Đằng sau tin tướng Phùng Quang Thanh đã chết là gì?

RFA, 24-7-2015

http://www.rfa.org/vietnamese/blog/behind-the-news-pqthanh-died-kami-07242015130229.html

000_Hkg10184207.jpg

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh (P) trong một cuộc họp báo chung với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter (T) tại Bộ Quốc phòng ngày 01 tháng Sáu năm 2015.

AFP photo
Qua theo dõi các thông tin của truyền thông nhà nước về sự vắng mặt của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh, thì dễ dàng nhận ra rằng phía nhà nước Việt Nam đang bằng mọi cách để trấn an cho dư luận hiểu rằng đây là một việc hoàn toàn bình thường đối với một cán bộ cao cấp.

Trước đây đã nhiều lần những người có trách nhiệm của nhà nước Việt Nam từng xác nhận với báo chí rằng, ông Thanh đã được các bác sĩ Pháp phẫu thuật để cắt bỏ một khối u lành tính và sẽ trở về Việt Nam trong một ngày gần đây. Điều này cũng phù hợp với thông tin từ nhà báo Huy Đức, một nhà báo vốn có mối quan hệ với các quan chức trong chính quyền Việt Nam, khi viết trên trang facebook cá nhân của mình khẳng định rằng “Phùng tướng quân về đã gần một tuần, bệnh không nguy kịch như đồn đại, để thiên hạ thôi thêu dệt tốt nhất là nên tạo tình huống xuất hiện ít phút trên truyền hình”.

Sử dụng truyền thông quốc tế để tạo dư luận

Việc các hãng truyền thông lớn của quốc tế đưa tin về lãnh đạo Việt Nam không phải là chuyện lạ, họ hoàn toàn có khả năng tìm hiểu và đưa các tin tức mà dư luận quan tâm. Như việc ngày 9/7/2015 vừa qua, trên website BBC tiếng Việt, một lần nữa cho biết rằng: “Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh “đã được cho ra viện” sau ca phẫu thuật u phổi. Tuy nhiên ông Thanh “vẫn tiếp tục ở lại Pháp để đợi được kiểm tra”. Thông tin trên được Giáo sư Phạm Gia Khải, thành viên Ban Bảo vệ, Chăm sóc Sức khỏe Trung ương nói với BBC ngày 9/7.” cũng là chuyện bình thường.

pqt-1.jpg
Tin Đại Tướng Phùng Quang Thanh đã chết của Hãng tin DPA

Vì thế, cũng chẳng lạ là vào ngày 19/7/2015, hãng thông tấn Đức DPA đưa tin từ Hà Nội cho hay, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã từ trần tại bệnh viện Georges Pompidou (Pháp) ngày Chủ Nhật 19/7/2015, theo đó bản tường trình cho hay nguồn tin tức được cung cấp bởi “Một nguồn tin quân sự tại Hà nội cho DPA biết, nhưng không muốn nêu tên vì không được quyền tiết lộ cho báo chí.”.

Sáng ngày thứ Hai 20/7/2015, trước thông tin của Hãng tin DPA đưa tin cho rằng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã chết tại Paris, truyền thông Việt Nam đã đồng loạt có phản ứng nhanh chóng để bác bỏ và cho rằng đó là một tin đồn ác ý hoàn toàn không có cơ sở. Thậm chí báo Tuổi Trẻ đã khẳng định thẳng thừng rằng “Cuối tháng 7-2015, đại tướng Phùng Quang Thanh sẽ về nước”.

Một câu hỏi được đặt ra là: “Tại sao tin này lại xuất hiện vào lúc này và chỉ từ một hãng truyền thông quốc tế thuộc loại có uy tín? Vì sao đây là một tin rất quan trọng, xảy ra ở Pháp mà truyền thông tại Pháp hoàn toàn im lặng?”. Điều đó cho thấy, rất có thể “…nguồn tin quân sự tại Hà Nội cho DPA biết, nhưng không muốn nêu tên vì không được quyền tiết lộ cho báo chí.” khi cung cấp tin này đã chủ ý bẫy phóng viên của DPA để cố ý tạo thành một tin tức quan trọng. Và cũng có thể do sai sót của DPA khi quá tin tưởng vào người xác nhận tin này – nhân chứng tin cậy của DPA làm trong bệnh viện Pháp Georges Pompidou. Tuy vậy khả năng sau là rất nhỏ, khó có thể xảy ra.

Như vậy phải chăng đây là một âm mưu của lực lượng quân đội còn trung thành với Tướng Phùng Quang Thanh, do không nắm được truyền thông của nhà nước, nên đã buộc phải sử dụng các kênh truyền thông nước ngoài để tạo tin tức?

Hãng tin DPA thay tin song không cải chính

Đáng chú ý nhất là theo báo Một thế giới vào lúc 12:37 ngày 20/07/2015 cho biết “PV Báo điện tử Một Thế Giới đã liên lạc với Trung tướng Võ Văn Tuấn – Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân VN. Qua điện thoại, Tướng Tuấn khẳng định: “Thông tin về Bộ trưởng Phùng Quang Thanh qua đời mà DPA đưa là sai và họ đã vừa điện thoại cho tôi để hỏi lại”. Tướng Tuấn cho hay, phía DPA đã xác nhận lại thông tin và nói họ thông tin không đúng thì DPA sẽ cải chính… Đồng thời về việc Bộ Quốc phòng có ý kiến với hãng thông tấn DPA hay không, Tướng Tuấn cho hay: “Với những thông tin thất thiệt, không chính thống thì Bộ Quốc phòng sẽ không có trả lời. Ai hỏi thì sẽ trả lời.”.

Và vào lúc 15:30 giờ Hà Nội, bản tin cũ ngày 19/7/2015 của Hãng tin DPA có nguồn từ Hà nội đã được thay thế bằng bản tin với nguồn từ Bangkok, với tựa đề “Việt Nam bác bỏ báo cáo về cái chết của Bộ trưởng Quốc phòng”. Theo đó bản tin của DPA đã cho biết rằng Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nói với DPA rằng: “Tôi đã nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua và ông (Thanh – TG) sẽ trở về Việt Nam vào cuối tháng này.”

Từ việc này có ý kiến cho là Hãng tin DPA hoàn toàn không chắc chắn về cái tin Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã chết tại Pháp ngày 19/7/2015? Cái đó có đúng hay không và nên hiểu như thế nào?

Trước hết cần phải hiểu, trong một môi trường báo chí đúng nghĩa, lành mạnh và trung thực thì điều quan trọng nhất của một nhà báo là phải tuân thủ chặt chẽ đạo đức hành nghề, đó là phải đưa tin trung thực, có đầy đủ các cơ sở để khẳng định tin đưa ra là xác thực. Đồng thời, về nguyên tắc đưa tin của một hãng thống tấn chuyên nghiệp, thì ngoài việc phải có đầy đủ các bằng chứng xác tín và đủ điều kiện để đảm bảo độ tin cậy của tin tức họ mà sẽ đưa ra thì còn cần phải có những nguồn tin khác để kiểm chứng và đối chiếu. Các bằng chứng nói ở đây có thể là băng ghi âm, hình ảnh hoặc một tài liệu có đầy đủ cơ sở tin cậy do nguồn tin khả tín cung cấp.

pqt-2.jpg
Bài báo mới được DPA thay cho bài báo đưa tin về cái chết của Tướng Phùng Quang Thanh

Trong trường hợp này, chắc chắc phóng viên của Hãng tin DPA phải có trong tay các bằng chứng xác thực do một nhân vật thân cận với DPA thuộc một cơ quan quân sự ở Hà nội cung cấp cho họ như đã được nêu trong bản tin và nguồn kiểm chứng của họ cũng là một nhân vật được cho là tin cậy làm trong bệnh viện Pháp Georges Pompidou cung cấp (tạm gọi là nhân vật X). Điều đó cho thấy việc văn phòng tại Bangkok của Hãng tin DPA đã cho rút bản tin cũ và thay thế vào đó bằng một bản tin mới, thay vì đăng một bản tin hoàn toàn mới, nghĩa là cho dù nội dung bản tin giờ đã thay đổi, đường truyền vẫn là đường truyền cũ, là dấu hiệu cho thấy họ đã chấp nhận một bước lùi trong việc tranh cãi sự xác thực của tin này do họ đưa ra, vì họ cũng không muốn văn phòng của DPA tại Hà Nội có thể bị gây khó dễ.

Nhưng không có nghĩa là họ bác bỏ hay cải chính tin họ đã đưa ra trước đấy liên quan đến cái chết của Đại tướng Phùng Quang Thanh. Như lời của nhân vật X nói với phóng viên Thụy My của RFI Việt ngữ khi khẳng định rằng “Chúng tôi tạm thời chấp nhận thiệt thòi, và thời gian sẽ chứng minh là ai đúng. Rồi cũng phải đưa về thôi. Không lâu lắm đâu cô ạ. Cũng xin nói thêm là chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy căng thẳng như ngày hôm nay.”

Một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao truyền thông nhà nước đã phản ứng rất quyết liệt và phủ nhận trước tin Đại tướng Phùng Quang Thanh đã chết do Hãng tin DPA đưa ra?

Sự phân hóa trong nội bộ lãnh đạo quân đội

Qua những miêu tả của DPA trong các bản tin thứ nhất và thứ hai cho thấy, tin cho rằng Đại tướng Phùng Quang Thanh đã chết ngày 19/7/2015 là do “Một nguồn tin quân sự tại Hà Nội cho DPA biết, nhưng không muốn nêu tên vì không được quyền tiết lộ cho báo chí.”. Điều đó chứng tỏ cho thấy trong nội bộ ban lãnh đạo Bộ Quốc phòng tại thời điểm này đã có hai xu hướng hoàn toàn khác nhau, trong vấn đề liên quan đến tính mạng của Đại tướng Phùng Quang Thanh. Đó là một xu hướng (của phe trung thành với tướng Thanh và thân Trung quốc) cố gắng tìm cách biến sự vắng mặt đầy bí ẩn của tướng Phùng Quang Thanh trong hơn một tháng vừa qua trở thành một tin được đưa từ một hãng tin có uy tín như DPA nhằm đánh động dư luận và cũng có thể nhằm mục đích lôi kéo các phần tử trung thành. Và tất nhiên điều đó sẽ là một điều bất lợi đối với phe đang kiểm soát Bộ Quốc phòng vào thời điểm hiện tại, cũng là phe đang nắm giữ truyền thông của nhà nước. Như ta đã thấy trên báo chí chính thống vừa qua là phản bác và khẳng định ông Phùng Quang Thanh vẫn khỏe và sắp về Việt Nam vào cuối tháng này.

Việc đưa các thông tin được khẳng định từ trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên UVTW Đảng, nguyên tư lệnh quân khu 4, một nhân vật chống Trung quốc khét tiếng mà ai cũng biết và là người tự nhận là thủ trưởng cũ của Đại tướng Phùng Quang Thanh để chứng tỏ việc tướng Thanh vẫn “khỏe” đã khẳng định cho thấy điều đó. Hãy nghe trung tướng Nguyễn Quốc Thước nói gì ngày hôm qua 20/7/2015: “Đúng 15h kém 10, tôi đã trực tiếp gọi điện sang Pháp, nói chuyện với thư ký của anh Thanh, lúc đó anh Thanh cũng ngồi bên. Thư ký cho biết, sức khỏe anh Thanh ổn định, mỗi ngày dành đến 3-4 tiếng để đi bộ và tập phục hồi. Tôi cực lực phản đối những thông tin thất thiệt về sức khỏe anh Thanh. Đó không chỉ là những thông tin bịa đặt trắng trợn mà còn muốn làm chia rẽ chúng ta.”. Vấn đề là ở chỗ đó (dòng gạch chân), đây là điều hết sức nhạy cảm và nếu không được xử lý khéo léo trong lúc này thì rất có thể xảy ra khả năng xung đột ngay giữa các bộ phận bên trong lực lượng vũ trang Việt Nam lúc này

Sự vắng mặt đầy bí ẩn của Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh là một vấn đề cực kỳ quan trọng, nhất là tại thời điểm có rất nhiều động thái cho thấy Việt Nam có thể bị kéo vào một cuộc chiến xung đột với các quốc gia láng giềng. Trong lúc nội bộ ban lãnh đạo quân đội đang có sự mâu thuẫn và phân hóa rõ rệt. Với một bên là các tướng lĩnh chỉ huy ở cấp các quân đoàn, quân khu đa phần đều là thuộc hạ tin tưởng của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh và một bên là thành phần lãnh đạo Bộ Quốc phòng mới đang cố gắng thâu tóm quyền lực trong giới quân sự một cách nhanh nhất. Điều này chắc chắn có liên quan đến việc điều chuyển một số vị trí lãnh đạo chủ chốt, kể cả việc di chuyển các thiết bị khí tài quân sự cộng với các chuyến thăm và làm việc của Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ từ trung tuần tháng 7/2015 vừa qua.

Kết

Thực ra việc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã chết hay chưa chết vào lúc này cũng có giá trị như nhau, bởi sự nghiệp chính trị của ông Thanh đã chính thức chấm dứt kể từ khi nhà nước Việt Nam công bố ông đã đi điều trị bệnh phổi ở Pháp. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là người ta đang tìm cách hợp lý hóa sự vắng mặt đầy bí ẩn này để yên lòng ba quân mà thôi. Nó cũng như việc Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nói với DPA rằng: “Tôi đã nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua và ông (Thanh – TG) sẽ trở về Việt Nam vào cuối tháng này.” là điều sẽ khó có thể thể xảy ra, song để bịt tin thì người ta vẫn cứ nói.

Để cho dư luận làm quen với các nguồn tin khác nhau trước tin Đại tướng Phùng Quang Thanh đã chết, cũng là cách kéo dài thời gian để thử phản ứng của dư luận, cũng như việc chấn chỉnh và nắm chắc quân đội hơn cũng là một khả năng có thể. Đặc biệt là dư luận trong quân đội trước khi đưa tin một cách chính thức về sự ra đi của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh của truyền thông nhà nước. Song nếu như để trấn an dư luận một cách hiệu quả và thuyết phục nhất, thì có lẽ người ta chỉ cần công bố hình ảnh mới nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh với một nhân vật có uy tín nào đó. Nhưng việc cho thấy truyền thông nhà nước đã không đi theo hướng này, thì càng chứng tỏ sự biến mất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh rất có thể như dư luận đồn đoán cho rằng ông đã bị bắt giữ hoặc đào thoát sang Trung Quốc bấy lâu nay là có cơ sở.

Qua phản ứng của dư luận xã hội về cái chết của Đại tướng Phùng Quang Thanh mà số đông là người ta vui mừng và mong tin đó là sự thật cho thấy uy tín của người đứng đầu quân đội đã quá mất uy tín, lý do chính có lẽ không ngoài việc tướng Phùng Quang Thanh có xu hướng quá thân Trung Quốc. Điều này chắc chắn có liên quan đến mức độ uy tín của đảng CSVN đối với dân chúng vào thời điểm hiện nay.

Ngày 21/7/2015

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

Đại tướng Phùng Quang Thanh về nước

 
Đại tướng Phùng Quang Thanh (ở giữa) và các tướng lĩnh khác của Quân đội Việt Nam

Đại tướng Phùng Quang Thanh đã về đến Hà Nội vào sáng sớm ngày 25/7, sau một tháng điều trị xơ hóa phổi tại Pháp, truyền thông Việt Nam đưa tin.

Báo Tuổi Trẻ cho biết chiếc máy bay đưa ông Thanh về nước của Vietnam Airlines, mang số hiệu VN A143, đã hạ cánh xuống Sân bay Nội Bài lúc 6 giờ 38 phút sáng 25/7.

Chiếc máy bay này trước đó đã khởi hành từ sân bay Charles De Gaulle (Paris) lúc 14 giờ địa phương hôm 24/7, báo này cho hay.

Tuổi Trẻ đăng tấm hình được nói là chụp Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại sân bay Nội Bài, với tường thuật: “Đại tướng Phùng Quang Thanh mặc complet màu xám nhạt, bước xuống cầu thang máy bay, tươi cười bắt tay nhiều người ra đón và lên xe hướng về phía Hà Nội”.

Theo báo này, “ông Thanh gầy hơn trước” nhưng “đĩnh đạc và khoẻ khoắn”.

Cũng Tuổi Trẻ dẫn nguồn tin riêng nói ông Thanh “đi ghế hạng thương gia” và “không phải bố trí phương tiện hay thiết bị y tế trợ giúp”.

Tường thuật của báo Người Lao Động sáng 25/7 cho biết “từ sáng sớm đã có rất đông lực lượng quân đội, nhân viên bảo vệ của sân bay Nội Bài đứng trước cổng C5 của nhà ga T2”.

“Rất đông phóng viên có mặt” ở sảnh chờ nhà ga T2 để chờ đón ông Thanh, “nhưng ông không xuất hiện tại cửa này”.

“Đúng 7 giờ sáng 25/7, có 3 xe ô tô … mang biển quân đội chạy từ trong sân bay ra”

“Ngay sau khi rời khỏi nhà ga T2, 3 xe quân đội đã đi với tốc độ rất nhanh và hướng theo cầu Nhật Tân để về trung tâm Hà Nội”.

Đến 7 giờ 25 phút, ông đã được xe quân đội đưa về nhà riêng tại phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, Hà Nội, báo này cho biết thêm.

Báo điện tử VnExpress trong tin đăng cùng ngày cho biết “Ngay trong buổi sáng, Đại tướng [Thanh] cũng đến trụ sở Bộ Quốc phòng để trao đổi công việc.”

“Ông muốn sớm nắm bắt tình hình sau thời gian dài vắng mặt”.

Trước đó, cũng VnExpress ngày 22/7 cho biết con trai và cháu của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã sang Pháp đón ông Thanh về nước.

Trong cuộc phỏng vấn với BBC hồi đầu tháng Bảy, Giáo sư Phạm Gia Khải, thành viên Ban Bảo vệ, Chăm sóc Sức khỏe Trung ương, cho biết ông Thanh đã được đưa sáng Pháp hôm 24/6 để điều trị xơ hóa phổi do một tai nạn từ thời Chiến tranh Việt Nam.

Ngày 2/7, ông Nguyễn Quốc Triệu, Trưởng ban Bảo vệ, Chăm sóc Sức khỏe Trung ương, thông báo với báo giới rằng ông Thanh đã được phẩu thuật cắt bỏ khối u phổi lành tính tại bệnh viện Georges Pompidou, Paris.

Đến ngày 9/7, Giáo sư Phạm Gia Khải nói với BBC ông Thanh đã được cho xuất viện nhưng vẫn phải nán lại Pháp một thời gian để “chờ được kiểm tra”.

Yêu cầu cải chính thông tin

Trước đó, Hãng thông tấn Đức DPA hôm 20/7 dẫn một nguồn tin riêng nói ông Thanh đã qua đời sau ca mổ khối u tại Paris.

Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, sau đó đã bác bỏ thông tin này.

“Sức khỏe của Bộ trưởng Phùng Quang Thanh không có vấn đề gì,” ông nói với BBC vào chiều 20/7 giờ Hà Nội.

Trong buổi họp báo chiều 23/7, liên quan đến bản tin của Hãng thông tấn Đức DPA về Đại tướng Phùng Quang Thanh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cho biết:

“Việt Nam đã yêu cầu hãng tin DPA cải chính thông tin sai sự thật như phóng viên đã nêu. Và như quý vị đã biết, hãng tin DPA đã đăng tin lại về vấn đề này”.

“Ngay sau khi có những thông tin sai lệch thì đại diện của các cơ quan liên quan cũng đã lên tiếng. Và những thông tin đó từ các cơ quan liên quan của Việt Nam là những thông tin chính xác,” ông Lê Hải Bình nói thêm.

Truyền thông Việt Nam hôm 24/7 đăng bài tham luận của Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh, gửi một hội thảo.

Hội thảo có tên “70 năm Công an nhân dân Việt Nam xây dựng, chiến đấu, trưởng thành; 10 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.

Theo truyền thông Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã gửi tham luận nói về năm nội dung hợp tác giữa quân đội và công an.

Ông Phùng Quang Thanh gần đây vắng mặt trong các sự kiện, trong lúc Việt Nam nói ông đang chữa bệnh.

Bài viết của Đại tướng Thanh cảnh báo trong thời gian tới tình hình Biển Đông “có những diễn biến phức tạp mới về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định, không loại trừ khả năng có thể có đột biến”.

Ông nhận định “các thế lực thù địch” muốn “hạ thấp uy tín, vai trò và chia rẽ mối đoàn kết, gắn bó giữa Quân đội và Công an, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ chính trị ở nước ta”.

Năm nội dung hợp tác giữa quân đội và công an được ông Thanh nêu ra, gồm “phối hợp tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về an ninh – quốc phòng”.

Tướng Thanh kêu gọi “tăng cường phối hợp giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn dân”.

Thứ ba, ông nhấn mạnh “tăng cường phối hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh; chủ động phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu ‘diễn biến hòa bình’ của các thế lực thù địch”.

Thứ tư, ông kêu gọi “ đẩy mạnh phối hợp trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng – an ninh”.

Nội dung hợp tác thứ năm, theo Tướng Thanh, là quân đội và công an “trao đổi kinh nghiệm xây dựng về chính trị, tư tưởng, tổ chức” để đảm bảo “bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng”.

Đại tướng Thanh ‘gửi bài cho hội thảo’

 
Đại tướng Phùng Quang Thanh (ở giữa) và các tướng lĩnh khác của Quân đội Việt Nam

Truyền thông Việt Nam hôm 24/7 đăng bài tham luận của Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh, gửi một hội thảo.

Hội thảo có tên “70 năm Công an nhân dân Việt Nam xây dựng, chiến đấu, trưởng thành; 10 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.

Theo truyền thông Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã gửi tham luận nói về năm nội dung hợp tác giữa quân đội và công an.

Ông Phùng Quang Thanh gần đây vắng mặt trong các sự kiện, trong lúc Việt Nam nói ông đang chữa bệnh.

Trong khi đó, báo Thanh Niên nói chuyến bay chở Đại tướng Phùng Quang Thanh sẽ từ Pháp về Hà Nội ngày 25/7.

Tờ này dẫn lời một nguồi tin: “Sức khỏe của tướng Thanh tốt và ổn định sau giai đoạn điều trị tại một bệnh viện ở Pháp.”

Bài viết của Đại tướng Thanh cảnh báo trong thời gian tới tình hình Biển Đông “có những diễn biến phức tạp mới về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định, không loại trừ khả năng có thể có đột biến”.

Ông nhận định “các thế lực thù địch” muốn “hạ thấp uy tín, vai trò và chia rẽ mối đoàn kết, gắn bó giữa Quân đội và Công an, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ chính trị ở nước ta”.

Năm nội dung hợp tác giữa quân đội và công an được ông Thanh nêu ra, gồm “phối hợp tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về an ninh – quốc phòng”.

Tướng Thanh kêu gọi “tăng cường phối hợp giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn dân”.

Thứ ba, ông nhấn mạnh “tăng cường phối hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh; chủ động phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu ‘diễn biến hòa bình’ của các thế lực thù địch”.

Thứ tư, ông kêu gọi “ đẩy mạnh phối hợp trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng – an ninh”.

Nội dung hợp tác thứ năm, theo Tướng Thanh, là quân đội và công an “trao đổi kinh nghiệm xây dựng về chính trị, tư tưởng, tổ chức” để đảm bảo “bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng”.

Hội Nghị lần thứ năm về biển Đông tại CSIS ở Washington

Thanh Trúc, phóng viên RFA. 2015-07-22
Từ trái tiến sĩ Trần Trường Thuỷ, tiến sĩ Wu Shicun, cố vấn cấp cao Châu Á Bonie Glasser, tiến sĩ Scott Kennedy và  ký giả BBC Bill Hayton tại CSIS ngày 21 tháng 7, 2015

Từ trái tiến sĩ Trần Trường Thuỷ, tiến sĩ Wu Shicun, cố vấn cấp cao Châu Á Bonie Glasser, tiến sĩ Scott Kennedy và ký giả BBC Bill Hayton tại CSIS ngày 21 tháng 7, 2015. RFA

<Hội Nghị về biển Nam Trung Hoa, diễn ra hôm thứ Ba tại CSIS Trung Tâm Chiến Lược Và Nghiên Cứu Quốc Tế ở Washington, sau khi Trung Quốc tiếp tục kế hoạch đắp đảo và lấn biển trong lúc các nước lân bang cũng như Hoa Kỳ lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh giữ nguyên trạng khu vực đồng thời tôn trọng Công Ước Quốc Tế Về Luật Biển.

Đây là hội nghị lần thứ năm về biển Nam Trung Hoa, Việt Nam gọi là biển Đông, nơi Trung Quốc vạch đường lưỡi bò 9 khúc để giành phần lớn chủ quyền, có Hoàng Sa đã bị Hoa Lục chiếm giữ, có Trường Sa với nhiều đảo đã bị Bắc Kinh nắm quyền kiểm soát.

Trung Quốc gây căng thẳng ở biển Đông

Trung Quốc làm cho tình hình biển Nam Trung Hoa trở nên căng thẳng khi trong mấy tháng qua ráo riết cho bồi đắp cũng như xây dựng trên các bãi đá mà một số nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, từng khẳng định chủ quyền của mình.

Đây là đề tài bao trùm, được trình bày nhằm làm mạnh thêm chứng cứ hoặc chống đỡ cho việc làm của Trung Quốc trên biển Nam Trung Hoa. Đó là các thuyết trình viên đến từ nhiều nơi như ký giả Bill Hayton đài BBC, bà Bonnie Glaser, cố vấn cao cấp về Châu Á trong Trung Tâm Chiến Lược Và Nghiên Cứu Quốc Tế CSIS, tiến sĩ Wu Shicun chủ nhiệm Học Viện Quốc Gia Về Biển Nam Trung Hoa, tiến Sĩ Trần Trường Thủy giám đốc điều hành Cơ Quan Nghiên Cứu Biển Đông của Việt Nam, tiến sĩ Jay Batongbacal giám đốc Học Viện Hàng Hải Và Luật Biển của Philippines, tiến sĩ Sienho Yee Viện Công Pháp Quốc Tế đại học Vũ Hán của Trung Quốc, tiến sĩ Phạm Lan Dung trưởng khoa Luật Quốc Tế Học viện Ngoại Giao Việt Nam.

Theo nhận định của cá nhân tôi thì tôi thấy các lập luận của các học giả Trung Quốc về mặt Luật Quốc Tế vẫn còn chưa được chặt chẽ lắm và đôi khi có thể là họ, không biết vô tình hay cố tình, cũng đưa vào đấy những yếu tố mà nó cũng chưa thật là chính xác lắm

Tiến sĩ Phạm Lan Dung

Trong vài phút trả lời đài Á Châu Tự Do, tiến sĩ Phạm Lan Dung nhận định:

Cái mà tôi nhận xét là nếu trước kia Trung Quốc không đề cập nhiều đến những khía cạnh pháp lý trong các lập luận của mình thì gần đây trong các hội thảo, trong các trao đổi học thuật thì các học giả Trung Quốc đã bắt đầu tập trung hơn về những khía cạnh của Luật Quốc Tế và Luật Biển Quốc Tế. Đấy cũng là điểm tích cực khi họ quan tâm những vấn đề về luật, tuy nhiên theo nhận định của cá nhân tôi thì tôi thấy các lập luận của các học giả Trung Quốc về mặt Luật Quốc Tế vẫn còn chưa được chặt chẽ lắm và đôi khi có thể là họ, không biết vô tình hay cố tình, cũng đưa vào đấy những yếu tố mà nó cũng chưa thật là chính xác lắm.

Về tầm quan trọng và cần thiết về Hội Nghị Thường Niên Biển Nam Trung Hoa mà Trung Tâm Chiến Lược Và Nghiên Cứu Quốc Tế CSIS đứng ra tổ chức, cố vấn hành đầu của Trung Tâm, bà Bonnie Glaser:

Rằng hội nghị thật hữu ích trong nghĩa là những người tham dự bỏ công tìm tòi, nghiên cứu, đặc biệt trưng bày những hình ảnh chụp được bằng vệ tính, để công bố cho mọi người thấy điều gì đang xảy ra, từ đó cùng nhau thảo luận để tìm kiếm giải pháp, đưa ra những đề nghị làm thế nào giảm bớt tình trạng căng thẳng. Cần nói không phải tất cả mọi ý kiến đều đến từ phía các chính phủ mà điểm chính là các học giả cũng có vai trò và tiếng nói nhất định của họ.

Một chiến lược thử thách mới của Trung Quốc

Hội nghị có cái hay là mời gọi được mọi giới từ mọi phía, bà Bonnie Glaser nói tiếp, một số là đại diện của phía tranh giành chủ quyền, một số khác không nằm trong diện đòi chủ quyền nhưng có sự quan tâm sâu sắc đến tình hình an ninh và ổn định trên biển Nam Trung Hoa.

Nhắc lại ngôn từ “game changer” mà thuyết trình viên Việt Nam, tiến sĩ Trần Trường Thủy, viện đến trong bài nói chuyện của ông, cố vấn cao cấp Bonnie Glaser của CSIS nói rằng bà hiểu và đồng ý rằng tiến sĩ Trần Trường Thủy đã sử dụng rất đúng ngôn từ đó để bàn đến hành động bành trướng biển đảo của Trung Quốc, tạo một mối thử thách mới nhưng cốt lõi và căn bản đối với sự ổn định và hòa bình trong khu vực.

Việt Nam phải thực hiện, dù không muốn ra mặt chống lại Trung Quốc, nhưng phải có một bước pháp lý cụ thể như mọi người mong đợi và đó là điều Việt Nam cần phải quyết định dứt khoát

Theo bà Bonnie Glaser của CSIS

Vẫn theo lời bà, điều Việt Nam phải thực hiện, dù không muốn ra mặt chống lại Trung Quốc, nhưng phải có một bước pháp lý cụ thể như mọi người mong đợi và đó là điều Việt Nam cần phải quyết định dứt khoát.

Ngỏ lời với Đài Á Châu Tự Do sau khi đã kết thúc phần nói chuyện của mình, tiến sĩ Trần Trường Thủy, giám đốc điều hành Cơ Quan Nghiên Cứu Biển Đông của Việt Nam:

Tôi nghĩ nó rất quan trọng ở góc độ là tiếp tục đưa được vấn đề Biển Đông để cho thế giới quan tâm mà nhất là phia Mỹ, và qua đấy có thể anh hưởng đến công luận nói chung, ảnh hưởng đến giới nghiên cứu cũng như giới hoạch định chính sách, điều này ảnh hưởng rất lớn đến chính sách của các nước và thực tế qua đấy gởi tín hiệu đến các bên liên quan, nhất là Trung Quốc, phải có hoạt động phủ hợp với lợi ích của cộng đồng quốc tề nói chung.

Hội nghị thường niên lần năm về biển Nam Trung Hoa kéo dài từ sáng đến chiều, có phần diễn văn đúc kết với những lời khuyến cáo nghiêm khắc từ các học giả hoặc chính khách Mỹ như giáo sư John Norton Moore giám đốc Trung Tâm Luật Và Chính Sách Biển thuộc phân khoa Luật đại học Luật Virginia, dân biểu Randy Forbes, chủ tịch tiểu ban chuyên trách biển và cũng là chủ tịch ủy ban quân vụ trong hạ viện Hoa Kỳ.

Vào giờ trưa trong các diễn giả có mặt ông Daniel Russel Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á – Thái Bình Dương. Trả lời một học giả đến từ Trung Quốc ông Daniel Russel khẳng định rằng Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong tranh chấp này, tuy nhiên sự không ngã về bên nào ấy chỉ có ý nghĩa đứng giữa trước các bên tranh chấp, tuyệt nhiên không phải là đứng hẳn bên ngoài nhìn sự tranh chấp diễn ra.

Ông Daniel Russel cho biết Hoa Kỳ mong muốn các tranh cãi phải được giải quyết bằng các giải pháp ngoại giao và dựa trên luật pháp quốc tế. Hoa Kỳ không chấp nhận bất cứ sự hăm dọa hay cưỡng ép nào giữa một nước này đối với nước khác.

Ông Daniel Russel cũng nhắc lại việc bồi đắp các đảo mà Trung Quốc đã và đang tiến hành là hành động trái phép ở Biển Đông và điều đáng lo ngại hơn là Trung Quốc tiến hành việc bồi đắp, xây dựng này với tốc độ nhanh chưa từng thấy.

Thanh Trúc tường trình từ Washington.

 

Việt Nam: ‘Phái kỹ trị như lá mùa thu’?

Việt Nam thường bị tai nạn chết người trong các công trình xây dựng

Nhiều tuần qua, cứ mỗi ngày đọc tin mạng từ Việt Nam tôi lại thấy có thêm chuyện về các cố kỹ thuật, tai nạn gây thương vong.

Các ngành xây dựng, công nghiệp nặng và giao thông ‘đi đầu’ trong bản phong thần về tai nạn.

Hôm 21/7, tại quận 1, TPHCM, một xe đầu kéo gây tai nạn liên hoàn vì tài xế không làm chủ tay lái khiến xe tông vào nhiều xe đang dừng đèn đỏ, khiến bốn người bị thương.

Phạt lái xe là chuyện dễ nhưng cũng cần hỏi ai cho các xe phân khối lớn, có tính năng công nghiệp lại ‘chen vào’ làn đường giao thông những giờ bình thường?

Ở châu Âu, nhiều tuyến đường nội đô không cho xe tải to qua lại ban ngày vì gây nguy hiểm và ô nhiễm trong khi ở Việt Nam, đường xá như thể là biểu hiện của cuộc chơi ai gấu hơn thì thắng.

Báo Nhân Dân hôm 17/06 viết:

“Thời gian gần đây, có nhiều vụ tai nạn, sự cố công trình, thiết bị thi công gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như vụ sập giàn giáo tại cảng Sơn Dương, dự án Formosa, khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh làm 13 người chết và 29 người bị thương; vụ cần cẩu đứt cáp tại Đồng Tháp khiến ba mẹ con tử vong ở Đồng Tháp, nhiều vụ tai nạn trên công trường thi công tuyến đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông, tuyến đường sắt đô thị Nhổn – ga Hà Nội… gây bất an và bức xúc trong dư luận.”

Xây nhiều thì hẳn khó tránh khỏi tai nạn nhưng ở Việt Nam, tần suất tai nạn quả là cao và không trừ ngành nào.

Trên đường: hôm 6/5 có xe tải chở điều hòa bỗng nhiên bốc cháy tại đường trên cao tốc ở Hà Nội, đoạn ngã tư Trần Duy Hưng– Phạm Hùng.

Ngoài phố: Hà Nội chặt cây và trồng cây lại để nguyên bọc rễ bằng nylon loại không phân hủy được.

Trên biển: trong tháng 4 cáp quang biển AAG bị đứt, gây khốn khổ cho người dùng Internet và nhiều thiệt hại chưa đếm hết cho kinh tế.

Trên trời: năm qua ghi nhận chuyện như “máy bay của Vietnam Airlines suýt đâm vào trực thăng quân sự” ở Huế hoặc “suýt va vào máy bay chở hàng Cathay Pacific Cargo của Hong Kong”, theo báo chí trong nước.

Dưới đất: báo Việt Nam viết mới năm ngoái rằng tuyến cấp nước sông Đà về khu vực Hà Nội đã “chín lần xảy ra sự cố vỡ đường ống”.

Bất kể quan điểm chính trị là gì, ai đọc những tin như trên cũng thấy lo ngại về tình trạng điều hành đất nước với nhiều sự cố kỹ thuật, và các dự án ‘đụng đâu vỡ đấy’.

Phải có ‘chủ trương của Đảng Cộng sản’ để thúc đẩy dự án sân bay Long Thành

Không ai phủ nhận nhu cầu phát triển của Việt Nam, quốc gia cần các dự án lớn để kích cầu kinh tế, để tạo cơ sở hạ tầng cho một xã hội văn minh, hiện đại.

Xây một lúc nhiều lò phản ứng nguyên tử, xây sân bay tầm khu vực tại Long Thành thể hiện tham vọng của một chính phủ muốn canh tân, muốn thoát khỏi ‘bẫy thu nhập trung bình’ (một mỹ từ trên quốc tế để chỉ những xứ sở vĩnh viễn nghèo).

Về tổng thể thì rất đáng thúc đẩy các công trình lớn nhưng điều gây lo ngại là yếu tố con người, ở đây là con người Việt Nam.

Từ lãnh đạo, nhà quản lý, đội ngũ chuyên gia, chuyên viên tới từng người lao động, Việt Nam đang thiếu năng lực và tư duy công nghệ để làm cho tốt những công trình khổng lồ tiền tỷ.

Ba thế hệ kỹ trị

Ta hãy so sánh ngay Việt Nam với láng giềng Trung Quốc.

Có bình luận quốc tế đánh giá về lãnh đạo Trung Quốc đã ghi nhận ba thế hệ lãnh đạo của họ, từ các ông Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào đến Tập Cận Bình, đều xuất thân là kỹ sư.

Cựu chủ tịch Giang Trạch Dân lên từ ngành điện tử và automobile, cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào cũng là kỹ sư thủy điện.

Cựu thủ tướng Ôn Gia Bảo tốt nghiệp ngành địa chất và làm việc nhiều năm ở Cam Túc trong ngành này.

Ông Tập Cận Bình, lãnh đạo tối cao hiện nay ở Trung Quốc, là kỹ sư hóa và làm việc nhiều năm trong các nhà máy, công trường, trước sang làm quan chức Đảng.

Các ông Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình đều xuất thân là kỹ sư

Cựu thủ tướng Chu Dung Cơ và đương kim thủ tướng Lý Khắc Cường tuy không phải là kỹ sư nhưng đều có bằng kinh tế và đã làm quản trị từ các vị trí thấp lên cao.

Nhờ có mấy thế hệ lãnh đạo kỹ trị (technocrats) Trung Quốc dùng công nghiệp hóa làm động lực phát triển kinh tế và cải tạo xã hội.

Và dù có nhiều lãng phí, thất thoát, sự cố kỹ thuật (chủ yếu ở các tỉnh), những công trình lớn và quan trọng của Trung Quốc đều có chất lượng cao, có thể không hơn Nhật, Pháp, Mỹ nhưng ở một đẳng cấp hơn hẳn nhiều quốc gia châu Á.

Ta không nên nhìn những thứ phẩm Trung Quốc đẩy sang Việt Nam và châu Phi để đánh giá Trung Quốc, nơi các lãnh đạo thực sự chú tâm vào các vấn đề kỹ thuật và có kiến thức cùng tham vọng.

Ở Việt Nam thì ngược lại: trong bốn vị giữ chức vụ cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính Phủ, Quốc hội không có ai là kỹ sư.

Còn trong cả Bộ Chính trị 16 thành viên chỉ có một người từng học chuyên ngành công nghệ là TS Nguyễn Thiện Nhân (ngành cybernetics tại CHDC Đức).

Đa số các vị khác đi lên từ quân đội, công an, tuyên giáo bộ máy Đoàn Thanh niên hay Đảng Cộng sản và một số ngành khác như kinh tế, quản trị hành chính nhưng không gắn liền với công nghệ.

Hơn một thập niên qua, nền kinh tế càng bung ra xây cất nhiều thì ta càng thấy ‘chủ nghĩa kỹ trị’ ở Việt Nam càng tỏ ra không phải là xu hướng chủ đạo, thậm chí còn đang trên đà đi xuống, cùng con số các vụ bê bối, tai nạn lao động gia tăng.

Nói như Tony Blair, chính phủ kỹ trị “không để ý đến phe Tả hay phe Hữu mà chỉ để ý làm sao tìm ra giải pháp”.

Còn ở Việt Nam, trong bộ máy chính trị vốn là nơi các quyền lợi của nhiều bộ ngành, nhóm lợi ích đan xen nên phái kỹ trị có vẻ chỉ là thiểu số, có khi còn yếu thế hơn bộ máy kiểm soát văn hóa, tư tưởng, giáo dục.

Lãnh đạo Việt Nam chưa thúc đẩy được tư duy kỹ trị

Từ bauxite ở Tây Nguyên, tới cầu đổ bê tông lõi tre ta thấy quy trình thực hiện và hậu quả đều phản ánh một tư duy hoàn toàn ‘phi kỹ trị’.

