đủ sức mạnh gây áp lực chính phủ Việt nam không được bắt người một cách tùy tiện, không chà đạp công lý và Hiến pháp nữa, thì lúc đó mới chấm dứt. Còn nếu như chúng ta, phong trào dân chủ Việt nam còn rất là yếu, phải trông chờ vào sức ép của Mỹ, EU hay là các nước khác thì chuyện mặc cả này sẽ tiếp tục diễn ra trong thời gian tới.”
Còn người cựu tù nhân chính trị trẻ tuổi Nguyễn Tiến Trung thì nói rằng nếu việc độc quyền cai trị của đảng cộng sản Việt nam vẫn còn tiếp tục thì việc đổi chắc đó sẽ không chấm dứt.
Như vậy, tiếng nói của cộng đồng Việt chúng ta đã được quốc hội, chính phủ và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lắng nghe. Và như vậy, quyền treo cờ vàng là quyền hiến định của chúng ta, không ai có quyền xâm phạm. Và từ nay về sau, không ai có thể nhân danh “chính sách của chính phủ” hay “chính sách của Bộ Ngoại Giao” để bắt ép chúng ta cất hay không được trưng cờ vàng.
Cali Today News – Sáng nay, thứ hai, chúng tôi vừa nhận được văn thư qua email của hai Dân biểu liên bang Hoa Kỳ là ông Mike Honda và bà Zoe Lofgren, ký ngày 13 tháng 8 năm 2015, phúc đáp cho ông Đỗ Hùng về “vấn đề đại sứ Mỹ tại Việt Nam là ông Ted Osius với cờ vàng” (xin xem dưới đây).
Cũng trong văn thư này, hai vị dân biểu liên bang nói trên cũng đã kèm theo văn thư của nhị vị dân biểu liên bang này gửi đến cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ – ông John Kerry – vào ngày 24 tháng 7, năm 2015 để bày tỏ sự quan tâm của hai vị dân biểu về cách hành xử của đại sứ Mỹ tại Việt Nam đối với lá cờ vàng (xin xem nguyên văn văn thư) qua các cuộc gặp gỡ với công đồng người Việt tại hai miền Nam và Bắc California vào tháng 7 vừa qua.
Cũng trong văn thư phúc đáp cho ông Đỗ Hùng, hai vị dân biểu nói trên cũng kèm theo văn thư trả lời của bà Julia Frifield, phụ tá ngoại trưởng John Kerry về các vấn đề Lập Pháp Sự Vụ (đính kèm theo để qúy độc giả tham khảo).
Trong thư của bà Julia Frifield, phụ tá ngoại trưởng John Kerry về các vấn đề Lập Pháp Sự Vu, có đoạn: “Trưng cờ (vàng) rõ ràng là một quyền hợp luật và hợp lý đối với bất cứ công dân Mỹ nào”.
Rõ ràng như vậy, việc Ban tổ chức cuộc họp mặt giữa đại sứ Ted Osius và cộng đồng Việt Nam tại San Jose thu giữ chiếc khăn choàng có cờ vàng và cờ Hoa Kỳ của chị Đỗ Minh Ngọc là một việc làm không hợp luật và cũng không hợp lý. Ai đã ra lệnh này vẫn còn là vấn đề cần làm sáng tỏ.
Như vậy, chuyện “dẹp bỏ” cờ vàng không phải là chính sách hay mệnh lệnh từ phía Bộ Ngoại Giao hay từ chính phủ Hoa Kỳ, như đã có một số người, kể cả tiến sĩ Tan – nhân viên văn phòng ông dân biển Mike Honda – đã viện dẫn.
Đây là một vấn đề khẳng định, không thể bàn cải nữa qua văn thư chính thức nói trên từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.
