Cựu quan chức lãnh sự Mỹ bị tù 5 năm

Ông Sestak làm việc ở Việt Nam từ tháng 8/2010-9/2012

Cựu quan chức ngoại giao Mỹ tại TP HCM bị tù 64 tháng vì nhận hơn 3 triệu đôla tiền hối lộ để cấp thị thực vào Mỹ.

Ông Michael Sestak, 44 tuổi, đã nhận tội từ tháng 11/2013 tại tòa án quận ở Washington.

Ba người khác cũng bị khép tội tham gia đường dây làm visa bất hợp pháp, mang lại khoản tiền hối lộ ít nhất là 9,78 triệu đôla, theo thông cáo của Cơ quan Công tố Hoa Kỳ.

Sestak, người từng chịu trách nhiệm trong bộ phận lãnh sự của cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại TP HCM, cùng các bị cáo khác đã bị buộc tội khai và nộp khống 500 hồ sơ xin thị thực.

Sestak thừa nhận đã nhận tiền để cấp visa trong khoảng thời gian từ tháng 2/2012-9/2012. Những người muốn xin visa phải trả từ 15.000 đôla tới 70.000 đôla.

Nhiều người trong số đó đã từng bị từ chối thị thực.

Theo tài liệu nộp cho tòa, ông Sestak đã thu vén được 3 triệu đôla, phần lớn được ông ta dùng để mua chín bất động sản ở Thái Lan.

Sestak làm việc ở tổng lãnh sự tại TP. HCM từ tháng 8/2010 đến tháng 9/2012.

Ông này bị bắt giữ tháng 5/2013 ở bang California.

Bốn người khác cũng bị buộc tội trong vụ án.

Trong số này có Binh Vo và em gái Hong Vo – cả hai là công dân Mỹ sinh sống ở Việt Nam.

Hai người khác mang quốc tịch Việt Nam, Anhdao Dao Nguyen, 32 tuổi, vợ Binh Vo và Truc Tranh Huynh, 31 tuổi.

Dân Thiên Tân biểu tình đòi bồi thường

 Người dân địa phương đòi giới chức phải cho biết thêm thông tin về các vụ nổ

Người dân tại thành phố Thiên Tân của Trung Quốc, nơi nhà cửa bị phá tan hoang trong vụ nổ hôm 12/8, biểu tình đòi chính phủ phải bồi thường.

Những người biểu tình tụ tập bên ngoài khách sạn Mayfair, nơi các quan chức tổ chức họp báo.

Người dân địa phương nói các nhà kho chứa hóa chất bị nổ tung trong vụ tai nạn đã được xây dựng trái phép ngay sát khu dân cư nơi họ sinh sống.

Các vụ nổ chủ yếu là tại một nhà kho dùng để chứa chất sodium cyanide.

Hiện đang có cuộc điều tra nhằm tìm lý do dẫn tới vụ tai nạn.

Nhà kho này chứa hàng trăm tấn sodium cyanide, nhiều hơn nhiều so với mức cho phép, và nằm trong phạm vi cách các ngôi nhà 500m, trong lúc luật quy định khoảng cách này tối thiểu phải là 1km.

Truyền thông địa phương trước đó tường thuật rằng đã có ít nhất ba khu dân cư nằm cách nhà kho của công ty Tiếp vận Quốc tế Thụy Hải chưa tới 1km.

Đòi bồi thường

Những người tụ tập bên ngoài khách sạn Mayfair hôm thứ Hai muốn được bồi thường về những thiệt hại xảy ra đối với nhà cửa của họ, và từ chối quay về nhà ngay cả khi những căn nhà đó được nói rằng vẫn đảm bảo an toàn.

Trong một thư ngỏ gửi giới chức, người dân nói nguồn nước ngầm của họ rất có thể đã bị nhiễm độc, và bãi rác thải của các công ty hậu cần và hóa chất nằm quá gần các khu dân cư.