Trong rất nhiều công trình, gồm cả sân bay Long Thành thì cuối cùng lại phải dựa vào câu thần chú ‘chủ trương lớn của Đảng’ để làm.

Vậy thì là Đảng trị vẫn trên kỹ trị, hay người ta chỉ viện dẫn ra Đảng khi cần?

Việt Nam cũng đã có các gương mặt chuyên viên, với một số vụ trưởng, thứ bộ trưởng và cả hai phó thủ tướng Việt Nam được học ở nước ngoài trong các ngành quản trị, kinh tế, ngoại giao, và có trình độ ngoại ngữ tiếng Anh tốt.

Các nước Phương Tây, giới quan sát, các nhà đầu tư nước ngoài và một phần xã hội đã từng mơ ước Việt Nam có một chính phủ kỹ trị, gồm các chuyên viên cởi mở có kiến thức hiện đại, khả năng ngoại ngữ, năng lực điều hành nền kinh tế hiện đại.

Bởi những gì chúng ta thấy vẫn đang là biểu hiện của thói làm ăn tiểu nông, liều ẩu, vô tổ chức, coi khinh quy trình kỹ thuật và rất nguy hiểm.

Người ta cũng hy vọng các quan chức kỹ trị sẽ giúp tạo ra một nền văn hóa công chính trọng sự chuẩn xác, mẫu mực của kỹ thuật, bớt đi những điều mơ hồ, giáo điều cũ kỹ phí thời gian trong giáo dục, dạy nghệ, nhằm nâng cao chất lượng lao động chung.

Cho tới nay, thành tích của nhóm này chưa thấy có gì nhiều.

Đây cũng là lý do mục tiêu thành quốc gia ‘công nghiệp hóa hiện đại’ vào năm 2020 có vẻ không khả thi.

Trung Quốc học công nghệ nước ngoài để xây xe lửa cao tốc

Như GS Trần Văn Thọ từ Nhật Bản viết gần đây trên trang Thời Đại Mới thì:

“Hiện nay theo phân loại của Ngân hàng thế giới, bình quân đầu người từ 1.000 đến 12.000 USD là nước có thu nhập trung bình, Trên 12.000 USD là nước thu nhập cao. Do đó một nước được gọi là công nghiệp phải có trên 12.000 USD.”

“Việt Nam hiện nay mới gần 2.000 USD, đến năm 2020 có lẽ khoảng 3.000, giỏi lắm là 3.500 (tùy theo biến động của tỉ giá). Nhìn từ điểm này ta thấy mục tiêu năm 2020 là hoàn toàn không đạt được.”

Và cần phải bỏ đi tư duy rằng có những quan chức làm ngành gì cũng giỏi, vì Việt Nam cần các chuyên gia kỹ trị chuyên nghiệp chứ không phải các ông chuyên làm quan, từ ngân hàng, xây dựng sang vận tải, hàng không, giao thông, dầu khí.

Vẫn Tony Blair nói ưu điểm của các nhà kỹ trị là “không để tâm đến chuyện đổ lỗi cho phe này, phe kia” và sẵn sàng “ra các quyết định trái ý nhiều người” (unpopular decisions) để đạt các mục tiêu lớn về kinh tế, tài chính cho toàn bộ xã hội.

Ở Việt Nam, các quan chức đóng vai chuyên gia lại hóa ra thường tư vấn cho chính phủ đưa ra khá nhiều các quyết định trái chiều, thậm chí bất chấp dư luận và trong điều hành thì đầy sự cố.

Nếu muốn thực sự hiện đại hoá thì Việt Nam không có cách nào khác là sắp đặt lại tổng thể chính sách nhân sự hoặc làm mới hoàn toàn.

Bỏ đảng cộng sản để đấu tranh cho công nhân

Sáng 31/3/2015, hàng chục ngàn công nhân tiếp tục ngừng việc sang ngày thứ 6, tổ chức tuần hành tại công ty Pouyuen sau đó kéo ra quốc lộ 1A. Công ty Pouyen nằm ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 80 ngàn công nhân.

Sáng 31/3/2015, hàng chục ngàn công nhân tiếp tục ngừng việc sang ngày thứ 6, tổ chức tuần hành tại công ty Pouyuen sau đó kéo ra quốc lộ 1A. Công ty Pouyen nằm ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 80 ngàn công nhân. Báo laodong.com

Các nghiệp đoàn độc lập không chịu sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt nam đã và đang được thành lập dù không được sự chấp nhận của nhà cầm quyền Việt nam của đảng cộng sản. Nhân chuyến đi làm việc tại Washington, Hoa kỳ, ông Trần Ngọc Thành một trong những người thành lập Liên đoàn lao động Việt dành cho Kính Hòa cuộc phỏng vấn về những hoạt động nghiệp đoàn độc lập của công nhân Việt nam trong vài năm gần đây. Đầu tiên ông cho biết mục đích của mình trong chuyến đi đến thủ đô nước Mỹ.

Ông Trần Ngọc Thành: Có hai mục đích trong chuyến đi của tôi. Thứ nhất là đến Washington để gặp gỡ chính giới và các dân biểu quốc hội Hoa Kỳ để nói rõ tình trạng hiện nay của công nhân Việt nam. Hoa kỳ và Việt nam đang đàm phán Hiệp ước thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP. Chúng tôi muốn cho họ thấy rằng nếu không cho phép công đoàn độc lập Việt nam có tính chính danh và hoạt động công khai thì cuộc sống của người công nhân, cũng như là tình trạng bóc lột người công nhân sau khi Việt nam và Hoa Kỳ ký hiệp định TPP, nó sẽ không cải thiện bao nhiêu.

Điều thứ hai tôi muốn đi một vòng các thành phố của nước Mỹ và Canada để báo cáo với đồng bào mình những công việc mà Liên đoàn lao động Việt tự do đã làm trong chín năm qua. Và cũng kêu gọi đồng bào tiếp tay cho những anh em đấu tranh trong nước về việc thành lập nghiệp đoàn, cái quyền tối thiểu của người công nhân.

Sau khi Việt nam họ gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, và họ tổ chức thành công hội nghị APEC tại Hà nội thì họ nuốt lời hứa và quay ra đàn áp những người tranh đấu vì quyền nghiệp đoàn của công nhân

Ông Trần Ngọc Thành

Kính Hòa: Ông có thể nhắc lại lịch sử hình thành và hoạt động của tổ chức do ông thành lập đến bây giờ?

Ông Trần Ngọc Thành: Năm 2006 thấy tình hình ở Việt Nam có những cuộc đình công mà không có sự hướng dẫn của ai cả thì một số anh em trong nước và nước ngoài thấy cần thiết là phải thành lập công đoàn độc lập. Ngày 20/10/2006 tại Hà nội đã tuyên bố thành lập công đoàn độc lập Việt nam.  Và cũng kêu gọi chính phủ Việt nam cho phép công đoàn độc lập được hoạt động để giúp đỡ những người công nhân Việt nam.

Sau đó 1 tuần tại Warsaw, thủ đô nước Cộng hòa ba Lan, chúng tôi đã tổ chức hội nghị về quyền lao động quốc tế gồm trên 70 thành viên, gồm cộng đồng người Việt và khách quốc tế, trong nhà Quốc hội Ba Lan. Mục đích của cuộc họp đó để yểm trợ công đoàn độc lập trong nước. Và mang tên là Cơm áo và quyền lao động. Cuộc họp đó được chính phủ Ba Lan hết sức ủng hộ, ngồi ghế chủ tọa là ông Phó chủ tịch Công đoàn đoàn kết, và ông Chủ tịch hiệp hội tự do ngôn luận.

Nhưng có một điều đáng tiếc là sau khi Việt nam họ gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, và họ tổ chức thành công hội nghị APEC tại Hà nội thì họ nuốt lời hứa và quay ra đàn áp những người tranh đấu vì quyền nghiệp đoàn của công nhân. Những người sáng lập và cổ vũ cho nghiệp đoàn của công nhân như là Luật sư Lê Thị Công Nhân, Luật sư Nguyễn Văn Đài đều bị bắt. Anh Lê Trí Tuệ là Phó chủ tịch công đoàn độc lập bị truy đuổi và sau đó phải trốn chạy sang Cam Pu Chia, nhưng cũng bị nhà cầm quyền Việt nam bắt và đến nay không rõ tung tích.

Ông Trần Ngọc Thành một trong những người thành lập Liên đoàn lao động Việt trong ngày Đại Hội Kỳ I của Liên Đoàn Lao Động Việt tại Bangkok 2014
Ông Trần Ngọc Thành một trong những người thành lập Liên đoàn lao động Việt trong ngày Đại Hội Kỳ I của Liên Đoàn Lao Động Việt tại Bangkok 2014

Năm 2008 một nhóm các an hem hoạt động dưới cái tên là Phong trào lao động Việt tiếp tục hoạt động bán công khai, giúp đỡ những người công nhân.

Cuối năm 2009, đầu năm 2010, chúng tôi tổ chức đại hội kỳ hai của Ủy ban bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt nam tại Kualalumpur, Mã lai. Nơi có rất đông công nhân Việt nam, trong đó điều kiện lao động là tệ hại nhất. Năm 2007, 2008 có 400 công nhân Việt nam bị tai nạn lao động và chết. Năm 2008 là 200 người..

Kính Hòa: 200 người bị chết vì tai nạn lao động?

Ông Trần Ngọc Thành: Vâng. Sau khi những thước phim được chiếu tại Úc thì họ phải điều đình với mình. Họ hứa bồi thường cho 20 ngàn công nhân, trong đó có 8 ngàn công nhân Việt nam, 2000 đô la cho mỗi người.

Khi nhà máy giày Mỹ phong ở Trà Vinh quịt lương của công nhân, quịt bảo hiểm xã hội thì anh em đã hướng dẫn trên 10 ngàn công nhân đình công trong vòng một tuần. Giới chủ đã đáp ứng phần lớn yêu cầu của công nhân. Nhưng sau đó nhà cầm quyền bắt ba người hướng dẫn trực tiếp cho công nhân. Họ tuyên án anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù. Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, cũng như anh Đoàn Huy Chương bảy năm tù.

Ngoài ra chúng tôi cũng nói rõ cho thế giới biết rằng hiện nay Việt nam có Tổng liên đoàn lao động Việt nam nhưng họ là cánh tay nối dài của đảng cộng sản. Tổng liên đoàn lao động Việt nam từ khi ra đời từ năm 1946 đến giờ chỉ giữ vai trò thay mặt đảng để kiềm tỏa người công nhân chứ không tranh đấu cho quyền lợi của người công nhân.

Công việc của chúng tôi rất là thầm lặng. Anh em ở trong nước hoạt động hầu như là bí mật.

Từ năm 2004 chúng tôi nghĩ là phải thống nhất ba tổ chức, một là Công đoàn độc lập Việt nam. Hai là Phong trào lao động Việt, và thứ ba là Ủy ban bảo vệ người lao động. Hai tổ chức đầu là ở trong nước, tổ chức thứ ba là do anh em ở hải ngoại và một số người trong nước tham gia, thành lập một liên minh gọi là Liên đoàn lao động Việt tự do.

Chúng tôi cũng nói rõ cho thế giới biết rằng hiện nay VN có Tổng liên đoàn lao động VN nhưng họ là cánh tay nối dài của đảng cộng sản. Tổng liên đoàn lao động VN từ khi ra đời từ năm 1946 đến giờ chỉ giữ vai trò thay mặt đảng để kiềm tỏa người công nhân chứ không tranh đấu cho quyền lợi của người công nhân

Ông Trần Ngọc Thành

Chúng tôi đã viết thư gửi đến 12 thành viên những nước tham gia đàm phán Hiệp ước thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP. Chúng tôi nói rõ tình hình công nhân Việt nam trong một chế độ độc tài. Việt nam không có công đoàn độc lập dược phép hoạt động. Khi không còn hàng rào thuế quan nữa cho việc giao thương giữa các nước, thì nó có thể có lợi, có thể cứu được đảng cộng sản, nhưng nếu người công nhân không có quyền thành lập nghiệp đoàn, không được ai bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình thì họ vẫn là những người nô lệ.

Kính Hòa: Trong những diễn tiến của phong trào công nhân trong nước trong thời gian gần đây, gần 100 ngàn người để đòi sửa luật bảo hiểm xã hội thì cuộc đình công đó coi như thành công vì sau đó luật bảo hiểm được sửa đổi. Nhiều nhà quan sát trong nước có nói rằng cuộc đấu tranh của công nhân bây giờ có tổ chức hơn, và cái ý thức từ nhà cầm quyền có vẻ cũng dễ chịu hơn, ông có chia sẻ quan điểm đó không?

Ông Trần Ngọc Thành: Không phải dễ chịu hơn. Công nhân ý thức được rằng muốn quyền lợi của mình không bị xâm phạm một cách trắng trợn thì phải tranh đấu. Thì đó là biểu hiện sức mạnh của người công nhân.

Còn thời gian vừa qua nhà cầm quyền chẳng có ưu ái gì cả, họ đã xua hơn 1000 công an và dân phòng để dẹp cuộc đình công này. Ngay ông chủ tịch tổng liên đoàn cũng bảo rằng cuộc đình công do thế lực phản động xúi giục. Nhưng cuối cùng họ phải rút lui, họ không dám đàn áp. Và bản thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hứa với công nhân là phải thay đổi Luật bảo hiểm xã hội. Mà luật đó đã được quốc hội thông qua, không dễ gì mà họ thay đổi. Thì đó là một thắng lợi.

Kính Hòa:Xin ông câu hỏi cuối, hơi cá nhân một chút là được biết ông có học ở Ba Lan, thì với tương lai một du học sinh về nước có thể sẽ thành công, điều gì làm ông dân thân đấu tranh cho những người công nhân?

Ông Trần Ngọc Thành: Tôi sống ở Ba Lan, tôi chứng kiến tất cả những cuộc tranh đấu của người Ba Lan, từ trí thức đến giới công nhân Ba Lan. Tôi về Việt nam, tôi cũng đã vào đảng cộng sản. Sống trong đảng cộng sản tôi thấy những gì bất công, những gì đã xảy ra. Đây không phải là một đảng chính nghĩa mà giống như một băng đảng xã hội đen. Tôi quay lại Ba Lan lần thứ hai khi công đoàn Đoàn kết đã tranh đấu thành công, thì chúng tôi thấy rằng họ đã tranh đấu thành công, họ muốn cho giai cấp công nhân của họ có quyền làm người thì tại sao Người Việt nam không làm được cái đó? Tất cả những điều đó thúc đẩy tôi dần dần tụ họp cufg các anh em khác làm công việc này.

Kính Hòa: Xin cám ơn ông Trần Ngọc Thành.

Lãnh đạo quân đội VN tiếp đoàn Campuchia

Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam tiếp Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia.

Trang web Bộ Quốc phòng Việt Nam cho biết cuộc gặp giữa Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại tướng Vong Veasna, Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia diễn ra vào sáng 20/7/2015 tại Hà Nội.

Cuộc họp được mô tả là để tăng cường những bước phát triển tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực “theo đúng tinh thần 16 chữ “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã xác định.”

Cuộc họp được tiến hành trong bối cảnh đã có một số căng thẳng tại khu giáp ranh giữa tỉnh Long An của Việt Nam và tỉnh Svay Rieng của Campuchia thuộc khu vực đường biên hai nước.

Khoảng 2.000 người Campuchia dẫn đầu là các dân biểu của đảng Cứu quốc đối lập đã tới vùng biên giới với Việt Nam hôm Chủ nhật 19/7 để biểu thị điều được mô tả là “Việt Nam vi phạm đất đai của Campuchia”.

Hôm 28/6 chính tại đây đã có xô xát giữa một nhóm nhà hoạt động Campuchia do dân biểu Real Camerin dẫn đầu với người dân Việt Nam làm gần 20 người bị thương.

Bộ Ngoại giao Việt Nam vào tuần trước bác bỏ tin đồn trên mạng nói Việt Nam đưa vũ khí, khí tài vào miền nam vì căng thẳng biên giới với Campuchia.

Trong khi đó trang tin chính thức của Bộ Thông tin – Truyền thông Việt Nam, nói “sẽ không có chuyện cả hai quốc gia phải sử dụng đến các biện pháp quân sự để xử lý”.

Tiến sỹ Vannarith Chheang, Đại học Leeds, Anh Quốc.

Trả lời BBC qua email, Tiến sỹ Vannarith Chheang, người Campuchia hiện giảng dạy ở Đại học Leeds, Anh quốc, nhận định về một số sự kiện căng thẳng trên đường biên giới Việt Nam – Campuchia.

“Nguyên nhân gốc rễ của tranh chấp biên giới và những căng thẳng chủ yếu là do sự thiếu minh bạch trong đàm phán biên giới giữa hai chính phủ.

“Các công dân của cả hai nước đặc biệt là những người sống dọc theo biên giới đã không được thông báo đầy đủ về việc đàm phán biên giới, cắm mốc.

“Những căng thẳng biên giới trên giữa Campuchia và Việt Nam đã thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc ở Campuchia.

“Từ quan điểm của Campuchia, đây là do sự xâm lấn của Việt Nam vào lãnh thổ Campuchia. Bộ Ngoại giao Campuchia đã gửi công hàm chống lại việc Việt Nam xây dựng trong khu vực tranh chấp.

“Đây là lần đầu tiên chính phủ Campuchia có lập trường mạnh mẽ chống lại Việt Nam liên quan đến các tranh chấp biên giới giữa hai nước”, ông Chheang cho biết.

Ông Chheang cũng nói thêm rằng việc tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại Campuchia đã làm cho Campuchia cảm thấy tự tin hơn và đẩy cao sức mạnh mặc cả, thương lượng của Campuchia với Việt Nam.

“Campuchia đang chuyển quan hệ từ liên minh truyền thống bè bạn với Việt Nam sang với Trung Quốc,” ông nói thêm.

Trong khi nhà nghiên cứu này nói rằng nói không loại trừ khả năng Campuchia có thể chọn để đưa vụ việc ra Tòa án Công lý Quốc tế nếu căng thẳng tiếp tục, ông cũng nhận định rằng Chính phủ Campuchia không có ý định làm như vậy.

“Nhưng những áp lực ngày càng tăng từ các đảng đối lập và công chúng nói chung có thể buộc chính phủ phải tìm kiếm sự hòa giải của bên thứ ba.

“Tôi nghĩ rằng ngoại giao song phương và đàm phán sẽ giúp giải quyết các khác biệt,” Tiến sỹ Vannarith Chheang nói thêm.

Bắt cựu Chủ tịch PVN hé lộ ‘lỗi hệ thống’

Vụ cựu lãnh đạo PVN nhắc lại vụ ông Dương Chí Dũng

Về vụ cựu Chủ tịch tập đoàn PVN ông Nguyễn Xuân Sơn bị khởi tố, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Thang Văn Phúc cho rằng “về nguyên tắc, nếu như một người bị phát hiện có sai phạm mà vẫn được đề bạt là không nên”, theo trang VOV.

Nhưng vẫn theo bài báo trên trang mạng của Đài Tiếng nói Việt Nam, “thời điểm ông Nguyễn Xuân Sơn được bổ nhiệm làm Chủ tịch PVN (tháng 7/2014), tình hình Ocean Bank – nơi ông Sơn từng làm tổng giám đốc – chưa đến nỗi nào, thì người ta mới đề bạt”.

Trước đó, theo VOV, đã có trường hợp ông Dương Chí Dũng – từ Chủ tịch HĐTV Vinalines đã được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Hàng hải (Bộ GTVT).

Chưa đầy nửa năm sau đã bị khởi tố do hành vi phạm pháp liên quan tới thời gian còn làm Chủ tịch của Vinalines.

Còn Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, cựu thành viên ban tư vấn của thủ tướng Việt Nam thời gian trước, nói với BBC hôm 22/07 rằng vụ ông Nguyễn Xuân Sơn cho thấy “vấn đề lớn về mặt bổ nhiệm nhân sự tại Việt Nam”.

“Về mặt thủ tục bổ nhiệm, Thủ tướng bổ nhiệm theo đề nghị từ các bộ và có thủ tục về mặt xét duyệt về phía Đảng và các hội đồng quản trị”, ông nói.

“Vụ việc như thế này là câu hỏi lớn về thể chế và sự xét duyệt và cho thấy rõ thiếu một cơ quan giám sát độc lập, nên các thủ tục, các việc xét duyệt làm không được chặt chẽ, dẫn đến những việc bổ nhiệm như trong trường hợp của ông Xuân Sơn này.”

Vấn đề của bộ máy

Chính phủ Việt Nam bổ nhiệm mọi chức vụ cao trong ngành kinh tế

Tuy nhiên, TS Doanh cho rằng đây là biểu hiện của vấn đề sâu xa hơn và tổ chức của bộ máy:

“Tôi nghĩ rằng phải thay đổi thể chế, tách cơ quan giám sát khỏi cơ quan quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu để cơ quan này thực sự độc lập và làm việc theo pháp luật.”

Còn ông Thăng Văn Phúc thì cho rằng vụ cựu Chủ tịch PVN là bài học cho những người làm công tác tổ chức, cán bộ:

“Làm sao phải tìm nguồn một cách thận trọng, phải quản lý cán bộ thật sâu sát. Sâu sát với cán bộ sẽ vừa giúp phát hiện kịp thời những sai lầm, vừa giúp họ trưởng thành trong quá trình phát triển” – ông Phúc nói trên trang VOV hôm 22/07/2015.

Điểm dường như truyền thông tại Việt Nam chưa khai thác hoặc nhận chỉ đạo không khai thác là thời gian chồng chéo khoảng hai năm khi ông Sơn làm lãnh đạo tại cả PVN lẫn OceanBank.

Việc có “chân trong chân ngoài” đặt ra câu hỏi về khả năng xung đột lợi ích khi vừa lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước lại vừa điều hành ngân hàng tư nhân và dùng tiền doanh nghiệp nhà nước để góp vốn và kinh doanh chứng khoán, xây dựng, bất động sản…

Báo Vnxpess đưa tin tháng 7 năm ngoái, ông Sơn là “ứng viên duy nhất” được tập đoàn và Bộ Công Thương giới thiệu vào cương vị Chủ tịch Hội đồng thành viên sau khi người tiền nhiệm nghỉ hưu và ông được Thủ tướng Dũng bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch PVN vào 08/07/2014.

Xôn xao dư luận

Vụ bắt ông Nguyễn Xuân Sơn tiếp tục thu hút sự chú ý lớn của dư luận Việt Nam, kể cả các bạn đọc trang Facebook của BBC Tiêng Việt.

Chẳng hạn Thái Thành viết: “Vấn đề cốt lỏi là Cơ Chế Quản Lý. Nếu cứ khư khư giữ lấy cơ chế quản lý bất cập như thế này thì muôn đời vẫn vậy. Đâu chỉ các Tập đoàn kinh tế Nhà Nước …Tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, nhũng nhiễu đã và đang trở thành một phong trào lan tỏa mạnh mẽ bao trùm lên đời sống của Nhân Dân cả nước dưới mọi hình thức và mọi lĩnh vực, từ trung ương đến cấp cơ sở nhỏ nhất.”

Còn Facebooker có tên là Caphedene Na thì viết: “Phải dùng từ “cấu kết” với nhau sử dụng tiền NN, tức tiền thuế của toàn dân trục lợi cá nhân. Thử hỏi các DN NN hiện nay được sử dụng vốn ko mất tiền lãi suất vay, được hỗ trợ, độc quyền… nhưng lợi nhuận họ mang lại toàn âm, lỗ, lỗ nặng cấu kết cán bộ quản lý trục lợi để có nhà cửa hoành tráng, con cái đi học NN thử hỏi tiền lương nào? Ở đâu có?”

Có vẻ như trước những vụ việc gây chấn động dư luận, các giải pháp của quan chức cao cấp tại Việt Nam vẫn là đề cao ‘đạo đức, tư tưởng’.

Cùng ngày 22/07, tới dự Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020 ở Hà Nội, ông Ngô Văn Dụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương thừa nhận rằng “tình trạng tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp”.

Tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, nhũng nhiễu đã và đang trở thành một phong trào lan tỏa mạnh mẽ

Cùng dự Đại hội, ông Đào Ngọc Dung, Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương cho rằng “nếu từng đảng viên không thật sự gương mẫu và hoàn thành tốt nhiệm vụ sẽ ảnh hưởng lớn đến hệ thống chính trị”.

Vì thế, theo ông, “nhiệm vụ hàng đầu và thường xuyên của Đảng bộ là làm thật tốt công tác tư tưởng”.

Trong khi đó, cộng đồng mạng lại chia sẻ các ý kiến khác về giải pháp.

Trần Hùng Cương viết trên trang Facebook của BBC Tiếng Việt: “Cách tốt nhất là Nhà nước rút ra khỏi các doanh nghiệp, không làm kinh tế nữa, chỉ quản lý và thu thuế, ban hành pháp luật giống như Các Mác và Ăng ghen đã nói..trong một cơ chế vừa đá bóng vừa thổi còi , quyền lực vô hạn sẽ gây ra tiêu cực, thất thoát, tổn hại đến kinh tế thôi…”

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã nói gì với Tướng Nguyễn Quốc Thước?

2015-07-21, RFA

daituongphungquangthanh.png

Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam.Photo: RFA
 

Trả lời phóng vấn Đài Á Châu Tự Do tối thứ Ba 21/7/2015, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nguyên tư lệnh Quân Khu 4 từng là Thủ trưởng của Đại tướng Phùng Quang Thanh đã làm rõ hơn về tình trạng của Đại tướng, một điều mà truyền thông trong nước không hiểu vô tình hay cố ý đã bỏ qua.

Vị Trung tướng 89 tuổi nhưng rất dõng dạc từ nơi nghỉ hưu ở Hà Nội cho Nam Nguyên của Ban Việt Ngữ RFA biết lần cuối cùng mà ông trực tiếp nói chuyện qua điện thoại với Đại tướng Phùng Quang Thanh:

“Sự việc tôi biết được vào ngày 27 và từ ngày mùng 3 mỗi ngày tôi đều trao đổi tình hình với thư ký của Đại tướng như tôi đã nói trên mạng. Riêng ngày mùng 3/7 lúc 8 giờ tối bên mình tức là buổi chiều ở bên kia vì cách nhau 6 tiếng Bộ trưởng có điện thoại trực tiếp cho tôi, tôi nhắc lại ngày mùng 3 đấy nhé.

Bộ trưởng nói thế này, bác rất quan tâm tình hình sức khỏe của tôi anh em thư ký nói lại, hôm nay tôi trực tiếp điện cho bác để bác yên tâm.

Chúng tôi trao đổi với nhau đúng 7 phút đồng hồ, tất cả nôi dung dõng dạc nói rõ giống như chúng tôi ngồi nói chuyện ở Hà Nội vậy thôi”.

Trả lời câu hỏi của phóng viên RFA về những tin tức khác nhau liên quan đến tình trạng sức khỏe của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh trong những ngày qua, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nhấn mạnh:

Bấm vào đây để nghe lời Trung tướng Nguyễn Quốc Thước

“Tôi khẳng định rằng, những vấn đề tôi nói trên mạng những vấn đề tôi nói trực tiếp với thư ký của đồng chí Bộ trưởng hàng ngày và riêng ngày mùng 3/7 thì Bộ trưởng trao đổi với tôi trực tiếp chứ không phải qua thư ký thì tôi tin rằng, tất cả những việc người ta đưa lên mấy ngày hôm nay toàn là những việc để gây rắc rối cho đất nước chúng tôi.”

Tưởng cũng xin được nhắc lại: Hãng thông tấn Đức DPA trong bản tin phổ biến chiều Chủ nhật 19/07/2015 trích lời nhân viên Bệnh viện George Pompidou, Paris, nói rằng Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã qua đời sau một thời gian điều trị tại bệnh viện này.

Tin này ngay sau đó đã bị chính phủ Việt Nam bác bỏ. Tuyên bố với báo chí tại Hà Nội sáng thứ Hai 20/7/2015, Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam, bác bỏ tin của Thông Tấn Xã Đức DPA nói Tướng Thanh đã chết hôm 19/6, nhấn mạnh rằng sức khỏe ông Thanh ổn định, cuối tháng sẽ về lại Việt Nam.

Toàn văn cuộc trả lời phỏng vấn của Trung tướng Nguyễn Quốc Thước với Đài Á Châu Tự Do sẽ được đăng tải tại trang web RFATiengViet.Net và trong chương trình phát thanh của chúng tôi. Mời Quý Thính Giả đón nghe.

Cựu Chủ tịch PVN Nguyễn Xuân Sơn ‘bị bắt và bị khởi tố’

 
Ông Nguyễn Xuân Sơn làm Chủ tịch PVN chỉ khoảng một năm

Truyền thông Việt Nam đưa tin cựu Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí quốc gia bị bắt, khởi tố và nhà riêng bị khám xét.

Báo Công an TP. HCM nói lúc 18 giờ, cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã thực hiện lệnh bắt tạm giam và khám xét nơi ở của ông Nguyễn Xuân Sơn tại D2 trong khu đô thị Ciputra, Phường Phú Thượng, Quận Tây Hồ, Hà Nội.

Theo tờ này, ông bị khởi tố tội danh “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng”; “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Báo Lao Động cho biết công an đã tống đạt quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam và khám xét nơi ở của ông Nguyễn Xuân Sơn.

Cùng ngày 21/7, hãng tin Reuters đưa tin PetroVietnam Gas, bộ phận sản xuất và phân phối khí đốt của Tập đoàn Dầu khí quốc gia, ghi nhận lợi nhuận gộp dự kiến cho 2015 giảm 21.2%%, xuống còn 649 triệu USD, và doanh số giảm 5.4%.

Ông Sơn là Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), nhưng đã bị Thủ tướng cho thôi chức hôm 19/7.

Ban đầu thông tin chính thức nói ông được chuyển về công tác ở Bộ Công Thương, nhưng đã xuất hiện lời đồn rằng ông sẽ bị bắt.

Báo Lao Động tường thuật ngay sau khi bị cho thôi chức hôm 19/7, ông Sơn “bị tăng huyết áp và phải vào Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai để cấp cứu”.

Chiều 21/7, công an có mặt tại bệnh viện và đưa ông Sơn ra xe. Đến chiều tối, nhà của ông bị khám xét.

Mới gần đây báo chí Việt Nam và quốc tế còn đưa tin về chuyến xuất ngoại cuối cùng của ông Nguyễn Xuân Sơn sang Hoa Kỳ trước khi bị bắt vào hôm nay 21/7.

Trong bài trên trang của Viện Dầu khí Việt Nam có ảnh ông Sơn ký hợp thỏa thuận hợp tác với Tập đoàn Hoa Kỳ Murphy Oil hôm 8/7 có sự chứng kiến của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.

Báo chuyên ngành tiếng Anh ( Rigzone.com) hôm 13/07 cũng đưa tin về chuyến thăm Hoa Kỳ của ông Sơn và dự án Cá Voi Xanh.

Tin tức nói việc ông Sơn mất chức liên quan nghĩa vụ và trách nhiệm trong thời gian ông Sơn giữ chức TGĐ Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank), đồng thời là người đại diện phần vốn góp 800 tỉ đồng của PVN tại doanh nghiệp tại OceanBank.

Trước đó, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị OceanBank Hà Văn Thắm đã bị khởi tố, bắt tạm giam.

Ngân hàng Nhà nước đã mua lại OceanBank với giá 0 đồng.

Truyền thông nhà nước nói số vốn 800 tỉ đồng của PVN tại đây đã “mất trắng”.

Vì sao căng thẳng biên giới VN – Campuchia?

Nhà nghiên cứu, TS. Vannarith Cheang trong một cuộc Tọa đàm trực tuyến (Hangout) với BBC.

Gần đây diễn ra một số sự kiện căng thẳng trên đường biên giới Việt Nam – Campuchia thu hút sự chú ý của dư luận.

Nhân dịp này, BBC đã hỏi nhà nghiên cứu người Campuchia, Tiến sỹ Vannarith Chheang, dạy ở Đại học Leeds, Anh quốc, về động cơ, bối cảnh vụ việc.

Tiến sỹ Vannarith Chheang: Nguyên nhân gốc rễ của tranh chấp biên giới và những căng thẳng chủ yếu là do sự thiếu minh bạch trong đàm phán biên giới giữa hai chính phủ. Các công dân của cả hai nước đặc biệt là những người sống dọc theo biên giới đã không được thông báo đầy đủ về việc đàm phán biên giới, cắm mốc.

BBC:Liệu chính trị nội bộ của Campuchia là lý do đằng sau việc này, và nếu như vậy, ai sẽ là người được hưởng lợi từ nó về mặt chính trị?

Chủ nghĩa dân tộc đã được gia tăng ở Campuchia từ năm 2002 sau khi một nữ nghệ sỹ Thái đã bình luận sai lệch về Angkor Wat rằng đền này thuộc về Thái Lan, và cuộc xung đột biên giới Thái Lan-Campuchia trong năm 2010-2011.

Những căng thẳng biên giới trên giữa Campuchia và Việt Nam đã thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc ở Campuchia. Từ quan điểm của Campuchia, đây là do sự xâm lấn của Việt Nam vào lãnh thổ Campuchia. Bộ Ngoại giao Campuchia đã gửi công hàm chống lại việc Việt Nam xây dựng trong khu vực tranh chấp.

Đây là lần đầu tiên chính phủ Campuchia có lập trường mạnh mẽ chống lại Việt Nam liên quan đến các tranh chấp biên giới giữa hai nước. Một số nhà phân tích cho rằng việc tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại Campuchia đã làm cho Campuchia cảm thấy tự tin hơn và đẩy cao sức mạnh mặc cả, thương lượng của Campuchia với Việt Nam. Nói cách khác, Campuchia đang chuyển quan hệ từ liên minh truyền thống bè bạn với Việt Nam sang với Trung Quốc.

BBC:Ông có nghĩ rằng ASEAN, với tư cách một khối ở khu vực, có thể làm điều gì đó về tranh chấp biên giới Campuchia-Việt Nam? Liệu vụ việc này giống như tranh chấp về ngôi đền Preah Vihear với Thái Lan một vài năm trước đây?

ASEAN không có vai trò quan trọng trong việc làm trung gian cho các tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia thành viên do nguyên tắc không can thiệp.

Nếu căng thẳng tiếp tục, Campuchia có thể chọn để đưa vụ việc ra Tòa án Công lý Quốc tế. Hiện nay, Chính phủ không có ý định làm như vậy, nhưng những áp lực ngày càng tăng từ các đảng đối lập và công chúng nói chung có thể buộc chính phủ phải tìm kiếm sự hòa giải của bên thứ ba.

BBC:Theo ông, chính phủ Việt Nam nên giải quyết vấn đề như thế nào?

Tôi nghĩ rằng ngoại giao song phương và đàm phán sẽ giúp giải quyết các khác biệt.

Hãng tin Đức: Việt Nam bác bỏ tin ông Thanh qua đời

VOA, 21-7-2015,
http://www.voatiengviet.com/content/hang-tin-duc-viet-nam-bac-bo-tin-ong-thanh-qua-doi/2871652.html

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.

Hãng thông tấn DPA của Đức hôm qua (20/7) nói rằng chính phủ Việt Nam đã bác bỏ tin Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh qua đời ở Paris (Pháp) cuối tuần qua.

DPA dẫn lời Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, cho biết sức khỏe của ông Thanh vẫn “ổn định” sau cuộc phẫu thuật tại bệnh viện Georges Pompidou European ở Paris.

Ông Tuấn được hãng tin Đức trích lời nói: “Tôi mới nói chuyện với ông ấy hôm qua (19/7). Ông ấy sẽ trở về Việt Nam vào cuối tháng này”.

Trong khi đó, trả lời VOA Việt Ngữ hôm 21/7, ông Tuấn cho biết ông chỉ trao đổi với trợ lý của ông Thanh.

“Đại tướng vẫn bình thường. Hôm qua tôi vừa liên lạc. Tôi không liên lạc trực tiếp với Đại tướng mà chỉ liên lạc với trợ lý của Bộ trưởng (ông Thanh). Tất cả bình thường, không có gì đâu”.

VOA Việt ngữ cũng đã liên lạc với ông Phạm Gia Khải, thành viên Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, nhưng ông cũng chỉ trích dẫn lại lời của Thiếu tướng Võ Văn Tuấn.

Một bản tin đăng hôm 19/7 của hãng DPA từ Hà Nội dẫn lời một nguồn tin quân sự giấu tên nói rằng ông Thanh đã từ trần sau khi được chữa trị bệnh ung thư tại bệnh viện trên.

Trong khi đó, Trung tướng Tuấn nói rằng thông tin mà hãng tin Đức đưa ra là “thất thiệt”.

Đại tướng vẫn bình thường. Hôm qua tôi vừa liên lạc. Tôi không liên lạc trực tiếp với Đại tướng mà chỉ liên lạc với trợ lý của Bộ trưởng. Tất cả bình thường, không có gì đâu.

Chưa rõ là chính quyền Hà Nội xử lý như thế nào về việc đưa tin của hãng thông tấn lớn của Đức.

Trong bản tin hôm 20/7 mà nhiều tờ báo ở trong nước cho là tin đính chính, DPA lại cho biết họ lấy thông tin ông Thanh qua đời từ nguồn tin từ bệnh viện ở Pháp.

Khi được hỏi là liệu Bộ Quốc phòng Việt Nam có đề xuất xử lý hãng tin Đức hay không, Trung tướng Võ Văn Tuấn nói:

“Họ rút lại cái tin đấy rồi. Kệ họ thôi bởi vì không hơi đâu mà đi xử lý việc đấy. Thực tế như thế nào thì rõ ra đấy thôi. Đại tướng vẫn bình thường, rất là ổn, chuẩn bị về nước”.

Trong khi đó, đầu tháng này, một tờ báo ở trong nước đã bị phạt hàng chục triệu đồng vì đăng bài về Bộ trưởng Phùng Quang Thanh.

Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông đã phạt báo Đời sống và Pháp luật 30 triệu đồng vì cho đăng tiểu sử của ông Thanh.

Việc đăng tải này đã vi phạm các điều khoản tại Điều 64 của Nghị định 174, theo đó quy định việc phạt từ 20 – 30 triệu đồng đối với các hành vi: “Cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân; Cung cấp nội dung thông tin không phù hợp với lợi ích đất nước; Đăng, phát bản đồ Việt Nam không thể hiện đầy đủ hoặc thể hiện sai chủ quyền quốc gia; Đăng, phát các tác phẩm đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu”.

Chưa rõ là tờ Đời sống và Pháp luật có những “hành vi” nào với bài viết về tiểu sử của ông Thanh, nhưng một số độc giả của VOA Việt Ngữ cho rằng việc đăng tiểu sử như vậy khiến cho họ có cảm giác như ông Thanh đã từ trần.

Cũng giống như trường hợp của ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên Bí thư thành ủy Đà Nẵng, việc thiếu minh bạch thông tin về tình trạng sức khỏe của ông Phùng Quang Thanh đã khiến tin đồn trên mạng ‘nở rộ’, gây hoang mang trong dư luận.

Tướng Thanh ‘không có vấn đề về sức khỏe’

Đại tướng Phùng Quang Thanh (ở giữa) và các tướng lĩnh khác của Quân đội Việt Nam

Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam nói với BBC Tiếng Việt rằng các đồn đại mới đây về sức khỏe của Đại tướng Phùng Quang Thanh là ‘không đúng’.

“Sức khỏe của Bộ trưởng Phùng Quang Thanh không có vấn đề gì,” ông trả lời chiều 20/7 giờ Hà Nội.

Hiện tin tức nói ông Thanh đang được điều trị ở nước ngoài và sẽ sớm về Việt Nam trong thời gian tới.

“Hôm qua tôi có trao đổi thì nói rằng cuối tháng. Từ nay tới cuối tháng chỉ còn vài ngày thôi, tôi không nói chính xác được ngày,” Tướng Tuấn cho biết thêm.

Trước đó, báo của Bộ Quốc phòng đăng tin Bộ trưởng, Đại tướng Phùng Quang Thanh gửi thư chúc mừng hai đơn vị, trái với tin đồn ông qua đời.