Điều chúng tôi rất tâm đắc là trong văn thư của bà dân biểu liên bang Zoe Lofgren và ông dân biểu liên bang là Mike Honda có đoạn: “…While this letter is less than satisfactory in many respects, we think we should celebrate that the State Department has reaffirmed the First Amendment right to display the yellow flag…” (Trong lúc lá thư này (LTS: văn thư của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ) không được thỏa mãn trong nhiều khía cạnh, chúng tôi nghĩ rằng chúng ta nên mừng vì Bộ Ngoại Giao đã tái xác nhận quyền Tu Chính Án Đệ Nhất để trưng cờ vàng”…
Như vậy, tiếng nói của cộng đồng Việt chúng ta đã được quốc hội, chính phủ và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lắng nghe. Và như vậy, quyền treo cờ vàng là quyền hiến định của chúng ta, không ai có quyền xâm phạm. Và từ nay về sau, không ai có thể nhân danh “chính sách của chính phủ” hay “chính sách của Bộ Ngoại Giao” để bắt ép chúng ta cất hay không được trưng cờ vàng.
Tuy còn nhiều vấn đề mà chúng tôi sẽ nhận xét và bình luận trong chương trình tới trên websites baocalitoday.com và truyenhinhcalitoday.com, nhưng như hai dân biểu Zoe Lofgren và Mike Honda nói “chúng ta nên mừng vì Bộ Ngoại Giao đã tái xác nhận quyền Tu Chính Án Đệ Nhất để trưng cờ vàng”…
Một số báo xuất bản tại Việt nam cho đăng tải bức thư của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ chính trị đảng cộng sản Việt nam 20 năm trước đây. Trong bức thư này ông Kiệt đề nghị đảng cộng sản nên nhìn nhận tình hình thế giới lúc ấy khác đi với thời chiến tranh lạnh, tức là không theo quan điểm cổ điển của những người cộng sản rằng thế giới này chia thành hai phe tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Một nội dung quan trọng khác mà ông Kiệt gửi đến các đồng chí của ông đang nắm giữ quyền lực là không nên duy trì sự ưu đãi cho nền kinh tế phi thị trường.
Tuy nhiên tờ báo không viết thêm về số phận chính trị của ông Kiệt sau khi gửi bức thư này.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh viết trên trang Diễn Đàn của nhóm trí thức tại Pháp về bước ngoặt của cuộc đời ông Kiệt sau bức thư đó. Ông Kiệt đã bị các đồng chí phê phán kịch liệt, đã phải từ chức Thủ tướng. Ngoài ra một số người liên quan đến bức thư, trong đó có nhà bất đồng chính kiến Hà Sĩ Phu bị bắt và kết án trong cái mà ông Lê Đăng Doanh gọi là một làn sóng đàn áp và khủng bố.
Trong bức thư được viết cách nay gần một thế hệ, ông Kiệt còn kêu gọi việc thực thi dân chủ trong đảng của ông cũng như trong xã hội.
Blogger Trần Minh Khôi nhận định về bức thư này:
Nếu những điều ông Kiệt đề nghị trong lá thư gởi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam hai mươi năm trước được thực hiện thì đất nước Việt Nam ngày nay đã tốt đẹp hơn rất nhiều. Và điều tốt đẹp nhất là Đảng Cộng sản đã không còn giữ độc quyền cai trị. Đối với những lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tương lai đất nước chưa bao giờ quan trọng bằng sự tồn vong của Đảng. Điều này đúng hai mươi năm trước và vẫn đúng lúc này.
Nhận xét của Trần Minh Khôi không biết có giống với ý muốn của ông cố Thủ tướng gửi gắm trong bức thư hay không, vì ngoài những điều ông Kiệt đề nghị về sự kỷ luật, về việc dân chủ hóa đảng của ông, người ta không thấy đề cập đến sự thay đổi thể chế chính trị, mà chỉ có chuyện cải cách kinh tế, người ta cũng không thấy ông đề cập đến ý thức hệ Mác Lê nin, mà trong đó vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng cộng sản là điều không thể bàn cãi.