Vùng ngoại ô nơi xảy ra vụ nổ được mô tả trông giống như một thành phố ma

“Những người hàng xóm của chúng tôi đã mất mạng tại đó. Những tiếng la hét của họ sẽ không thể bị xóa nhòa đi trong một thời gian dài nữa. Làm sao chúng tôi có thể sống yên ổn trong ‘địa điểm hành hình’ đó được?” lá thư viết.

Biểu tình cho tới nay vẫn là điều hiếm xảy ra ở Trung Quốc, nhưng giới chức đã cho phép có một số lời chỉ trích đối với vụ tai nạn Thiên Tân, thậm chí truyền thông nhà nước cũng lên tiếng về cách xử lý của giới chức địa phương.

Phó thị trưởng thành phố Hà Thụ Sơn cam kết: “Một khi phát hiện ra bất kỳ hành động nào vi phạm quy định pháp luât, chúng tôi sẽ dứt khoát trừng trị và giải đáp các câu hỏi của nạn nhân, những người bị ảnh hưởng.”

Các cuộc biểu tình diễn ra giữa lúc người ta vẫn chưa rõ về tác động môi trường rộng lớn của vụ nổ, tuy truyền thông nhà nước đã tìm cách dập tắt những đồn đoán về tình trạng nhiễm độc diện rộng.

Giới chức hiện vẫn đang dọn dẹp khu vực và dập tắt lửa tại điểm bị cháy cuối cùng.

Giới chức nói đến nay mới chỉ có một trạm theo dõi chất lượng không khí phát hiện ra mức hydrogen cyanide cao hơn chút ít.

Bấm vào video clip dưới đây để xem hình ảnh nạn nhân của vụ nổ này ở Thiên Tân trên Facebook:

Một vài nét về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)

TPP

Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – viết tắt TPP) là một hiệp định thỏa thuận thương mại tự do với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Thỏa thuận ban đầu được các nước Brunei, Chile, New Zealandvà Singapo ký vào ngày 03/6/2005 và có hiệu lực ngày 28/5/2006. Tháng 9/2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP, nhưng không phải “gia nhập” vào TPP cũ mà sẽ cùng các bên đàm phán một hiệp định tự do thương mại (FTA) hoàn toàn mới, tuy nhiên, vẫn lấy tên gọi là Hiệp định TPP. Sau đó, Australia, Peru, Việt Nam, Malaysia, Canada, Mexico và Nhật Bản lần lượt tham gia vào TPP, đưa tổng số thành viên TPP hiện nay lên thành 12.

Khởi động từ tháng 3/2010, đàm phán TPP đến nay đã trải qua hơn 20 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ. TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư và nếu có thể sẽ trở thành hạt nhân để hình thành FTA chung cho toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

TPP không đơn thuần là vấn đề thương mại, bằng chứng là trong 29 điều khoản của TPP chỉ có 5 điều là liên quan tới thương mại, còn lại liên quan đến những vấn đề phi thương mại như giới hạn sự riêng tư trên Internet, tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền kiện tụng đòi bồi thường, tự do hóa tài chính…Như vậy, ngoài việc thúc đẩy thương mại, TPP còn xây dựng môi trường chính sách, các tiêu chuẩn chung của các nền kinh tế để hàng hóa và các nguồn lực luân chuyển tự do, thuận lợi giữa các nước trong toàn khối.