Tờ Quân đội Nhân dân sáng thứ Hai 20/7 đăng tin “Bộ trưởng Quốc phòng chúc mừng Lữ đoàn Thông tin 26, Quân chủng Phòng không-Không quân; Trung tâm Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng 2, Cục Kỹ thuật, Quân chủng Hải quân”.

Hôm Chủ Nhật, một hãng tin châu Âu trong bản tin phát từ Hà Nội dẫn nguồn quân đội giấu tên cho hay Bộ trưởng Phùng Quang Thanh qua đời hôm 19/7 tại một bệnh viện ở Pháp, nơi ông đang trị bệnh ung thư phổi.

Hãng Deutsche Presse-Agentur (DPA) của Đức cũng nói ông Thanh qua đời tại bệnh viện Georges Pompidou [ở Paris].

Trong khi đó bản tin của báo Quân đội Nhân dân sáng 20/7, được một số báo khác đăng lại, cho biết: “Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống của Lữ đoàn Thông tin 26, Quân chủng Phòng không-Không quân (20-7-1965/20-7-2015) Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi thư chúc mừng.

Phung Q Thanh1

Nhân dịp kỷ niệm 20 năm Ngày truyền thống của Trung tâm Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng 2, Cục Kỹ thuật, Quân chủng Hải quân (20-7-1995/20-7-2015), Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi thư chúc mừng.”

Thông thường bộ phận biên tập của các báo trong nước khá nhạy cảm trong các thông tin liên quan lãnh đạo cao cấp.

Lâu nay đã có nhiều tin đồn về sức khỏe của Đại tướng Phùng Quang Thanh.

Hôm 30/6, ông Thanh đã được các chuyên gia y tế của Pháp tiến hành phẫu thuật một khối u ở phổi. Các nguồn tin chính thống cho hay khối u lành tính và chưa có dấu hiệu của bệnh ung thư.

Hôm 9/7, một thành viên của Ban Chăm sóc Sức khỏe Trung ương nói ông Thanh đã được ra viện tuy vẫn được theo dõi.

Đại sứ Ted Osius: Việt Nam sẽ đến gần với Mỹ hơn

Khách dự chụp hình lưu niệm với Đại sứ Ted Osius (ảnh Bùi Văn Phú).

Khách dự chụp hình lưu niệm với Đại sứ Ted Osius (ảnh Bùi Văn Phú).

Tin liên hệ

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam: Tự do cho người Việt là khả thi

Đại sứ Osius nói mặc dù còn đường còn khá dài trước khi đảng CSVN cải thiện nhân quyền, ông vẫn lạc quan Hoa Kỳ có thể để giúp ‘mang lại những thay đổi’ tại VN

Ðường dẫn

Bùi Văn Phú

19.07.2015

“Đại hội Đảng tại Việt Nam vào đầu năm tới sẽ ủng hộ quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ”, Đại sứ Mỹ tại Hà Nội Ted Osius phát biểu trong buổi tiếp xúc với cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở San Jose hôm 14/7.

Ông cho biết đến nay đã có năm ủy viên Bộ Chính trị thăm viếng Hoa Kỳ và chuyến đi tuần qua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một người luôn nghi ngờ quan hệ với Mỹ, là một chuyến đi lịch sử trong quan hệ hai nước.

Theo lời đại sứ, một thăm dò nội bộ cho thấy có đến 92% người Việt, già cũng như trẻ, từ cả ba miền bắc trung nam muốn có quan hệ thân thiết hơn với Hoa Kỳ. Còn quốc gia nào quan trọng đối với tương lai của Việt Nam thì Hoa Kỳ cũng đứng cao nhất, Nhật Bản được một nửa so với Mỹ, Nga ít hơn nữa và con số dành cho Trung Quốc rất thấp.

Ông nói: “Giới trẻ ở Việt Nam ngày nay muốn đất nước của họ như Mỹ, chứ không muốn giống Trung Quốc.”

Đây là thời điểm để hai nước nắm bắt lấy cơ hội xây dựng mối quan hệ tốt hơn, kể từ khi nối lại bang giao cách đây hai mươi năm và người đại diện Hoa Kỳ tại Hà Nội tỏ ra lạc quan về tương lai quan hệ Mỹ-Việt.

Hơn 100 người đã tham dự buổi thảo luận với Đại sứ Ted Osius tại phòng họp của hội đồng thành phố San Jose. Nghị viên Ash Kalra điều hợp chương trình.

Ông Ted Osius nhận nhiệm sở từ cuối năm 2014 và là vị đại sứ Mỹ thứ sáu tại Việt Nam kể từ khi bang giao hai nước mở ra vào năm 1995.

Là một trong những nhà ngoại giao đầu tiên đến Hà Nội sau khi hai nước thiết lập bang giao, ông Osius có nhiều kinh nghiệm làm việc ở đó. Ông nói được tiếng Việt và am hiểu lịch sử Việt Nam. Đại sứ Mỹ đã dùng tiếng Việt để chào mọi người và giải thích tại sao ông nói giọng bắc. Ông bắt đầu học tiếng Việt với một giáo viên nói giọng nam, sau đó học thêm với các giáo viên nói giọng bắc, nên tiếng Việt của ông bây giờ có giọng bắc. Sau đó ông nói tiếng Anh để bắt đầu bài nói chuyện.

  1. Giáo dục và quan hệ hai nước

Đại sứ Ted Osius (ảnh Bùi Văn Phú).Đại sứ Ted Osius (ảnh Bùi Văn Phú).

Đại sứ Ted Osius đã nhắc đến chuyến đi Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tuần qua với kết quả tốt trong nhiều lãnh vực. Việt Nam đã ký hợp đồng mua hàng của Mỹ trị giá 13 tỉ đô-la. Hà Nội cũng đồng ý cho mở Đại học Fulbright tại Việt Nam, một đại học mà lãnh đạo Việt Nam từ cấp cao nhất đã hứa sẽ cho được độc lập và quyền tự do học thuật. Đại học Fulbright – Fulbright Economic University – chú trọng vào lãnh vực giảng dạy kinh tế và dự kiến sẽ mở trường đầu tiên vào năm tới, năm 2017 và 2018 sẽ mở thêm hai địa điểm nữa.

Đại học này có ưu tiên cho những người hoạt động dân chủ hay cho con cái họ, Đại sứ Osius cho biết tiêu chí nhận vào dựa trên thành tích học tập và sẽ không có phân biệt vì bất cứ lí do nào vì đó là chính sách của Hoa Kỳ. Để được nhận vào trường, các em phải là học sinh giỏi.

Nhiều câu hỏi về giáo dục và các chương trình học bổng được nêu lên. Quỹ học bổng VEF (Vietnam Education Fund) đến năm 2018 sẽ hết ngân sách; ông Osius cho biết phiên bản VEF 2.0 đang được bàn thảo và có những người ở Việt Nam sẵn sàng đóng góp 1 đô-la cho mỗi đô-la gây quỹ được. Đại sứ nói trên 300 du sinh cấp tiến sĩ đã đến Mỹ học tập trong các ngành về khoa học và kỹ thuật qua quỹ VEF là một đóng góp tốt cho nền giáo dục của Việt Nam và ông muốn chương trình học bổng này được tiếp tục.

Hiện có 17 nghìn sinh viên từ Việt Nam theo học tại Hoa Kỳ và ông muốn con số này tăng lên nữa vì đại sứ quán Mỹ không có giới hạn trong việc cấp visa cho sinh viên Việt đến Mỹ học tập.

Du sinh có phải đa số là thành phần con cái cán bộ giầu có? Ông Osius cho biết họ từ những gia đình có nhiều tiền nên có thể gửi con qua Mỹ học, một số có quan hệ chính trị nhưng không phải tất cả. Sứ quán thường đưa nhân viên đến các trường trung học năng khiếu nói chuyện với học sinh về những chương trình học bổng tại Hoa Kỳ và khuyến khích các em nộp đơn.

Theo lời Đại sứ Osius, chương trình Peace Corps, bị đình trệ từ năm 2008, chắc chắn sẽ mở ra trong năm nay với thiện nguyện viên Mỹ được đưa về một số tỉnh để dạy tiếng Anh.

Về việc những tổ chức thiện nguyện của người Mỹ gốc Việt muốn trực tiếp giúp các em thiếu nhi có cơ hội đến trường và bị nhà nước làm khó dễ, ông Osius nói những công tác như thế là việc làm rất tốt. Theo ông, nhà nước vẫn chưa hiểu được là người Việt hải ngoại không phải là kẻ thù của chế độ. Ông biết có nhiều hội đoàn thiện nguyện về Việt Nam làm việc, nhưng nếu không muốn gặp rắc rối thì phải tuân thủ luật pháp của Việt Nam, dù có những điều luật mình không thích.

Đại sứ còn nói ông không hiểu vì sao đến nay nhà nước Việt Nam vẫn không cho các giáo hội góp phần vào việc giáo dục bằng cách mở trường học, cơ quan từ thiện.

  1. Đầu tư, nhân quyền và TPP

Đại sứ Ted Osius, phải, và Nghị viên Ash Kalra (ảnh Bùi Văn Phú)Đại sứ Ted Osius, phải, và Nghị viên Ash Kalra (ảnh Bùi Văn Phú)

Khi nào Hoa Kỳ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường? Đại sứ Osius cho biết có tất cả 6 điều kiện của lập pháp Mỹ, do Bộ Thương mại phụ trách, khi nào Việt Nam hội đủ thì sẽ được công nhận. Theo ông, đây không phải là điều kiện chính trị mà là những điều luật của luật pháp Mỹ.

Trả lời câu hỏi về những dự án của người Việt hải ngoại sau khi thành công bị nhà nước đưa ra đủ thứ luật lệ để làm khó dễ nên có người mất tất cả. Đại sứ Osius thừa nhận là vấn đề đó không chỉ xảy ra với công ty của người Việt hải ngoại mà cho các công ty của người nước ngoài nói chung. Chỉ những công ty lớn như Intel, Boeing, GE hay Proctor&Gamble mới không bị công an đòi tiền.

Ông hy vọng là sau khi Việt Nam tham gia TPP, sự minh bạch và những điều kiện đầu tư vào Việt Nam sẽ được cải tiến vì những ràng buộc pháp lý kèm theo.

Đại sứ Ted Osius nhấn mạnh đến sự quan trọng khi Việt Nam gia nhập TPP. Trong các thảo luận giữa Tổng Bí thư Trọng và Tổng thống Obama, mà ông cũng có tham dự, Tổng thống Obama đã rất thẳng thắn nói rõ với lãnh đạo Việt Nam là cần có cải tiến nhân quyền, cho công nhân lập công đoàn độc lập, người dân tự do hội họp, phát biểu, có tự do tôn giáo.

Đó là những quan tâm mà người Mỹ gốc Việt đã bày tỏ với ông. Các dân biểu Ed Royce, Loretta Sanchez, Alan Lowenthal, Zoe Lofgren, Mike Honda, Dana Rohrabacher cũng đã yêu cầu Tổng thống Obama đặt vấn đề với lãnh đạo Việt Nam.

“Muốn gia nhập TPP hay bắt giam những blogger, muốn tăng GDP 30% hay bỏ tù người bất đồng chính kiến. Việt Nam sẽ không thể vào TPP trừ khi có tiến bộ trong hồ sơ nhân quyền”, Đại sứ Osius nói.

Đại sứ cho biết từ ngày ông nhận nhiệm sở chỉ có một người hoạt động nhân quyền bị bắt. Con số tù nhân lương tâm tuy giảm nhưng vẫn còn quá cao.

Một bình luận cho rằng Hà Nội sẽ làm đủ cách để vào TPP, rồi họ cũng sẽ hành xử tồi tệ như trước đây sau khi gia nhập WTO, BTA. Hiện nay công an không bắt giam nhưng họ đánh đập dã man những người hoạt động cho nhân quyền. Đại sứ thừa nhận có chuyện này, nhưng nhân quyền tại Việt Nam không thể đi lùi. Ông đã đón tiếp tại tư dinh một người chỉ vì muốn bảo vệ cây xanh Hà Nội và bị đánh. Chuyện đến nhà đại sứ Mỹ có thể nguy hiểm cho họ, và vài người bạn nữa cùng đến, nhưng anh nói không sợ, Đại sứ Osius kể lại.

Còn nếu một người hoạt động cho dân chủ nhân quyền và bị truy bức hay nguy hiểm đến tính mạng và chạy vào sứ quán Mỹ, ông đại sứ có cho tị nạn không? Ông Osius nói sứ quán sẽ liên lạc với Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc để giải quyết vấn đề.

Đại sứ Ted Osius nói ông là “Chief Human Rights Officer” và các nhân viên sứ quán đều là “Human Rights Officer” và đi đâu cũng mang trong túi tấm giấy nhỏ về những quyền căn bản để khi cần thảo luận với quan chức nhà nước Việt Nam.

Liệu Hoa Kỳ có kế hoạch giúp đưa đến sinh hoạt dân chủ, đa đảng tại Việt Nam, ông khẳng định: “Hoa Kỳ tôn trọng thể chế chính trị và không có ý định thay đổi chế độ tại Việt Nam.”

“Tôi không thể tiên đoán tương lai của Việt Nam. Tôi không thúc đẩy dân chủ nhưng tôi thúc đẩy cho quyền làm người của dân Việt.”

Ông đại sứ giải thích rằng ông muốn người Việt được hưởng những quyền ghi trong Hiến pháp 2013, những cam kết với quốc tế về quyền con người và giúp Việt Nam trở thành một quốc gia tôn trọng pháp quyền (rule of law).

Phía Hoa Kỳ đã góp ý với nhà nước Việt Nam trong việc sửa đổi một số điều luật dân sự và hình sự cho phù hợp với những công ước quốc tế đã ký. Quốc hội Việt Nam đang soạn thảo một bộ luật về tôn giáo và có tham khảo với Mỹ để có được một bộ luật cởi mở hơn.

Một người nêu lên trường hợp có cô em gái bị cấm xuất cảnh chỉ vì làm việc nấu bếp trong một ngôi chùa không thuộc giáo hội quốc doanh. Đại sứ Osius cho biết tình hình Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là rất khó khăn, ông và một số dân cử đã có dịp gặp Hoà thượng Thích Quảng Độ, hiện vẫn bị quản chế tại chùa.

  1. Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà và Bức Tường Đá Đen

Khách trong buổi thảo luận tại phòng họp của hội đồng thành phố San Jose (ảnh Bùi Văn Phú)

Nhiều người lên tiếng yêu cầu ông đại sứ quan tâm đến Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà và thương phế binh Việt Nam Cộng hoà. Khi được hỏi ông có dự định thăm nghĩa trang không, ông Osius nói chưa, nhưng không có nghĩa ông sẽ không thăm. Hiện ông có chiến lược là thực hiện việc đưa hài cốt của những người chết trong các trại học tập cải tạo về một nơi để gia đình họ có thể thăm viếng vì đó là một truyền thống Việt.

Theo lời đại sứ, nhiều người ở Quận Cam không thích nghe ông nói về hoà giải. Ông thừa nhận đây là việc khó khăn vì hoà giải đòi hỏi nỗ lực từ hai phiá.

Về hoà giải Mỹ-Việt, có người hỏi rằng trước nay đã có lãnh đạo Việt Nam nào đã đến thăm đài tưởng niệm chiến binh Hoa Kỳ hy sinh tại Việt Nam (Vietnam War Memorial) ở Thủ đô Washington chưa. Đại sứ Osius cho biết trong chuyến đi Mỹ vừa qua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông có đề nghị đến thăm đài tưởng niệm này, nhưng ông Trọng chọn thăm Đài Tưởng niệm Thomas Jefferson. Đại sứ Osius xem việc làm đó cũng có ý nghĩa vì Jefferson đã viết bản Tuyên ngôn Độc lập mà sau này Hồ Chí Minh đã dùng nhiều ý tưởng trong đó để viết Tuyên ngôn Độc lập cho Việt Nam.

Hỏi ông đã có thăm, chính thức hay không chính thức, Lăng Hồ Chí Minh? Đại sứ Osius cho biết khoảng hai mươi năm trước ông đã vào thăm, khi mới đến Việt Nam làm việc và Đại sứ Pete Peterson khi còn làm việc ở Hà Nội cũng đã vào thăm.

  1. Chuyện lá cờ vàng

Tham dự thảo luận có đại diện tổ chức cộng đồng, hội đoàn từ thiện, nhân quyền, tổ chức đấu tranh dân chủ và báo chí Việt ngữ trong vùng (ảnh Bùi Văn Phú)

Trong buổi tiếp xúc, có sự kiện một phụ nữ khi vào phòng họp đeo trên cổ một dây vải hình cờ Việt Nam Cộng hoà và đã bị nhân viên của Nghị viên Ash Kalra yêu cầu tháo ra. Bà cho đó là vi phạm nhân quyền của bà.

Đại sứ Osius trả lời: “Tôi tuyệt đối tôn trọng biểu tượng và lá cờ này. Bà mang trên người không có vấn đề gì hết. Cũng như những dân biểu mang biểu tượng đó.”

Rồi đại sứ giải thích, vì là một đại diện ngoại giao của Hoa Kỳ được ủy nhiệm làm việc tại Hà Nội, ông không thể “chụp hình mà phía sau hay trước bục diễn thuyết có lá cờ đó. Vì làm thế tôi sẽ không được trở lại Việt Nam làm việc được nữa. Vì vậy tôi đã yêu cầu không có treo cờ đó.”

  1. Xung đột Biển Đông

Nếu Trung Quốc xâm lăng, Hoa Kỳ sẽ có giúp Việt Nam? Đại sứ Mỹ nói chỉ một quốc gia không được thông minh mới đi xâm lăng Việt Nam. Ông dẫn chứng lịch sử Việt với Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lý Thái Tổ đã được đặt tên đường đều là những anh hùng chống lại Trung Quốc, trừ Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.

Theo lời đại sứ, Việt Nam ngày nay đang tìm mua những vũ khí phòng thủ từ Hoa Kỳ cũng như từ nhiều quốc gia khác để tự vệ nếu cần. Người Việt “tough” lắm, đó là nhận xét của Đại sứ Mỹ.

Về vấn đề Biển Đông, quan điểm của Hoa Kỳ là không ủng hộ nước nào và muốn giải quyết vấn đề theo công pháp quốc tế. Trung Quốc muốn giải quyết riêng với từng nước, Hoa Kỳ muốn các nước có tranh chấp với Trung Quốc đứng chung với nhau. Đại sứ Osius nhấn mạnh, từ 239 năm nay Hoa Kỳ đã bảo vệ quyền tự do lưu thông trên biển, trên không cho mình và cho các nước trên thế giới, vì thế Hoa Kỳ sẽ không để cho Trung Quốc ngăn cản lưu thông. Ông nói Hoa Kỳ và Việt Nam đồng quan điểm với nhau về vấn đề này.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Bùi Văn Phú

Tác giả dạy đại học cộng đồng và hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.

VN sẽ biến chuyển ra sao tiếp theo chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng?

Tổng thống Obama tiếp Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục của Toà Bạch Ốc, ngày 7/7/2015.

Tổng thống Obama tiếp Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục của Toà Bạch Ốc, ngày 7/7/2015.

Chuyến đi thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rõ ràng là một sự kiện rất quan trọng. Nhiều nhà bình luận chính trị đã thảo luận về ý nghĩa của sự kiện và các diễn biến, hậu quả có thể tiếp theo.

Nói chung có hai khuynh hướng suy đoán:

1) Chuyến đi “sẽ đặt nền tảng cho những biến chuyển sâu rộng sẽ diễn ra ở Việt Nam trong nhiều năm tới” (Alexander L. Vuving, BBC, đăng ngày 06-07-2015). Việt Nam sẽ nghiêng về phương Tây hơn, độc lập với Trung Quốc hơn và do đó có thể có những thay đổi có ý nghĩa về chính trị quốc gia.

2) Việt Nam cũng vẫn sẽ là đồng minh chí cốt với Trung Quốc, với nền chính trị quốc gia không có các thay đổi đáng kể.

Người viết bài này có một cái nhìn vấn đề từ góc độ truyền thống lịch sử của Việt Nam, và từ đó mà nghiêng về suy đoán rằng Việt Nam sẽ có những thay đổi rõ rệt và chủ động có ý nghĩ về chính trị quốc gia theo hướng dân chủ hóa xã hội.

Xin được trình bày để thảo luận.

PHẦN 1: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ VIỆT-TRUNG TRÊN LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI

Tinh Thần Chống Ngoại Xâm Mạnh Mẽ của Người Việt:

Việt Nam có truyền thống bốn ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm. Kể từ Thánh Gióng chống nhà Ân (mà tài liệu giáp cốt Trung Hoa còn ghi lại), sang Thục Phán chống Tần, rồi từ Hán cho tới Tống, Nguyên, Minh, Thanh, không đời nào Trung Hoa không xâm lăng Việt Nam. Do đó, lịch sử Việt Nam là bài học máu xương chống Trung Hoa xâm lược. Lịch sử và truyền thống đó tạo nên tính cách và tinh thần bảo vệ độc lập chống ngoại xâm rất mạnh mẽ của người Việt.

Pháp đến Việt Nam trễ (nửa sau thế kỉ XIX) và thiết lập nền đô hộ. Dù tính cách xâm lăng của Pháp khác với tính cách xâm lăng của các nhà Hán, Tấn, Đường xa xưa, và của nhà Minh gần đây hơn, thì Việt Nam cũng vẫn nằm dưới một nền đô hộ. Trong thời kỳ 1983-1954, Pháp phải đối phó với các cuộc kháng chiến liên tục và cuối cùng cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam năm 1954 mà không đem lại hậu quả tốt đẹp nào cho cả hai dân tộc.

Phải chăng tinh thần chống ngoại xâm quá mạnh mẽ đã khiến người Việt chọn biện pháp chiến tranh chống Pháp mà bỏ qua các biện pháp chính trị, ngoại giao?

Sau năm 1954, cục diện chính trị thế giới thay đổi. Chế độ thực dân lỗi thời hoàn toàn chấm dứt. Sự đối đầu và cạnh tranh của hai khối Tự do và Cộng sản trên thế giới tạo cơ hội rất lớn cho cả hai miền Việt Nam phát triển.

Thay vì nắm được thời cuộc mới, tạo môi trường hòa bình cho hai Miền phát triển lâu bền, rồi sau đó tùy theo sự xoay vần của thế cuộc mà tìm cách thống nhất hai Miền trong tinh thần bình đẳng, chấp nhận và tương trợ nhau, Việt Nam lại phạm sai lầm ghê gớm: Miền Bắc dựa vào Trung Hoa tiến đánh Miền Nam. Trong gần hai mươi năm, Việt Nam đã tự mình tàn phá cuộc sống hòa bình và phát triển của chính Việt Nam!

Phải chăng tinh thần chống ngoại xâm quá mạnh mẽ, vốn là điểm mạnh giúp Việt Nam tồn tại trước Trung Hoa, tới lúc này đã khiến đất nước trệch đường rây (derail), đi theo con đường thiếu sáng suốt?

Nguyên Nhân Khiến Việt Nam Chưa Phát Triển Như Mong Muốn và Tiềm Năng Cho Phép

Sau những tổn hại khủng khiếp, hòa bình và thống nhất cũng đến với Việt Nam năm 1975. Tuy nhiên, tại sao sau 40 năm hòa bình dưới chế độ toàn trị của những người Cộng sản Việt Nam, đất nước và dân tộc được thế giới công nhận là rất giàu tiềm năng này vẫn không phát triển được như mong muốn và tiềm năng cho phép?

Người viết nghĩ rằng do 3 nguyên nhân quan trọng:

1) Công cuộc giành độc lập đã buộc Việt Nam vào chính thể Cộng sản, một chính thể độc tài và toàn trị. Chính thể này không thích hợp để phát triển con người, xã hội và đất nước trong hòa bình và trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay. Nguyên nhân này đã có quá nhiều bài viết đề cập tới.

2) Cuộc chiến giành độc lập quá khốc liệt đã tàn phá tài nguyên, sinh mệnh của người Việt. Nó cũng tàn phá đạo đức, làm suy đồi phong hóa và đảo lộn các giá trị sống truyền thống và tốt đẹp của dân tộc, làm đứt mạch phát triển lâu dài…

3) Song song với cuộc chiến và sau đó, Trung Hoa Cộng sản, sau khi chiếm toàn bộ đại lục từ cuối những năm 1940, bắt đầu tiến hành các hoạt động ngăn cản sự phát triển và làm suy yếu Việt Nam, và vào giữa thập niên 1970 bắt đầu xâm chiếm Việt Nam. Trung Quốc là nước chống lưng chủ chốt cho Việt Nam trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975) rất tổn hại cho đất nước.

Càng về sau, áp lực của Trung Quốc càng mạnh và tai hại. Sau hòa bình năm 1975, Việt nam bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển cũng vì đó. Cuộc chiến biên giới Tây Nam (do Trung Quốc giật dây Khmer đỏ khơi mào) và biên giới phía Bắc (do Trung Quốc tấn công), việc Việt Nam vào WTO quá muộn màng… là các thí dụ rõ nét.

Trong ba nguyên nhân trên, nguyên nhân thứ ba lại nhập về với dòng chảy lịch sử dân tộc từ ngàn xưa và chưa bao giờ bị đứt đoạn: Trung Quốc là người láng giềng có dã tâm truyền kiếp xâm lấn và nô thuộc Việt Nam.

PHẦN 2: CÁC BÀI HỌC ĐẮT GIÁ CỦA VIỆT NAM

Các Bài Học Chính Từ Năm 1954 Tới Nay  

Có rất nhiều bài học, trong đó người viết nghĩ rằng ít nhất năm bài học dưới đây rất có ích lợi cho Việt Nam trong việc kiến tạo tương lai:

1) Bài học thứ nhất: Việt Nam đã sai lầm khi, do bị Pháp đô hộ 80 năm, quá chú ý tới phương Tây mà quên đi nguy cơ truyền thống to lớn và cận kề hơn rất nhiều. Sai lầm đó khiến Việt Nam đã quên rằng Trung Quốc là người láng giềng có dã tâm truyền kiếp xâm lấn và nô dịch Việt Nam. Chính giới cầm quyền Việt Nam, những người ủng hộ việc nương nhờ vào Trung Quốc, cũng đã từng nhắc nhở nhau về các bài học này:

a) Trung Quốc không bao giờ muốn Việt Nam giàu mạnh và thống nhất

b) Trung Quốc âm mưu đẩy Việt Nam vào nội chiến để đưa nguy cơ chiến tranh ra xa biên giới Trung Quốc

c) Khi Việt Nam suy kiệt và Trung Quốc hùng mạnh, họ sẵn sàng lấn chiếm đất đai và khống chế giới lãnh đạo Việt Nam.

2) Bài học thứ hai: Chiến tranh, dù vì mục tiêu gì, cũng gây tàn phá, hận thù, chia rẽ, cực đoan, mù quáng… Do đó dù thành công và đạt được mục đích bằng phương pháp bạo lực thì cái hại chung cuộc cũng lớn hơn cái lợi rất nhiều.

3) Bài học thứ ba: Chế độ độc tài toàn trị ngày càng bất lực trong việc  giải quyết các tệ nạn xã hội như tham nhũng, lợi ích nhóm; bất lực trước trách nhiệm xây dựng các giá trị sống tốt đẹp như bình đẳng, tôn trọng con người, trung thực…; và tổ chức xã hội xã hội văn minh, hữu hiệu. Chế độ độc tài toàn trị cũng không thể có sự ủng hộ và đoàn kết của toàn dân để bảo vệ nền tự chủ quốc gia.

4) Bài học thứ tư: Ý thức hệ, chủ nghĩa xã hội, chỉ là phương tiện phục vụ quyền lợi dân tộc (đối ngoại) hay quyền lợi phe nhóm (đối nội). Hội nghị Thành Đô là đỉnh cao của nhiều bài học cay đắng của Việt Nam trước Trung Quốc từ năm 1949 tới nay do quá bám vào ý thức hệ Cộng sản.

5) Bài học thứ năm: Liên minh với Mỹ, Nhật Bản, phương Tây… là các liên minh đem lại lợi ích cho Việt Nam. Việt Nam hùng mạnh phù hợp với lợi ích và mong muốn các nước này. Liên minh với Trung Quốc tiềm ẩn nguy cơ không lường. Bài học này được rút ra từ thực tế chính trị lẫn thực tế kinh doanh.

Năm bài học nói trên không chỉ lan truyền trong dân chúng, mà cả trong các đảng viên. Không chỉ đảng viên thường, cả một số ủy viên trung ương. Người viết tin rằng, cho dù vẫn còn bám vào chính thể độc đảng và toàn trị, vẫn còn tuyên truyền về mức độ thấp của dân trí để trì hoãn thực hiện dân chủ hóa đất nước, nhà cầm quyền đang cảm nhận được ảnh hưởng và áp lực của quần chúng ngày càng mạnh mẽ hơn từ mức độ ý thức của dân chúng về các bài học đã rút ra được trong thời gian qua. Mức độ ý thức đó, được truyền bá bởi tác dụng của công nghệ thông tin, tạo nên ý kiến công chúng (public opinion), và từ đó tạo nên các đòi hỏi công chúng. Các đòi hỏi này, nếu không được đáp ứng sẽ khơi mào cho các hành động công chúng, một khi vượt quá tầm kiểm soát, có thể gây hậu quả không lường.

Lòng Dân Việt Nam Muốn Gì? Quan Niệm Công Chúng Ra Sao?

Nước Việt Nam không có trưng cầu dân ý, không có báo chí tư nhân, không có tự do ngôn luận, dân chúng không có quyền biểu đạt ý kiến ra công cộng thông qua các hoạt động như hội họp đông người, biểu tình… cho nên khó mà có câu trả lời một cách có căn cứ cho các câu hỏi trên.

Tuy nhiên, không có các biện pháp thăm dò dư luận công khai và khoa học, người ta vẫn có cách trả lời về các vấn đề được quan tâm rộng rãi. Bằng cách la cà trong các giới người Việt, cả trong nước lẫn ngoài nước, cả trong giới làm việc trí óc lẫn làm việc chân tay, người viết xin báo lại như sau:

1) Chống Trung Quốc xâm lược là chủ đề hàng đầu. Các yêu cầu chính trong chủ đề này có:

a) Không để đất nước lệ thuộc vào Trung Quốc và, nếu thời cơ tới, phải đòi lại các đảo và lãnh thổ bị mất.

b) Bạch hóa hội nghị Thành Đô

c) Liên minh với Mỹ, Nhật… để tự vệ

d) Tự chủ về kinh tế với Trung Quốc (tham gia TPP là một cột mốc quan trọng)

2) Rời bỏ chủ nghĩa Cộng Sản và chính thể toàn trị là chủ đề được quan tâm thứ hai. Các yêu cầu chính trong chủ đề này có:

a) Thực hiện đa nguyên, đa đảng

b) Tổ chức đất nước theo chính thể cộng hòa, tam quyền phân lập

3) Đòi các quyền tự do căn bản của dân chúng. Các yêu cầu chính trong chủ đề này có:

a) Tự do ngôn luận, tự do lập hội, lập đảng, tự do ứng cử, bầu cử…

b) Thả tù nhân chính trị

3) Liên minh với Mỹ, Nhật Bản và các nước phương Tây. Các yêu cầu chính trong chủ đề này có:

a) Thiết lập đối tác chiến lược với Mỹ

b) Gia nhập TPP

Trong tinh thần cầu thị và mong muốn tiếp cận sự thật tốt nhất, người viết kính xin quí độc giả có sự quan tâm kiểm chứng giùm.

PHẦN 3: THẾ GIỚI VỚI VIỆT NAM

Biến Thiên Của Quan Hệ Mỹ-Trung-Việt Từ Năm 1973 Tới Nay

Cuối năm 1973 Hạm đội 7 Mỹ đứng yên nhìn Trung Quốc tiến chiếm một số đảo Hoàng Sa của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam). Lúc đó, Mỹ đã chuyển chiến lược ngăn làn sóng đỏ, từ hỗ trợ Miền Nam bảo vệ chế độ Tự do sang bắt tay với Trung Quốc chống Liên Xô.

Năm 1977, Mỹ muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam thống nhất, nhưng thương thuyết không thành. Lúc đó Việt Nam đang buộc chặt mình với Liên Xô, tỏ thái độ thù địch với cả Mỹ lẫn Trung Quốc.

Năm 1988, Trung Quốc chiếm thêm một số đảo của Việt Nam. Mỹ bắt đầu cảnh giác. Tuy nhiên hai năm sau đó, khi hệ thống Cộng sản sụp đổ trên toàn bộ Đông Âu, Việt Nam lại càng tỏ thái độ thù địch hơn với Mỹ và thắt chặt liên kết với Trung Quốc, bất chấp việc nước này đang lấn chiếm lãnh thổ của mình.

Trong khi tự tin hơn về sức mạnh kinh tế, Trung Quốc càng tỏ thái độ thách thức và sẵn sàng đối đầu trên Biển Đông. Các thách thức được thể hiện rõ rệt đối với Philipines, Việt Nam cùng một số nước trong ASEAN, đối với cả Nhật Bản và Mỹ, tới mức độ có nguy cơ va chạm trên biển và trên không. Cùng với mức độ bồi đắp biến bãi chìm thành đảo nổi, Trung Quốc càng gia tăng mức độ thô bạo và ngang ngược của hành vi bạo lực, chà đạp lên luật pháp và chuẩn mực ứng xử quốc tế, nhằm xác định chủ quyền mà họ tuyên bố không ai có thể tranh cãi.

Cách thể hiện quyết tâm độc quyền kiểm soát Biển Đông của Trung Quốc đã vượt quá mức chấp nhận của Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc…, các nước có quyền lợi trong việc giữ con đường vận chuyển Biển Đông không thuộc về một quốc gia riêng nào. Cộng hưởng với thái độ hung hăng trong tranh chấp đảo với Nhật Bản, các hành vi này của Trung Quốc đã đẩy các cường quốc còn lại liên minh chặt chẽ hơn với Mỹ và ủng hộ chính sách xoay trục của siêu cường này sang châu Á. Các nước ASEAN cũng bày tỏ ủng hộ.

Việt Nam, nước có nhiều đảo bị Trung Quốc lấn chiếm, cần sự hiện diện của Mỹ tại Biển Đông để ngăn cản Trung Quốc. Mỹ thì thấy vị trí địa chính trị và địa quân sự của Việt Nam mang lại lợi ích quan trọng cho chính sách xoay trục sang châu Á của họ, trong đó Biển Đông là một điểm chiến lược. Vậy là, trong vòng 4 năm trở lại đây, quan hệ Mỹ-Việt phát triển nhanh chóng làm ngạc nhiên nhiều nhà quan sát.

Quyền Lợi Của Việt Nam Trong Mâu Thuẫn Mỹ-Trung Trên Biển Đông?

Mâu thuẫn Mỹ-Trung, bất chấp mức độ hợp tác to lớn giữa hai bên, đang ngày càng sâu sắc trên nhiều khía cạnh và trên nhiều khu vực  địa lí. Bài viết này chỉ đề cập tới Biển Đông, khu vực địa lí mà Việt Nam nằm trấn ở rìa Tây trải dài hơn hai ngàn cây số với nhiều hải đảo.

Mâu thuẫn Mỹ-Trung thực chất là mâu thuẫn của các quốc gia tìm thấy ích lợi trong việc giữ con đường vận chuyển Biển Đông được quốc tế hóa (Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, châu Âu…) với Trung Quốc, nước muốn độc quyền khống chế Biển Đông.

Mỹ và các nước này thực tâm muốn góp sức cùng nhân dân Việt Nam xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và văn minh, góp phần giữ tuyến hàng hải Biển Đông quốc tế hóa. Điều này phù hợp với lợi ích của họ. Để có một nền kinh tế mạnh mẽ hơn, một nền quốc phòng mạnh mẽ hơn, Việt Nam cần có một xã hội cởi mở, dân chủ, và đa chiều về tư tưởng hơn, trong đó người dân có những quyền tự do căn bản, nghĩa là một xã hội ngày càng khai phóng, có cách tổ chức phù hợp hơn với đa số các nước văn minh. Điều này rõ ràng phù hợp với lợi ích phát triển lâu dài, bền vững của Việt Nam.

Dân chúng Việt Nam, dù còn sống dưới thể chế độc tài và toàn trị của đảng Cộng sản Việt Nam, ý thức được điều này. Số đông các đảng viên cũng ý thức và nghiêng về ủng hộ khuynh hướng dân chủ hóa đất nước. Áp lực của dân chúng và đảng viên ủng hộ khuynh hướng dân chủ hóa đang ngày càng tăng trên bộ máy lãnh đạo trung ương của đảng. Hơn nữa, thế lực chống lưng cho đảng CSVN thống trị đất nước là đảng Cộng Sản Trung Quốc, thế lực này ngày càng hống hách và lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam. Sự lấn chiếm đầy tính bành trướng bá quyền này đã đẩy lòng phẫn uất của dân chúng Việt Nam lên cao ngất, và đẩy đảng CSVN vào thế rất nguy hiểm. Nếu đảng CSVN còn tôn sùng Trung Quốc như người thầy, người anh của “16 chữ vàng” và “4 tốt” thì đảng đã công khai chống lại tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam và đi ngược lại truyền thống của ngàn năm sử Việt.

Người viết tin rằng ban lãnh đạo trung ương đảng CSVN không dám gánh vác một trách nhiệm quá nặng như thế. Các bước đi của đảng hiện nay cho thấy đảng đang cố gắng trì hoãn việc dân chủ hóa để kéo dài thời gian thống trị, chứ không phải sống chết ngăn cản dân chủ hóa. Bởi vì đảng CSVN biết rằng họ không thể ngăn nổi bánh xe lịch sử tiến lên, và lịch sử tồn tại của đảng CSVN từng cho thấy tính thực dụng của đảng không thấp chút nào.

KẾT LUẬN

Việc nghiêng trục ngoại giao về phương Tây trong khi vẫn giữ cân bằng thích hợp với Trung Quốc mang tới các lợi ích cho cả sự phát triển của tổ quốc Việt Nam nói chung và cho sự tiếp tục cầm quyền của đảng CSVN. “Cân bằng thích hợp” với Trung Quốc có nghĩa hợp tác đôi bên cùng có lợi với Trung Quốc và không bao hàm Việt Nam phải tự giam trong vòng chính thể độc tài Cộng sản. Đó là lí do khiến người viết tin rằng chính sách ngoại giao của Việt Nam sẽ nghiêng hơn về Mỹ và phương Tây nói chung sau chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tất nhiên, để chuẩn bị cho việc “chuyển trục” đó, sẽ có các động thái phù hợp tiến về hướng dân chủ hóa, về hướng thực thi nhân quyền… Và theo đà nghiêng của trục ngoại giao thì các động thái này ngày càng được khẳng định và thúc đẩy nhanh hơn. Trong một chế độ độc tài, một bước tiến về dân chủ là một bước khó có thể lùi lại. Sự tích tụ của nhiều bước như vậy sẽ có tác dụng chuyển đổi cả xã hội theo qui luật “lượng biến thành chất”. Lúc đó, đảng CSVN cũng đồng thuận và đồng ý với chuyển đổi này vì nói cho cùng nó cũng mang lại lợi ích cho từng cá nhân trong đảng. Đó là các biến chuyển của xã hội Việt Nam mà người viết nhìn thấy trong những năm tới.

Sự biến chuyển này là cả một quá trình. Độ lớn của góc nghiêng và vận tốc nghiêng tùy vào khả năng thực thi của nhà cầm quyền Việt Nam để tối đa hóa lợi ích của đảng và của đất nước, và tối thiểu hóa rủi ro do phản ứng của Trung Quốc và/hay của dân chúng trong nước.

Phải chăng đó là nguyên nhân khiến các tuyên bố sau chuyến đi, dù đẹp đẽ, có nhiều phần về nguyên tắc, về thành ý, về hi vọng cho tương lai, mà ít phần về các việc cụ thể cần triển khai, và do đó khiến một số nhà quan sát nhận định rằng chuyến đi “đã không đem lại thành quả cụ thể nào trên thực tế”? (Thiện Ý, VOA Tiếng Việt, ngày 15/7/2015)

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


Trần Phan

Trần Phan từng làm việc tại Việt Nam, châu Âu và châu Mỹ. Trước đây làm việc nhiều năm tại Procter & Gamble (Mỹ), Hoffman La Roche (Thụy Sĩ) ở vị trí quản lý. Hiện đã nghỉ làm việc cho các công ty đó.