Nếu những điều ông Kiệt đề nghị trong lá thư gởi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam hai mươi năm trước được thực hiện thì đất nước Việt Nam ngày nay đã tốt đẹp hơn rất nhiều. Và điều tốt đẹp nhất là Đảng Cộng sản đã không còn giữ độc quyền cai trị
Blogger Trần Minh Khôi
20 năm sau bức thư của ông Kiệt, giới trí thức Việt nam công khai lên tiếng chỉ trích chủ nghĩa Mác Lê Nin. Một trong những người đó là Giáo sư Nguyễn Đình Cống, ông cho rằng bản chất của chủ nghĩa này là một sự ngụy biện, và nếu đeo đuổi nó, người ta sẽ chịu những hậu quả tai hại:
Một con người sống bằng dối trá và lừa đảo sẽ đến lúc bị mọi người thấy rõ và xa lánh. Một học thuyết dựa chủ yếu vào ngụy biện sớm muộn cũng bị phát hiện và tẩy chay. Một chính quyền phải dùng đến ngụy biện trong hành xử sẽ mất lòng tin của dân, mất lòng tin của các nước. Dù cho người ta có đón tiếp đại diện của bạn một cách trọng thị, có ký kết với bạn hiệp ước về quan hệ đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược thì ngoài những cái bắt tay chào hỏi xã giao, trong lòng họ vẫn canh cánh một tinh thần cảnh giác là đang quan hệ với một người dối trá đáng khinh bỉ.
Ông Nguyễn Đình Cống có ý muốn nói đến những mối quan hệ ngoại giao nồng ấm lên trong thời gian gần đây giữa nước Việt nam cộng sản và các quốc gia phương Tây, về nguyên tắc là những kẻ đối đầu ý thức hệ với đảng cộng sản Việt nam.
Tác giả Vũ Ngọc Yên viết trên trang blog Bauxite Việt nam:
Trong thời gian qua dư luận rất kinh ngạc khi thấy giới lãnh đạo Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam tích cực mở rộng hợp tác với Mỹ và Âu châu trên mọi bình diện. Dư luận đánh giá các hoạt động này chỉ là những tính toán chiến lược tìm ngõ thoát cho chế độ độc đảng trước những áp lực nội và ngoại hầu có thể tiếp tục trụ được.
Một người bán hàng rong trên phố đầy cờ đảng ở TPHCM
Nói chung, Đảng Cộng sản hy vọng qua các Hiệp định thương mại, sẽ tạo được niềm tin ở quốc tế và tính chính danh cầm quyền vốn đã không tồn tại từ nhiều thập niên qua.
Còn trang Bauxite Việt nam bình luận về việc bầu cử trong chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo từ trước đến nay như sau:
Đảng nói rất hay về dân chủ. Nhưng đồng thời Đảng bao giờ cũng cố gắng tối đa để siết chặt “dân chủ” trong bàn tay sắt của mình. “Đảng cử dân bầu” là một trong những biện pháp để làm điều đó. Nói cho cùng, có chế độ toàn trị nào mà không sợ dân chủ thực chất? Xóa “Đảng cử dân bầu” là đặt Đảng vào sự thử thách thực sự, buộc Đảng phải lo lắng đến phản ứng của người dân. Duy trì “Đảng cử dân bầu” thì yên chí lớn: tất cả những vị trí lãnh đạo đều một tay Đảng sắp xếp. Quyền lực ở đấy mà quyền lợi cũng ở đấy.
Lời bình của BauxiteViệt nam có ý nói rằng cũng có chuyện bầu cử ở Việt nam nhưng chỉ do đảng cộng sản dàn dựng mà thôi, qua câu nói đảng cử dân bầu đầy mỉa mai.
Bản chất của chế độ và mô hình không muốn phát triển
Blogger Nguyễn Vũ Bình viết bài Bản chất và Hiện tượng.
Trong bài này ông cho rằng có những ý kiến biện minh cho những điều không tốt trong xã hội Việt nam hiện nay chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Những ý kiến này nói rằng bản chất của chế độ cộng sản hiện nay ở Việt nam vẫn là tốt đẹp.