Ngoài những mục tiêu được công khai về thương mại và các tiêu chuẩn chung cho sự hội nhập các nền kinh tế, TPP còn là trụ cột trong chính sách xoay trục của Mỹ sang châu Á. Chính sách xoay trục về châu Á của Mỹ thành hình khi Trung quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhưng lại là một chế độ cộng sản, với các mưu đồ và tham vọng bất minh, đã có những bước đi đe dọa ổn định và hòa bình khu vực biển Đông, gián tiếp thách thức vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ. Chính trong bối cảnh này, mối quan hệ Việt Nam, Mỹ và TPP rất tế nhị. Mỹ muốn lôi kéo Việt Nam là đồng minh trong việc ngăn chặn Trung quốc, nhưng lại phải bảo đảm các yêu cầu của TPP và thỏa mãn nguyện vọng của người Mỹ gốc Việt về vấn đề nhân quyền, dân chủ. Việt Nam muốn vào TPP, để giải quyết các khó khăn về kinh tế, đồng thời sử dụng Mỹ như một đối trọng với Trung quốc với hy vọng Trung quốc giảm bớt uy hiếp và bắt nạt. Nhưng Việt Nam lại không muốn ngả hẳn sang phía Mỹ bằng cách thay đổi thể chế chính trị của mình.

Về quyết tâm chính trị, Tổng thống Obama đã phát biểu tại công ty Nike ở tiểu bang Oregon hôm 8/5 vừa qua, ông Obama nói rằng theo thỏa thuận đang được bàn thảo, Việt Nam sẽ “lần đầu tiên phải nâng các tiêu chuẩn về lao động”.

“Nước này cũng phải đặt ra mức lương tối thiểu, phải thông qua các luật liên quan tới nơi làm việc an toàn để bảo vệ công nhân, cũng như thậm chí sẽ lần đầu tiên phải bảo vệ quyền được tự do lập nghiệp đoàn của công nhân. Đó là một sự khác biệt lớn.”

Tuy nhiên, khi đi vào thực tế đàm phán với Việt nam, vấn đề không đơn giản như các tuyên bố của người đứng đầu chính phủ Hoa Kỳ. Về phía Việt nam, với bản chất lươn lẹo và bịp bợm, nhưng đã bị phanh phui và vạch mặt rất nhiều sự việc, cũng không thể hứa suông và tiếp tục lật lọng như trước đây được nữa, cũng đã bắt buộc phải đáp ứng phần nào các điều kiện cốt yếu, để được tham gia vào TPP.

Vậy điều cốt yếu để Việt Nam vào TPP là gì? Việt nam và Mỹ đã thương lượng và nhượng bộ nhau như thế nào?

Có hai điều quan trọng liên quan tới chính trị, cụ thể là các chính sách ứng xử của nhà nước Việt nam với giới bất đồng chính kiến và quy định về quyền của người lao động, trong đó quan trọng nhất là quyền tự do thành lập công đoàn độc lập của công nhân. Đó là việc Việt nam phải xóa bỏ các điều luật bỏ tù giới bất đồng chính kiến khi họ bày tỏ quan điểm về các vấn đề của đất nước, xã hội như các điều 88, 258 của bộ luật hình sự. Đối với việc xóa bỏ các điều luật này, Việt Nam có thể đáp ứng được, vì không khó để dùng các điều luật khác vẫn có thể tống giam, cầm tù được giới bất đồng chính kiến. Vấn đề thành lập công đoàn độc lập của người công nhân là vấn đề phức tạp và nhạy cảm hơn rất nhiều. Đây chính là cốt lõi trong thương lượng về TPP giữa Mỹ và Việt Nam.

Những thông tin đàm phán về TPP theo quy định là được bảo mật. Nhưng may mắn là thế giới có wikileak để có thể biết được những thông tin mà một số người và tổ chức muốn giữ kín. Theo những thông tin không chính thức thì vấn đề cốt lõi, công đoàn độc lập trong đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam là Việt nam đề nghị thời gian 5 năm để thực hiện đúng các yêu cầu về công đoàn độc lập. Còn trước mắt, Việt Nam chỉ đáp ứng yêu cầu cho phép công nhân tự do thành lập công đoàn độc lập ở cơ sở, tức là ở nhà máy, xí nghiệp và công ty. Không có công đoàn ngành nghề, và cũng không được liên kết thành lập công đoàn địa phương, vùng miền hay toàn quốc. Tức là Việt nam chưa cho phép công nhân tự do thành lập công đoàn ngành nghề, công đoàn cấp huyện, tỉnh, trung ương (toàn quốc).