Thủ tướng VN thay chủ tịch Petrovietnam

 
Ông Nguyễn Xuân Sơn công tác tại ngành Dầu khí Việt Nam từ năm 1984, tại Vụ Tài chính kế toán thuộc PVN, phó Tổng giám đốc PVN phụ trách các lĩnh vực tài chính kế toán, kế hoạch chiến lược; Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương (Ocean Bank)

Thủ tướng Dũng quyết định thôi để Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) giữ ghế mà ông mới nắm khoảng một năm.

Truyền thông tại Việt Nam đưa tin ông Nguyễn Xuân Sơn thôi giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN để nhận nhiệm vụ tại Bộ Công Thương theo điều được mô tả là đề nghị từ bộ này và bộ nội vụ.

Quyết định này có hiệu lực từ ngày 19/07 và Thủ tướng Chính phủ cũng đồng ý với đề nghị của Bộ Công Thương và Bộ Nội vụ về việc: Giao ông Nguyễn Quốc Khánh, Tổng Giám đốc PVN (được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc PVN từ tháng 11/2014), tạm thời kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN, theo truyền thông trong nước.

Ông Nguyễn Quốc Khánh sinh năm 1960 tại Hà Tĩnh, từng là Tổng giám đốc Tổng công ty Dầu Việt Nam PV Oil.

“Ông Nguyễn Xuân Sơn công tác tại ngành Dầu khí Việt Nam từ năm 1984, tại Vụ Tài chính kế toán thuộc PVN.

“Trước khi giữ chức Chủ tịch PVN, ông Nguyễn Xuân Sơn từng làm phó Tổng giám đốc PVN phụ trách các lĩnh vực tài chính kế toán, kế hoạch chiến lược; Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương (Ocean Bank),” Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin.

Một nhà quan sát tại Hà Nội muốn ẩn danh nói với BBC không loại trừ khả năng quyết định thay nhân sự có thể xem là đột ngột này có liên quan tới hoạt động điều tra Ngân hàng Đại Dương nơi ông Nguyễn Xuân Sơn từng lãnh đạo.

Ông Sơn từng lãnh đạo Ngân hàng Đại dương (Oceanbank) nơi doanh nhân Hà Văn Thắm, cựu lãnh đạo (trong ảnh) đang bị giam để phục vụ điều tra các cáo buộc về bê bối kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hôm 8/5 chính thức công bố quyết định chuyển đổi mô hình hoạt động của Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) theo đó chuyển từ hình thức ngân hàng thương mại cổ phần thành ngân hàng TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Hôm 25/4 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam loan báo sẽ mua lại Ngân hàng Đại Dương (OceanBank) với giá 0 đồng sau cuộc họp Đại hội cổ đông thường niên của OceanBank ngày 25/4.

Sau khi nguyên Chủ tịch OceanBank Hà Văn Thắm bị bắt vào tháng 10 năm ngoái, OceanBank đã liên tiếp thay lãnh đạo.

Ông Thắm bị khởi tố và bắt tạm giam (tính đến nay đã khoảng 7 tháng) vì tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

Đến tháng 12, 2014 một phó Tổng Giám đốc ngân hàng này cũng bị khởi tố và bắt giam để điều tra.

Sau khi ông Thắm bị bắt, trên mạng internet xuất hiện một số đoạn băng ghi âm.

Những người tung clip ghi âm lên một trang mạng có tên “Chân dung quyền lực” đã mô tả đây là những cuộc hội thoại của ông Thắm khi ông trao đổi việc làm ăn với các “nhóm lợi ích”.

Người bị ghi âm, trong các đoạn băng, đã đề cập tới tên của một số vị lãnh đạo cao nhất tại Việt Nam.

Trang “chân dung quyền lực”, vốn có nhiều thông tin nhạy cảm về chính trị, đã không cập nhật thông tin từ giữa tháng Một năm 2015 và không hề bị chặn tại Việt Nam.

Chuyển hướng quan hệ Mỹ – Việt và dân chủ

Hoa Kỳ và Việt Nam đang điều chỉnh quan hệ, ‘gạt bỏ khác biệt’ để mở đường cho phối hợp ‘lợi ích chung’ chiến lược giữa hai bên.

Việc Hoa Kỳ đang điều chỉnh quan hệ song phương Mỹ – Việt không hề thay đổi tới việc cường quốc này tiếp tục duy trì những giá trị lâu nay đã đại diện cho họ là ‘dân chủ’ và ‘nhân quyền’, theo một luật sư nhân quyền từ Hà Nội.

Trong khi đó, theo một nhà báo, blogger độc lập từ Đà nẵng, dù đang diễn ra chuyển hướng quan hệ Mỹ – Việt, những đòi hỏi về dân chủ hóa và đảm bào các quyền con người ở Việt Nam sẽ không bao giờ là ‘lạc hậu’.

Trao đổi với BBC Việt ngữ hôm 19/7/2015, Luật sư Lê Quốc Quân nói:

“Nước Mỹ theo đuổi và nước Mỹ chia sẻ những giá trị đó với toàn thế giới, theo quan điểm của tôi.

“Nhưng tùy từng giai đoạn và tùy từng mục đích, thì có thể người ta thực hiện những phương pháp và những biện pháp khác nhau.

“Chứ nói chuyện rằng cắt bỏ những giá trị đó là không có và ngược lại phía Việt Nam cũng vậy.

“Việt Nam cũng có rất nhiều người trong chính phủ Việt Nam đã và đang mong muốn có tốt đẹp hơn về dân chủ và nhân quyền. Bởi đó là những giá trị tốt đẹp.

“Cho nên dù những người dù là cộng sản, hay những người dữ dội hay có nói là hà khắc bao nhiêu, thì họ cũng phải hướng đến những giá trị tốt đẹp, kể cả những người xấu.

“Hay là những người mà đang đấu tranh thì cũng hướng đến những giá trị đó và nước Mỹ chia sẻ giá trị đó ở toàn cầu.

LeQuoc Quan

“Cho nên tôi không nghĩ rằng (các giá trị dân chủ, nhân quyền) sẽ bị cắt bỏ hay bị không đưa vào bất cứ chương trình gì nữa cả,” từ Hà Nội, Luật sư Quân nói.

Trước câu hỏi liệu bên cạnh việc đề nghị chính quyền Việt Nam thả hết những người được cho là các ‘tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm’ ra, Hoa Kỳ có nên tiếp tục nhắc nhở Việt Nam thúc đẩy tiến trình ‘dân chủ hóa và đảm bảo nhân quyền’ hay không, ông Quân nói:

“Tôi nghĩ là đã có, đang có và sẽ có. Tôi cực kỳ lạc quan vào tất cả mọi chuyện ở Việt Nam.”

‘Mãi mãi là khát khao’

Còn từ Đà Nẵng, khi được hỏi liệu trong tình hình bang giao Mỹ – Việt có những diễn biến mới, liệu việc nhắc tới ‘dân chủ và nhân quyền’ hiện nay ở Việt Nam có bị ‘lạc hậu’ hay là không, nhà báo tự do Trương Duy Nhất nêu quan điểm:

truong_duy_nhat

“Không, không lỗi thời. Bởi vì ở một thể chế này thì tự do ngôn luận, tự do báo chí, Việt Nam vẫn chưa cho phép thành lập báo chí tư nhân, thì cái khát vọng đó, tự do ngôn luận, tự do báo chí, vẫn còn là một hạn chế.

“Thì khát khao cởi mở đó mãi mãi là khát khao,” blogger này nói.

Gần đây, sau chuyến thăm Mỹ của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng, có ý kiến cho rằng tiến trình dân chủ hóa và các phong trào vận động dân chủ nhân quyền ở Việt Nam sẽ bị tác động do áp lực quốc tế, trong đó có Hoa Kỳ sẽ bị giảm đi vì các ‘nhân nhượng chính trị’.

Về điểm này, nhà báo Trương Duy Nhất nêu quan điểm: “Thực tế cái áp lực phía các nước ngoài, thậm chí là các nước lớn đối trọng, ví dụ như Mỹ và các quốc gia khác, theo tôi chỉ là một khía cạnh thôi.

“Chứ không phải tất cả, nó còn cái nội lực, còn những phong trào, những sự từ nội tại trong nước. Ví dụ như tôi và những lực lượng tự nội tại trong nước, cái đó mới quan trọng.

truong_duy_nhat

“Tất nhiên chúng tôi không xem nhẹ những sự tác động từ bên ngoài, nhưng tác động từ chính bên trong, từ nội tại của đất nước mới quan trọng hơn,” ông Trương Duy Nhất nói.

Nhà báo tự do, blogger Trương Duy Nhất, chủ trang blog ‘Một góc nhìn khác’, vừa ra tù ngày 26/5/2015, sau khi thi hành xong bản án 2 năm tù giam theo Điều 258 Bộ Luật Hình của Việt Nam.

Còn luật sư bất đồng chính kiến và nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền Lê Quốc Quân được trả tự do ngày 27/6/2015, sau khi mãn hạn tù 30 tháng, do bị cáo buộc mắc “tội trốn thuế”.

Cả hai ông đều bác bỏ các bản án và cho rằng các ông vô tội.

Vì sao cuộc gặp Mỹ – Việt mang tính lịch sử?

Một chuyên gia lâu năm về chính trị Việt Nam nhận định có tám lý do để gọi chuyến thăm Mỹ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là mang tính lịch sử.

Viết trên trang The Diplomat, giáo sư người Úc Carl Thayer nói việc Tổng thống Obama tiếp ông Trọng trong Phòng Bầu dục tại Nhà Trắng chứng tỏ Mỹ trên thực tế công nhận vai trò của Đảng Cộng sản trong nhà nước một đảng ở Việt Nam, và tầm quan trọng của chức vụ tổng bí thư trong hệ thống chính trị Việt Nam.

Nếu Tổng thống Obama thăm Hà Nội trước khi mãn nhiệm, điều này sẽ càng chứng tỏ Mỹ tôn trọng hệ thống chính trị Việt Nam. Chuyến thăm Mỹ của ông Trọng cũng đặt tiền lệ cho những chuyến thăm sau này của người nắm chức lãnh đạo Đảng Cộng sản.

Lý do thứ hai, tuyên bố chung hai phía nói “cả hai nước khẳng định tiếp tục theo đuổi một mối quan hệ sâu sắc, lâu bền và thực chất trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hiệp quốc, luật pháp quốc tế, và hệ thống chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Theo ông Carl Thayer, các nhân vật “bảo thủ về ý thức hệ” tại Việt Nam lâu nay vẫn nghi ngờ Mỹ định lật đổ chế độ tại Việt Nam. Nhưng sau khi ông Trọng được Obama đón tiếp, và Mỹ khẳng định tôn trọng hệ thống chính trị Việt Nam, điều này “chứng tỏ cái nhìn thế giới lạc hậu của các nhân vật bảo thủ ý thức hệ của Việt Nam”.

Thứ ba, hai nhà lãnh đạo cam kết thúc đẩy thỏa thuận quan hệ đối tác toàn diện năm 2013 bằng việc tăng cường các chuyến thăm cao cấp, tạo cơ chế thi hành hợp tác trong chín lĩnh vực đã đề ra năm 2013. Hôm 7/7, Việt Nam và Mỹ đã ký 4 thỏa thuận, bao gồm việc Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hỗ trợ nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, hợp tác giải quyết các mối đe dọa đại dịch và hỗ trợ kỹ thuật cho vấn đề an toàn hàng không.

PetroVietnam và Murphy Oil cũng đã ký thỏa thuận hợp tác chung, Đại học Harvard được nhận quyền thiết lập trường Fulbright ở Việt Nam và Việt Nam nhận chiếc máy bay Boeing 787 Dreamliner đầu tiên.

Thứ tư, hai bên cam kết hợp tác với các quốc gia khác để hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và thực thi cải tổ cần thiết để đạt được thỏa thuận.

Thứ năm, hai bên cam kết cùng hợp tác để đóng góp vào hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương ở cả song phương và đa phương, thông qua các tổ chức khu vực như APEC, ASEAN, hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN cộng và hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.

null

Thứ sáu, hai bên đã đặt ra cơ sở để giải quyết vấn đề căng thẳng trên Biển Đông. Tuyên bố chung giữa hai nước nhắc lại lập trường hai bên, rằng tranh chấp hàng hải cần phải được giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế và hòa bình.

Tuy vậy, lãnh đạo hai nước cũng nói: “Cả hai nước đều quan ngại về những diễn biến mới đây ở Biển Đông đã làm gia tăng căng thẳng, xói mòn lòng tin, và đe doạ phá hoại hoà bình, an ninh và ổn định. Hai bên công nhận sự cấp bách của việc duy trì các quyền tự do hàng hải và hàng không bên trên vùng biển được quốc tế công nhận; thương mại hợp pháp không bị cản trở, an ninh và an toàn hàng hải; kiềm chế các hành động làm tăng căng thẳng; bảo đảm rằng mọi hành động và hoạt động được tiến hành tuân thủ luật pháp quốc tế; và bác bỏ sự cưỡng ép, đe doạ, và sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực.”

Theo giáo sư Carl Thayer, điều này chứng tỏ “sự trùng hợp lợi ích chiến lược đáng kể liên quan Biển Đông”.

Thứ bảy, ông Obama và ông Trọng đồng ý tăng cường mối quan hệ hợp tác về an ninh và quốc tế trên phương diện an ninh hàng hải, nhận thức về an ninh hàng hải, thương mại quốc phòng và trao đổi công nghệ quốc phòng.

Việt Nam chưa nói rõ quan tâm đến vũ khí và công nghệ nào của Mỹ một khi lệnh cấm bán vũ khí của Mỹ chưa được dỡ bỏ hoàn toàn. Tuy vậy, Mỹ khẳng định sẽ chỉ tập trung nâng cao an ninh hàng hải cho Việt Nam và năng lực của lực lượng Cảnh sát biển.

Thứ tám, hai nhà lãnh đạo cũng công nhận những khó khăn và thách thức trong mối quan hệ song phương, gồm nhân quyền và công nhận là nền kinh tế thị trường, và cam kết đối thoại tích cực, thẳng thắn trên cơ sở xây dựng để giảm bớt sự khác biệt và xây dựng lòng tin.

Chuyến đi Mỹ của ông Trọng ‘vẫn còn giới hạn’

Hai nhà lãnh đạo nói đã có cuộc trao đổi thẳng thắn và cởi mở.

Một nhà báo nước ngoài nhận định rằng chuyến đi của Tổng Bí thư ĐCSVN chưa có tính cột mốc lớn như một số người nhận định.

Trong bài “ Những giới hạn trong quan hệ Mỹ Việt từ chuyến đi của Lãnh đạo Đảng Cộng sản”, nhà báo Shawn W. Crispin mở đầu nói về những hàng tít trên truyền thông nói chung cho rằng đây là chuyến đi cột mốc lịch sử làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa hai nước cựu thù.

Tuy nhiên “ngoài những cử chỉ ngoại giao, ông Trọng trở về Hà Nội mang theo nhượng bộ quân sự chưa đáng kể tại một thời điểm Việt Nam đang có nhu cầu chiến lược.”

Theo tác giả, hai bên chưa đạt được tiến bộ trong việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vận vũ khí sát thương mà Washington vẫn áp đặt do thực trạng nhân quyền tồi tệ của Hà Nội.

Giới phân tích trước đó dự kiến việc gỡ bỏ lệnh cấm vận là tiêu điểm trong nghị trình họp và có thể thậm chí được tuyên bố trong chuyến thăm Mỹ của ông Trọng.

Tuy nhiên các thỏa thuận từ cuộc họp thúc đẩy hơn nữa cho “quan hệ đối tác toàn diện” hiện vẫn mang tính biểu tượng vốn được hai bên ký từ năm 2013.

Về mặt quân sự, hai bên đã thống nhất một bản ghi nhớ mở đường cho việc hợp tác để Việt Nam

tham nullgia vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc trong tương lai.

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter thăm Việt Nam hồi tháng Sáu năm nay.

Tác giả cho biết báo New York Times đưa tin về thỏa thuận chưa thật rõ ràng về “khả năng cùng sản xuất” các thiết bị và công nghệ quốc phòng mà hai bên không công bố chi tiết, cũng như tăng cường các hoạt động hải quân chung nhiều hơn nữa.

Thông cáo của Nhà Trắng cho biết hai bên đang lo ngại về diễn biến gần đây ở Biển Đông, nhưng thừa nhận cần “kiềm chế những hành động đó sẽ làm căng thẳng” và bác bỏ các hành động “lấn lướt, đe dọa, và sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.”

“Các thỏa thuận quốc phòng công bố trong chuyến thăm của ông Trọng sẽ không tăng cường đáng kể việc phô trương sức mạnh hoặc năng lực răn đe của Việt Nam trong bối cảnh ngày càng có nhiều tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc,” tác giả nhận định.

“Người ta tin rằng Hà Nội rất muốn có phi cơ do thám P-3 Orion do Mỹ chế tạo, máy bay không người lái và tàu tuần tra cao tốc có gắn súng để đối phó với Trung Quốc – mà những hạng mục này vẫn còn còn bị cấm mua theo lệnh cấm bán vũ khí hiện nay của Hoa Kỳ.”

Một bài báo gần đây của Reuters trích dẫn “nguồn tin trong ngành” nói Việt Nam đang thảo luận với chi nhánh quốc phòng của công ty Saab của Thụy Điện, hãng Airbus, và Boeing của Mỹ để mua máy

bay pnullhản lực, máy bay tuần tra và bay không người lái không gắn vũ khí.

Nhân quyền vẫn là chủ đề hai bên chưa khai thông được những bất đồng chính.

Việc duy trì lệnh cấm bán vũ khí cho Hà Nội một phần là do thực trạng nhân quyền của Hà Nội với ít nhất 150 tù nhân chính trị, theo Human Rights Watch mà nhiều người trong số này là những nhà hoạt động bị kết án về tội chống nhà nước khi biểu tình chống lại sự bành trướng của Trung Quốc.

Ông Obama nói với các phóng viên, ông đã thảo luận “thẳng thắn” với ông Trọng về các chủ đề nhân quyền, nhưng không có dấu hiệu đột phá.

Cuộc gặp giữa ông Trọng và ông Obama cũng không xúc tiến thêm được lời kêu gọi của Mỹ cho tiếp cận ưu đãi cảng biển nước sâu của Việt Nam tại Vịnh Cam Ranh.

Theo tác giả, với lệnh cấm bán vũ khí của Hoa Kỳ vẫn y nguyên, Việt Nam sẽ tiếp tục dựa vào đồng minh tử kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh là Nga trên phương diện phòng thủ, với sáu tàu ngầm lớp Kilo do Nga chế tạo, được cho là đội tàu ngầm tiên tiến nhất ở Đông Nam Á.

“Trong khi Việt Nam có thể mong muốn nâng cấp từ vũ khí Nga lên vũ khí Mỹ, chuyến thăm mang tính biểu tượng của ông Trọng cho thấy vẫn còn chướng ngại vật khó vượt trong một mối quan hệ chiến lược thực sự đầy đủ và toàn diện,” tác giả kết luận.

Shawn W. Crispin là nhà báo viết cho mục bình luận về Đông Nam Á của tạp chí The Diplomat, từng là Đại diện cho tạp chí The Far Eastern Economic Review và Wall Street Journal (Châu Á) tại Bangkok, Thái Lan.

Ý kiến: ‘Cần hòa giải với người chết’

 

Chính sách đối xử kỳ thị rõ rệt nhất, trái ngược với hòa giải thật sự, là trường hợp Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa (NTBH), nơi chôn cất trên 16,000 tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã bỏ mình trong cuộc nội chiến vì mâu thuẫn ý thức hệ.

Ngay sau khi đất nước thống nhất, nghĩa trang này được Bộ Quốc phòng giao cho Quân khu 7 quản lý. Bức tượng “Thương Tiếc” cao 5m khắc họa một quân nhân ngồi tưởng niệm tử sĩ đặt trên bệ ở ngoài cổng nghỉa trang bị hạ xuống và đem đi mất tích. Nghĩa trang bị thâu hẹp diện tích và rào kín thành cấm địa, dân chúng không được vào thăm viếng. Một số bia mộ bị quân đội nhân dân dùng làm bia tập bắn. Sau nhiều năm, hàng ngàn ngôi mộ bị sụp lở, đất đai bỏ hoang cho cây cỏ và dây leo mọc bừa bãi, cảnh tượng trông rất thê lương.

Năm 2003, nhân dịp phái đoàn ngoại giao do Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin cầm đầu sang Mỹ công tác, một buổi tiếp xúc giữa phái đoàn với một số trí thức người Mỹ gốc Việt thuộc cả hai thế hệ đã diễn ra tại trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Johns Hopkins, Washington DC, để trao đổi về những vấn đề cùng quan tâm.

Buổi họp do khoa học gia NASA Trương Hồng Sơn làm điều hợp viên. Khi những trở ngại cho vấn đề hòa giải được đề cập thì Phạm Đức Trung Kiên, một trí thức trẻ khi đó là Giám đốc Quỹ Giáo dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation) do Quốc Hội Mỹ thành lập, nêu ý kiến là chuyện hòa giải giữa những người sống vẫn còn quá nhạy cảm, vậy hãy nên bắt đầu bằng hòa giải với những người đã khuất. Anh Kiên nảy ra ý kiến này vì chợt nghĩ đến kinh nghiệm bản thân trong chuyến đi Việt Nam công tác mới về. Anh cùng một người bà con ở Saigon thuê xe đi thăm mộ một người thân ở Nghĩa trang Biên Hòa.

Tới nơi, thấy nghĩa trang bị rào kín nhưng có một chỗ hổng đủ rộng cho hai người chui vào. Trong lúc đang tìm kiếm vị trí ngôi mộ thì bỗng nghe tiếng quát tháo của lính canh. Hai người hoảng hốt chui ra và lên xe chạy mất. Cuộc thảo luận sau đó dẫn đến đề nghị cụ thể của đa số là chính phủ đứng ra trùng tu hay cho phép tư nhân trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa, hay tối thiểu cũng mở Nghĩa trang cho thân nhân tử sĩ được vào thăm, sửa sang hay xây cất lại mộ phần. Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin cho biết đây là khu quân sự đang được đặt dưới quyền cai quản của Quân khu 7. Ông ghi nhận đề nghị của anh Kiên và hứa sẽ đạo đạt nguyện vọng của hội nghị tới các cơ quan có thẩm quyền.

Trên đường về nước sau buổi họp này, ông Nguyễn Đình Bin đã ghé California gặp cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ, và ông Kỳ cũng nêu lên vấn đề NTBH với ông Bin. Như đã thấy, thiện chí hòa giải của ông Kỳ qua việc xây cất lại tượng đài và làm lễ cầu siêu chung cho tử sĩ cả hai bên đã không được chính phủ Việt Nam chấp thuận.

Đề nghị thực tế và khiêm tốn hơn của nhóm trí thức ở Washington DC cũng phải đợi đến năm 2007, sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định 1568/QĐ-TTg ngày 27.11.2006 “dân sự hóa” NTBH, mới được chính quyền địa phương giải quyết một cách hạn chế và tùy tiện. Sau khi Quân khu 7 trao quyền quản lý NTBH cho Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương, nghĩa trang này được đổi tên thành “Nghĩa trang Nhân dân Bình An”.

Đến đây, cần phải nhắc đến sự giúp đỡ thầm lặng nhưng rất quan trọng của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Trong dịp găp ông Kiệt lần đầu tiên vào tháng Ba 2007 để thảo luận khả năng thành lập một “think tank” độc lập ở Việt Nam với sự hợp tác của một số trí thức ở trong và ngoài nước, tôi đã nhắc đến đề nghị “hòa giải với người chết” do Phạm Đức Trung Kiên nêu lên với phái đoàn Nguyễn Đình Bin từ gần bốn năm trước. Tôi nhấn mạnh rằng đề nghị này có được thi hành thì trí thức, chuyên gia người Việt ở nước ngoài mới sẵn sàng đóng góp tài năng vào các dự án phát triển đất nước.

Ông Kiệt hoàn toàn tán thành ý kiến của tôi. Ông cũng cho tôi hay là có một nhóm cựu quân nhân VNCH vừa tìm đến ông xin giúp họ được phép tìm mộ những tù cải tạo đã chết trong các trại giam để bốc mộ và trao trả hài cốt cho thân nhân đưa về cải táng ở quê quán hay đưa vào yên nghỉ trong Nghĩa trang Biên Hòa. Ông đã nhận lời giới thiệu nhóm này với những địa phương có trại tù cải tạo để có thể thực hiện công tác thuần túy nhân đạo này.

Về vấn đề trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa, ông Kiệt sẽ quan hệ với chính quyền tỉnh Bình Dương để lấy them thông tin và tìm cách giải quyết trong tinh thần hòa giải. Khi thấy tôi lo ngại về mục đích dân sự hóa Nghĩa trang Biên Hòa, theo quyết định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là “để phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Bình Dương” thì ông Kiệt quả quyết với tôi là phần đất của nghĩa trang sẽ được giữ nguyên vẹn. Tuy nhiên, ông đồng ý khi tôi phát biểu là nếu Nghĩa trang Biên Hòa không được sửa sang và duy trì như một di tích lịch sử ở miền Nam thì dự án “think tank” khó có thể được trí thức ở nước ngoài tham gia như mong đợi.

Ông sẽ thu xếp cho tôi đi gặp lãnh đạo tỉnh Bình Dương để có thông tin đầy đủ và xác định những trở ngại cần phải vượt qua. Với những kết quả đã đạt được khi ông còn sống, tôi có thể khẳng định rằng nhờ có sự can thiệp âm thầm nhưng mạnh mẽ ban đầu của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mà NTBH, ít nhất là diện tích có mộ phần các tử sĩ, đã không bị sử dụng vào mục đích “phát triển kinh tế, xã hội.” Thật đáng tiếc là ông đã vĩnh viễn ra đi trước khi hai chương trình tìm mộ tù cải tạo và trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa đạt được mục tiêu mong muốn.

Tìm mộ tù cải tạo hay ‘Tử sĩ trở về’

Sau cuộc họp tại Đại học Johns Hopkins năm 2003, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Đình Bin có thể đã chuyển đề nghị “hòa giải với người chết” của nhóm trí thức Mỹ gốc Việt đến các cơ quan có thẩm quyền, nhưng không có kết quả, chắc hẳn đã gặp phải những phản ứng tiêu cực, nhất là từ hai Bộ Công an và Quốc phòng.

Như vậy, cho đến khi có sự can thiệp của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 2007, NTBH đã bị bỏ hoang 32 năm cho thiên nhiên tàn phá và đã có những hành động xúc phạm đến người chết như dùng một số bia mộ làm đích tập bắn, xây cất chuồng bò trong nghĩa trang, thậm chí có một cầu tiêu đã được xây ngay bên trong Nghĩa Dũng Đài.

null

Hai ông Nguyễn Cao Kỳ và Võ Văn Kiệt lúc sinh thời

Trên đây có nói đến một nhóm cựu tù cải tạo tìm đến cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào đầu năm 2007 xin giúp đỡ cho dự án tìm mộ và cải táng hài cốt những người đã chết trong các trại cải tạo. Đây là nhóm Tổng Hội H.O. ở Houston, Texas, mà chủ tịch là cựu Thiếu tá Nguyễn Đạc Thành, cựu tù cải tạo hơn 9 năm trong nhiều trại từ Nam ra Bắc, được thả năm 1984 và sang Mỹ định cư theo diện H.O. năm 1990. Khi ở trong tù phải chứng kiến những cái chết đau thương của bạn đồng tù và biết rằng thân xác của họ bị chôn cất qua loa ở trong rừng, thiếu tá Thành đã có lời nguyện với linh hồn người quá cố là nếu sống sót đến ngày được thả về, ông sẽ làm mọi cách tìm mộ và giúp thân nhân bốc mộ đưa hài cốt về cải táng ở nghĩa địa gia đình hay quân đội.

Phải hơn 20 năm sau Thiếu tá Thành mới có cơ hội thực hiện lời nguyện này. Qua sự vận động của Luật sư Robin Mitchell với các cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, đầu năm 2007 ông Thành và một thành viên ban chấp hành Tổng Hội H.O. đã về nước gặp ông Trần Quang Hoan, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở Nước ngoài, sau đó đến gặp cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và được ông Kiệt nhận can thiệp với Bộ Ngoại giao giúp thực hiện dự án tìm mộ tù cải tạo. Do sự giới thiệu của ông Kiệt, khi trở về Mỹ, Thiếu tá Thành liên lạc với tôi và mời tôi làm cố vấn cho dự án được ông đặt tên là “Tử sĩ Trở về” (The Returning Casualty).

Từ đó, tôi có dịp góp ý với ông Thành về kế hoạch vận động cả trong và ngoài nước, vì ngoài sự chấp thuận và hợp tác của chính phủ Việt Nam, dự án cũng cần có sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ, quốc hội và cộng đồng người Việt hải ngoại. Vào lúc đó, Tổng Hội H.O. cũng có thêm sự giúp đỡ của Luật sư Wesley Coddou về các giấy tờ pháp lý và đối ngoại.

Qua nhiều lần tiếp xúc với các đại diện Sứ quán và lãnh sự Việt Nam ở Hoa Kỳ để giải đáp các nghi vấn về hoạt động của Tổng Hội H.O., đầu tháng Mười 2007, ông Nguyễn Đạc Thành về Việt Nam gặp Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Phú Bình. Sau khi tìm hiểu thêm, ông Bình cho phép VAF thực hiện chương trình “Tử sĩ Trở về”. Khi ấy tất cả các trại đều đã đóng cửa vì tù cải tạo đã được thả hết. Những địa điểm đầu tiên ông Thành đi thăm là Đồi Cây Khế ở Yên Bái, sau đó là Mường Côi, Bản Bò, Khe Nước và Bản Nà, tất cà đều ở tỉnh Sơn La, tìm được tổng cộng 87 ngôi mộ. Riêng Đồi Cây Khế đã có 57 mộ.

Những cuộc tìm mộ sau đó đều tiến hành rất chậm vì có nhiều đia phương không chịu hợp tác dù đã có lời yêu cầu của Bộ Ngoại Giao hay thư giới thiệu của Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ. Để tránh sự nhạy cảm của các viên chức chính phủ, Tổng Hội H.O. được đổi tên là Vietnamese American Foundation (VAF) đăng ký chính thức tại tiểu bang Texas dưới qui chế của một tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, nhưng kết quả đối xử của Việt Nam vẫn không khá hơn.

Mặc dù VAF được dân chúng địa phương thông cảm và giúp đỡ, việc tìm kiếm mộ rất khó khăn vì hầu hết tù cải tạo khi chết đều được chôn ở trong rừng, được các bạn tù đánh dấu vội vã bằng cách ghi tên người chết trên những mảnh ván hay hòn đá thay cho bia mộ. Những nấm mồ nông cạn bằng đất nay đã tan vào lòng cây cỏ và những bia mộ tạm thời cũng không còn nữa. Chỉ khi nào chính quyền địa phương, thực tế là công an, cung cấp bản đồ chôn cất thì mới biết đích xác vị trí các ngôi mộ. Một số dân lớn tuổi ở địa phương có thiện chí giúp đỡ VAF nhưng trí nhớ không rõ rệt, vì thế số ngôi mộ tìm được ở những nơi không được chính quyền chỉ dẫn chắc chắn còn thiếu sót.

Điển hình nhất là vụ chính quyền tỉnh Phú Yên, vào tháng 10, 2012 hủy bỏ vào giờ chót quyết định cho phép VAF bốc mộ tù cải tạo khi phái đoàn VAF đã về tới Saigon với một đoàn y sĩ tình nguyện để chữa bệnh phát thuốc sức khỏe cho dân nghèo ở Phú Yên, chi phí rất tốn kém. Sau sự cố này, VAF phải tạm ngưng chương trình “Tử sĩ Trở về”.

Tính đến tháng 10, 2012, đúng 5 năm sau ngày khởi sự tìm mộ ở Yên Bái và Sơn La, VAF đã tìm được 500 mộ tù cải tạo trong đó có 225 bộ hài cốt được trao cho thân nhân đem về quê cải táng. Một số hài cốt không có người nhận được gửi ở chùa hay nhà thờ chờ ngày được phép đưa vào NTBH. Số mộ còn lại chưa tìm được thân nhân, VAF xin bốc mộ đưa hài cốt vào chôn ở NTBH nhưng chính quyền không chấp thuận.

Con số 500 mộ đã tìm được chắc chắn là quá ít so với tổng số tù cải tạo bị chết trong các trại. Chính phủ Việt Nam còn giữ kín các con số liên quan đến các trại tù cải tạo, nhưng ngày 29 tháng Tư, 2001, báo Orange Countty Register công bố kết quả nghiên cứu tài liệu về các trại tù cải tạo và phỏng vấn các nhân chứng, cho thấy có khoảng 1 triệu người bị bắt giam không được xét xử, 165 nghìn người chết trong thời gian bị giam giữ, và ít nhất có 150 trại tù cải tạo được dựng lên sau khi Sài gòn thất thủ.

Một sự kiện quan trọng cần được nhắc đến là VAF, nhờ quan hệ của luật sư Wesley Coddou, đã được Trung tâm Nhận Dạng, Đại học Bắc Texas (Center for Human Identification, Department of Forensic and Investigative Genetics, University of North Texas Health Science Center) nhận thử nghiệm miễn phí DNA từ các mẫu hài cốt tù cải tạo và thân nhân của họ. Việc thử nghiệm DNA đem lại niềm an ủi vô cùng lớn lao cho những gia đình tù cải tạo đã chết trong tù mà mộ đã mất bia và không có di vật gì bên cạnh hài cốt khiến thân nhân có thể xác nhận là của người quá cố.

Chuyên gia khảo cổ Julie Martin, người tham gia đoàn VAF về Việt Nam lấy mẫu hài cốt tù cải tạo tại Làng Đá, Yên Bái, tháng Bảy 2010, đã viết bài tường trình về chuyến đi trong một cuốn sách viết với nhiều tác giả về kinh nghiệm khảo cổ pháp y vừa được xuất bàn (Forensic Archeology: A Global

Expernullience, John Wiley and Sons, Ltd., 2015).

Nghị sỹ Lowenthal thăm và thắp hương tại Nghĩa trang Biên Hòa

Tác giả ghi nhận, ngoài việc giúp thân nhân nhận được hài cốt người chết do thử nghiệm DNA, VAF còn có mục đich “đưa hài cốt tù cải tạo không thân nhân hay không thể nhận dạng vào cải táng trong Nghĩa trang Biên Hòa, và trùng tu nghĩa trang này thành một nơi tưởng niệm lâu dài dành cho những người đã bỏ mình trong một cuộc chiến chia rẽ đất nước và dân tộc của họ.” Đặc biệt trong chuyến đi này, đại diện gia đình tử sĩ đã quay được một cuốn video về cuộc đào mộ lấy hài cốt tù cải tạo với những hình ảnh rất “sốc” khiến người xem không cầm được xúc động.

Cuốn video này chắc chắn không làm hài lòng các viên chức chính quyền và có lẽ vì thế mà công tác bốc mộ của VAF ở đồi Cù Lao, Phú Yên, đã bị ngăn chặn khiến cho VAF phải tạm ngưng chương trình tìm mộ tù cải tạo từ năm 2012.

Trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa

Chính phủ CHXHCNVN đã chứng tỏ thiện chí hòa giải với chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ trong chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tich (POW/MIA) nhưng lại không muốn hòa giải với chính đồng bào của mình còn ở lại miền Nam hoặc đã ra đi tị nạn ở nước ngoài.

Tám năm sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ bình thường, đề nghị “hòa giải với người chết” được trí thức Mỹ gốc Việt nêu lên trong cuộc gặp gỡ phái đoàn Nguyễn Đình Bin ở Đại học Johns Hopkins năm 2003 vẫn không được chính phủ Việt Nam đáp ứng. Phải mất thêm bốn năm nữa, nhờ sự giúp đỡ của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tổ chức VAF mới được phép thực hiện chương trình tìm mộ tù cải tạo.

Đáng chú ý nhất là sau khi ông Thành và LS Coddou lên Washington, DC được thêm sự ủng hộ của Giám đốc Vụ Châu Á-Thái Bình Dương tại Bộ Ngoại giao Matthew Palmer và Thượng Nghị sĩ Jim Webb năm 2009 thì VAF thực hiện thành công vụ bốc mộ ở Làng Đá năm 2010 với sự hợp tác của cơ quan thử nghiệm DNA tại Houston. Kết quả thử nghiệm DNA đã giúp một số gia đình tù cải tạo nhận đúng hài cốt của người thân lấy từ những ngôi mộ vô danh ở trong rừng.

Nhưng có thể sự tham gia bất ngờ của chuyên gia DNA và kết quả thử nghiệm đã khiến cho VAF lại gặp trở ngại trong nỗ lực tìm và bốc mộ tù cải tạo. Như đã thấy trong trường hợp tỉnh Phú Yên, chính quyền địa phương không cho phép chuyên gia DNA lấy mẫu hài cốt mà chỉ cho VAF bốc những ngôi mộ còn bia, nhưng ngay cả việc cho phép hạn chế này cũng bị hủy bỏ vào giờ chót. VAF phải quyết định (tạm) ngưng chương trình này vì nếu không có thử nghiệm DNA thì những nấm mộ không có bia sẽ vĩnh viễn bị vô danh, vô thừa nhận.

Tại sao chính quyền không cho thử nghiệm DNA? Phải chăng vì kết quả thử nghiệm khoa học này không chỉ giúp nhận dạng người chết mà còn có thể biết được nguyên nhân của cái chết?

Cũng như đối với chương trình tìm và bốc mộ tù cải tạo, chính phủ Việt Nam chưa khi nào chính thức cho phép VAF trùng tu NTBH. Mọi công tác bốc mộ hay xây mộ chỉ được chấp thuận bằng miệng, trừ một lần VAF nhận được văn thư địa phương cho phép nhưng lại thu hồi ngay. Đó là trường hợp ngôi mộ tập thể gồm hơn 200 thi hài binh sĩ VNCH còn để trong nhà quàn của nghĩa trang ngày 30.4.1975 nhưng bị quân đội nhân dân đào hố chôn chung ở ngoài vòng nghĩa trang.

Tháng Ba năm 2011, VAF xin bốc ngôi mộ tập thể này để đưa hài cốt vào bên trong nghĩa trang. Một tháng sau, nhờ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao ở Hà Nội, Sở Ngoại vụ tỉnh Bình Dương mời ông Nguyễn Đạc Thành về nhận văn thư chấp thuận và thảo luận chi tiết chương trình tổ chức bốc mộ của VAF. Ông Thành được Sở Ngoại vụ trao tận tay văn thư này, nhưng khi về đến Mỹ thì ông nhận được quyết định thu hồi giấy phép.

Những quyết định bất nhất trên đây cho thấy thế lực địa phương còn mạnh và ý định thật sự của họ chỉ có thể được hiểu là họ muốn giải tỏa NTBH, vừa xóa sạch di tích của VNCH, vừa trở nên giàu có hơn vì có thêm đất cho ngoại quốc đầu tư (chủ yếu là Trung Quốc). Thâm ý đó được thấy rõ trong việc đổi tên Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa thành Nghĩa trang Nhân dân Bình An.

Thâm ý đó cũng được thấy trong việc chính quyền thúc giục thân nhân tử sĩ đưa hài cốt trong NTBH về cải táng ở quê nhà; như vậy nghĩa trang quân đội miền Nam sẽ biến thành một nghĩa trang thuần túy dân sự để có thể giải tỏa dễ dàng. Vì VAF được sự ủng hộ của ông Võ Văn Kiệt và Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội, chính quyền phải trì hoãn kế hoạch giải tỏa NTBH. Sau cái chết của ông Kiệt năm 2008, chương trình trùng tu NTBH của VAF bị ngưng trệ cho tới năm 2012 mới được khởi động lại.

null
TBT Nguyễn Phú Trọng vừa có chuyến thăm Hoa Kỳ

Trong chính quyền có một xu hướng cởi mở theo chủ trương hòa giải của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, phần lớn từ Bộ Ngoại giao, nhưng họ còn phải dè dặt không chỉ vì sự chống đối của phe bảo thủ mà còn vì một số vấn đề chưa được giải quyết, chẳng hạn miền Bắc và Mặt trận Giải phóng Miền Nam còn có khoảng 300,000 binh sĩ và cán bộ đã bỏ mình trong cuộc chiến chưa tìm được xác.