Nguyễn Vũ Bình phản bác điều này. Ông cho rằng nếu liên tục có những điều tệ hại xảy ra thì không thể nói là bản chất của chế độ là tốt đẹp được. Ông dẫn chứng là từ lúc đảng cộng sản Việt nam thống trị nền chính trị Việt nam cho đến nay, liên tục có những điều tệ hại xảy ra, đó là: Cải cách ruộng đất, Đàn áp nhân văn giai phẩm, Thảm sát Mậu thân, Cải tạo tư sản tại miền Nam.
Hãy nghe cây bút Nguyễn Đình Ấm mô tả cảnh tượng tàn phá văn hóa ở quê ông:
Từ sau cải cách ruộng đất chính quyền phát động phong trào phá đình chùa. Vào các buổi tối, thanh thiếu niên đốt đuốc tuần hành rầm rập hô đả đảo địa chủ rồi ban ngay đi phá đình, chùa, miếu. Những pho tượng cổ sơn son thiếp vàng cớ lớn tượng quan âm nghìn mắt, nghìn tay bị xà beng bật lên khênh vứt xuống sông Lô, các tượng gỗ mít nhẹ hơn bị mang về bổ củi đun, mùi sơn khét lẹt.
Đảng nói rất hay về dân chủ. Nhưng đồng thời Đảng bao giờ cũng cố gắng tối đa để siết chặt “dân chủ” trong bàn tay sắt của mình. “Đảng cử dân bầu” là một trong những biện pháp để làm điều đó. Nói cho cùng, có chế độ toàn trị nào mà không sợ dân chủ thực chất?
Lời bình của Bauxite VN
Một điều quan trọng mà các blogger nhận xét về những hành động của đảng cộng sản từ khi lên cầm quyền đến nay là tất cả những sai lầm đó đều được thực hiện nhân danh danh Nhân dân. Điều mà Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho là một sự ngụy biện nhân danh số đông. Ngoài ra ông còn cho rằng để thực hiện các chính sách của mình từ trước đến nay đảng cộng sản thường đưa ra những hy vọng, và ông gọi họ là những người buôn bán hy vọng. Và điều mà ông ngạc nhiên là vẫn có người tin vào những món hàng hy vọng đó.
Điều Giáo sư Tuấn ngạc nhiên cũng là điều một tác giả trên trang blog Triết học đường phố đặt ra là sau bao nhiêu tệ hại của sự độc tài, tại sao đảng cộng sản vẫn nắm quyền? Tác giả tự trả lời rằng đảng cộng sản cầm quyền đã nắm hai lĩnh vực cần thiết để cho người ta không thắc mắc về quyền lực của họ, đó là giáo dục và báo chí. Ngoài ra tác giả này còn đưa ra một điều quan trọng nữa mà theo đó những người cộng sản đặt nền móng chế độ của mình, đó là gieo rắc sợ hãi trong toàn xã hội.
Trong một tinh thần xã hội như vậy, mô hình kinh tế Việt nam vẫn tiếp tục được khẳng định là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với các đại công ty quốc doanh làm động lực, một mô hình được Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm gọi là của những người cộng sản thực thi chủ nghĩa tư bản.
Nói về mô hình này, bà Phạm Chi Lan trích dẫn lời nhận định của một nhà quan sát từ Ngân hàng thế giới, rằng mô hình hiện tại của Việt nam không phải là của một quốc gia kém phát triển, cũng không phải của một quốc gia đang phát triển, càng không phải đã phát triển, mà đó là một mô hình Không chịu phát triển.
Tác giả Võ Xuân Sơn nói rằng ông và nhiều người Việt nam khác không muốn mô hình đó:
Chúng tôi, người dân Việt nam, đâu có ai muốn cái mô hình “đặc biệt nhất thế giới”, mô hình không chịu phát triển. Nhưng họ, những kẻ không muốn đất nước này phát triển, những kẻ chỉ muốn trục lợi cá nhân, làm giàu cho cá nhân mình, cho gia đình mình bằng cách ăn cắp tiền của dân, đục khoét ngân sách, vắt cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, làm mất khả năng phát triển của cả nền kinh tế nước nhà, chỉ có những kẻ đó là muốn duy trì cái mô hình quái gở như vậy mà thôi.