Tại sao phát biểu của tổng thống Obama hùng hồn như vậy, mà rút cuộc Việt nam chỉ thực hiện công đoàn ở cấp cơ sở? Có thể có ba nguyên nhân khiến cho người lao động Việt Nam chỉ được tự tổ chức công đoàn của mình trong phạm vi nhà máy, xí nghiệp và công ty. Thứ nhất, như đã nói ở trên, vấn đề xoay trục sang châu Á của Mỹ quá quan trọng và không thể thiếu được vai trò của Việt nam trong chiến lược này. Thứ hai, công đoàn độc lập, nếu thực hiện đầy đủ, là vấn đề quá nhạy cảm đối với Việt nam hiện nay. Nếu thực hiện ngay các yêu cầu đầy đủ của công đoàn độc lập, Việt Nam gần như chấp nhận một lực lượng đối lập ngay lập tức trên quy mô cả nước, và đó là điều Việt nam không bao giờ chấp nhận. Tuy nhiên, để chỉ tồn tại công đoàn độc lập cấp cơ sở, là điều chưa thành công đối với quan điểm của Tổng thống Obama đã truyền đạt. Sẽ là hợp lý nếu như công đoàn độc lập được tổ chức ở cấp ngành nghề. Thứ ba, sự vận động hành lang của nhà cầm quyền Việt nam. Đây là vấn đề rất quan trọng. Theo những thông tin mới nhận được, Việt Nam đã chi rất nhiều tiền cho hai (hoặc hơn) tổ hợp vận động hành lang là CSIS (Center for Strategic and International Studies) là cơ quan nghiên cứu chiến lược tư nhân của Mỹ và tổ chức Podesta Group, một nhóm vận động hành lang chính trị nổi tiếng tại Washington DC. Hai tổ hợp này đã có những báo cáo có lợi cho nhà cầm quyền Việt nam, bỏ qua các vi phạm về nhân quyền và nhấn mạnh tới những mối lo về sự bành trướng của Trung quốc…đây là lý do trực tiếp và quan trọng dẫn tới những thỏa thuận rất có lợi cho nhà cầm quyền Việt nam.

TPP, xét cho cùng, cũng giống như WTO, đó chỉ là những ưu đãi trong một khối nước về thuế quan và mậu dịch. Nó chỉ có thể thành công với một nền kinh tế thị trường lành mạnh, hiệu quả. Còn nếu Việt Nam không có những thay đổi ngay lập tức về nguyên lý, cơ chế và cấu trúc của nền kinh tế thì tham gia vào TPP cũng không thể nào cứu vãn nổi nền kinh tế đã suy kiệt và tan hoang hiện nay./.

Hà nội, ngày 15/8/2015

N.V.B

70 năm cách mạng đạt được gì?

14 tháng 8 2015 Cập nhật lúc 22:15 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/08/150814_cach_mang_thang_tam_hangout

CM Thang 8_1

Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét trong Bàn tròn thứ Năm hôm 13/08 của BBC rằng, mục tiêu ban đầu của Cách mạng tháng Tám đã “bị phản bội”.

Ông là con trai của ông Vũ Đình Huỳnh, người từng là thư ký riêng của ông Hồ Chí Minh.

Ông Vũ Thư Hiên nói: “Nó bị phản bội một cách từ từ chứ không phải ngay lập tức. Không có cái mốc nào cho sự phản bội cả. Nhưng nếu phải đặt ra một cái mốc thì tôi nghĩ là từ năm 1949 khi mà biên giới Việt Nam và Trung Quốc gắn liền, khi cách mạng Trung Quốc đã thành công.”

Ông Trần Tiến Đức, con trai thị trưởng đầu tiên của Hà Nội – ông Trần Duy Hưng, cũng cho rằng, sau 70 năm, tuy Việt Nam đã giành độc lập, nhưng sự độc lập chưa rõ có trọn vẹn hay chưa do vẫn bị “ngoại bang đe dọa, chủ quyền đất nước vẫn bị xâm phạm”.