Giả thử sau khi thống nhất, “bên thắng cuộc” (mượn từ của Huy Đức) thực hiện hòa giài hòa hợp dân tộc, không đầy đọa trên dưới một triệu người miền Nam trong các trại tù khổ sai được gọi là “cải tạo” thì đôi bên thắng và thua đã có thể ngồi lại với nhau cùng giải quyết những vấn đề quá khứ của mỗi bên.

Cộng đồng người Việt ở nước ngoài có khả năng đóng góp tài chính và kỹ thuật, đồng thời có lợi thế vận động các chính phủ và tổ chức tư nhân quốc tế hỗ trợ cho chương trình MIA của Việt Nam bên cạnh những chương trình phát triển kinh tế xã hội…

Các lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã không ngớt kêu gọi hòa giải hòa hợp dân tộc (về sau chỉ nói đến “hòa hợp”) và dành nhiều sự dễ dãi cho người Việt hải ngoại trở về thăm quê hương, làm việc từ thiện, nghiên cứu, giảng dạy, hay đầu tư, kinh doanh.

Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ thể hiện chính sách hòa giải một chiều có lợi ích cho chế độ, không phải là hòa giải hai chiều dẫn đến đối xử bình đẳng và hợp tác có lợi ích cho đất nước.

Trong chuyến thăm Hoa Kỳ vừa qua, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt Đảng và Chính phủ Việt Nam nói lên những lời chính đáng trước chính phủ và nhân dân hai nước.

Chính phủ Hoa Kỳ và mọi người Việt Nam, trong và ngoài nước, đều trông đợi những hành động cụ thể của chính phủ Việt Nam, tốt nhất là bắt đầu bằng sự chấp thuận dứt khoát và toàn bộ chương trình “hòa giải với người chết” như đề nghị của VAF.

Tôi tin rằng lần này các chính quyền địa phương, đặc biệt là tỉnh Bình Dương, sẽ tuân theo chỉ thị của trung ương để hợp tác và giúp đỡ VAF hoàn tất chương trình tìm mộ tù cải tạo và trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa.

BBC sẽ tiếp tục đăng phần hai ý kiến của Giáo sư Lê Xuân Khoa, nguyên Chủ tịch Trung tâm Tác vụ Đông Nam Á (Southeast Asia Resource Action Center, SEARAC), nguyên Giáo sư Thỉnh giảng trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Johns Hopkins, Washington, D.C., hiện cư ngụ tại Irvine, Nam California.

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam: Tự do cho người Việt là khả thi

VOA, Jul 13, 2015

http://www.voatiengviet.com/content/dai-su-my-tai-vietnam-tu-do-cho-nguoi-viet-la-kha-thi/2859555.html

Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius.

Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius.

Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius.

Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius đã tới thăm thủ đô của người Việt tỵ nạn Little Saigon hôm Chủ nhật 12/7. Ông nói Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP là nhân tố có thể tăng cường quan hệ hợp tác an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chống lại Trung Quốc, và có thể buộc Hà Nội phải cải thiện nhân quyền.

Báo Orange Register tường thuật rằng trong một cuộc gặp gỡ với cộng đồng người Việt, Đại sứ Ted Osius nói mặc dù còn đường còn khá dài trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam cải thiện nhân quyền, cho phép tự do tôn giáo và ngưng trấn áp giới bất đồng chính kiến trong nước, ông vẫn lạc quan rằng Hoa Kỳ có thể để giúp “mang lại những thay đổi” tại Việt Nam.

Đại sứ Osius nói “toàn bộ tiến trình đã được đẩy nhanh trong nhiều năm qua. Năm nay có thể là một năm vô cùng quan trọng”.

Ông Osius nói Hoa Kỳ có thể dùng sức bật ngoại giao để tăng sức ép với Việt Nam trong hai lĩnh vực chủ yếu, để khuyến khích Việt Nam cải thiện thành tích nhân quyền, mà theo Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch, “vẫn vô cùng tệ hại trong tất cả các mặt chủ yếu.”

Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nói “Nếu Việt Nam muốn gia nhập Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP và hưởng lợi từ hiệp định này, thì Việt Nam cần phải thoả mãn các tiêu chuẩn cao về tự do”.

Đây là chuyến đi thăm đầu tiên của đại sứ Mỹ tại Việt Nam tới Little Saigon, thủ đô của người tỵ nạn Việt Nam ở California, để lắng nghe những quan tâm của cộng đồng, và giải thích chiến lược của chính phủ Tổng Thống Obama nhằm cải thiện các quyền tự do tại Việt Nam.

Đại Sứ Ted Osius rút thẻ “nhân quyền” trong túi ra, trong buổi nói chuyện với cộng đồng Việt Nam ở Little Saigon. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)Đại Sứ Ted Osius rút thẻ “nhân quyền” trong túi ra, trong buổi nói chuyện với cộng đồng Việt Nam ở Little Saigon. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Báo Los Angeles Times hôm nay đăng bài viết nói rằng cộng đồng người Việt tỵ nạn đang theo sát những diễn biến mới trong quan hệ Mỹ-Việt với ánh mắt nghi kỵ.

Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng Thống Obama tại Tòa Bạch ốc có mục đích tăng cường quan hệ thương mại song phương, đã làm dấy lên quan ngại trong các cộng đồng người Việt không những ở Little Saigon mà còn ở nhiều nơi khác, vốn vẫn nghi kỵ chính phủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Các cộng đồng người Việt tự do trên khắp Hoa Kỳ đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về những hành động vi phạm nhân quyền vẫn tiếp diễn tại Việt Nam.

Tờ báo tường thuật rằng trong cuộc tiếp xúc đầu tiên với hơn 350 người thuộc cộng đồng người Việt ở Little Saigon hôm Chủ nhật từ khi ông lên nhậm chức vào cuối năm ngoái, ông Ted Osius nói:

“Việt Nam cần hai điều từ Hoa Kỳ, thịnh vượng và an ninh.” Ông nói vì hai lý do đó, Hoa Kỳ đang nắm cơ hội vô cùng thuận lợi này để tăng sức ép với Việt Nam.

Tháp tùng Đại sứ Osius tới Little Saigon, có nhiều vị dân biểu trong đó có dân biểu đảng Cộng hòa Ed Royce, dân biểu Loretta Sanchez thuộc đảng Dân chủ, và ông Dana Rohrabacher thuộc đảng Cộng hòa.

Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ, nói “chính quyền Việt Nam đối xử với một số người như “thú vật”, họ bị nhốt chung với các tội nhân hình sự nguy hiểm, và khuyến khích những tù nhân này đánh đập những người bât đồng chính kiến với nhà nước.”

Theo OC Register, LATimes.

Đối nội, đối ngoại của Đảng CSVN và chuyến đi Mỹ của TBT Trọng

Streamed live on Jul 9, 2015

BBC và các khách mời thảo luận về hiệu quả cụ thể với đối nội, đối ngoại của Đảng CSVN với chuyến đi Mỹ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Vị thế Đảng và chuyến đi của ông Trọng

BBC, 07-09-2015

http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/07/150709_hangout_nguyenphutrong_obama

Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đang thăm Mỹ từ ngày 6-10/7/2015.

Vị thế ‘uy tín’ của Đảng Cộng sản Việt Nam ‘gia tăng nhiều’ nhờ chuyến thăm Hoa Kỳ đang diễn ra trong tháng 7/2015 của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, theo ý kiến khách mời của Tọa đàm Trực tuyến của BBC hôm 09/7/2015.

Trao đổi với Bàn tròn thứ Năm tuần này về chuyến thăm ông Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ (mời quý vị theo dõi trên YouTube ở đây), Phó Giáo sư, Tiến sỹ Cù Chí Lợi, Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, nói:

null

“Có một điều chắc chắn rằng sau chuyến đi này, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam gia tăng rất là nhiều và nói chung nó sẽ tạo điều kiện có một sự ủng hộ tốt hơn của quần chúng với quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, cũng như với Đảng Cộng sản Việt Nam.”

Trả lời câu hỏi liệu chuyến thăm của ông Trọng có tác động gì tới nhân sự của Đảng CSVN tại Đại hội lần thứ 12 dự kiến vào năm 2016 tới đây hay không, ông Cù Chí Lợi nói:

“Theo thể chế chính trị Việt Nam, ảnh hưởng đối với từng cá nhân là rất vừa phải, bởi vì thực ra là cơ chế thảo luận tập thể, tất cả các quyết định được thông qua một cách tập thể, cho nên những ảnh hưởng mang tính cá nhân cho một cá nhân nào đó, cho một nhiệm kỳ tới của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì tôi cho rằng chuyện đó không phải là một ảnh hưởng lớn lắm với cá nhân.

“Nhưng uy tín chung của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cộng đồng trong nước, ở nước ngoài cũng như ở Hoa Kỳ, tôi cho rằng cũng sẽ có ảnh hưởng tốt trong nhiệm kỳ tới.”

Khi được hỏi, liệu chuyến thăm có ảnh hưởng hay không tới việc ai sẽ ngồi vào chiếc ghế Tổng Bí thư của đảng cộng sản nhiệm kỳ tới, nhà nghiên cứu từ Hà Nội nói:

“Có một điều có thể nói rằng là những người theo đường lối cải cách mở cửa, những người theo đường lối hội nhập hoặc thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và phía Hoa Kỳ, thì có thể nó có ảnh hưởng với cá nhân đó, còn tôi không thể nói một con người cụ thể đó là ai, Tổng Bí thư là ai, tôi không nói trước được.

“Câu chuyện này có thể đến phút 89 vẫn chưa quyết định được, nhưng tôi tin chắc rằng nó có thể ảnh hưởng đến uy tín, cũng như vị thế của những người ủng hộ quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, cũng như ảnh hưởng đối với những người đứng ra trong quan hệ đối ngoại để mà thúc đẩy sự phát triển của trong nước,” nhà nghiên cứu nói với Tọa đàm.

‘Đối tác thân thiện nhất’

null
Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden nâng cốc chúc mừng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Từ Đại học Thành thị Hong Kong, PGS. TS. Jonathan London, cho rằng chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng đem lại ‘thành công cho mỗi bên’ và đặc biệt ông nói Mỹ hiện nay đang là ‘đối tác thân thiện nhất của Việt Nam’.

Nhà nghiên cứu chính trị và bang giao Việt – Mỹ nói:

“Tôi nghĩ nói chung cuộc gặp gỡ này thành công cho mỗi bên, mà việc quan trọng là hai bên, tức là Việt Nam và Mỹ đã thấy rất rõ sự hợp tác giữa hai nước, giữa hai nhà nước, là hết sức cần thiết.

“Thậm chí nói là một việc rất nghịch lý có thể là Mỹ là đối tác thân thiện nhất của Việt Nam hiện nay.

“Và điều đó rất là thú vị về mặt lịch sử và cũng là về thực tế, bởi vì mỗi bên có những quyền lợi mà chia sẻ lẫn nhau và rõ ràng từ thương mại cho đến an ninh quốc phòng.

“Nói chung tôi nghĩ rằng đây là một quan hệ chiến lược dù vẫn gọi là một quan hệ hợp tác toàn diện.

“Nhưng rõ ràng quan hệ mới của Việt Nam và Mỹ là một quan hệ chiến lược qua nhiều mặt khác nhau và điều đó đã dẫn đến, đã được hai bên nhắc đến.

“Và tôi nghĩ đó là đặc điểm cơ bản nhất của quan hệ Mỹ và Việt Nam hiện nay,” ông Jonathan London nói.

‘Sắp xếp nhân sự mạnh lên’

Tiếp tục bình luận về liên hệ, ảnh hưởng của chuyến đi với Đại hội Đảng CSVN lần thứ 12 tới đây, từ Singapore, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp, nghiên cứu viên cao cấp khách mời của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, nói:

“Ảnh hưởng của nó với Đại hội Đảng sắp tới không có gì đặc biệt lắm đâu.

“Thế nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa là Tổng Bí thư, vừa là Trưởng Ban nhân sự có 7 người của Đại hội 12, cho nên những sắp xếp nhân sự với vai trò của ông…, nó sẽ mạnh lên theo hướng đã được thống nhất ở trong Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị theo nghĩa đó.

null

Đây là chuyến thăm đầu tiên trong lịch sử của một Tổng bí thư Đảng CSVN tới Nhà trắng.

“Tức là họ đã thống nhất về nguyên tắc để lựa chọn những ứng cử viên, các cơ cấu và các cách thức tiến hành lựa chọn, từ nay cho đến trước đại hội.

“Đấy là cái mà chúng ta thấy khá là rõ trong nội dung của Hội nghị Trung ương 11 vừa rồi và các hoạt động nối tiếp theo đó trong vòng mấy chục ngày vừa qua. Nó rất là công khai.”

Khi được hỏi liệu sự kiện chuyến đi có tác động, ảnh hưởng gì không về mặt đường lối, chính sách của Đại hội đảng lần thứ 12 tới đây của Đảng CSVN, nhà nghiên cứu độc lập nói:

“Tôi biết rằng nó sẽ không tác động gì nhiều cả vì việc chuẩn bị để cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm và làm việc ở Mỹ đã được chuẩn bị từ lâu.

“Và việc thống nhất về mặt chính sách và đường lối nó không có thay đổi khi cuộc thăm đấy xảy ra và sau cuộc thăm ấy,” ông Hà Hoàng Hợp nói với Tọa đàm.

Khách mời

Các khách mời tham gia Chương trình Tọa đàm có:

– PGS. TS. Cù Chí Lợi, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

– TS. Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu độc lập và nghiên cứu viên khách mời tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore.

– Bà Phương Nguyễn, nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Chiến lược & Quốc tế, Hoa Kỳ (CSIS), tham gia từ Washington DC.

– PGS. TS. Jonathan London, Giáo sư chính trị học, xã hội học, Đại học Thành thị Hong Kong.

– Bà Thảo Griffiths, Trưởng Đại diện Quỹ Cựu Chiến Binh Mỹ tại Việt Nam, tham gia từ Washington DC.

Mời quý vị theo dõi toàn bộ nội dung cuộc Tọa đàm tại đây.

(BBC sẽ tiếp tục giới thiệu ý kiến được trao đổi tại cuộc tọa đàm. Mời quý vị đón theo dõi.)

Việt-Mỹ: Cơ hội cho làn sóng dân chủ VN

TBT Nguyễn Phú Trọng: VN hết sức coi trọng vấn đề nhân quyền

Cát Linh, phóng viên RFA.  2015-07-09

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/n-p-trong-vn-pays-deep-attendtion-to-hr-cl-07092015114720.html

20150708_151415-622.jpg

Chiều ngày thứ Tư, 8 tháng 7, với sự hợp tác của Bộ Ngoại giao Việt Nam và Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Hoa Kỳ, tại CSIS, Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc nói chuyện và trả lời phỏng vấn về mối quan hệ giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

RFA.

Your browser does not support the audio element.

Chiều ngày thứ Tư, 8 tháng 7, với sự hợp tác của Bộ Ngoại giao Việt Nam và Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Hoa Kỳ, tại CSIS, Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc nói chuyện và trả lời phỏng vấn về mối quan hệ giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Nội dung xoay quanh những vấn đề về an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng, sự biến đổi khí hậu, nhân quyền, hợp tác thương mại và đường lối lãnh đạo.

Tại buổi nói chuyện về quan hệ giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam trong thời kỳ đổi mới tại CSIS chiều ngày thứ Tư, 8 tháng 7, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập đến những nội dung chính như sau: quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia kể từ khi bình thường hoá và những năm gần đây; chủ trương trong công tác đối ngoại; vấn đề biến đổi khí hậu, môi trường và quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ trong thời gian tới.

Nhắc về quá khứ

Ngay trong phần mở đầu của buổi nói chuyện, ông Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng ông cảm thấy đáng tiếc khi có những cơ hội lịch sử bị bỏ lỡ. Và để có được cuộc gặp được cho là lịch sử này thì:

Vấn đề nhân quyền là vấn đề mà chính giới và dư luận Hoa Kỳ rất quan tâm, cũng là vấn đề nhạy cảm của hai nước. Tôi khẳng định rằng Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhân quyền, quyền con người. Chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.
-TBT Nguyễn Phú Trọng

“Chúng ta đã trải qua 1 giai đoạn đầy thăng trầm và đau thương cho đến khi bình thường hoá quan hệ 1995.”

Khi nhắc lại quá khứ chiến tranh, ông Trọng lý giải về cuộc chiến của người dân Việt Nam là một cuộc chiến vì dân tộc, hoàn toàn không có sự hận thù với quốc gia từng được lịch sử VN gọi là đế quốc Mỹ. Đặc biệt, ông Trọng đã nhắc đến cả mục sư Martin Luther King là một người từng phản đối chiến tranh ở Việt Nam.

“Đối với nhân dân Việt Nam thì đó là cuộc kháng chiến để dành độc lập tự do cho dân tộc mình, giải phóng thống nhất đất nước mình. Không phải là cuộc chiến tranh nhằm chống lại hợp chủng quốc HK, càng không phải để chống nhân dân Hoa Kỳ. Ngay trong thời kỳ chiến tranh diễn ra, nhân dân Việt Nam vẫn giữ tình hữu nghị với nhân dân Hoa Kỳ, rất biết ơn nhiều người dân Hoa Kỳ đã đứng lên phản đối chiến tranh, bày tỏ tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam, trong đó mục sư Martin Luther King là 1 người tiêu biểu.”

Tuy có khẳng định rằng sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam và người dân Việt Nam chủ trương khép lại quá khứ, hướng đến tương lai, nhưng ông tổng bí thư cũng không quên nhắc lại những hậu quả đau thương mà dân tộc Việt Nam gánh chịu sau khi chiến tranh đi qua bằng cách đưa ra những con số cụ thể về hậu quả đó.

Ông cho biết rất nhiều người dân Việt Nam đang phải chống chọi với những hậu quả mà chiến tranh để lại. Ông kêu gọi hai quốc gia chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh:

“Để làm tốt chủ trương gác lại quá khứ, chúng ta nên chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh. Đây là vấn đề nhạy cảm tác động mạnh đến tâm tư tình cảm của nhân dân. Vì vậy, việc 2 bên phối hợp giải quyết tốt sẽ là góp phần quan trọng tăng cường quan hệ giữa hai nước.”

20 năm và hiện tại

Ngay sau đó, ông đề cập đến tình hữu nghị và hợp tác giữa hai quốc gia luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, được phát triển liên tục và sâu rộng trong suốt 20 năm qua.

“Từ chỗ cựu thù, rồi chúng ta bình thường hoá quan hệ, thiết lập quan hệ ngoại giao, rồi ký kết hiệp định thương mại song phương năm 2000, thiết lập đối tác quan hệ toàn diện va 2013 và bây giờ trên đà phát triển rất tốt.”

20150708_154836-400.jpg
Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (trái) tại buổi nói chuyện và trả lời phỏng vấn ở Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Hoa Kỳ CSIS hôm 8/7/2015. RFA PHOTO.

Những thành quả mà hai quốc gia có được trong 20 năm qua đó là:

“Hợp tác kinh tế có sự phát triển vượt bậc và Hoa Kỳ đến nay là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo đã có những bước tiến rất tích cực. Kim ngạch thương mại 2 chiều trong 20 năm qua đã tăng gấp 130 lần. Hợp tác quốc phòng an ninh cũng có những bước tiến quan trọng. Và đặc biệt tầm nhìn chung Việt Nam Hoa Kỳ về quan hệ quốc phòng vừa được ký kết tại Hà Nội 2015.”

Khẳng định lần nữa mối quan hệ giữa Việt Nam Hoa Kỳ, ông Trọng nói rằng sở dĩ có sự phát triển tích cực trong 20 năm qua là cả hai quốc gia đều thực hiện trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Một vấn đề thứ hai mà ông Trọng cho rằng cũng là vấn đề nhạy cảm giữa hai nước, đó là nhân quyền. ông nói:

“Vấn đề nhân quyền là vấn đề mà chính giới và dư luận Hoa Kỳ rất quan tâm, cũng là vấn đề nhạy cảm của hai nước. Tôi khẳng định rằng Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề nhân quyền, quyền con người. Chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.”

Tổng bí thư đề nghị hai quốc gia cần có đối thoại xây dựng thẳng thắn để có được đánh giá khách quan hơn về vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Đề cao sự hợp tác trên các vấn đề khu vực và quốc tế quan tâm, ông Trọng nêu ra 3 vấn đề chính: chống khủng bố, an ninh mạng và chống dịch bệnh.

Nhắc đến vấn đề biển Đông, ông Trọng đánh giá cao sự quan tâm can thiệp kịp thời của Hoa Kỳ.

“Chúng tôi đánh giá cao việc chính phủ Hoa Kỳ ngày càng quan tâm tình hình biển Đông, bày tỏ kịp thời và nhất quán quan điểm ủng hộ giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.”

“Chúng tôi bắt giữ người vì họ vi phạm pháp luật”

Trong khoảng 15 phút dành cho các câu hỏi chất vấn, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự quan tâm của các học giả về đường lối, chủ trương sắp tới của đại hội Đảng, và đặc biệt là câu hỏi về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Với câu hỏi về chủ trương quan trọng nhất mà nhân sự của đại hội Đảng lần thứ 12 sẽ đề ra, ông Trọng cho biết:

Vừa qua có những trường hợp chúng tôi phải xử lý thậm chí bắt người là họ vi phạm pháp luật chứ không phải vì họ đi theo tôn giáo đi theo dân tộc hay có nói khác gì mà bị bắt đi. Ai vi phạm pháp luật thì chúng tôi xử lý theo pháp luật.
-TBT Nguyễn Phú Trọng

“Riêng về lĩnh vực đường lối chủ trương thì sẽ tập trung vào tiếp tục phát triển kinh tế, xem kinh tế là trung tâm. Trong kinh tế thì tiếp tục thực hiện cương lĩnh kinh tế với nội dung phong phú toàn diện nhưng trọng điểm vẫn là tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng theo hướng tập trung phát triển 1 cách nhanh và đổi mới. Đồng thời hết sức chăm lo vấn đề xã hội, đời sống nhân dân, đặc biệt là những vùng sâu vùng xa, vùng nghèo, những đối tượng yếu thế.”

Ông Trọng cho biết kế hoạch sẽ tiếp tục hội nhập sâu hơn vào quốc tế. Tính đến nay thì Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các tổ chức kinh tế thế giới và đường hướng này sẽ tiếp tục được duy trì.

Ông cũng khẳng định đường lối của Đảng CS Việt Nam trong câu trả lời của mình:

“Về chính trị, xã hội thì chúng tôi tiếp tục phải xây dựng cũng cố, chỉnh đốn, đổi mới Đảng, nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị của chúng tôi, trong đó có cải cách thể chế kinh tế để đổi mới các cơ chế chính sách, hoàn thiện luật pháp theo tư tưởng mới của hiến pháp 2013. Xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng nguồn nhân lực để thực hiện cho được nền kinh tế xã hội.”

Câu hỏi duy nhất về tình hình nhân quyền ở Việt Nam được đặt ra bởi một học giả là giám đốc của Mansfield Foudnation, một tổ chức giáo dục tư nhân Hoa kỳ, hỏi về vấn đề tự do ngôn luận và tự do nhân quyền trong thời gian qua ở Việt Nam.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đáp lại trên cơ sở luật pháp và khẳng định chưa bao giờ Việt Nam có nền dân chủ và nhân quyền như thời điểm hiện tại:

“Chúng xin nhắc lại lời tuyên ngôn độc lập của ngài Thomas Jefferson mà chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi nhắc lại bằng câu mở đầu của tuyên ngôn lập 1945 ‘sinh ra ai cũng có quyền bình đẳng với nhu cầu cuộc sống tự do hạnh phúc sung sướng. Việt Nam chúng tôi xem đây là mục tiêu rất cơ bản, chiến lược phấn đấu để bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của người dân. Cộng đồng Việt Nam chúng tôi có lẽ chưa bao giờ có được một đời sống dân chủ như bây giờ.”

Trả lời chi tiết câu hỏi của giám đốc tổ chức Mansfield Foundation về những trường hợp bắt và kết án tù đối với một số người ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, Tổng bí thư giải thích:

“Đất nước nào cũng phải quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi người dân phải tuân thủ theo pháp luật. Vừa qua có những trường hợp chúng tôi phải xử lý thậm chí bắt người là họ vi phạm pháp luật chứ không phải vì họ đi theo tôn giáo đi theo dân tộc hay có nói khác gì mà bị bắt đi. Ai vi phạm pháp luật thì chúng tôi xử lý theo pháp luật.”

Chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của tổng bí thư Nguyển Phú Trọng sẽ kéo dài đến ngày 10 tháng 7.

https://youtu.be/N4orFB2QelE

Học giả bình về chuyến đi Mỹ của TBT Trọng

BBC, 07–7-2015, 3 giờ trước

http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/07/150707_nguyen_phu_trong_us_visit_views

Obama_Trong

Đây là chuyến thăm đầu tiên của một Tổng bí thư Việt Nam tới Hoa Kỳ

Nhân chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ, BBC Việt Ngữ đã hỏi ý kiến đánh giá của một số học giả nước ngoài về ý nghĩa của chuyến đi này trên phương diện quan hệ song phương Việt-Mỹ, tam giác Mỹ-Trung-Việt và đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng tại Biển Đông.

James Bellacqua, nhà phân tích châu Á của CNA, Virginia, Hoa Kỳ

Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có tiềm năng là một tiến triển rất quan trọng trong mối quan hệ song phương. Trong hai thập niên qua, quan hệ hai nước đã đạt được nhiều nhưng vẫn còn có thể làm nhiều hơn nữa.

Đây là lần đầu tiên một Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam thăm Mỹ, lại trùng với dịp kỷ niệm 20 năm ngày bình thường hóa quan hệ giữa Washington và Hà Nội. Mặc dù tính biểu tượng này dĩ nhiên quan trọng, hai chính phủ sẽ hy vọng thành tựu cụ thể từ chuyến thăm cũng lớn không kém. Có nhiều vấn đề mà hai bên có thể đạt được tiến bộ có ý nghĩa.

Đầu tiên là thương mại. Việc Hạ viện Mỹ thông qua quyền đàm phán nhanh đã bỏ qua trở ngại lớn trong quá trình đàm phán bế tắc vì TPP. Nếu không có quyền này, viễn cảnh cho TPP ở Mỹ bị xem là đen tối.

Hà Nội từ lâu là một trong những nước ủng hộ TPP mạnh nhất. Chính phủ ông Obama hy vọng sẽ hoàn tất đàm phán TPP với 12 đối tác vào cuối năm, và có lý do để lạc quan rằng Mỹ và Việt Nam sẽ loan báo đã kết thúc thành công thương lượng về TPP trong chuyến thăm này của ông Trọng.

Một vấn đề khác có thể được thảo luận là an ninh, đặc biệt là lệnh cấm lâu nay của Mỹ không cho bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Tháng 10 năm ngoái, Bộ ngoại giao Mỹ loan báo dỡ bỏ một phần lệnh cấm để tăng cường khả năng bảo vệ an ninh trên biển của Hà Nội.

Nhiều nhà thầu quốc phòng Mỹ đã tới Hà Nội thảo luận các đơn đặt hàng có thể có với quân đội Việt Nam. Tuy vậy, hồ sơ nhân quyền kém cỏi của Hà Nội lâu nay vẫn là cản trở chính cho việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm. Dù chưa rõ việc này sẽ diễn ra thế nào tại cuộc gặp, chắc chắc hai bên sẽ thảo luận và việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm không phải là bất khả.

Một loan báo có khả năng sẽ diễn ra hơn là chuyến thăm đáp lễ của Tổng thống Mỹ đến Việt Nam vào cuối 2015. Hai người tiền nhiệm của ông Obama đều đã thăm Hà Nội trong hai năm cuối nhiệm kỳ.

Chuyến thăm của Tổng thống Obama đến Việt Nam năm 2015 sẽ gửi đi thông điệp mạnh mẽ rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam là đối tác khu vực quan trọng của họ trong khi tiếp tục nỗ lực tái cân bằng ở châu Á – Thái Bình Dương.

Thẩm Đinh Lập, Giáo sư Viện Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Phục Đán, Thượng Hải.

null

Đáng mừng khi Việt Nam và Mỹ tiếp tục cải thiện quan hệ. Từng là cựu thù, hai nước sẽ tiếp tục biến quan hệ từng đối địch chuyển sang bình thường.

Có nhiều lĩnh vực hai nước có thể hợp tác – thương mại và đầu tư, giáo dục, trao đổi con người…

Ngay cả trong lĩnh vực quốc phòng, có thể Hà Nội và Washington sẽ tìm cách hợp tác, cả về thực chất lẫn biểu tượng.

Vào lúc Mỹ đang “tái cân bằng” ở châu Á, Mỹ cần Việt Nam là đối tác. Căng thẳng trên Nam Hải có thể là lý do nữa để hai nước tìm kiếm quan hệ đối tác. Yếu tố Trung Quốc có thể được tính đến trong chuyến thăm này.

Sẽ lý tưởng khi Trung Quốc và Việt Nam tăng cường đối thoại và hợp tác bằng việc tự kiềm chế. Nếu làm tốt việc này, rõ ràng Việt Nam sẽ bớt nhu cầu tìm kiếm giúp đỡ từ bên ngoài.

Thời Ân Hoằng, Giáo sư về Quan hệ Quốc tế và Nghiên cứu Chiến lược, Đại học Nhân dân Trung Quốc, Bắc Kinh

Địa chính trị rất quan trọng và gần như có tính vĩnh cửu. Do nhiều nguyên nhân, mà nổi bật nhất hiện nay và trong tương lai có thể tiên đoán được chính là tranh chấp tại Nam Hải (chủ yếu quanh quần đảo Nam Sa), dĩ nhiên Việt Nam sẽ nhờ đến các đối thủ của Trung Quốc, đặc biệt là sức mạnh trên biển của Mỹ.

null

Hoa Kỳ tăng cường giám sát trên không tại khu vực có tranh chấp ở Biển Đông

Nhưng mặt khác, động cơ kinh tế và ý thức hệ cũng quan trọng, mặc dù không sâu đậm bằng địa chính trị.

Lo ngại về “sự lật đổ” của phương Tây về ý thức hệ, ít nhất là trong lòng giới đảng viên lớn tuổi và đồ đệ của họ, và nhu cầu có quan hệ kinh tế không thể thiếu với Trung Quốc, điều mà hầu như tất cả trong đảng và chính phủ Việt Nam đều thừa nhận, sẽ hạn chế mức độ hợp tác với Mỹ trong cân bằng quan hệ với Trung Quốc.

Hà Nội phải chơi một trò chơi, và nói chung trong mấy năm qua, Hà Nội đã chơi tốt trò chơi này.

Collin Koh Swee Lean, Viện Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore

Trong những năm gần đây, khi có căng thẳng tại Biển Đông, chúng ta chứng kiến Việt Nam không chỉ tăng cường quan hệ với các thành viên ASEAN mà cả với Mỹ, đồng thời duy trì và tăng cường quan hệ với các đối tác truyền thống, chủ yếu là Nga.

Ngay cả với Trung Quốc, cũng có nhiều trao đổi giữa quan chức cao cấp hai nước. Điều này cho thấy Việt Nam có chủ ý không làm hỏng bức tranh quan hệ rộng lớn hơn với các nước láng giềng, kể cả Trung Quốc.

Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động cải tạo đảo trong thời gian gần đây tại các bãi đá có tranh chấp ở Biển Đông

Trong khung cảnh chính sách đối ngoại “cân bằng” này của Việt Nam, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm Mỹ và gặp Tổng thống Obama.

Tôi tin rằng đây là một phần cố gắng của Hà Nội nhằm duy trì cân bằng giữa các cường quốc khác nhau. Không ai lại đặt trứng vào một rổ.

Tôi tin Hà Nội biết những gì cần làm để có lợi nhất. Mặc dù Hà Nội muốn duy trì quan hệ nồng ấm tuy khó khăn với Trung Quốc, họ cũng cần tạo lập thêm lối đi mới.

Với Nga, đây là quan hệ an ninh và quốc phòng lâu năm. Nhưng Việt Nam cũng muốn giảm bớt phụ thuộc vào Nga về quốc phòng.

Chúng ta cũng cần nhớ từ khi có khủng hoảng Ukraine, Nga và Trung Quốc đã có quan hệ gần gũi hơn. Hà Nội hẳn cũng đã để ý thấy điều đó. Vì thế quan hệ với Mỹ nay trở nên quan trọng hơn trước đây.

Chuyến thăm của ông Trọng là để duy trì đà đã có nhờ những diễn biến tích cực vừa qua: dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí, Mỹ đề nghị mở rộng trợ giúp an ninh và quốc phòng sau chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter.

Chuyến thăm của ông Trọng cũng nhằm mở rộng quan hệ song phương đã được tăng cường gần đây, và sẽ nhấn mạnh khía cạnh quốc phòng, an ninh. Có thể Việt Nam sẽ kêu gọi Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí và bình thường hóa thêm nữa quan hệ quốc phòng và an ninh.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ

Báo chí Việt Nam đưa tin Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã rời Hà Nội ‘lên đường thăm chính thức Hoa Kỳ’.

Thông tấn xã Việt Nam cho hay: “Nhận lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, đêm 5/7, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã rời Hà Nội đi thăm chính thức Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ”.

Tháp tùng ông tổng bí thư là một đoàn quan chức cao cấp trong đó có hai ủy viên Bộ Chính trị – bà Tòng Thị Phóng và ông Lê Thanh Hải, cùng nhiều ủy viên Trung ương Đảng CSVN.

Đại diện cho hai Bộ Quốc phòng và Công an là hai thượng tướng thứ trưởng, ông Nguyễn Chí Vịnh và ông Tô Lâm.

Ngoài ra, theo Thông tấn xã Việt Nam, còn có một số đại diện cựu chiến binh, chức sắc tôn giáo, nhân sỹ, trí thức, kiều bào và doanh nghiệp.

Nghi lễ đặc biệt?

Ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư đầu tiên của Đảng CSVN thăm Hoa Kỳ và Nhà Trắng.

Ông và Tổng thống Obama sẽ có hội đàm hôm thứ Ba 7/7 để thảo luận cách thức đẩy mạnh quan hệ hai bên, theo một thông cáo của Nhà Trắng.

Quan chức Mỹ nói ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu đảng cầm quyền ở Việt Nam nhưng không có chức vụ trong chính phủ, sẽ được tiếp đón tại Phòng Bầu dục.

Đây là vinh dự đặc biệt dành cho người không phải nguyên thủ quốc gia.

Thông cáo của chính phủ Mỹ nói thêm rằng “ông tổng thống hoan nghênh cơ hội thảo luận các chủ đề khác, như Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, nhân quyền và hợp tác quốc phòng song phương” với ông Trọng.

Bình luận về việc ông Nguyễn Phú Trọng được tiếp đón đặc biệt cho dù không có vai trò trong chính phủ, hãng Reuters dẫn lời một quan chức ngoại giao cao cấp của Mỹ nói: “Ông Trọng là nhân vật quan trọng của dàn lãnh đạo Việt Nam và nói chung có một sự thống nhất rằng nên nhìn nhận chuyến thăm này như là chuyến thăm của lãnh đạo cao nhất của một nước”.

“Tất nhiên đây không phải cuộc gặp bình thường của ông tổng thống.”

Được tin ông Nguyễn Phú Trọng sẽ có cuộc gặp với cựu Tổng thống Bill Clinton cùng phu nhân và có bài diễn văn tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).

Chuyến thăm Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng diễn ra trong bối cảnh Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị cho sự chuyển giao lãnh đạo tại Đại hội năm 2016.

Giới quan sát tin rằng ông Trọng sẽ nghỉ hưu vào năm sau.

Tuy vậy, ông Trọng là Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XII.

Chuyến thăm Mỹ có thể là cơ hội tạo thêm sức mạnh cho ông trong công tác chuẩn bị nhân sự cho giai đoạn 2016-2021.

TBT Nguyễn Phú Trọng đến Nhà Trắng: Những câu hỏi đặt ra?

Chuyên cơ chở Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã hạ cánh tại sân bay quân sự Andrew, bang Maryland Chiều ngày 6/7 theo giờ Hà Nội

Máy bay chở Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã hạ cánh tại sân bay quân sự Andrews, bang Maryland Chiều ngày 6/7 theo giờ Hà Nội

Courtesy VOV

Vào lúc 8 giờ sáng hôm qua thứ Hai 6/7/2015, giờ Washington DC, TBT Nguyễn Phú Trọng đã cùng với phái đoàn Việt Nam đáp xuống phi trường quân sự Andrews để bắt đầu chuyến thăm Hoa Kỳ, và trưa nay ông sẽ có cộc gặp với Tổng thống Barack Obama tại Nhà trắng.

Nhân dịp này Đài Á Châu Tự Do tổng hợp câu trả lời nội dung: Bạn muốn Tổng thống Barack Obama nói gì với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng? Và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nên nói gì với Tổng thống Obama?

Ích nước, Lợi dân, Rũ bỏ giáo điều

Ước mong của người Việt trong và ngoài nước thật đơn giản về chuyến đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ qua lời mời của Tổng thống Obama, tất cả chừng như tập trung vào điều mà ông Tổng bí thư có thể thực hiện được trong chuyến đi này nếu ông đại diện cho chế độ Cộng sản làm việc với tổng thống một cường quốc lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ với tâm nguyện ích nước lợi dân, rũ bỏ mọi thành kiến giáo điều và nhất là mạnh dạn thực hiện chính sách ngoại giao cởi mở, thông minh nhằm tìm chỗ dựa vững chắc cho công cuộc chống trả sức ép của cường quyền Trung Quốc.

Mong muốn phát triển quan hệ giữa hai nước theo đúng với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là liên minh liên kết với Hoa Kỳ để cùng bảo vệ hòa bình ở Biển Đông. Nếu như TBT đưa một thông điệp rõ ràng như vậy thì tôi nghĩ rằng điều này quan trọng nhất. -TS Hoàng Ngọc Giao, Hà Nội

Từ Hà Nội, PGS TS Hoàng Ngọc Giao, nguyên Vụ trưởng Ban biên giới chính phủ cho biết nguyện vọng lớn nhất mà ông mong TBT sẽ đặt ra với Nhà Trắng:

“Tôi rất mong muốn chuyến đi này của TBT đáp ứng được nguyện vọng khẳng định mối quan hệ hợp tác đối tác toàn diện với Hoa Kỳ trên các lãnh vực và tạo được sự tin cậy trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đấy là điều quan trọng nhất. Cái mong muốn phát triển quan hệ giữa hai nước theo đúng với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là liên minh liên kết với Hoa Kỳ để cùng bảo vệ hòa bình ở Biển Đông cũng như trong khu vực Đông Nam Á. Nếu như TBT đưa một thông điệp rõ ràng như vậy thì tôi nghĩ rằng điều này quan trọng nhất.”

Trong khi đó từ tiểu bang Virginia Bác Sĩ Nguyễn Quốc Quân, bào huynh của nhà tranh đấu cho dân chủ nhân quyền là BS Nguyễn Đan Quế cho biết những gì mà ông cho rằng Tổng thống Obama có thể đặt ra cho TBT Nguyễn Phú Trọng qua kinh nghiệm giao tiếp với các chính trị gia Hoa Kỳ cũng như lần trực tiếp gặp gỡ Hội đồng An Ninh Quốc gia trong Nhà Trắng vừa qua:

“Điều mà chúng tôi muốn đề nghị Tổng thống mà chúng tôi cũng chắc ông sẽ nói. Có hai điều rất quan trọng trước khi ông ấy nói đến việc cộng tác với Việt Nam trên lĩnh vực như kinh tế, tài chánh, chính trị, quân sự…cũng như cho Việt Nam gia nhập TPP trước tiên ông sẽ nói hai điều theo tôi nghĩ. Thứ nhất nhà cầm quyền cộng  sản Việt Nam phải dành nhiều thời giờ hơn nữa để lo đời sống, phúc lợi cho dân chúng Việt Nam và đồng thời cũng phải tôn trọng các giá trị nhân quyền căn bản của người dân Việt Nam. Phải đối xử công bằng với tất cả mọi công dân và điều thứ hai tôi thấy ông cần phải nói là làm như vậy không có nghĩa làm yếu tư thế của Việt Nam mà sẽ làm cho Việt Nam giàu mạnh hơn, có uy tín hơn. Tôi nghĩ cái điều này là điều chúng tôi mong muốn ông tổng thống nói với ông Nguyễn Phú Trọng.”