Và trong những ngày tháng tám có nhiều kỷ niệm lịch sử không chỉ của Việt nam mà của cả thế giới, người Việt nam không khỏi chạnh lòng so sánh đất nước mình với các quốc gia khác.
Ông Nguyễn Văn Đực Phó giám đốc một công ty địa ốc nhìn sang Singapore, đảo quốc nhỏ bé vừa kỷ niệm 50 năm ngày độc lập, xuất ý làm một bài thơ ngắn đầy mỉa mai:
Năm mưoi Quốc Khánh nước Sing
Từ hòn đảo nhỏ mà : lên đỉnh Rồng
Bảy mưoi Quốc Khánh nước RỒNG
Từ đất nước lớn mà : không có gì ….
Quý hơn độc lập tự do
Người khác thì nhìn sang Nhật bản, đất nước chịu thảm họa nguyên tử cách đây 75 năm:
Hơn 40 năm qua từ ngày đất nước thống nhất, thế hệ ông cha làm được gì vẻ vang cho đất nước? Chỉ có thể kể ra nhiều việc làm xấu, làm nhục, làm cạn kiệt nguồn lực đất nước. Nước Nhật bại chiến bị tàn phá bởi bom nguyên tử, sau 40 năm trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới. Nước ta chiến thắng oanh liệt nhưng sau hơn 40 năm vẫn là nước nghèo, ngửa tay xin vay tiền giá rẻ của thế giới. Kết quả ấy, thế hệ nào phải gánh chịu trách nhiệm?
Le lói ánh sáng cuối đường hầm?
Có phải tất cả đều là một màu đen?
Dự án 1400 tỉ đồng xây dựng quảng trường cùng tượng ông Hồ Chí Minh tại tỉnh Sơn La bị nhiều chỉ trích đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu phải báo cáo.
Người ta cho rằng nhà cầm quyền đã phải để ý đến dư luận xã hội, đến một quyền lực mà nhà văn Bùi Minh Quốc gọi là quyền lực thứ hai, quyền lực truyền thông.
Ông Quốc đặt tên quyền tự do ngôn luận trong xã hội hiện tại của Việt nam là quyền lực thứ hai với lý do là xã hội này hiện nay vẫn chưa có tam quyền phân lập như các quốc gia phát triển bình thường, trong đó tự do ngôn luận là đệ tứ quyền. Ông nhận xét về cộng đồng những người Việt nam sử dụng mạng xã hội để thực hiện quyền lực thứ hai đó là từ chổ chỉ phát triển tự phát, những người Việt nam đã dùng mạng xã hội ngày càng có trách nhiệm hơn.
Quyền lực từ mạng xã hội đã góp phần làm cho nhà cầm quyền xem xét lại quyết định 1400 tỉ đồng mất lòng dân.
Từ đó, blogger Kami nhận định rằng đã có một xu hướng đa nguyên đáng mừng trong xã hội Việt nam. Điều làm le lói tia hy vọng bên cạnh thảm trạng mô hình Không muốn phát triển mà nhiều blogger nói đến trong tháng tám này.
Con hoang
nơi gửi Bán Nước
“Muốn xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội thi phải có con người Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Muốn biết con người XHCN nó méo tron ra sao? Thì hãy nhìn những viên chức CS từ lớn tới bé. Ngay đến tên nhân viên quèn mỗi tháng xuống tận từng nhà thâu tiền điện, nước…cũng phải là dòng dõi “Con Ông Cháu Cha”. Thực tế cho thấy, VN đã xây dựng thành công CNXH và chính những con người này đang thụ hưởng thành quả trên thiên đường đó.
Những ai bảo rằng VN không chịu phát triển gì gì đó…? Đơn giản bởi vì họ không phải là con người Xã Hội Chủ Nghĩa !!!
Xin thưa!
18/08/2015 12:40