Nhà hoạt động xã hội Lê Hiền Đức, người hay lên tiếng đấu tranh về đất đai cùng nông dân ở Việt Nam, cũng nói những gì đang diễn ra ở Việt Nam “đi ngược lại” với mục tiêu của cách mạng là lấy đất chia cho dân nghèo, “có nghĩa là họ lấy đất của nguời nghèo mà tôi dùng từ cướp đất từ nguời dân cày cho bọn nhà giàu,” bà nói.

Ông Vũ Thư Hiên thì kể lại giai đoạn năm 1925, các hội đoàn, đảng phái chủ yếu đi theo xu hướng yêu nước, “tất cả đều chẳng biết gì về chủ nghĩa Cộng sản cả.

“Và ngay cả đến năm 30 khi thành lập Đảng Cộng sản, thì thực sự chỉ có một số người có thể hiểu lơ mơ về chủ nghĩa Cộng sản qua một số sách báo có tính chất giản lược. Chứ còn các đảng viên mà tôi biết thì vào cái giai đoạn đó các bác các chú ấy chẳng biết gì về chủ nghĩa Cộng sản.”

Ông Vũ Thư Hiên nhấn mạnh ông “không vui khi nghĩ đến ngày mà chúng ta quen dùng là Cách mạng tháng 8, mà theo tôi, gọi là khởi nghĩa tháng 8 thì đúng hơn”.

“Chúng ta thấy một hệ thống quan liêu, một hệ thống tham quan đang đè nặng lên đất nước, tước đoạt quyền của người dân, không phải chỉ là quyền tự do ngôn luận, mà cả quyền sống, quyền làm người.

“Tôi rất buồn khi nhớ lại không khí của những ngày tháng Tám năm 1945.”

Truy cập http://bit.ly/1TAxdQP để xem lại toàn bộ cuộc thảo luận.

‘Đa đảng là mô hình, không là tiêu chí’

BBC, 15 tháng 8 2015 Cập nhật lúc 21:12 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/08/150815_vuminhgiang_cachmangthang8

CM Thang 8

‘Đa đảng là mô hình, không là tiêu chí’

Đa đảng hay một đảng chỉ là ‘mô hình’, không là ‘tiêu chí’ cho sự tiến bộ, theo một sử gia từ Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nhân nhìn lại cuộc cách mạng tháng 8/1945 của Việt Nam nhân tròn bày thập niên sự kiện.

Trả lời câu hỏi liệu so với chính phủ đa đảng, đa thành phần chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ngay sau cách mạng tháng Tám, thì thể chế chính quyền độc đảng hiện tại ở Việt Nam là một sự thoái triển, hay tiến bộ, Giáo sư Vũ Minh Giang, một trong các Phó Chủ tịch của Hội này nói:

“Tôi cho rằng câu chuyện đa đảng hay một đảng chỉ là mô hình chứ nó không phải là tiêu chí để nói tới cái đó là tiến bộ hay cấp tiến, hay là lạc hậu.

“Mà vấn đề là xuất phát từ thực tế cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì theo tôi lúc năm 1945, lúc đó còn nhiều đảng phái, thì thực tế là ở đấy theo tôi cũng chưa nhận thức đầy đủ được mặt tích cực của đa đảng đâu.

‘Nhất nguyên phù hợp’

“Mà nó là một phản ánh tương quan lực lượng ở thời điểm năm 1945, không thế không được, tôi nghiên cứu lịch sử thì thấy như vậy,” Giáo sư Vũ Minh Giang nói thêm.

“Còn sau này do hoàn cảnh lịch sử hết sức khắc nghiệt của Việt Nam, nó cần vô cùng một sự thống nhất.

“Trong bối cảnh đó, tính chất chính trị nhất nguyên nó phù hợp,” sử gia nêu quan điểm.