Phải tôn trọng các giá trị nhân quyền, phải đối xử công bằng với tất cả mọi công dân. Đó là điều chúng tôi mong muốn Tổng thống Obama nói với ông Nguyễn Phú Trọng. -BS Nguyễn Quốc Quân, Hoa Kỳ

Từ Hà Nội TS Nguyễn Thanh Giang cho rằng Tổng thống Obama đã có động thái hòa giải với Việt Nam qua việc mời một TBT đảng Cộng sản thì ông cũng nên nhân nhượng thêm một chút vì lợi ích chung của hai nước, nhất là Việt Nam:

“Việc ông Obama mời ông TBT và lại chịu khó tiếp một ông TBT đảng Cộng sản thì tôi cho rằng ông ấy đã có một sự nhân nhượng và chiếu cố. Thế thì tôi mong rằng ông ấy dẽ làm sao chiều thêm một bước nào đó để anh Nguyễn Phú Trọng anh ấy có đụng với thực tế có thể làm cho anh ấy chuyển hóa một phần tư tưởng nào đó để trở nên mạnh mẽ quyết tâm hơn giũ bỏ tư tưởng Mác Lênin, những liên quan chặt chẽ với Trung Quốc để ngã một phần sang Hoa Kỳ.”

Dân chủ, Nhân quyền, thượng tôn Luật pháp

Từ Washington DC, TS Nguyễn Đình Thắng chia sẻ những điều mà ông muốn Tổng thống Obama đặt ra với TBT Nguyễn Phú Trọng:

“Điều mà Tổng thống Obama cần nêu lên với Ông Nguyễn Phú Trọng là Việt Nam chỉ có thể là một quốc gia, chế độ liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ về các đối tác mậu dịch, an ninh quốc phòng, thương mại, đối ngoại khi Việt Nam trở thành một quốc gia tôn trọng quyền con người. Thứ hai luật pháp Việt Nam phải minh bạch và thứ ba là Việt Nam phải bắt đầu một tiến trình để dân chủ hóa và hội nhập bền chặt vào khối ASEAN hiện nay.”

Trên mục lấy ý kiến thính giả, độc giả của Đài Á Châu Tự Do về hai câu hỏi: “Bạn muốn Tổng thống Barack Obama nói gì với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng? Và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nên nói gì với Tổng thống Obama?” Độc giả Bùi Thị Ngọc Hương gửi từ Huyện Châu thành Tiền Giang cho biết:

“Bỏ điều 4 hiến pháp – Bầu cử tự do. Công đoàn lao động độc lập.Tự do hành đạo.Thả tất cả tù nhân chính trị. Chấm dứt tình trạng công an giả dạng côn đồ.”

Chị Ngọc Hương cũng gửi từ Tiền giang cho biết:

“Nguyễn phú Trọng cần nói với TT Obama “Đảng Cộng sản Việt nam chọn chủ nghĩa Cộng sản để làm tay sai cho Liên xô và Trung cộng là một sai lầm lớn, Việt nam đang bị Tàu cộng đô hộ. Cần nhân dân, chính phủ và Tổng thống Obama của Hoa kỳ yễm trợ nhân dân Việt nam chống lại Tàu cộng để lấy lại chủ quyền đất đai và biển đảo đã bị mất.”

Một người tên KIM gửi từ Sài Gòn:

“Yêu cầu VN thay đổi hiến pháp phù hợp với những cam kết quốc tế mà VN đã tham gia : Nhân quyền , tự do lập hội , tự do báo chí , tự do biểu tình.”

Hỏi gì? Nói gì?

Đặc biệt một độc giả tên Tám Nông dân gửi từ Cần Thơ cho biết những câu hỏi khá hóc búa của ông:

“Tôi muốn Tổng thống Mỹ hỏi ông Trọng: Ngài có yêu tổ quốc, yêu dân tộc ngài không mà ngài dẫn dắt họ đi trên con đường mà đến cuối thế kỹ này còn không biết tới đâu. Ngài có nhìn thấy các nước đồng minh của Mỹ ở Châu Á có nước nào nghèo đói không? còn các nước đồng minh của Trung Quốc có giàu có được không? Ngài có thấy Chủ nghĩa Cộng sản ở tại cái nôi của nó người ta còn vứt bỏ từ năm 90 rồi không? Ngài có thấy các nước Châu á như Nhật, Hàn, Đài Loan, Philippine… Chơi với Mỹ có bị mất 1cm2 đất nào không? Chơi với Trung Quốc thì sao ngài biết rõ rồi. Ngài có muốn dân tộc ngài ấm no, hạnh phúc không? Ngài có muốn Tổ quốc ngài được bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ như các nước đồng minh của Mỹ ở Châu Á không? Nếu Ngài muốn những điều trên thì Obama này luôn mở rộng vòng tay chào đón và cưu mang ông.

Ông Trọng hỏi Ông Obama: Trước nay tôi vay tiền Trung Quốc quá nhiều để đánh nước của ngài theo chỉ đạo của Trung Quốc và Liên Xô, đó là bước đi lỡ dại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam tôi. Nếu ngài không thù dai để bụng thì ngài có thể cho tôi vay số tiền trả phứt cho TQ cho rồi? Nước tôi đang bị TQ ăn hiếp mà không ai thèm tiếp vì cái nhãn ý thức hệ sai lầm của chúng tôi; Tôi van ngài giúp tôi giữ nước thì ngài có hết lòng giúp tôi không? Tôi có đọc quyển “Chiến thắng không cần chiến tranh” của cố TT Nixon, tôi cũng biết chế độ cộng sản chỉ còn cái xác không hồn mà thôi. Nếu ngài không chấp nhất thì tôi xin chơi với Mỹ để dân nước tôi được ăn ngon mặc đẹp như Đài Loan, Hàn Quốc. Ngài có chấp nhận không? Chúc cho quan hệ hữu nghị Việt – Mỹ đời đời bền vững.”

Còn anh Nguyễn Chiến Thắng đặt câu hỏi như sau:

“Tôi muốn tổng thống Mỹ nên hỏi ông Tổng bí thư ĐCSVN rằng ông có phải là một người VN yêu nước không? Và nếu như ông là người yêu nước VN vậy tại sao lại để VN bị TQ lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải mà không dám phản kháng?

Còn với ông Tổng bí thư ĐCSVN thì tôi muốn ông hỏi tổng thống Mỹ rằng, nếu như giữa VN và TQ xảy ra chiến tranh thì quân đội Hoa kỳ sẽ bênh vực nước nào? Liệu có tái diễn tình hình hồi năm 1974 khi Hoa kỳ để mặc cho TQ chiếm Hoàng sa từ tay đồng minh của mình là chính thể VNCH hay không?”

Vừa rồi là các câu hỏi mà người Việt trong và ngoài nước mong muốn hai vị lãnh đạo quốc gia nói với nhau nhằm tiến tới kết quả tốt lành cho Việt Nam. Đài Á châu Tự do thành thật cảm ơn quý vị đã vui lòng tham gia cuộc thăm dò này.

Chính trị VN qua chuyến đi Mỹ của ông Trọng

BBC, 5 tháng 7 2015, Vũ Tường Phó Giáo sư, Đại học Oregon

http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/07/150704_vn_politics_and_trong_us_visit

Tổng bí thư ĐCSVN, ông Nguyễn Phú Trọng tiếp cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton tại trụ sở văn phòng Trung ương ĐCSVN hôm 02/7/2015.

Chuyến đi làm việc của ông Nguyễn Phú Trọng, và trước đó của các ông Phạm Quang Nghị và Trần Đại Quang là những chuyến đi lần đầu tiên của một Tổng Bí thư, Bí thư Thành ủy Hà nội, và Bộ trưởng Bộ Công An đến Mỹ.

Rõ ràng đây là những sự kiện quan trọng, nhưng quan trọng đến mức nào thì cần phải bàn. Phân tích chính trị Việt Nam khó vì thiếu thông tin xác thực. Nhưng điều này không ngăn cản chúng tôi đưa ra một số nhận xét dưới đây, dựa trên năm yếu tố hay xu hướng căn bản trong chính trị và quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong những năm gần đây.

Xin phép được tiết lộ trước kết luận của bài viết: Nói chung chúng tôi không đánh giá cao chuyến đi của ông Trọng.

Năm yếu tố hay xu hướng căn bản trong chính trị và quan hệ đối ngoại của Việt Nam là:

null

Thứ nhất, đấu đá tranh giành đặc quyền đặc lợi giữa các phe nhóm và cá nhân lãnh đạo các cấp ở Việt Nam ngày càng lớn về quy mô và mức độ. Trong thời điểm chuẩn bị Đại Hội Đảng như hiện nay, với cơ cấu nhân sự nhiệm kỳ tới là mục tiêu, việc đấu đá còn gay gắt hơn.

Thứ hai, trong chóp bu Đảng Cộng sản có nhiều người còn trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, xem Trung Cộng về căn bản là đồng minh chiến lược trong khi cảnh giác cao đối với Mỹ. Ông Trọng rõ ràng là một người trong nhóm này.

Thứ ba, tiền và mafia ngày càng lũng đoạn chính trị Việt Nam, chi phối hầu hết những vấn đề quan trọng từ việc bổ nhiệm nhân sự cho đến quyết sách ngoại giao. Các thế lực có tiền gồm chính phủ nước ngoài, các công ty ngoại quốc lớn, và giới tư bản đỏ cấu kết với các lãnh đạo Đảng.

Thứ tư, chính sách quân sự của Trung Quốc đang gây áp lực lớn lên chính trị Việt Nam. Áp lực từ dưới lên và từ trong ra đòi hỏi Đảng Cộng sản có lập trường cứng rắn hơn về vấn đề biển đảo. Áp lực này đang tạo ra phân hóa sâu sắc trong nội bộ Đảng này.

Và thứ năm, về quan hệ Mỹ-Việt, một số chính khách lớn của Mỹ như Thượng Nghị Sĩ John McCain xem Việt Nam là một đối tượng hợp tác quan trọng trong việc ngăn cản Trung Quốc bành trướng thế lực ở Á châu.

Đại tướng Trần Đại Quang, vừa thăm Mỹ trong đầu năm 2015, trong chuyến thăm đầu tiên của một Bộ trưởng Công an Việt Nam tới Mỹ.

Dĩ nhiên những người ủng hộ Việt Nam ở Mỹ, kể cả ông McCain, không đủ quyền tự ý quyết định quan hệ Mỹ-Việt, vì có nhiều chính khách khác muốn bắt Việt Nam phải trả giá cho những vi phạm nhân quyền. Về mặt quyền lợi quốc gia, Mỹ cũng có nhiều đồng minh lâu năm khác ở Á châu, nên Việt Nam không phải là lá bài chủ yếu hay duy nhất.

Lý do có chuyến thăm

Trên đây là những xu hướng căn bản của nền chính trị và quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện nay mà chúng ta có thể ít nhiều chứng thực từ các nguồn thông tin khác nhau.

Những xu hướng này giúp trả lời hai câu hỏi sau đây.

Thứ nhất, tại sao Washington mời ông Trọng?

Tổng thống Barack Obama, lãnh đạo Đảng Cộng Hòa, giới chức quốc phòng, và các nhóm lợi ích đại diện cho một số đại công ty của Mỹ muốn Quốc Hội Mỹ thông qua Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Hai trong những trở ngại chính liên quan đến Việt Nam là việc Hà Nội không cho công nhân quyền tự do lập công đoàn và thành tích vi phạm nhân quyền cao của Việt Nam.

Mời ông Trọng và ông Quang sang Mỹ là có ý định cho thấy Mỹ công nhận quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản và không có mưu đồ chuyển hóa Việt Nam như họ lo sợ.

Qua việc bày tỏ thiện chí, chính quyền Obama có thể thuyết phục Bộ Chính trị chấp nhận viết vào Hiệp định TPP một vài câu mơ hồ về cải thiện nhân quyền ở Việt Nam để Quốc Hội Mỹ dễ chấp thuận hơn.

Washington cũng có thể hy vọng công an Việt Nam thả một vài nhân vật đối kháng và giảm bớt việc bắt bớ đàn áp trong một giai đoạn nào đó.

Có thể tiên đoán Washington sẽ đạt được những mục tiêu khiêm tốn trên.

Thứ hai, vì sao Việt Nam nhận lời?

Tại sao ông Trọng (và trước đó là Nghị và Quang) nhận lời đi Washington?

Áp lực từ Trung Quốc và đấu đá nội bộ là những lý do chủ yếu.

Vụ Trung Quốc đặt giàn khoan năm ngoái đã làm yếu thế phe thân Trung Quốc ở Việt Nam.

null

Chuyến đi của ông Trọng chỉ là một chiến thuật ‘be bờ’, ‘cố thủ’, theo tác giả.

Nhiều nhà quan sát cho rằng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là đối thủ của ông Trọng và có nhiều khả năng sẽ thắng thế trong cuộc tranh giành chức vụ tổng bí thư nhiệm kỳ sắp tới, dù ông Trọng muốn dành chức này cho ông Nghị.

Còn sớm để nhận định

Chúng tôi cho rằng còn hơi sớm để nhận định.

Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản vẫn còn thế lực rất lớn so với Ban Chấp hành Trung ương, đặc biệt là trong vấn đề cơ cấu nhân sự trong mỗi nhiệm kỳ Đại Hội Đảng.

Ông Trọng và Nghị vẫn còn ưu thế, mặc dù phải dè dặt hơn.

Chuyến đi Mỹ của hai ông vì vậy có tác dụng giảm bớt áp lực chính trị đối nội và đối ngoại, lấy lại thế chủ động trong vấn đề quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ vị thế của phe nhóm trong kỳ Đại Hội tới.

Là cán bộ tuyên huấn chuyên nghiệp trong bộ máy công chức với tầm nhìn và năng lực hạn chế, ông Trọng không thể và thực sự chưa bao giờ tạo ra đột phá.

Chuyến đi của ông chỉ là một chiến thuật be bờ cố thủ cho qua Đại Hội.

Ông Trọng có thể hài lòng với chuyến đi, như ông từng tuyên bố sau khi đi Vatican về: “Mình phải như thế nào người ta mới mời chứ!”

Nhưng áp lực từ Trung Quốc và đấu đá nội bộ rõ ràng sẽ không giảm, đòi hỏi ông phải tiếp tục cố gắng hơn.

Nhìn xa hơn chuyến đi, những xu hướng căn bản của chính trị Việt Nam cho phép chúng tôi tiên đoán ba điều sau đây:

Thứ nhất, Hiệp định Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ được thông qua, nhưng kinh tế Việt Nam ngày càng lệ thuộc Trung Quốc nhiều hơn;

Thứ hai, chiến tranh Việt-Trung sẽ không xảy ra dù Trung Quốc ngày càng lấn lướt;

Và thứ ba, lệnh cấm vận vũ khí sát thương của Mỹ sẽ được giỡ bỏ phần lớn, nhưng quan hệ đồng minh thực sự giữa Việt Nam và Mỹ vẫn xa vời.

Nếu những tiên đoán trên chứa đựng nghịch lý, điều đó không phải ngẫu nhiên, mà do chúng phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc và sự bế tắc của nền chính trị Việt Nam.

Bài viết thể hiện văn phong và phản ánh quan điểm riêng của tác giả, một nhà nghiên cứu từ Khoa Chính trị, Đại học Oregon, Hoa Kỳ.

Ông Trọng sẽ thảo luận gì với ông Obama?

  • 5 tháng 7 2015

Đây là chuyến thăm đầu tiên của một lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam tới Hoa Kỳ

Tòa Bạch Ốc hôm 3/7 vừa ra thông cáo cho biết Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ tiếp Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng tại Phủ Tổng thống vào ngày 7/7 sắp tới.

Đây sẽ là một cuộc gặp lịch sử, sau 20 năm ngày hai quốc gia cựu thù bình thường hóa bang giao, sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, và là lần đầu tiên một Tổng bí thư ĐCSVN đến Hoa Kỳ.

Thông cáo trên cho biết Tổng thống Obama trông đợi thảo luận với nhà lãnh đạo ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng về các phương cách củng cố thêm Quan hệ Đối tác Toàn diện Mỹ-Việt cùng các vấn đề khác như Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), hợp tác quốc phòng song phương, và nhân quyền Việt Nam.

Trong khi đó truyền thông quốc tế tại Hà Nội cũng cho biết ông Trọng mong muốn trong chuyến công du này sẽ có “thảo luận cởi mở và thẳng thắn với phía Hoa Kỳ để giúp hiểu biết lẫn nhau, xây dựng sự tin cậy giữa hai nước, cũng như để thảo luận về những phương cách thắt chặt quan hệ song phương”.

Đã 20 năm có quan hệ song phương ở cấp Đại sứ, với biết bao nhiêu cuộc thăm viếng của bao thế hệ lãnh đạo các cấp của hai chính quyền mà vẫn chưa hiểu biết lẫn nhau, chưa thu hẹp được khoảng cách khác biệt, chưa xây dựng được niềm tin giữa hai quốc gia, đó chẳng phải là một thất bại sao? Chẳng nhẽ từ trước giờ hai bên chưa bao giờ nói chuyện “thẳng thắn” với nhau sao?

Điều gì đã cản trở quan hệ Việt-Mỹ? Hoa Kỳ thực sự muốn gì ở Việt Nam? Và, Việt Nam cần gì ở Hoa Kỳ? Đâu là những vấn đề song phương còn tồn đọng chưa giải quyết được?

Nhân quyền, cái gai trong quan hệ Mỹ – Việt

Đương kim Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius từng khẳng định rằng, “Mục tiêu của Hoa Kỳ rất rõ ràng: Chúng tôi muốn Việt Nam trở thành một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng, độc lập, tôn trọng pháp luật và nhân quyền”.

Ông cũng chia sẻ rằng “Hoa Kỳ sẵn sàng chấp cánh cho Việt Nam bay cao và xa” hơn nữa nhưng bay cao và xa tới đâu thì tùy thuộc vào Việt Nam và theo ông nhận định thì nhân quyền là chủ đề mà ông gọi là “hóc búa nhất”, là rào cản trở chính trong quan hệ Mỹ-Việt hiện nay.

Nhân dân Việt Nam hơn bất cứ người dân nào khác trong khu vực hiểu rõ sự hưng vong của Việt Nam cũng như hòa bình, an ninh, thịnh vượng của khu vực Á Châu – Thái Bình Dương sẽ tùy thuộc rất nhiều vào sự ổn định, hòa bình và thịnh vượng chung của toàn khu vực, trong đó vai trò đặc biệt của Hoa Kỳ như là một tác nhân chính sẽ là một trong các yếu tố quyết định.

Với bề dày quan hệ với một nước láng giềng như Trung Quốc, người dân Việt Nam chắc chắn sẽ hoan nghênh sự hiện diện tích cực của Hoa Kỳ trong khu vực như một đối tác quan trọng có trách nhiệm.

Họ thừa biết rằng liên minh với Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời giúp phát triển kinh tế Việt Nam thịnh vượng, kiến tạo đời sống sung túc, ấm no, hạnh phúc cho người dân Việt Nam.

Nhưng vấn đề ở đây không phải là người dân Việt Nam mà là lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chính họ đang là rào cản cho tiến trình “liên minh” đó. Họ thà chấp nhận mất nước hơn là mất Đảng chỉ vì họ sợ rằng một liên minh với Hoa Kỳ tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền sẽ khai tử chế độ cộng sản của họ.

Đó cũng chính là lý do mà Tổng thống Obama quyết định lịch sử mời ông Trọng đến Tòa Bạch Ốc để cam kết rằng “một Việt Nam tôn trọng nhân quyền” sẽ là một quốc gia độc lập, tự do, dân chủ, vững mạnh và thịnh vượng; sẽ là một đồng minh đáng tin cậy của Hoa Kỳ, một đối tác khả tín của cộng đồng quốc tế và khu vực.

Hợp tác kinh tế, an ninh và quốc phòng

Như thông cáo của Tòa Bạch Ốc có đề cập, trọng tâm thảo luận giữa ông Obama và ông Trọng ngày 7/7 sắp tới sẽ là: (1) Tăng cường hợp tác kinh tế sâu rộng, đặc biệt với việc sớm kết thúc đàm phán TPP; (2) mở rộng khuôn khổ sự tiếp cận cảng Cam Ranh của Hải quân Mỹ; và (3) năng cấp hợp tác quốc phòng thông qua việc tiến tới hủy bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

Cả ba chủ đề trên, ông Trọng chắc chắn sẽ có cơ hội “thảo luận cởi mở và thẳng thắn” với ông chủ Tòa Bạch Ốc nhưng ông Trọng cũng cần hiểu rằng người Mỹ rất quý trọng thời gian và họ sẽ không đủ kiên nhẫn để chỉ nói mà không có hành động thực tiễn đi kèm mặc dù họ sẵn sàng chấp nhận cho Việt Nam hưởng một số quy chế đặc biệt để có thể theo kịp 11 quốc gia còn lại trong khối TPP.

Với đạo luật “Quyền đàm phán nhanh” (TPA), Tổng thống Obama sẽ cam kết để Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhưng ông Trọng cũng cần phải cam kết tuân thủ triệt để các điều khoản của TPP, đặc biệt về sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cũng như các điều khoản về quyền lập hội, tự do tổ chức nghiệp đoàn độc lập, quyền đàm phán chung của người lao động, những quy định như cấm sử dụng mọi hình thức lao động cưỡng bức, cấm khai thác lao động trẻ em, cấm không phân biệt đối xử trong lực lượng lao động.

Tham gia TPP, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều kinh tế nhưng Việt Nam phải chấp nhận hy sinh «đổi mới chính trị».

Về vấn đề quân cảng Cam Ranh, phía Mỹ từng khẳng định rằng họ không có nhu cầu xây dựng căn cứ quân sự ở đây. Cái mà Hoa Kỳ mong muốn hợp tác với Việt Nam là quyền tiếp cận bến cảng này.

Việt Nam có quyền tự do giao lưu với tất cả các nước và cho phép các quốc gia có nhu cầu sử dụng quân cảng Cam Ranh được quyền tiếp cận. Tuy nhiên, điều Hoa Kỳ quan ngại là sự tiếp cận của bên thứ ba có thể làm tổn hại đến quyền lợi của Hoa Kỳ, thí dụ như trường hợp gần đây, Hoa Kỳ đã chính thức gửi công điện tới chính phủ Việt Nam phản đối việc Nga đã dùng quyền tiếp cận căn cứ Cam Ranh để thực hiện các hoạt động quân sự có thể làm tăng căng thẳng trong khu vực.

Chắc chắn, Tổng thống Obama sẽ nhân cơ hội này làm ông Trọng hiểu rõ rằng «Việt Nam không thể kết bạn với những kẻ thù của Hoa Kỳ».

Về vấn đề hiện đại hóa quốc phòng Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ tái cam kết sớm xem xét việc bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Hoa Kỳ lưu ý Việt Nam cần nghiêm túc hơn nữa về tình trạng nhân quyền. Mọi tiến bộ về nhân quyền sẽ là tiến bộ tỷ lệ thuận với việc hủy bỏ lệnh cấm vận này. Đó là điều mà ông Obama sẽ không ngần ngại tái khẳng định với ông Trọng.

Tự do hàng hải, hàng không và an ninh Biển Đông

Một vấn đề khác quan trọng cũng nằm trong chương trình nghị sự của hai ông Obama và Nguyễn Phú Trọng hôm 7/7 là Biển Đông.

Bảo vệ tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông không chỉ có tầm quan trọng đối với hòa bình, an ninh và thịnh vượng trong khu vực mà còn vì lợi ích của toàn thế giới, nơi mà hàng năm có trên 40% tổng lưu lượng hàng hóa trên thế giới được di chuyển qua khu vực này. Đây cũng là nơi điểm xuất phát của hai nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới (Trung Quốc và Nhật Bản).

Hoa Kỳ luôn khẳng định có quyền lợi quốc gia trong việc bảo vệ an ninh, hoà bình và sự tự do hàng hải và hàng không trong khu vực Biển Đông.

Tuy không đứng về phía nào trong các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông nhưng vì quyền lợi quốc gia, Hoa Kỳ sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tìm kiếm giải pháp hòa bình, thông qua đàm phán ngoại giao, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực luật pháp quốc tế.

Tổng thống Barack Obama hồi đầu tháng 6 vừa qua cũng đã lên tiếng kêu gọi các bên trong khu vực tôn trọng luật pháp và ngừng những hành động gây hấn như cải tạo đất trên Biển Đông, đồng thời tuyên bố sẽ tiếp tục điều máy bay và tàu quân sự đến khu vực căng thẳng để bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không.

Chắc hẳn chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi đọc một đoạn văn tương tự như trên trong Tuyên bố chung Mỹ – Việt sau buổi hội đàm Obama – Nguyễn Phú Trọng (nếu có).

Tương lai Việt Nam

Ở một chừng mực nào đó, cuộc viếng thăm Tòa Bạch Ốc của TBT Nguyễn Phú Trọng sẽ được ghi nhận như một sự kiện lịch sử vì đây là lần đầu tiên một lãnh đạo CSVN, một thể chế thù nghịch với Mỹ bước vào Tòa Bạch Ốc, cơ quan quyền lực bậc nhất của Hoa Kỳ và thế giới.

Tuy nhiên, nếu dừng tại đây thì nó chỉ có giá trị mang tính biểu tượng và sẽ chóng bị lãng quên. Nhưng nó sẽ có giá trị nhiều hơn nếu như chuyến công du này thực sự mang lại một luồng sinh khí mới cho Việt Nam thông qua những cam kết cụ thể của hai nhà lãnh đạo của hai quốc gia.

Hoa Kỳ với cam kết giúp đỡ “Việt Nam trở thành một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng, độc lập, tôn trọng pháp luật và nhân quyền”. Và TBT Nguyễn Phú Trọng sẽ nhân danh ĐCSVN cam kết “đổi mới chính trị, tôn trọng nhân quyền” để có thể sát cánh cùng Hoa Kỳ trong công cuộc kiến tạo hòa bình, an ninh và thịnh vượng cho khu vực Á Châu – Thái Bình Dương.

Từ khi Thủ tướng Phan Văn Khải lần đầu tiên bước vào Tòa Bạch Ốc năm 2005 cho đến nay, hễ mỗi lần có một lãnh đạo cấp cao CSVN đến thăm nơi này thì truyền thông độc quyền nhà nước Việt Nam thường có những bài viết hoài niệm về một nỗi niềm nuối tiếc nào đó cho những cơ hội vàng đã bỏ lỡ trong quan hệ của hai nước kể từ năm 1945.

ĐCSVN có thể quy đổ trách nhiệm đó cho người Mỹ và cho rằng Hoa Kỳ không hiểu người CSVN nhưng lần này thì người CSVN không thể trách là người Mỹ không hiểu họ.

Với tất cả những gì người Mỹ đã làm từ 20 năm qua và đặc biệt trong chuyến bay đưa ông Trọng từ Hà Nội đến Washington để vào Tòa Bạch Ốc, có một cựu Tổng thống Mỹ, Bill Clinton, người của 20 năm trước đã can đảm mở đường bang giao với Hà Nội giữa muôn vàn khó khăn, đi tháp tùng. Đó không thể là một thông điệp không rõ ràng hơn được về sự quan tâm trân trọng của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam.

Liệu ông Trọng sẽ mang thông điệp gì đến Washington và quan trọng nhất vẫn là sau khi rời Tòa Bạch Ốc, ông Trọng và những người đồng chí của ông sẽ làm gì để “Việt Nam trở thành một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng, độc lập, tôn trọng pháp luật và nhân quyền”?

Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam hội thảo ‘Tự do cho báo chí’

Người Việt, Sunday, July 5, 2015 4:33:41 PM

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=209870&zoneid=1#.VZvqykaq14M

Bài và hình: Việt Hùng/Người Việt

SÀI GÒN (NV) – Chiều ngày 3 tháng 7 năm 2015, tại Chùa Liên Trì số 153 Lương Đình Của, Phường An Khánh, Quận 2 Sài Gòn, Hội nhà báo độc lập Việt Nam (NBĐL) đã tổ chức hội thảo “Việt Nam: tự do cho báo chí” nhân dịp kỷ niệm một năm ngày thành lập hội (4/7/2014 đến 4/7/2015).

Đông đảo hội viên đến tham dự buổi hội thảo, mặc cho sự
ngăn chặn từ phía chính quyền.

Đông đảo hội viên thuộc khu vực phía Nam của Hội NBĐL đã tới tham dự. Đặc biệt có sự hiện diện của các lãnh sự quán Mỹ, Úc và Pháp cũng đến để tìm hiểu thêm về tự do báo chí ở Việt Nam.

Vẫn đứng vững mặc dù bị đàn áp

Mở đầu hội thảo, anh Nguyễn Thiện Nhân đã đọc báo cáo tổng kết một năm hoạt động của hội, công khai cho mọi người biết cơ quan ngôn luận của hội là trang tin Việt Nam Thời Báo, báo cáo tình trạng báo chí “lề dân” đang bị áp bức tại Việt Nam.

Khi mới thành lập, hội chỉ có 42 thành viên, thế nhưng sau một năm hoạt động và phát triển, hiện nay hội đã đạt được 82 thành viên tham dự. Mặc dầu trong hoàn cảnh bị áp bức của chính quyền, thế nhưng hội đã trưởng thành về nhiều mặt, từ nhân sự, tài chính, cách thức vận hành truyền thông.

“Đó là kết quả của sự dấn thân không mệt mỏi trong lĩnh vực báo chí độc lập của tất cả các thành viên trong hội. Tiếng nói độc lập với chính quyền của Hội đã nhận được sự ủng hộ của nhiều người, nhằm đòi hỏi đấu tranh cho một nền tự do báo chí thực sự tại Việt Nam,” anh Nhân phát biểu.

Mặc dầu, chủ tịch của hội là Tiến Sĩ Phạm Chí Dũng cũng đã không thể đến tham dự được, vì sự ngăn chặn của lực lượng an ninh, tuy nhiên ông cũng đã gửi bài tham luận nói về tình trang đàn áp báo chí của chính quyền CSVN.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc, phó chủ tịch Hội NBĐL điều hành buổi hội thảo
(bên trái là nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, cựu phó tổng thứ ký báo Thanh Niên,
bên trái là Hòa Thượng Thích Không Tánh, trụ trì Chùa Liên Trì).

“Trong chế độ độc đảng hiện nay. Báo chí chỉ là công cụ tuyên truyền, là cánh tay nối dài của Đảng CSVN, nhằm kiếm soát là làm ngu dân. Bởi vậy sự dấn thân của các anh em trong hội là rất cần thiết và đáng trân trọng. Hiện nay dường như tất cả các thành viên trong hội đều phải đối diện với nhiều mối de dọa từ phía chính quyền,” Phạm Chí Dũng nói.

“Sự thử thách đó không làm cho Hội NBĐL suy yếu mà ngược lại, hội vẫn đứng vững, vẫn kiên trì đeo đuổi hoạt động trên nguyên tắc ôn hòa, bất bạo động, tôn trọng đa nguyên chính trị, phi lợi nhuận. Hướng đến mục tiêu cổ súy cho tự do của người dân và dân chủ cho toàn xã hội Việt Nam,” trích tham luận của Tiến Sĩ Phạm Chí Dũng.

Hầu hết các ý kiến phát biểu tại hội thảo đều cho rằng, không có tự do báo chí tại Việt Nam. Báo chí hiện nay ở Việt Nam chỉ là công cụ tuyên truyền của Đảng. Chính quyền CSVN dùng báo chí như một cánh tay nối dài để kiểm soát và định hướng theo chiều có lợi cho nhà nước Cộng Sản hiện nay.

Quan tâm đến tự do báo chí cho Việt Nam

Ông Charles Sellers – trưởng phòng chính trị của tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ cho biết, “Tôi cảm ơn các bạn đã mời tôi đến tham dự cuộc hội thảo này. Chính phủ Hoa Kỳ luôn cổ súy cho nền tự do báo chí. Hiến Pháp của Hoa Kỳ cũng qui định điều này rất rõ ràng. Bản thân tôi cũng rất quan tâm đến quyền tự do báo chí ở Việt Nam.”

“Chúng tôi rất ngạc nhiên, khi trong một hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy, mà các bạn vẫn làm được những việc mà tôi cho là vĩ đại. Tôi cho các bạn là những anh hùng, vì các bạn đã dám nói lên tiếng nói trái chiều trong một môi trường độc đảng như hiện nay,” ông Charles cho biết thêm.

Ông Charles Sellers – trưởng phòng Chính Trị của tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ
(áo trắng đứng, ở giữa là Bà Erin Leggat – trưởng phòng Kinh Tế-Chính Trị của
tổng lãnh sự quán Úc và sau cùng là ông Ông Louis Raymond – tùy viên báo chí
của tổng lãnh tự quán Pháp).

Bà Erin Leggat – trưởng phòng Kinh Tế-Chính Trị của tổng lãnh sự quán Úc cho biết, “Chính phủ Úc luôn bảo vệ những nền tảng tự do căn bản, trong đó có tự do báo chí. Lãnh sự quán chúng tôi luôn cập nhật những thông tin về các nhà báo bị đàn áp, bắt bớ ở Việt Nam. Đồng thời chuyền tải những vấn đề nóng bỏng của Việt Nam ra hệ thống truyền thông của quốc tế.”

“Chúng tôi luôn mong muốn cho Việt Nam có được một nền báo chí tự do thực sự. Các công dân đều có thể thực hiện quyền tư do ngôn luận và tự do báo chí. Chính phủ Úc luôn xem Việt Nam là những người bạn đáng tin cậy. Tôi xin chúc Hội NBĐL phát triển bền vững” – Bà Erin cho biết thêm.

Mặc dầu cuộc hội thảo đã diễn ra trong vòng vây của lực lượng an ninh canh gác bên ngoài ngôi Chùa. Thế nhưng với sự nỗ lực của tất cả các anh em trong hội, buổi hội thảo cũng đã diễn ra khá thành công tốt đẹp.

 

Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ sắp thăm VN

Ông Frank A. Rose sẽ có mặt tại Việt Nam từ ngày 13 đến 14/7

Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách kiểm soát và thanh sát vũ khí của Hoa Kỳ, ông Frank A. Rose, sẽ có chuyến công du đến Việt Nam và các nước châu Á từ 5 đến 16/7.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết ông Frank A. Rose sẽ có chuyến công du đến Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam và Nhật Bản từ ngày 5/7 đến ngày 16/7 để thảo luận các vấn đề về an ninh không gian, phòng thủ tên lửa, kiểm soát vũ khí và các vấn đề an ninh song phương cũng như đa phương.

Từ ngày 6 đến ngày 9/7, ông Rose sẽ có mặt tại Bắc Kinh, Trung Quốc để thảo luận về việc tăng cường hợp tác không gian giữa hai nước cũng như vấn đề kiểm soát vũ khí đa phương.

Ngày 9 đến 10/7, ông sẽ có mặt tại Hàn Quốc để thảo luận về an ninh không gian và các vấn đề mang tính chiến lược khác.

Ngày 13 đến 14/ 7 ông sẽ có mặt tại Hà Nội, Việt Nam để làm việc với lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Trung tâm Vệ tinh Quốc gia về các vấn đề liên quan an ninh không gian và kiểm soát vũ khí đa phương.

Ngày 14 đến 16/7, ông sẽ có mặt tại Nhật Bản để gặp các quan chức Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Nhật.

Tháng Ba năm ngoái, ông Rose đã có chuyến thăm và làm việc với Trung tâm Vệ tinh Quốc gia (VNSC) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Hồi tháng Hai năm nay, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề kiểm soát vũ khí và an ninh quốc tế của Hoa Kỳ, bà Rose Gottemoeller, cũng đã có chuyến thăm Việt Nam để thảo luận về an ninh khu vực, hợp tác an ninh, an ninh hàng hải.

Trước đó, Trợ lý Ngoại trưởng chuyên trách các vấn đề về chính trị và quân sự Hoa Kỳ Puneet Talwar cũng đã có chuyến thăm Việt Nam hồi cuối tháng Một.

Trong một phát biểu tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, ông Talwar nói việc “mở rộng và củng cố quan hệ với Việt Nam” là “yếu tố mang tính quyết định” cho nỗ lực xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ.

Hồi tháng 10 năm ngoái, Hoa Kỳ thông báo dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam để giúp quốc gia này cải thiện an ninh trên biển.

TBT Việt Nam ‘muốn nói chuyện thẳng thắn với Mỹ’

  • BBC, 4 giờ trước

http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/07/150703_nguyen_phu_trong_tham_my_traloi

Ông Nguyễn Phú Trọng nói muốn có “thảo luận cởi mở, thẳng thắn” khi gặp Tổng thống Obama tại Nhà Trắng.

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam có phần trả lời bằng văn bản với một số cơ quan truyền thông Mỹ hôm thứ Sáu.

Trả lời Bloomberg qua văn bản, ông Trọng nói: “Tôi hy vọng đây là cơ hội để hai phía thảo luận cởi mở và thẳng thắn về những vấn đề còn khác biệt.”

“Điều này sẽ tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp khác biệt và dần dần xây dựng niềm tin giữa chúng ta để tăng thêm thực chất và hiệu quả cho quan hệ lâu dài giữa hai nước.”

Còn khi trả lời báo Wall Street Journal bằng văn bản, ông Trọng mô tả Hoa Kỳ là lực đẩy giúp ổn định trong vùng.

Ông cũng hoan nghênh các động thái của Mỹ nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua biện pháp hòa bình.

Bình luận với Wall Street Journal, tiến sĩ Jonathan London, từ Đại học Thành thị Hong Kong, nói: “Việc ông Trọng, người nắm giữ ý thức hệ của đảng, đi Mỹ cho thấy Việt Nam đang có sự tái cân bằng chiến lược.”

Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản đánh dấu 20 năm bình thường hóa quan hệ Mỹ – Việt.

Ông Trọng sẽ có cuộc gặp với Tổng thống Barack Obama tại Nhà Trắng.

Trong phần trả lời được Bloomberg trích dẫn, ông Trọng nói: “Đây là cơ hội tốt để nhìn lại quá khứ, trao đổi quan điểm về tương lai và cùng nỗ lực vì tình bạn và sự hợp tác lâu dài dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng chính thể của nhau.”

Ông cũng nói trong chuyến thăm Mỹ, ông sẽ thảo luận về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), hợp tác an ninh và thay đổi khí hậu.

Ban Đối ngoại TƯ Đảng Cộng sản nói ông Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm chính thức Hoa Kỳ từ 6 đến 10/7.

Tháp tùng Tổng Bí thư là đoàn gồm 2 ủy viên Bộ Chính trị: Phó Chủ tịch QH Tòng Thị Phóng và Bí thư Thành ủy TP.HCM Lê Thanh Hải; Chánh văn phòng TƯ Đảng Trần Quốc Vượng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Trưởng Ban Đối ngoại TƯ Hoàng Bình Quân; các Bộ trưởng KH-ĐT Bùi Quang Vinh, Công thương Vũ Huy Hoàng; Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình; Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh và Thứ trưởng Công an Tô Lâm; trợ lý Tổng bí thư Hồ Mẫu Ngoạt, Đại sứ tại Hoa Kỳ Phạm Quang Vinh.

Ranh giới giữa nói xấu và nói sự thật?

  • 1 tháng 7 2015, BBC

Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son nói những người dùng Facebook để “nói xấu Đảng, nhà nước thì cần phải nghiêm trị”

Chủ đề “bảo vệ lợi ích quốc gia trên mạng”, một trong bảy nhóm vấn đề chính trong Dự luật An toàn thông tin được thảo luận tại kỳ họp Quốc hội Việt Nam lần này, càng trở nên nóng khi Bộ trưởng Truyền thông và Thông tin Nguyễn Bắc Son mới đây tuyên bố phải ‘nghiêm trị’ đối với việc sử dụng Facebook để “nói xấu Đảng, nhà nước”.

Trong lúc thừa nhận rất khó áp dụng các biện pháp chế tài đối với hoạt động trên Facebook, Bộ trưởng Son khẳng định giới chức vẫn đang “tìm cách giải quyết” bởi “nếu đăng thông tin bôi xấu người khác thì quyền tự do của anh lại vi phạm pháp luật, vi phạm quyền tự do của người khác”.

Facebook là mạng xã hội được ưa chuộng tại Việt Nam, với tổng số người dùng hàng tháng lên đến 30 triệu người, theo số liệu được đưa ra gần đây.

Phản ứng ngay lập tức của Nguyễn Tiến Trung, một cựu tù nhân chính trị ở TP. HCM, là: “Tôi và cộng đồng mạng thấy bất bình về câu nói của Bộ trưởng Son. Cộng đồng mạng phản đối chuyện này.”

Theo Tiến Trung, “cần phân biệt giữa ‘nói xấu, bôi nhọ’ với việc nói ra sự thật. Nếu người dân nói ra sự thật và sự thật đó đúng là xấu xa thì chúng ta không thể nói rằng đó là họ nói xấu được. Đó là họ nói thật.”

“Không thể cấm dân phê phán chính phủ. Chính phủ là do dân bầu ra, thậm chí dân có quyền phế truất, thay đổi chính phủ thông qua lá phiếu của mình. Bản thân tôi khi ở trong quân đội thì suốt ngày phải phê bình và tự phê bình. Vậy khi người dân phê bình Đảng Cộng sản thì không thể quy chụp là họ nói xấu Đảng được,” Tiến Trung nói với BBC Tiếng Việt hôm 30/6.

“Bộ luật Hình sự không có điều khoản nào quy định chế tài đối với các trường hợp người dân nói xấu lãnh đạo Đảng cộng sản. Dân có quyền làm những gì luật pháp không cấm. Do đó, ông Bắc Son nói vậy là vượt quyền, là lạm quyền,” Tiến Trung nói thêm.

Nguyễn Tiến Trung nêu quan điểm “chính quyền không thể làm cảnh sát mạng được”.

Giải pháp thích hợp nên là “những người cảm thấy bị xúc phạm hãy tự đưa đơn lên tòa yêu cầu phân xử, thay vì chính quyền phải đi theo dõi từng tài khoản Facebook xem có ai nói xấu ai, rồi bắt bớ đàn áp”, tuy Tiến Trung nói anh thấy việc nhà nước có kiểm soát ở chừng mực nhất định là điều hợp lý.

Cựu tù nhân Nguyễn Tiến Trung cho rằng nhiều người dân vẫn có tâm lý e dè, không dám bày tỏ chính kiến trên mạng xã hội là bởi “Đảng Cộng sản từ trước tới nay thường đàn áp những người lên tiếng phản kháng nhà cầm quyền”.

Tuy nhiên, Tiến Trung nhận xét rằng ngày càng có nhiều người nhận thức được “quyền làm chủ” của mình. “Họ không sợ hãi và dám công khai lên tiếng phê phán chính quyền. Đó là điều đáng mừng bởi nó thể hiện là người dân đã ý thức mạnh mẽ về dân chủ, chính quyền không thể tiếp tục quản lý xã hội theo cách thức cũ được nữa,” Tiến Trung nói.

null
Nguyễn Tiến Trung: “Nếu như có chuyện đàn áp bắt bớ xảy ra thì những người như chúng tôi, vốn đã nói thẳng, nói thật từ lâu nay rồi, sẽ phải đi tù trước tiên chứ không thể đến lượt họ. Việc đàn áp diện rộng hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn người trên mạng xã hội sẽ không thể xảy ra như trước kia được nữa.”

Với những kinh nghiệm từng trải qua, Tiến Trung cho rằng những ai đang còn ngần ngại “hãy cứ nói thẳng, nói thật những gì họ nghĩ”.

“Họ cần hiểu rằng chúng ta, những người dân bình thường, chính là những người làm chủ đất nước. Những gì chúng ta nói ra là để góp phần làm đất nước tươi đẹp hơn, không có gì sai trái hay vi phạm pháp luật. Họ không cần phải lo lắng.”

“Nếu như có chuyện đàn áp bắt bớ xảy ra thì những người như chúng tôi, vốn đã nói thẳng, nói thật từ lâu nay rồi, sẽ phải đi tù trước tiên chứ không thể đến lượt họ. Việc đàn áp diện rộng hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn người trên mạng xã hội sẽ không thể xảy ra như trước kia được nữa.”

“Tuy nhiên, chúng ta có quyền bày tỏ chính kiến của mình trên Facebook hay các mạng xã hội khác, nhưng chúng ta không nên nói chuyện cực đoan, thù hận hay kích động bạo lực. Khi phê phán bất kỳ vấn đề gì, chúng ta cũng nên đề ra giải pháp để giới chức và Đảng Cộng sản thấy rằng chúng ta là những người đàng hoàng, biết nói chuyện phải trái chứ không phải chỉ đả phá, chống đối,” Tiến Trung nhấn mạnh.

10 nước có dân số học thức nhất

10 nước có dân số học thức nhất
10 most educated countries.
(Theo 24/6 Wall Street)  Tổ chức Phát Triển và Hỗ Tương Kinh Tế (OECD) vừa công bố một bản khảo cứu cho biết là trong vòng 50 năm qua, số sinh viên đại học ở các quốc gia phát triển gia tăng gần 200 phần trăm.
Bản công bố này cũng liệt kê danh sách 10 quốc gia trên thế giới có cư dân học thức nhất trên thế giới.
image
Đứng hàng thứ 10Phần Lan với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 37 %.
Sản lượng quốc gia (GDP) tính theo đầu người là 36,585 Mỹ kim
image
 Úc Đại Lợi là quốc gia có cư dân học thức đứng hàng thứ 9 trên thế giới,
với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học cũng 37 %.
Sản lượng GDP tính theo đầu người là 40, 719 Mỹ kim
image

Anh là quốc gia đứng hàng thứ 8 về số dân học thức,
với tỷ lệ dân số có bằng cấp cũng ở mức 37 %,
và sản lượng GDP tính theo đầu người là 35, 504 Mỹ kim
image

Na Uy là quốc gia đứng hàng thứ 7 trong bảng sắp hạng,
với sản lượng GDP ở mức 56,617 Mỹ kim một đầu người
image
Nam Hàn là quốc gia đứng hàng thứ 6,
với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 39 %,
trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 29,101 Mỹ kim
image
Quốc gia đứng hàng thứ 5Tân Tây Lan,
với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 40 %.
Sản lượng GDP mỗi đầu người chỉ ở mức 29,871 Mỹ kim
image

 Hoa Kỳ là quốc gia đứng hàng thứ 4,
với số dân có bằng cấp đại học ở mức 41 %.
Trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người là 46,588 Mỹ kim
image

Quốc gia đứng hàng thứ 3 trong bảng danh sách là Nhật,
với 44 % dần số có bằng cấp đại học.
Sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 33,751 Mỹ kim
image

Do Thái là quốc gia đứng hàng thứ 2 trong bảng danh sách
với 45 % dân số có bằng cấp đại học,
trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người chỉ ở mức 28,596 Mỹ kim
image

Canada là quốc gia đứng hàng đầu về trình độ trí thức,
với 50 % dân số có bằng cấp đại học.
Sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 39, 070 dollars

Bill Clinton gặp xã hội dân sự ở VN

BBC, 02-07-2015

Tiến sỹ Nguyễn Quang A thuật lại cuộc gặp mặt giữa cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton với tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, trong cuộc tiếp tân của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội hôm 02/7/2015, nhân 20 năm bình thường quan hệ ngoại giao Mỹ – Việt và quốc khánh Mỹ.

Theo nhà nhà quan sát chính trị – xã hội Việt Nam này, cuộc gặp có thể còn liên quan tới chuyến thăm Hoa Kỳ dự kiến vào đầu tuần sau của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.

Trước cuộc tiếp xúc kể trên, vẫn theo Tiến sỹ Quang A, ông Clinton cũng đã có cuộc gặp ‘riêng và kín’ với Phó Thủ tướng, Ngoại trưởng Việt Nam, Phạm Bình Minh và Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, ông Hoàng Bình Quân.

Tiến sỹ Quang A dùng chữ ‘cân bằng’ để so sánh việc phía Mỹ và ông Clinton đã gặp cả phía đại diện đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, cũng như gặp đại diện giới vận động dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở trong nước.

Bill Clinton gặp xã hội dân sự ở VN

bill clinton-san suu kyi

Tiến sỹ Nguyễn Quang A thuật lại cuộc gặp mặt giữa cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton với tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, trong cuộc tiếp tân của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội hôm 02/7/2015, nhân 20 năm bình thường quan hệ ngoại giao Mỹ – Việt và quốc khánh Mỹ.

Theo nhà nhà quan sát chính trị – xã hội Việt Nam này, cuộc gặp có thể còn liên quan tới chuyến thăm Hoa Kỳ dự kiến vào đầu tuần sau của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.

Trước cuộc tiếp xúc kể trên, vẫn theo Tiến sỹ Quang A, ông Clinton cũng đã có cuộc gặp ‘riêng và kín’ với Phó Thủ tướng, Ngoại trưởng Việt Nam, Phạm Bình Minh và Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, ông Hoàng Bình Quân.

Tiến sỹ Quang A dùng chữ ‘cân bằng’ để so sánh việc phía Mỹ và ông Clinton đã gặp cả phía đại diện đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, cũng như gặp đại diện giới vận động dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở trong nước.

Phỏng Vấn TS Nguyễn Quang A

“Bình thường với VN là một trong những thành tựu quan trọng nhất của tôi”

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150702/binh-thuong-voi-vn-la-mot-trong-nhung-thanh-tuu-quan-trong-nhat-cua-toi/771042.html

02/07/2015 21:02

TTO – Phát biểu tại lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ Việt – Mỹ, cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton cho biết quyết định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995 là một trong những thành tựu quan trọng nhất của ông.

Cựu tổng thống Bill Clinton phát biểu tại lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ - Ảnh: Quỳnh Trung
Cựu tổng thống Bill Clinton phát biểu tại lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ – Ảnh: Quỳnh Trung
Cựu tổng thống Bill Clinton nâng ly chúc mừng Phó thủ tướng Phạm Bình Minh, Ðại sứ Ted Osius cùng phu quân - Ảnh: Quỳnh Trung
Cựu tổng thống Bill Clinton nâng ly chúc mừng Phó thủ tướng Phạm Bình Minh, Ðại sứ Ted Osius cùng phu quân – Ảnh: Quỳnh Trung

“Có rất nhiều lý do khi quyết định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, bao gồm các lý do cá nhân, chính trị, và địa chính trị. Tuy nhiên phải nói là ký quyết định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam là một trong những thành tựu quan trọng nhất của tôi,” ông Bill Clinton phát biểt.

Ngày 11-7-1995, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao mang tính lịch sử giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tuyên bố năm 1995 là một trong nhiều việc làm của Tổng thống Clinton nhằm giúp hai nước nâng cao tinh thần hòa giải và cùng nhau hướng tới tương lai, bao gồm cả việc dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại và cuộc đàm phán cho một thỏa thuận song phương.

Trong bài phát biểu của mình, ông Bill Clinton cũng gửi lời cảm ơn đến các quan chức ngoại giao của cả hai bên, cảm ơn chính phủ Việt Nam đã góp phần thúc đẩy quan hệ Việt – Mỹ.

Chia sẻ về chuyến thăm Mỹ sắp tới của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, ông Bill Clinton hi vọng Tổng bí thư sẽ hài lòng về chuyến thăm và những gì ông ấy nhìn thấy ở nước Mỹ.

Ông Bill Clinton nhắn gửi với giới truyền thông rằng ngoài đưa tin về chuyến thăm của Tổng Bí Thư, họ cũng nên đưa tin về đất nước và con người Việt Nam để người Mỹ có thể nhìn thấy một đất nước Việt Nam thay đổi như thế nào trong 20 năm qua. Cựu tổng thống Mỹ cho biết Việt Nam là một đất nước của những người dân cần cù, thông minh, của những cảnh đẹp tuyệt vời và đất nước của một tương lai vô cùng xán lạn.

Tham gia lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ tối 2-7 là lần thứ năm ông Bill Clinton đến Việt Nam.

Chuyến thăm đầu tiên của ông Bill Clinton đến Việt Nam với tư cách là Tổng thống Mỹ diễn ra vào tháng 11 năm 2000.

Sau khi rời Nhà Trắng, ông tiếp tục trở lại Việt Nam trong các cương vị khác nhau lần lượt vào năm 2006, năm 2010, và năm 2014.

QUỲNH TRUNG

Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton

Về sức khỏe Tướng Phùng Quang Thanh

BBC, 02-07-2015
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/07/150702_phungquangthanh_health
 
Đại tướng Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La 2013

Báo trong nước đưa tin Đại tướng Phùng Quang Thanh vừa được phẫu thuật phổi tại Pháp và ‘sức khỏe tiến triển tốt’.

Một thời gian nay các mạng xã hội dồn dập tin đồn về Bộ trưởng Quốc phòng, nhất là khi lần cuối ông Thanh xuất hiện trước công chúng là vào ngày 19/6, khi được Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian tiếp đón tại Paris.

Cuối ngày 1/7, báo Tuổi Trẻ dẫn nguồn Ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương cho hay Đại tướng Phùng Quang Thanh “đã đi Pháp trị bệnh cách đây một tuần”.

Nguồn tin này nói tối 30/6, ông Thanh “đã được phẫu thuật, có thể là một khối u phổi”.

Theo Tuổi Trẻ, ông bộ trưởng bắt đầu ho nặng từ hai tháng trước, chưa phát hiện ung thư nhưng một vùng phổi bị xơ vì vết thương từ thời chiến.

Báo này cũng dẫn nguồn tin nói ông có “những dấu hiệu đáng ngại của căn bệnh” ung thư phổi.

Trong khi đó báo Tiền Phong sáng 2/7 cũng dẫn nguồn tin khả tín của mình nói ông Phùng Quang Thanh vừa được phẫu thuật và “hiện sức khỏe tiến triển tốt”.

“Dự kiến, Đại tướng Phùng Quang Thanh sẽ về nước trong thời gian tới.”

Vắng mặt Đại hội

Dư luận đã nhắc nhiều tới sự vắng mặt của Đại tướng Phùng Quang Thanh trong các sự kiện chính trị quan trọng ở trong nước.

Ông đã không tham dự Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX năm 2015 khai mạc sáng thứ Tư 1/7 tại Hà Nội, sự kiện do Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức.

Ông Thanh cũng vắng mặt trong cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 hôm 29/6 vừa qua.

Gần như chắc chắn, vì lý do sức khỏe ông Phùng Quang Thanh sẽ không tham gia được chuyến thăm Hoa Kỳ tuần tới của Tổng Bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng.

Câu hỏi một số nhà quan sát đặt ra là vai trò của Tướng Thanh sẽ do ai đảm nhiệm, dù là tạm thời, vì Việt Nam đang phải đối phó nhiều vấn đề cấp bách về quốc phòng.

Ngày 19/6, Quốc hội Việt Nam đã thông qua dự thảo Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi) với trên 83% đại biểu nhất trí.

Trong đó, Điều 28 về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng đã bổ sung thẩm quyền “Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, quyết định giao quyền bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Bộ trưởng Nội vụ trong trường hợp khuyết bộ trưởng hoặc thủ trưởng cơ quan ngang bộ” cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII vừa bế mạc hôm 26/6 và cuối năm mới họp lại.

Tuy nhiên Luật Tổ chức chính phủ (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 19/6 chỉ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016, cho nên hiện chưa rõ trong trường hợp ông Thanh không thể tiếp tục làm việc, Thủ tướng có thể giao quyền bộ trưởng cho nhân vật khác được hay không.

‘Quân đội VN trung thành với Tổ quốc’

http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/07/150701_vn_army_country_loyalty

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa phát biểu rằng Quân đội ở Việt Nam “phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam..”, thu hút sự chú ý của dư luận.

Câu nói của Thủ tướng Dũng đặt Tổ quốc lên trên, khác với nội dung thường nêu ở Việt Nam cho là Quân đội “phải trung với Đảng”.

Các văn bản chính thức tại Việt Nam những năm gần đây thường viết rằng Quân đội cần phát huy truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Nội dung như vậy đã được nêu ra hồi 2014, khi Thư viện Quốc gia Việt Nam tổ chức triển lãm Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, nhân dịp Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập 22/12/1944-2014.

Trung thành với dân tộc

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong phát biểu hôm 1/7/2015 cũng đưa vào câu nói của ông khái niệm Quân đội “trung thành với dân tộc và Hiến pháp”.

Tuy thế, ông Dũng cũng nói tại Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX năm 2015 vừa khai mạc sáng thứ Tư 1/7 tại Hà Nội rằng Quân đội Nhân dân VN cần “nghiêm túc chấp hành sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đoàn kết một lòng xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh về mọi mặt, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc…”

Ngoài ra, ông cũng nhắc lại rằng “Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.”

Báo Việt Nam cùng ngày trích đăng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “nêu rõ, mỗi cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng trong toàn quân phải tiếp tục thấm nhuần tư tưởng thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu,”

Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thu hút sự chú ý của dư luận

“Quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và cụ thể hóa phương hướng, mục tiêu của Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân…”

Trong phát biểu này, ông Dũng cũng đặt tư tưởng ái quốc của cố lãnh tụ Hồ Chí Minh lên cao, không nhắc đến ý thức hệ cộng sản hay cụm từ quen thuộc ‘chủ nghĩa xã hội’.

Cố Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng Quân đội Nhân dân Việt Nam dòng chữ ‘Trung với nước, hiếu với dân’.

Theo một số nhà quan sát, đây là nội dung lời thề quan trọng nhất, đứng đầu trong Mười lời thề danh dự của quân nhân Quân đội Nhân dân Việt Nam khi thành lập năm 1944:

“Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tiêu diệt bọn phát xít Nhật-Pháp và bọn Việt gian phản quốc, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập và dân chủ ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới.”

Nội dung này sau bị sửa thành:

“Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.”.

Từ đó, khi nhắc đến Quân đội Nhân dân Việt Nam, thay vì “Trung với nước, hiếu với dân” thì quan chức và báo chí ở Việt Nam lại nói “Trung với Đảng, hiếu với dân”.

Đại hội hôm thứ Tư tại Hà Nội đã vắng bóng Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.

Trên Đoàn chủ tịch, người ta thấy ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Thường vụ Quân ủy, ngồi giữa hai ủy viên khác là hai thượng tướng Ngô Xuân Lịch và Đỗ Bá Tỵ.

Nhà Trắng gặp gỡ các nhà hoạt động người Việt trước chuyến thăm của TBT Nguyễn Phú Trọng

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/activists-to-wh-w-us-vn-relation-issues-tt-07012015214008.html

Thanh Trúc, phóng viên RFA.  2015-07-01

nqq-622

Thể theo lời mời của NSC tức Hội Đồng An Ninh Quốc Gia  Hoa Kỳ, một nhóm các nhà hoạt động Mỹ gốc Việt đã vào Nhà Trắng chiều thứ Tư 1 tháng Bảy để thảo luận về quan hệ Mỹ Việt với các viên chức cấp cao trong NSC.

Vi phạm nhân quyền ở Việt Nam

Sau buổi gặp gỡ, một trong những người được mời là bác sĩ Nguyễn Quốc Quân thuộc tổ chức Tập Hợp Vì Nền Dân Chủ Việt Nam, đã dành cho Thanh Trúc bài phỏng vấn sau đây:

Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân: Chúng tôi nhận được lời mời của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia cách đây hai ngày, họ có nói khoảng 2 giờ  chiều họ muốn mời mình đến họp tại Eisenhower Executive Office Building thuộc White House để bàn về vấn đề liên hệ chủ yếu là bang giao Việt Mỹ.

Thanh Trúc: Xin ông cho biết những người được mời, ngoài ông ra thì còn ai nữa?

BS Nguyễn Quốc Quân: Chúng tôi thấy có sự hiện diện của tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc BPSOS, ông tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ cựu tù nhân chính trị, anh Hoàng Tứ Duy và cô Huỳnh Trang thuộc Việt Tân, tôi và bác sĩ Nguyễn Thể Bình và một thanh niên trẻ nữa là anh Đức thuộc đảng Dân Chủ ở trên Boston, Massachusetts.

Thanh Trúc: Theo nội dung cuộc nói chuyện hôm nay thì điều gì bác sĩ có thể trình bày?

BS Nguyễn Quốc Quân: Chúng tôi trình bày cái chính là những vấn đề vi phạm nhân quyền ở Việt Nam và những biện pháp làm sao có thể cải thiện vấn đề một cách gốc rễ chứ không phải chỉ trong một giai đoạn ngắn rồi sau đó khi nhà cầm quyền cộng sản đã được vào TPP lại thay đổi.

Cái thứ hai, chúng tôi nhấn mạnh đến nhu cầu dân chủ hóa Việt Nam để Mỹ có một đồng minh thực sự ở Việt Nam. Chúng tôi cũng nói nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam nổi tiếng hay nuốt lời, không thi hành các lời hứa, vì thế cần phải có những biện pháp bảo đảm rằng thỏa hiệp kinh tế đó sẽ phải được thi hành một cách đàng hoàng, phải có những biện pháp trừng phạt nếu nhà cầm quyền cộng sản vi phạm.

Đó là những điểm chính, sau đó thì chúng tôi cũng nói đây là một dịp tốt, một cơ hội bằng vàng để chính phủ Mỹ có thể một mặt thực hiện được một chính sách ở Á Châu thành công, đồng thời cũng giúp đỡ nhân dân Việt Nam có một đời sống tự do hơn, dân chủ hơn.

Thanh Trúc: Thưa bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, ông có nhận thấy ông giám đốc Á Châu Sự Vụ Dan Kritebrink và cả ông Stephen Pomper giám đốc quan hệ đa phương và nhân quyền trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia có xoáy vào vấn đề tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ hoặc là cải tổ chính trị ở Việt Nam hay không?

BS Nguyễn Quốc Quân: Hiện diện thì tôi cũng nói thêm là có bà Elizabeth Phú cũng thuộc hàng giám đốc về Á Châu của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Chúng tôi thấy tất cả 3 người đều ghi nhận và nói rằng những điều trình bày của chúng tôi sẽ được nêu lên trong cuộc gặp gỡ giữa tổng thống và ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng dự trù sắp sang đấy tuần tới.

Dân chủ hóa Việt Nam

Thanh Trúc: Theo như ông nói thì có phải cuộc gặp gỡ hôm nay với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia có mục đích tìm hiểu sâu hơn, có mục đích vận động dư luận thế nào đó trước chuyến viếng thăm của tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam?

BS Nguyễn Quốc Quân: Cũng rất là khó nói, nhưng họ có nêu vấn đề ông Nguyễn Phu Trọng sang đây, và họ có nói rằng thường xuyên chúng tôi có những cuộc thảo luận với Bộ Ngoại Giao, với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, hoặc các nhân vật ở Quốc Hội vẫn có những ý kiến hoặc điều trần. Thành ra nói rằng vì chuyện ông Nguyễn Phú Trọng không thôi thì tôi không dám quả quyết nhưng tôi nghĩ đó cũng là một phần .

Thanh Trúc: Những người được mời vào White House hôm nay kỳ vọng kết quả như thế nào?

BS Nguyễn Quốc Quân: Tất cả mọi người đều trình bày những khía cạnh khác nhau như vi phạm về tôn giáo, vi phạm về quyền tự do thành lập nghiệp đoàn của người lao động rồi những quyền tự do khác. Chúng tôi cũng nói những khó khăn trong vấn đề cải thiện tình hình bang giao Việt Mỹ đi kèm với nhân quyền, nhấn mạnh nước Mỹ chỉ có thể tìm được một đồng minh thực sự và trung thành và có thể giúp cho kế hoạch trở lại Á Châu của Mỹ ở một nước Việt Nam tự do dân chủ mà thôi. Dân chủ hóa Việt Nam là yếu tố cần thiết trong vấn đề thành công của Mỹ.

Nói tóm lại chúng tôi xoay quanh nhiều vấn đề, đi sâu vào nhiều vấn đề làm sao cải thiện nhân quyền ở Việt Nam một cách lâu dài, đặt nền tảng bền vững cho một nền dân chủ ở Việt Nam. Chúng tôi cũng nhấn mạnh đó là nhu cầu cần thiết mà nước Mỹ cần phải thực hiện tại nó là phần lớn sự thành công hay thất bại của chính phủ Mỹ.

Thanh Trúc: Sau cùng họ có đưa ra một lời cam kết gì không hay chỉ ghi nhận mà thôi?

BS Nguyễn Quốc Quân: Họ có nói tất cả những gì quí vị trình bày hôm nay đề được ghi nhận và chúng tôi sẽ cố gắng trình bày và xin cam đoan với quí vị là vấn đề nhân quyền sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc gặp gỡ đó.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn bác sĩ Nguyễn Quốc Quân.

Đại hội quân đội họp vắng tướng Thanh

Chủ tịch đoàn trong lễ khai mạc Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần IX

Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX năm 2015 vừa khai mạc sáng thứ Tư 1/7 tại Hà Nội.

Đây là một trong các hoạt động chính trị thuộc loại lớn nhất do Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức.

Tuy nhiên trong lễ khai mạc sáng 1/7 vắng bóng Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.

Trên Đoàn chủ tịch, người ta thấy ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Thường vụ Quân ủy, ngồi giữa hai ủy viên khác là hai thượng tướng Ngô Xuân Lịch và Đỗ Bá Tỵ.

Tại Đại hội còn có hiện diện của các ông Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư; Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng tướng Phạm Thanh Ngân, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Đại hội thi đua quyết thắng được tổ chức 5 năm một lần, lần trước Đại tướng Phùng Quang Thanh có mặt.

Ông Thanh cũng vắng mặt trong cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 hôm 29/6 vừa qua.

Đại tướng Phùng Quang Thanh vừa có chuyến thăm, làm việc tại châu Âu, trong đó ngày 19/6 ông hộ̣i kiến Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian ở trụ sở Bộ Quốc phòng nước này.

Báo Việt Nam đồng loạt đăng hình Tướng Thanh và ông Le Drian bắt tay nhau và thông tin “Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là hết sức coi trọng quan hệ với Pháp, cũng như sẵn sàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng của Pháp tiếp cận thị trường Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực Pháp có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu”.

Trước đó ông Thanh công du Ấn Độ từ 23/5-26/5 và được Thủ tướng Nerendra Modi tiếp.

Theo kế hoạch, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh sẽ có mặt trong đoàn đại biểu Việt Nam, dẫn đầu là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đi thăm chính thức Hoa Kỳ vào đầu tháng Bảy này.

Theo báo chí chính thống ở Việt Nam, Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân có mục đích “đánh giá kết quả và rút ra những kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức để từng bước nâng cao hơn nữa phong trào thi đua quyết thắng trong thời gian tới”, “góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”.

Tin liên quan

  • VN, TQ ‘nối lại dần’ quan hệ quân sự 20 tháng 10 2014
  • ‘Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô?’, 17 tháng 10 2014
  • 13 tướng Việt Nam thăm Trung Quố, 16 tháng 10 2014

Tin chính

‘Quân đội VN trung thành với Tổ quốc’

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói Quân đội Nhân dân Việt Nam ‘phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Hiến pháp’. 29 phút trước

Phụ nữ Việt ở Đài Loan: Bạo lực gia đình 19 phút trước

Góc nhìn và chuyên mục

Cẩm nang cho người nước ngoài ở London
Cần làm gì để không thất nghiệp?
‘Mạng xã hội chưa gây ảnh hưởng chính trị ở VN’
Biển Đông lại dậy sóng?
Khí phách Trần Quang Cơ
Đặt tên gì cho sân bay Long Thành?
Nhân quyền Việt Nam và Asean theo báo cáo Mỹ
TBT Trọng sẽ đạt được gì ở Mỹ?

‘Quân đội VN trung thành với Tổ quốc’

BBC, 01-07-2015
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/07/150701_vn_army_country_loyalty
 

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa phát biểu rằng Quân đội ở Việt Nam “phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam..”, thu hút sự chú ý của dư luận.

Câu nói của Thủ tướng Dũng đặt Tổ quốc lên trên, khác với nội dung thường nêu ở Việt Nam cho là Quân đội “phải trung với Đảng”.

Các văn bản chính thức tại Việt Nam những năm gần đây thường viết rằng Quân đội cần phát huy truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Nội dung như vậy đã được nêu ra hồi 2014, khi Thư viện Quốc gia Việt Nam tổ chức triển lãm Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, nhân dịp Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập 22/12/1944-2014.

Trung thành với dân tộc

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong phát biểu hôm 1/7/2015 cũng đưa vào câu nói của ông khái niệm Quân đội “trung thành với dân tộc và Hiến pháp”.

Tuy thế, ông Dũng cũng nói tại Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX năm 2015 vừa khai mạc sáng thứ Tư 1/7 tại Hà Nội rằng Quân đội Nhân dân VN cần “nghiêm túc chấp hành sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đoàn kết một lòng xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh về mọi mặt, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc…”

Ngoài ra, ông cũng nhắc lại rằng “Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.”

Báo Việt Nam cùng ngày trích đăng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “nêu rõ, mỗi cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng trong toàn quân phải tiếp tục thấm nhuần tư tưởng thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu,”

null

Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thu hút sự chú ý của dư luận

“Quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và cụ thể hóa phương hướng, mục tiêu của Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân…”

Trong phát biểu này, ông Dũng cũng đặt tư tưởng ái quốc của cố lãnh tụ Hồ Chí Minh lên cao, không nhắc đến ý thức hệ cộng sản hay cụm từ quen thuộc ‘chủ nghĩa xã hội’.

Cố Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng Quân đội Nhân dân Việt Nam dòng chữ ‘Trung với nước, hiếu với dân’.

Theo một số nhà quan sát, đây là nội dung lời thề quan trọng nhất, đứng đầu trong Mười lời thề danh dự của quân nhân Quân đội Nhân dân Việt Nam khi thành lập năm 1944:

“Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để tiêu diệt bọn phát xít Nhật-Pháp và bọn Việt gian phản quốc, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước độc lập và dân chủ ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới.”

Nội dung này sau bị sửa thành:

“Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.”.

Từ đó, khi nhắc đến Quân đội Nhân dân Việt Nam, thay vì “Trung với nước, hiếu với dân” thì quan chức và báo chí ở Việt Nam lại nói “Trung với Đảng, hiếu với dân”.

Đại hội hôm thứ Tư tại Hà Nội đã vắng bóng Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.

Trên Đoàn chủ tịch, người ta thấy ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Thường vụ Quân ủy, ngồi giữa hai ủy viên khác là hai thượng tướng Ngô Xuân Lịch và Đỗ Bá Tỵ.

Hai tấm ảnh liên quan đến tin đồn Phùng Quang Thanh bị… ám…

http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/hai-tam-anh-lien-quan-en-tin-on-phung.htmlhttps://diendancuachungta.com/wp-content/uploads/2015/06/1494e-tmp-danlambao.jpg

CTV Danlambao – Trong phiên họp thường kỳ của chính phủ CSVN diễn ra vào ngày 29/6/2015, ở chỗ ngồi có bảng tên Phùng Quang Thanh, xuất hiện một ông tướng khác không phải là ông Thanh. Sự kiện này đã được Danlambao đăng tải trong bối cảnh tin đồn ông Thanh “bị mất tích” hơn 10 ngày qua. Tuy nhiên, trong một bài báo khác tường trình phiên họp chính phủ này, lại xuất hiện 1 tấm ảnh có hình ông Phùng Quang Thanh tham dự. Thế là thế nào!?
Phùng Quang Thanh: không có mặt!!!
Phùng Quang Thanh: có mặt!!!
Trên trang nguyentandung.org, trong bài “Thủ tướng chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2015”, thì hình ảnh sau đây được đăng tải với ghi chú dưới hình là: Thủ tướng chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2015. (Ảnh internet)
Trong ảnh này có Phùng Quang Thanh:
Hình chụp lại bài viết trên trang nguyentandung.org:
Một tấm ảnh khác có mặt Phùng Quang Thanh trong phiên họp cũng được trang An Ninh Tiền Tệ & Truyền Thông (cơ quan của hội Luật gia Việt Nam) sử dụng trong bài tường thuật lại phiên họp 29/06/2016 của chính phủ với nhan đề “Thủ tướng không hài lòng vì lãnh đạo tỉnh không biết Nghị quyết Chính phủ”.
Đối chiếu 2 tấm ảnh “có và không có Phùng Quang Thanh” chúng ta thấy có nhiều chỗ khác nhau và từ đó kết luận rằng 2 tấm ảnh này không thuộc vào một buổi họp cùng ngày:

Tìm lại hình ảnh của những phiên họp chính phủ trước thì mới thấy rằng, tấm ảnh có Phùng Quang Thanh là phiên họp Chính phủ thường kỳ vào tháng 2/2015:

Tại sao trước những tin đồn Phùng Quang Thanh mất tích, bị ám sát không hoặc chưa được kiểm chứng,  cũng như không có một tuyên bố nào từ chính phủ hay Bộ quốc phòng thì lại có chuyện đưa hình ông Thanh từ phiên họp tháng 2/2015 vào phiên họp tháng 6/2015?
29.06.2015

Hội Nhà báo ĐLVN ra tuyên bố số 6 phản đối công an đàn áp ông Phạm Chí Dũng

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok.  2015-06-29
Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.
Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014. File photo

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, một tổ chức xã hội dân sự không thuộc Nhà nước, hôm nay ra tuyên bố số 6 phản đối Công an Thành phố Hồ Chí Minh đàn áp chủ tịch hội là ông Phạm Chí Dũng.

Theo nhận định thì biện pháp của công an nhằm loại bỏ tờ báo của hội mà sau chưa đầy một năm ra đời đã thu hút được nhiều độc giả quan tâm tình hình đất nước, muốn biết sự thật.

Thực tế đàn áp

Tuyên bố nhắc lại việc chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, ông Phạm Chí Dũng trong hai ngày 25 và 26 tháng 6 vừa qua bị nhân viên an ninh ép đi làm việc.

Đây không phải là lần đầu tiên mà trong vòng chưa đầy hai năm kể từ cuối năm 2013 sau khi công khai từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam, rồi tham gia thành lập Hội Nhà báo Độc lập, ông Phạm Chí Dũng từng bị triệu tập gần 20 lần, bị bắt giữ một số lần, bị tịch thu hộ chiếu cấm xuất cảnh. Và cơ quan an ninh thường xuyên theo dõi ông.

Một người biết vụ việc của chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nhà báo Võ Văn Tạo, từ Nha Trang cho biết:

“ Về yêu cầu của bên Công an đối với anh Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập yêu cầu phải dẹp bỏ tờ Việt Nam Thời báo- tờ báo mạng của Hội Nhà báo Độc lập, thì tôi cũng biết thông tin này. Ngay tối anh Dũng được thả ra sau khi bị bắt lúc sáng đến 5 giờ chiều mới được thả ra; sau đó có thông tin trên mạng Internet là công an yêu cầu anh như thế.

Công an hỏi về liên quan với nhà văn Nguyễn Quang Lập- Bọ Lập; họ lấy cớ vụ án của Nguyễn Quang Lập là chưa điều tra, nên muốn điều tra những quan hệ với nhà văn; nhưng chủ yếu là họ yêu cầu anh Dũng chấm dứt trang báo đó.”

Nhận định lý do

Bản thân chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, ông Phạm Chí Dũng cũng có nhận định là cơ quan an ninh muốn loại bỏ mạng Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam:

Cuối cùng họ đưa ra yêu cầu đóng trang Việt Nam Thời báo, và tôi hiểu là tiếp sau trang Việt Nam Thời báo là họ nhấn mạnh phải loại trừ vai trò ở Hội Nhà báo Độc lập đối với cá nhân tôi

ông Phạm Chí Dũng

“ Họ mời tôi với cớ về vụ Nguyễn Quang Lập vì vụ đó chưa đình chỉ; nhưng tôi hiểu đó chỉ là cái cớ thôi vì hầu hết những câu hỏi không phải hỏi về Nguyễn Quang Lập mà hỏi về Hội Nhà báo Độc lập và trang Việt Nam Thời báo thôi. Cuối cùng họ đưa ra yêu cầu đóng trang Việt Nam Thời báo, và tôi hiểu là tiếp sau trang Việt Nam Thời báo là họ nhấn mạnh phải loại trừ vai trò ở Hội Nhà báo Độc lập đối với cá nhân tôi.”

Ông Phạm Chí Dũng trong một lần đi biểu tình phản đối Trung Quốc
Ông Phạm Chí Dũng trong một lần đi biểu tình phản đối Trung Quốc


Một người cho biết hằng ngày vẫn phải vượt tường lửa để vào mạng xem Việt Nam Thời báo của Hội Nhà báo Độc lập cho biết lý do phải tìm đến với tờ báo này:

“ Tại vì tờ báo đó là tờ báo đa chiều, nó tập hợp những bài viết, những quan điểm khác nhau và không giấu diếm những sự thật.

849 cơ quan báo đài của Nhà nước thì thông thường những bài viết ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà Nước cho dù đó là sự thật đi nữa cũng không được đăng lên. Những tiếng nói trái chiều hay không đúng chủ trương Nhà nước thì lại không được đăng tải. Cho nên tôi phải đi tìm những trang như Việt Nam Thời báo để tìm những tin tức, những sự thật để hiểu biết chính xác về tình hình của đất nước.”

Nhà báo Võ Văn Tạo đưa ra nhận định về lý do tại sao công an thẳng thừng đưa ra yêu cầu đối với chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam phải ngưng Việt Nam Thời báo:

“ Ở Việt Nam ai sống lâu năm ở thể chế này đều biết rằng mọi thứ mà không do Đảng cộng sản chủ trương lập ra thì đều bị coi là bất hợp pháp và là kẻ thù nguy hiểm của thể chế. Không chỉ hội Nhà báo, kể cả những hội thông thường nhất như Hội Làm vườn; bất cứ hội gì Đảng đều tìm cách cài cắm người mình vào. Từ lâu chúng tôi biết rằng những hội đó do Đảng lập ra chẳng qua chỉ là những thứ hình thức để xiềng xích tất cả những giai tầng trong xã hội thôi.

Trang mạng tờ Việt Nam Thời Báo ngày 29 tháng 6, 2015
Trang mạng tờ Việt Nam Thời Báo ngày 29 tháng 6, 2015


Thế thì Hội Nhà báo Độc lập do anh Phạm Chí Dũng làm chủ tịch khi ra mắt thì như cái gai. Mà trong năm 2014 không chỉ có Hội Nhà báo Độc lập mà có một số hội đoàn, xã hội dân sự khác nữa như Công đoàn Độc lập, Hội Phụ nữ cũng độc lập… chừng trên 20 hội độc lập như thế  và họ tự tuyên bố thành lập chứ không đăng ký vì có đăng ký cũng không bao giờ được công nhận; mà theo truyền thống là đăng ký với cơ quan Sở Nội vụ thì tôi tin chắc chắn họ sẽ cung cấp cho đăng ký vì những tổ chức đó không phải do Đảng lập ra. Nên Hội Nhà báo Độc lập như một cái gai đối với thể chế này và đối với an ninh.”

Ở Việt Nam ai sống lâu năm ở thể chế này đều biết rằng mọi thứ mà không do Đảng cộng sản chủ trương lập ra thì đều bị coi là bất hợp pháp và là kẻ thù nguy hiểm của thể chế. Không chỉ hội Nhà báo, kể cả những hội thông thường nhất như Hội Làm vườn; bất cứ hội gì Đảng đều tìm cách cài cắm người mình vào

Nhà báo Võ Văn Tạo

Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nhà báo Phạm Chí Dũng, chia sẽ một số nguồn tin mà ông có được về mạng Việt Nam Thời báo của hội này:

“ Tôi có nghe những thông tin ( không biết có đúng không) là phía chính quyền đánh giá trang Việt Nam Thời báo và Hội Nhà báo Độc lập hiện nay có tầm ảnh hưởng khá rộng; đặc biệt ảnh hưởng đến cả khối công chức và người về hưu thành thử có thể đó là lý do họ không muốn tồn tại một chủ thể mặc dù đã được hiến định trong Hiến pháp năm 1992 và 2003. Họ không muốn tồn tại một Hội Nhà báo Độc lập bên cạnh một Hội Nhà báo Việt Nam. Và vẫn muốn giữ vai trò chuyên chế, độc tài về các hội đoàn dân sự của Nhà nước. Đó là nguồn thông tin riêng của tôi, tôi nghe được như vậy.

Một cơ sở nữa có lẽ lượng truy cập đối với Việt Nam Thời báo tăng đáng kể trong thời gian một năm vừa qua. Lượng truy cập bình quân hiện nay của Việt Nam Thời báo một ngày là từ 70- 80 ngàn; khi cao hơn có 100 ngàn một ngày. Có lẽ đó là một lý do để Nhà nước và ngành Công an cảm thấy lo ngại sự ảnh hưởng của trang Việt Nam Thời báo; đặc biệt là chúng tôi đặt ra yêu cầu trang Việt Nam Thời báo phải gia tăng tính phản biện về các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và kể cả tôn giáo nữa; phản ánh sự thật khách quan và nói lên tiếng nói của người dân.

Tôi nghĩ rằng trong một xã hội mà người ta không quan tâm nhiều lắm, hay quan tâm rất ít về tự do ngôn luận và kể cả vấn đề tự do tư tưởng, tự do báo chí thì có lẽ người ta chưa quen với sự tồn tại của cơ chế xã hội dân sự và các tổ chức xã hội dân sự độc lập như là Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam.”

Báo chí Nhà nước và báo chí độc lập

Nhà báo Võ Văn Tạo cho biết trong thực tế tại Việt Nam có nhiều trang mạng của những người được gọi là ‘trí thức dấn thân’ cũng bị chặn tại Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều người quan tâm đến thông tin sự thật vẫn tìm cách vượt tường lửa để đến với các trang mạng đó và nhà báo Võ Văn Tạo cho rằng cuộc chiến giữa cơ quan tuyên truyền Nhà nước và truyền thông ‘lề dân’ không chịu sự kiểm soát nào là một cuộc chiến một mất, một còn.

“ Trong thời đại phát triển khoa học- kỹ thuật có Internet, có facebook  và có các phương tiện truyền thông khác và rất khó chặn. Có những quốc gia như Trung Quốc họ cũng ngặt nghèo hơn nhưng tôi cho rằng cũng vẫn bị lọt vì theo tôi việc họ chặn thì vẫn cứ ngăn chặn nhưng cái đà tiến bộ của khoa học- kỹ thuật và tiếp cận của cộng đồng ‘trí thức dấn thân’ thì tôi cho rằng người ta vẫn tìm cách vượt qua.

Hiện nay ở Việt Nam một số trang web trang blog cá nhân mà mạnh dạn, tương đối thẳng thắn và can đảm cũng bị chặn; rất khó vào nhưng những người biết cách bày nhau để vào xem.”

Xin được nhắc lại Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam với tờ báo mạng Việt Nam Thời báo ra đời vào ngày 4 tháng 7 năm ngoái.

Khí phách Trần Quang Cơ

29 tháng 6 2015
Ông Trần Quang Cơ (ở giữa, complet màu tối) đã tham gia quá trình bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ

Chắc hẳn nhiều người còn nhớ buổi giao ban năm ấy… Với sắc mặt thất thần, ông Trần Quang Cơ gần như gào to giữa phòng họp: “Mọi người biết không, người ta sắp cắt thủ cấp Nguyễn Cơ Thạch để dâng cho nước ngoài rồi”.

Đoán “triều đình” có biến, lũ chúng tôi (những đứa lần đầu được dự giao ban), chẳng ai bảo ai, im thin thít. Tôi cố gắng tập trung vào “Bản tin A” (*) nhưng đầu óc thì nghĩ mông lung.

Không tham quyền cố vị

Trước tháng 12/1986, đại sứ Trần Quang Cơ được Bộ triệu tập về họp. Khi trở sang nhiệm sở (Bangkok), ông kể lại với một cán bộ tâm phúc về quyết định của “anh Thạch” dự kiến điều ông về nước làm thứ trưởng ngoại giao và giới thiệu ông vào Ban Chấp hành TƯ Đảng.

Ông lưỡng lự trước đề nghị của Bộ trưởng và tâm sự: “Với cơ chế của ta thì không thể làm việc được”. Sợ ông từ chối cái ghế nhiều người đang mơ ước, cán bộ tâm phúc ấy nói với ông rằng, anh nên nhận lời anh Thạch. Cố nhiên, anh không đi thì “chợ vẫn đông”, nhưng anh làm sẽ tốt hơn khối người khác.

Thế mới biết, tại sao năm 1991, rồi năm 1993 ông lại đề nghị được rút khỏi danh sách Ban Chấp hành TƯ. Đặc biệt và có thể nói vô tiền khoáng hậu (xin lỗi nếu có ngoại lệ), ông từ chối cả cái ghế Bộ trưởng Bộ Ngoại giao khi Tổng Bí thư Đảng đã có quyết định.

Khí phách Trần Quang Cơ hẳn nhiên đạt tới “đỉnh” khi ông quyết định công bố “Hồi ức và Suy nghĩ” khá sớm, khoảng đầu 2001. Chính nhà ngoại giao Dương Danh Dy cũng không hiểu vì sao được ông tín nhiệm, giao tận tay một lúc cả hai bản đánh máy. Thấy chắc chắn sẽ có ích cho cái chung, ông Dy góp thêm một số ý kiến, sau đó công khai đưa lên mạng.

Hồi ký Trần Quang Cơ lập tức trở thành sách gối đầu giường đối với nhiều nhà quan sát và giới cầm bút muốn có nguồn tư liệu trung thực để phân tích tình hình Việt Nam những năm hậu chiến, thậm chí để hiểu thấu được cả những sự kiện mà hệ lụy của chúng còn kéo dài mãi tới hôm nay và mai sau.

Cống hiến và phản biện

Trần Quang Cơ đóng góp nhiều cho Ngành từ những ngày ông về phụ trách Vụ 2, vụ đối sách với Mỹ, đàm phán tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia, bình thường hóa với Trung Quốc. Từ những năm ấy, ông đã xác quyết các ý đồ và âm mưu của Trung Quốc đối với Việt Nam, đặc biệt là âm mưu cướp biển đảo.

Và Trần Quang Cơ đã bảo vệ đến tận cuối cuộc đời mình tất cả những kế sách mà ông cho là hiệu quả trong cuộc đấu tranh không cân sức với Trung Quốc.

Ông đã lên tiếng kêu gọi phải khẩn trương trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và sớm gia nhập ASEAN. Triết lý sống còn về an ninh của đất nước được ông khái quát khá sớm: “Trong cái thế anh nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì anh sẽ bị ép”. Đối với ông, chiến lược an ninh và đối ngoại phải hết sức linh hoạt, phải phù hợp với xu hướng chung của cục diện chính trị-kinh tế thế giới, nhất thiết phải tương thích với những đặc điểm lớn của thời đại đại.

Nhưng rồi ông cũng cay đắng đưa ra nhận xét, ngày ấy, ta đã làm những việc cần thiết đối với Mỹ và ASEAN “chậm trễ tới cả mười năm”.

Sau này, ngay cả khi đã “rửa tay gác kiếm” ông vẫn sẵn lòng cho chúng tôi biết thêm một số chi tiết giá trị trong cuộc vật lộn ngoại giao đằng sau các cuộc chiến, đặc biệt là những bão táp thời hậu chiến mà ông là người trong cuộc, có lúc từng là tác nhân và nhờ sự tỉnh táo mách bảo, biết rút ra sớm khỏi cuộc chơi trước khi có thể trở thành nạn nhân.

Phản biện thông minh và luôn có ý thức tích lũy để cống hiến. Từng là cán bộ địch vận, thuyết phục binh lính Pháp, cùng làm việc với nhiều “cây đa, cây đề” trong làng ngoại giao và văn hóa, một thời dưới trướng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Từ ngày chuyển về Bộ Ngoại giao, ông càng có cơ hội phát huy tầm nhìn xa trông rộng đối với các vấn đề mỗi khi góp phần vào việc đề xuất chính sách.

Có lẽ các phẩm chất tử tế nói trên đã làm Trần Quang Cơ thành danh như nhận xét của nhà báo tự do Huy Đức. Tuy nhiên, chiến cuộc ngoại giao mà suốt đời ông phụng sự một cách tận tụy thì vẫn còn đó… và đang hết sức nan giải.

Nhưng vận mệnh đất nước không thể cứ “bèo dạt mây trôi” như thế này mãi. Ông ra đi nhưng dường như vẫn muốn nán lại để hỏi chúng ta: “Những người đang sống phải làm gì?”

Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong của riêng tác giả, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, nguyên Trưởng Nhóm Tư vấn Lãnh đạo Bộ Ngoại giao.

* Bản tin A: bản tin lưu truyền nội bộ hàng ngày của Bộ Ngoại giao

Không phải là VN đang dùng ‘khổ nhục kế’

Nhà báo Phạm Chí Dũng nói các vụ câu lưu, sách nhiễu của an ninh VN đối với ông có thể liên quan tới chuyến thăm TQ của Tổng bí thư Đảng Cộng sản VN.

Một nhà báo độc lập ở Việt Nam cho rằng việc một số người trong chính quyền và ngành an ninh ‘sử dụng vũ lực’ với ông trong hai ngày liên tiếp tuần này cho thấy một điều ‘bất thường’ trước chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam.

Trao đổi với BBC hôm 27/6/2015 từ Sài Gòn, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, cho rằng các vụ an ninh VN liên tục ‘câu lưu’, ‘sách nhiễu’ ông ở nơi công cộng, cũng như trước đó là các vụ hành hung các bloggers, nhà hoạt động như Nguyễn Chí Tuyến, Đinh Quang Tuyến, ‘đánh vào mặt’ của họ, để lại các vết thương ‘dễ thấy’, có thể giúp gây ‘bất thuận lợi’ cho chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ.

Chủ tịch Hội nhà báo độc lập Việt Nam cho rằng có thể có quan hệ giữa vụ ông bị câu lưu mới nhất với chuyến đi nói trên và kể cả vụ ‘Giàn khoan HD981’ lại được kéo vào khu vực gần Hoàng Sa mà Việt Nam bị Trung Quốc cưỡng chiếm trên Biển Đông.

Tuy nhiên, ông không cho rằng các vụ bị cáo buộc là ‘bạo lực’, ‘sách nhiễu’, ‘hành hung’ đối với các bloggers, nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền Việt Nam ở trong nước trước chuyến thăm của ông Trọng tới Mỹ là một ‘kế khổ nhục’ để Việt Nam sử dụng đối phó với Trung Quốc.

Khổ nhục kế?

8bdd4-pcd12

Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Tổng biên tập tờ báo mạng Việt Nam Thời Báo, nói:

“Tôi không nghĩ là Việt Nam đủ bản lĩnh để có thể thực hiện khổ nhục kế, đặc biệt là khổ nhục kế về chính trị, thời này khác thời xưa rất nhiều rồi, trình độ, bản lĩnh của những người làm chính trị Việt Nam hiện nay thua xa những người hồi trước.

“Và tôi không nghĩ là họ có đủ khả năng và cho dù họ có mong muốn thì họ cũng không thể thống nhất được với nhau, đặc biệt từ sau vụ (trang mạng) ‘Chân dung Quyền lực’, để họ có thể thực hiện được khổ nhục kế.”

“Tôi nghiêng về giả thuyết đấu tranh giữa các phe phái trong nội bộ nhiều hơn.

“Và dường như là việc cố ý vi phạm nhân quyền trước chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ nó báo hiệu một cơn giông tố đang chập chờn ở đâu đó, trong tương lai.

“Đặc biệt khi mà mùa đại hội đảng cơ sở đang diễn ra để chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ 12 tới vào đầu năm 2016”.

‘Hạn chế tự do’

Chưa rõ phán đoán này của nhà hoạt động xã hội có cơ sở tới đâu, nhưng riêng về mặt đánh giá về tình trạng ‘nhân quyền’ ở Việt Nam, mới đây một Báo cáo Thường niên về Tình hình Nhân quyền các nước do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố hôm 25/6, phần tóm lược Báo cáo liên quan Việt Nam, có đoạn:

“Chính quyền hạn chế các quyền tự do ngôn luận, báo chí và trấn áp những người bất đồng quan điểm; hạn chế quyền tự do sử dụng Internet, tự do tôn giáo; theo dõi các nhà hoạt động; và tiếp tục hạn chế quyền riêng tư và quyền tự do hội họp, tự do lập hội, và tự do đi lại.”

Và trong một đoạn tóm lược khác, báo cáo liên quan Việt Nam nói thêm:

“Những vấn đề quyền con người nổi bật nhất trong nước vẫn là: sự hạn chế nghiêm ngặt của chính quyền đối với quyền chính trị của công dân, đặc biệt là quyền của công dân trong việc thay đổi chính quyền thông qua bầu cử tự do và công bằng; hạn chế quyền tự do dân sự của công dân; không bảo vệ đủ quyền pháp lý của công dân, gồm bảo vệ trước sự bắt bớ vô cớ.”

Trong cuộc trao đổi hôm thứ Bảy với BBC, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng cũng cho hay ông đã tuyên bố với an ninh Việt Nam là ‘không cá nhân nào’ có thể đơn phương quyết định ‘chấm dứt hoạt động’ của tờ báo mạng ‘Việt Nam Thời Báo’ khi ông bị an ninh yêu cầu ‘thôi hoạt động’ của tờ báo.

Vì theo ông, tờ báo đã trở thành một ‘sản phẩm’, một ‘sự nghiệp’ của phong trào dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở trong nước.

LS Lê Quốc Quân: Tôi luôn hành động vì một Việt Nam tốt đẹp hơn

Luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân mãn hạn tù và đoàn tụ với gia đình hôm 27/6/2015 ảnh chụp cùng vợ và 2 người em trai

Luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân mãn hạn tù và đoàn tụ với gia đình hôm 27/6/2015 ảnh chụp cùng vợ và 2 người em trai

Photo FB Lê Quốc Quyết

Luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân mãn án tù 30 tháng với cáo buộc ‘trốn thuế’; tuy nhiên thực chất ông bị tù do những hoạt động đấu tranh cho quyền con người và một Việt Nam phát triển tốt đẹp hơn.

Dù khi ở trong nhà tù, ông vẫn tiếp tục hoạt động đấu tranh và thậm chí có thể cải hóa phần nào những cán bộ trại giam như trình bày của ông trong cuộc trả lời phỏng vấn biên tập viên Gia Minh của Đài Á Châu Tự Do sau hơn 24 tiếng đồng hồ được trả tự do.

Luật sư Lê Quốc Quân: Chưa cập được gì nhiều về đời sống. Hôm qua rời khỏi cổng nhà tù, hôm nay vừa mới về đến nhà. Toàn bộ anh em, bạn bè đang đến nhà tôi đây. Thực ra chưa được nghỉ ngơi gì nhưng thấy khỏe mạnh.

Gia Minh: Điều mà luật sư thấy quan tâm nhất lúc này sau khi ra khỏi tù là gì?

Luật sư Lê Quốc Quân: Trước mắt vào ngày mai hay ngày kia, tôi phải đi khám sức khỏe. Tôi cần phải kiểm tra tổng thể sức khỏe vì phải nói vừa kinh qua rất nhiều biến động phức tạp cả về mặt tâm sinh lý và cả về mặt thể chất ở trong nhà tù; cho nên cần phải khám sức khỏe đầy đủ.

Sau đó tôi cũng muốn gặp gỡ bạn bè để lắng nghe thông tin cũng như để cập nhật thêm nhiều thông tin về kinh tế, chính trị, xã hội nữa.

Rồi cũng phải về quê thắp hương cho ông bà, tổ tiên; sau đó lại quay ra Hà Nội.

Gia Minh: Ngoài những công việc riêng, cho sức khỏe; sắp đến đây những điều mà trước đây luật sư ấp ủ muốn thực hiện sẽ có những điều kiện gì tốt hơn để thực hiện?

Luật sư Lê Quốc Quân: Về điện kiện tốt hơn hay xấu hơn thì tôi chưa biết như thế nào, vì tùy vào điều kiện hoàn cảnh của xạ hội bên ngoài này. Ba mươi tháng trong tù, tôi không có nhiều thông tin. Tuy nhiên, có một điều cần phải khẳng định là từ trước đến nay và 30 tháng trong nhà tù cũng như khi ra nhà tù thì tôi luôn luôn làm việc, luôn luôn hành động vì một Việt Nam tốt đẹp hơn và ngay như 30 tháng ở trong nhà tù, phải nói tôi cũng làm việc liên tục: đấu tranh để đòi những quyền lợi tốt hơn cho anh em thường phạm, anh em tù hình sự rồi tư vấn pháp lý cho họ. Đối với những anh em tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị thì tôi thường thường xuyên trao đổi, liên lạc, làm việc với nhau.

Có một điều cần phải khẳng định là từ trước đến nay và 30 tháng trong nhà tù cũng như khi ra nhà tù thì tôi luôn luôn làm việc, luôn luôn hành động vì một Việt Nam tốt đẹp hơn

Luật sư Lê Quốc Quân

Và đối với những cán bộ quản giáo, những người gọi là cảnh sát tư tưởng, thì tôi tranh luận, trao đổi thường xuyên. Không hiểu vì sao nhưng thường xuyên trao đổi, thường xuyên tranh luận, cập nhật thông tin cũng như đấu tranh về mặt tư tưởng nên tôi thấy rất vui là mình làm được nhiều việc hiệu quả cho anh em. Và thậm chí nói như một số cán bộ trại giam là họ cũng đã tiến bộ rất nhiều, phát triển và học tập được rất nhiều. Họ nói như vậy.

Luật sư Lê Quốc Quân cùng dân oan Hưng Yên tranh đấu năm 2012
Luật sư Lê Quốc Quân cùng dân oan Hưng Yên tranh đấu năm 2012

Cá nhân tôi cũng học tập được rất nhiều, tôi thấy mình có nhiều điều cần phải lưu ý, điều chỉnh rồi làm sao cho thực sự mình tốt hơn, mình giỏi hơn, sức chịu đựng của mình lớn hơn. Mình phải có nghị lực sống mạnh hơn và phải có trình độ hiểu biết sâu sắc hơn nữa nhằm gánh vác những công việc quan trọng trong tương lai lớn hơn.

Gia Minh: Được biết tại Trại An Điềm có những tù chính trị từ Phú Yên thuộc nhóm Hội đồng Công Luật Công Án Bia Sơn, và cựu tù nhân Nguyễn Xuân Nghĩa cũng cho biết họ là những tù nhân có vẻ cam chịu. Luật sư có thể chia sẽ là sau một thởi gian giúp đỡ cho họ thì nay họ có những nhận thức ra sao không?

Luật sư Lê Quốc Quân: Đúng là họ cam chịu. Bản thân họ là một tôn giáo, họ hoạt động tôn giáo. Lúc đầu họ bị khởi tố phạm vào điều 258 như dạng tiến hành truyền đạo và tổ chức hoạt động tôn giáo bất hợp pháp, ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước và công dân. Nhưng sau đó lại chuyển đổi quyết định khởi tố sang điều 79 và truy tố họ với những án rất nặng. Nhưng trong phiên sơ thẩm, họ chấp nhận điều đó.

Tuy nhiên trong quá trình làm việc, tôi nghe họ nhiều thì tôi thấy đây thực chất là một tôn giáo và họ bị như thế là oan quá. Tôi bảo họ gửi hồ sơ vào.  Họ gửi vào những bản kết luận điều tra do chính các cơ quan Nhà nước tiến hành điều tra; nhưng trong kết luận điều tra đó cũng chứng minh họ chỉ hoạt động tôn giáo thôi. Tôi cũng trao đổi với họ rất nhiều và họ cũng một lòng tin tưởng bị oan nhưng chưa cất lên tiếng nói cho đến khi giáo chủ của họ- người bị kết án chung thân và ở một trại khác, đưa ra thông điệp bị oan và phải kêu về việc này. Ngày 30 tháng tư vừa rồi, 5 người ở tại Trại giam An Điềm ở cùng khu với tôi đồng loạt viết đơn kêu oan gửi lên các cơ quan Nhà nước, kêu oan xem như chống lại bản án đó. Đã có các thanh tra tư pháp đến làm việc với họ rồi. Tinh thần của họ rất tốt và bây giờ họ thấy chuyện đó đối với họ là oan ức hoàn toàn.

Tôi phản đối Trung Quốc gây hấn và tôi phản đối bản án đối với chính mình; tôi đòi công lý cho mình và công lý cho tất cả những người đang còn bị giam oan khác ở trên Việt Nam

Luật sư Lê Quốc Quân

Gia Minh: Luật sư đã đấu tranh cho trường hợp bị oan của bản thân và những người bị oan khác; bây giờ ra ngoài có điều kiện hơn chắc sắp đến luật sư cũng lên tiếng tiếp cho những trường hợp oan ức của các tù nhân lương tâm tại Việt Nam; luật sư có thể chia sẻ về điều này?

Luật sư Lê Quốc Quân: Về dự định tương lai chi tiết thì tôi chưa có; nhưng tôi đã bắt đầu từ ngay trong tù: từ ngày 10 tháng 6 vừa rồi tôi gửi một thông báo lên Ban Giám thị, sau này thông báo này được chuyển đến Viện Kiểm Sát và Tổng Cục 8. Trong thông báo tôi nói rõ ràng là tôi khởi động một tiến trình tư pháp để tôi đòi công lý cho riêng mình và đòi công lý cho bất cứ nạn nhân oan sai nào khác trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Và tôi khởi động bằng việc tiến hành tuyệt thực và tọa kháng ngay tại nhà tù. Tôi phản đối Trung Quốc gây hấn và tôi phản đối bản án đối với chính mình; tôi đòi công lý cho mình và công lý cho tất cả những người đang còn bị giam oan khác ở trên Việt Nam.

Còn chuyện cá nhân lên tiếng thì tôi không biết thế nào được, nhưng đối với tôi là một luật sư thì tôi cố gắng làm theo đúng tinh thần của pháp luật, theo khả năng và sự hiểu biết nhất của tôi về mặt pháp lý.

Gia Minh: Biết luật sư rất bận rộn và chưa được khỏe, xin thay mặt quí thính giả của Đài Á Châu Tự Do cám ơn luật sư và chúc ông mau khỏe, tiếp tục mọi công việc của bản thân.

Luật sư Lê Quốc Quân: Tôi cũng xin cám ơn Đài và thông qua làn sóng này xin bày tỏ lòng cám ơn của mình đối với tất cả những ai trực tiếp hoặc gián tiếp, rồi âm thầm hay công khai đã cổ võ, ủng hộ tôi trong suốt thời gian tôi bị giam ở trong tù.

Tôi nguyện cố gắng hết sức mình, cũng như từ trước đến nay, tôi sẽ làm tất cả mọi điều mà tôi cho rằng tốt đẹp cho Việt Nam, vì một Việt Nam phát triển, hùng cường, thịnh vượng. Và chỉ có khi chúng ta phát triển được thịnh vượng trở thành một đất nước dân chủ, tự do, thịnh vượng thì chúng ta mới có đủ năng lực để bảo vệ chủ quyền biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước chúng ta.

Tôi rất lạc quan và tin tưởng vào tương lai của Việt Nam.

Gia Minh: Cám ơn luật sư.

Sài Gòn: CA bắt nhà báo Phạm Chí Dũng

 http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/sai-gon-ca-bat-nha-bao-pham-chi-dung.html
Nhà báo Phạm Chí Dũng. Ảnh: Thuỵ My.

CTV Danlambao – Ông Phạm Chí Dũng – chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam đã bị công an bắt đi không rõ tung tích vào lúc sáng nay, 25/6/2015 tại Sài Gòn.

Thông tin này đã được nhà báo Thuỵ My (RFI) xác nhận trên blog và cho biết thêm:
“Ba giờ sáng Paris, tức 8 giờ sáng VN thứ Năm 25/06/2015, Thụy My nhận được một tin nhắn vỏn vẹn ba chữ:”Anh bị bắt”. Ngay sau đó là một cuộc gọi ngắn gọn của anh Phạm Chí Dũng, cho biết sáng nay anh vừa ra khỏi nhà thì bị khoảng hai chục người dùng vũ lực buộc anh phải theo họ. Anh tỏ ra rất bình tĩnh.” 
Hiện các cuộc gọi đến số máy nhà báo Phạm Chí Dũng không thể thực hiện được.
Trước đó nhiều ngày, ông Dũng đã bị cơ quan CA.TPHCM gửi giấy triệu tập 3 lần liên tiếp để tra hỏi về nội dung ‘các bài viết liên quan đến Nguyễn Quang Lập’.
Theo luật cộng sản, nếu bị triệu tập 3 lần mà không có mặt thì sẽ bị cưỡng chế. Điều này đã khiến lực lượng CA lạm dụng để thực hiện hành vi bắt bớ tuỳ tiện đối với những người đối lập.
Vụ trấn áp diễn ra chỉ vài giờ sau khi có tin Thượng viện Hoa Kỳ thông qua dự luật về Quyền Thúc đẩy Thương mại (TPA) trao quyền đàm phán nhanh cho tổng thống về hiệp định TPP.

* Cập nhật: Lúc 17 giò chiều ngày 25/6/2015, có tin nói rằng nhà báo Phạm Chí Dũng đã ra khỏi đồn CA và về đến nhà.

25/06/2015

Trùm tham nhũng Lê Thanh Hải kêu gọi ‘nêu gương liêm khiết’

http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/trum-tham-nhung-le-thanh-hai-keu-goi.html

Bảng Đỏ (Danlambao) – Tại hội nghị phòng chống tham nhũng hôm 22/6/2015, bí thư thành uỷ TP.HCM Lê Thanh Hải đánh giá tình hình tham nhũng ‘vẫn diễn ra nghiêm trọng’, đồng thời ‘đề nghị’ những quan chức đứng đầu thành phố ‘phải nêu gương liêm khiết’.

“Bằng tinh thần tự phê bình, Ban thường vụ Thành ủy TP nhận thấy công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế so với mục tiêu, yêu cầu của nghị quyết, kết luận, kế hoạch đề ra và sự kỳ vọng của người dân”, báo Tuổi Trẻ dẫn lời Lê Thanh Hải nói.
Theo cổng thông tin điện tử Chính phủ, ông Hải còn đưa ra đề nghị người đứng đầu “phải đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi người; phải nêu gương về sự liêm khiết của người cán bộ và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”.
Cướp đất, ép dân đến đường cùng
Đối với người dân Sài Gòn, Lê Thanh Hải đã lộ nguyên hình là trùm tham nhũng số 1 trong suốt thời gian nắm quyền hàng chục năm qua. Do đó, chuyện kêu gọi ‘liêm khiết’ chỉ là trò mị dân trơ trẽn khi sắp hết nhiệm kỳ.
Hồi năm 2012, nhân vật này thậm chí còn tự biến thành trò cười khi mạnh miệng tuyên bố: “Tham nhũng nghiêm trọng không xảy ra ở TP.HCM”. Khi so sánh 2 phát biểu trên, Lê Thanh Hải chẳng khác nào đang tự vả vào mặt mình.
Không chỉ tham nhũng tiền dân, nhóm lợi ích do Lê Thanh Hải bảo kê chính là thủ phạm cướp đất, đẩy hàng chục ngàn hộ dân ra đường.

Nhiều trường hợp người dân đã phải tự thiêu phản đối, có người phải chết trong uất hận, nhiều người khác bị bỏ tù vì phản đối cướp đất…

Hầu hết các đơn thư tố cáo tội ác của bí thư thành ủy Lê Thanh Hải đều bị lờ đi, bởi lẽ nhân vật này là 1 trong 16 ủy viên bộ chính trị được đảng cộng sản bảo kê.

Thậm chí, những người viết đơn tố cáo còn bị trả thù, khủng bố, bị dồn ép đến đường cùng.

Điểm mặt thế lực tham nhũng Lê Thanh Hải 

Tại Sài Gòn, bí thư Lê Thanh Hải không có đối thủ chính trị, mọi quyền lực đều nằm trong tay gia đình, anh em và con cái của ông này.
Con trai đầu của bí thư Lê Thanh Hải là Lê Trương Hải Hiếu (sinh năm 1981) hiện đang giữ chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân quận 1, đây khu vực trung tâm của Sài Gòn và cũng là nơi có mức sống cao nhất của thành phố về mọi mặt.
Em trai ông Hải là Lê Tấn Hùng hiện đang giữ chức Chỉ huy trưởng Lực lượng Thanh niên xung phong TPHCM.
Vợ ông Hải là bà Trương Thị Hiền, hiệu trưởng trường cán bộ TPHCM. Bà Trương Thị Hiền là em ruột bà Trương Mỹ Hoa, cựu phó chủ tịch nước. Sui gia với gia đình ông Lê Thanh Hải là ông Huỳnh Ngọc Sỹ hiện đang ngồi tù do tham nhũng.
Gia tộc Lê Thanh Hải
Ngoài ra, những tay sai đắc lực trong việc cướp đất dân nghèo đều được bí thư Lê Thanh Hải cất nhắc đưa lên cao. Điển hình là nhân vật Tất Thành Cang sau một thời gian ra sức cướp đất của nhân dân quận 2 nay đã được đưa lên giữ chức phó chủ tịch UBND TP.HCM.
Có thể khẳng định, thế lực tham nhũng số một tại Sài Gòn không ai khác chính là Lê Thanh Hải.
Dưới đây là một số bài viết, bằng chứng tố cáo tội ác của trùm tham nhũng Lê Thanh Hải:

Con đường tháo chạy của đại gia đỏ

Giáo Già (Danlambao)…Có những con đường tháo chạy chánh thức. Còn có những con đường đen và con đường vòng bên ngoài luật pháp, hay chen qua các kẻ hở của luật pháp, khiến bây giờ người ta có thể nhận diện và nhận dạng các đại gia đỏ lũ khủ trà trộn trong cộng đồng nhiều người đã thấy nhưng không chịu điểm mặt…

Thị trấn Buford thuộc Tiểu bang Wyoming, miền Trung nước Mỹ, nằm trên đường nối liền hai thành phố lớn NewYork và San Francisco, nằm trên cao độ 8000, có diện tích rộng khoảng 40.000m2, với nửa năm lạnh buốt và xa chốn phồn hoa đô thị, cho tới đầu tháng 4 năm 2012, chỉ có 1 cư dân duy nhứt là ông Don Sammons, 61 tuổi. Ông này từng mua Buford vào năm 1992 và trở thành Thị trưởng của thị trấn kể từ năm 2007. Buford đã một thời có đến hai ngàn dân.

Ngày 5 tháng 4 năm 2012, một cuộc đấu giá thị trấn được tổ chức bởi công ty độc lập Williams & Williams thu hút nhiều khách, không chỉ cư dân Mỹ mà cả người từ 46 quốc gia trên thế giới tấp nập kéo đến để xem và tham gia đấu giá.

Hàng loạt hãng thông tấn, báo chí, nổi tiếng của Mỹ và các nước như BBC, CNN, Telegraph… cùng có mặt. Chủ nhân thị trấn là ông Don Sammons đã chấp bút giá mua một cách chóng vánh trong cuộc đấu giá diễn ra chỉ 11 phút, từ 100 nghìn ấn định ở mức đầu tiên, lên đến 900 nghìn đôla về tay ông Phạm Đình Nguyên, sinh năm 1975, từ Sài Gòn bay sang Hoa Kỳ tham dự, để trở thành cư dân duy nhất, với một cửa hàng tiện lợi, một trạm xăng, một trạm điện thoại, một cửa hàng bách hoá, một căn nhà 3 phòng ngủ, một nhà kho, nhà đậu xe, với khoảng 1.000 lượt người ghé qua mỗi ngày.

Ngày 3.9 Thị trấn Buford nổi tiếng với 1 công dân duy nhất này chính thức đổi tên thành PhinDeli tổ chức buổi khai trương long trọng bao gồm cả việc phân phối các mẫu cà phê PhinDeli miễn phí cho khách tham dự, với nhiều quan chức của tiểu bang Wyoming, kể cả Thống đốc tiểu bang. Sau đó, ông Nguyên, chủ tiệm kiêm thị trưởng, thuê một người Mỹ trông lo tất cả hoạt động của thị trấn.

Theo số liệu của National Association of Realtors (NAR) thì doanh nghiệp bán nhà cho người nước ngoài đến Mỹ trong năm 2010 có số thu 82 tỉ đôla, so với năm 2009 là 60 tỉ. Việc người nước ngoài vào Mỹ mua nhà không phải là chuyện lạ vì luật ở đây cho phép dễ dàng; nhưng việc bán một thị trấn nhỏ trong lúc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ còn kéo dài lại được một doanh nhân từ Việt Nam bay qua mua với giá cao là điều ngạc nhiên cho nhiều người. Do vậy đã có dư luận cho rằng đây là cuộc tháo chạy ngoạn mục, cắm sào cho con đường tháo chạy đang được các đại gia đỏ cho tiến hành, qua nhiều dạng thức khác nhau; điển hình như trong thập niên trước, nhiều đại gia từ Việt Nam qua Mỹ mua nhà tại những khu mới xây cất ở ngoại ô Sacramento, thủ phủ Tiểu bang California, để đầu tư. Họ mua nhà trả hết một lần bằng tiền mặt rồi cho thuê, khi giá nhà lên cao họ bán đi kiếm lời. Có nhiều nơi đại gia mua nhà cho con là du học sinh ở đi học, rồi nhờ “luật sư” tìm các kẻ hở của luật pháp cho con lưu cư hợp pháp, rồi đưa thêm người trong gia đình nhập cư, làm cuộc tháo chạy trước. Cũng với dụng ý tháo chạy, một số công ty từ Việt Nam đã qua Mỹ mua khách sạn, cơ sở thương mại ở California, Texas…

Một trường hợp rất đáng lưu ý là đại gia đỏ Tràm Bê, chủ tịch công ty chế biến thực phẩm Son Son Co. ở Việt Nam, vào năm 2009, đã mua khu thương mại Wallco Shopping Mall, rộng 50 mẫu, toạ lạc tại thành phố Cupertino, cạnh San Jose, California, với giá 64 triệu đô trả bằng bằng tiền mặt. Theo những nguồn tin chưa được phối kiểm thì đây là những địa điểm rửa tiền của các đại gia đỏ, khởi đầu cho cuộc tháo chạy trong tương lai Việt Nam bị biến thành một lãnh thổ tự trị của Tàu, theo “Thỏa Ước Thành Đô”, hoặc nỗ lực “Chống Tàu Diệt Việt Cộng” của toàn dân Việt thành công.

Mới đây tin tức dồn dập đưa lên các hệ thống truyền thông và các trang mạng điện tử cho biết một đại gia đỏ lừng lẫy, tên Henry Nguyễn, con rễ của Thái Thú Nguyễn Tấn Dũng, đã bỏ số tiền lớn, trong số ít nhứt 100 triệu đô la, để mua lại quyền sở hữu Câu Lạc Bộ Chivas USA [theo Sports Illustrated ngày 30/9], đội banh đang chơi trong Câu Lạc Bộ MLS.

Được biết, sau khi hoàn tất việc mua Chivas USA, các ông chủ sẽ đóng cửa CLB này trong tối thiểu hai năm để tái thiết lại, từ việc kiếm sân vận động mới, đổi tên cũng như thương hiệu của đội banh. Đội banh sẽ vẫn ở Los Angeles nhưng họ sẽ phải xây sân vận động tại khu vực này. Do vậy, nó được đổi tên thành Los Angeles Football Club (Los Angeles FC) và dự kiến sẽ tham gia tranh tài vào năm 2017. Đồng thời, một sân banh sẽ được xây cất và hoàn thành vào năm 2017 [xem hình], với chi phí lên đến 250 triệu mỹ kim; có 22 ngàn chỗ so với các cầu trường túc cầu khác trong hiệp hội túc cầu Bắc Mỹ MLS.
Vài cuộc tháo chạy tiêu biểu của các đại gia đỏ nêu trên làm sáng hơn cuộc tháo chạy theo con đường “du học sinh” ra nước ngoài để “cắm sào”. Theo thống kê của Cục Đào tạo với nước ngoài (Bộ GD&ĐT), CSVN hiện có trên 100.000 du học sinh (DHS) theo học tại 49 quốc gia và vùng lãnh thổ; nhiều nhất là Úc (khoảng 25.000 người). Xếp thứ nhì là Mỹ (14.888 người), kế tiếp là Trung Quốc (12.500), Singapore (7.000), Anh (6.000), Pháp (5.540), Nga (5.000), Nhật Bản (3.500). Trong đó khoảng 90% đi học bằng kinh phí tự túc.

Số DHS sau khi tốt nghiệp đều tìm cách định cư tại nước sở tại. Nhiều DHS không muốn về lại Việt Nam là nét tiêu biểu cho cuộc tháo chạy. Nếu việc vượt biên ngày trước được thực hiện bằng cách “mua bãi” với 6 lượng vàng; hoặc đi “bán chánh thức” thì cũng phải nộp ít nhứt 10 lượng vàng cho công an; thì du học ngày nay chỉ cần chứng minh tài chính và khả năng chi trả học phí, ăn ở, trung bình khoảng 30,000 USD/năm; con số được coi như quá rẻ cho các đại gia đỏ.

\

Cuộc tháo chạy này coi như có sự đồng thuận của Mỹ. Đúng vậy, chính Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear đã cho biết ông vui mừng nhận thấy Việt Nam tiếp tục đưa một số lượng lớn sinh viên đến Hoa Kỳ để học đại học [Xem hình 24/28 sinh viên Việt Nam vừa tốt nghiệp khóa điện tử và cơ khí theo học bổng IVS tại ĐH Portland State, Oregon]. Được biết, số sinh viên Việt Nam học tập và nghiên cứu tại Mỹ đứng đầu con số sinh viên nước ngoài từ khu vực Đông Nam Á. Theo Viện Giáo dục Quốc tế của Mỹ (IIE) hồi cuối những năm 90, mới chỉ có hơn 1.500 sinh viên Việt đi du học tại Mỹ và tăng trưởng đều đặn kể từ đó. Việt Nam lọt vào top 20 quốc gia có nhiều du học sinh nhất ở Mỹ trong niên khóa 2006-2007 và lọt vào top 10 kể từ năm 2010-2011…

Hơn nữa, vào ngày 30 tháng 11 năm 2012, Hạ viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu chấp thuận Dự Luật STEM-HR 6429. Tên chính thức của dự luật này là Trình độ Khoa Học, Công Nghệ Học, Kỹ Thuật Học hay Toán Học (tức Science, Technology, Engineering or Mathematics, viết tắt là STEM). Dự luật này sẽ cấp 55.000 thẻ xanh cho các sinh viên du học đạt được những trình độ cao cấp sau khi học xong ở các trường đại học Hoa Kỳ. Dự luật này đã đóng dấu ấn cho con đường tháo chạy của các đại gia đỏ. Nó cho biết người hôn phối và các con của đương đơn, của chương rình STEM, sẽ được cấp chiếu khán phi-di-dân để ở Mỹ và sau đó, người hôn phối hoặc cha mẹ của chương trình STEM có thể nộp đơn bảo lãnh họ qua chương trình đoàn tụ gia đình bình thường. Đó chỉ là con đường tháo chạy chánh thức. Còn có những con đường đen và con đường vòng bên ngoài luật pháp, hay chen qua các kẻ hở của luật pháp, khiến bây giờ người ta có thể nhận diện và nhận dạng các đại gia đỏ lũ khủ trà trộn trong cộng đồng nhiều người đã thấy nhưng không chịu điểm mặt.

18.06.2015

Giáo Già

danlambaovn.blogspot.com