Ở phần cuối cuộc trao đổi này, ông Vũ Minh Giang cũng đề cập tới chính quyền Trần Trọng Kim, một chính quyền đã tồn tại ở Việt Nam ngay trước chính quyền của Hồ Chí Minh và được sử sách cách mạng Việt Nam sau này coi là một chính phủ ‘tay sai, thân Nhật’.

Nhà sử học cho rằng nhiều đánh giá về chính phủ Trần Trọng Kim là ‘không công bằng’, ‘không đúng’ và cần phải được xem xét lại.

Nhận định: tên GS Vũ Minh Giang này đúng là công bộc của bè đảng phản dân hại nước CSVN. Với thời đại bây giờ, chế độ độc đảng, toàn trị, mô hình mẫu mực của cộng sản tai Đông Âu, Liên Sô, quê hương tổ quốc của CSCN/XHCN đã hoàn toàn biến mất, toàn bộ hệ thống CSCN/XHCN đã xụp đổ, đã bị vứt vào xọt rác của nhân loại, mà tên GS VMG này vẫn còn ca ngợi là thích đáng ở VN thì không còn ngôn từ gì để nói nữa.

Tháng 8/1945: Cách mạng hay Khởi nghĩa?

 

Nhà văn Vũ Thư Hiên cho rằng, Cách mạng tháng Tám của Việt Nam nên được gọi là Khởi nghĩa tháng Tám thì ‘đúng hơn’, ông nói trong Bàn tròn thứ Năm của BBC hôm 13/08.

Cuộc Cách mạng tháng Tám giành độc lập của Việt Nam xảy ra tròn 70 năm về trước. (Xem lại thảo luận tại: http://bit.ly/1TAxdQP)

“Tôi nghĩ đây là cuộc khởi nghĩa đã đưa lại nền độc lập và sau đó những mục tiêu đề ra ở những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa đã bị phản bội.

“Nó phản bội một cách từ từ chứ không phải ngay lập tức. Không có cái mốc nào cho sự phản bội cả. Nhưng nếu phải đặt ra một cái mốc thì tôi nghĩ là từ sau năm 1949 khi mà biên giới Việt Nam và Trung Quốc gắn liền, khi cách mạng Trung Quốc đã thành công,” ông nói.

“Rồi sau đó sự phân quyền tạo ra lối phân chia trên dưới mà khởi xướng là ông Tổng bí thư Trường Chinh càng ngày càng lan rộng và nó đã được nâng cao tới mức như ngày hôm nay.

“Chúng ta thấy một hệ thống quan liêu, một hệ thống tham quan đang đè nặng lên đất nước, tước đoạt quyền của người dân, không phải chỉ là quyền tự do ngôn luận, mà cả quyền sống, quyền làm người.

“Tôi rất buồn khi nhớ lại không khí của những ngày tháng Tám năm 1945.” Ông Vũ Thư Hiên là một nhân chứng lịch sử, con trai ông Vũ Đình Huỳnh – thư ký riêng của Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu lập quốc.

Nhận xét vê ý nghĩa của sự kiện này, bà Lê Hiền Đức, người hay lên tiếng đấu tranh về đất đai cùng nông dân ở Việt Nam cho rằng, đây là “niềm tự hào của dân tộc Việt Nam”, tuy nhiên, quá khứ “hào hùng đó đã bị che mờ đi bởi sự suy đồi, xuống cấp của cả một hệ thống xã hội từ các cấp quản lý trung ương cho đến địa phương”.

Nhà báo Hồng Nga cũng đặt câu hỏi với bà Lê Hiền Đức, từng làm giao liên trước Cách mạng tháng Tám, về mục tiêu ‘người cày có ruộng của cuộc cách mạng, liệu đã đạt được hay chưa.

Bà nói bà phải dùng tới từ ‘căm thù’ để bày tỏ cảm xúc do “truớc đây thì bảo là làm cách mạng để đem lại ruộng đất cho dân cày, cho người nghèo, nhưng bây giờ tôi vẫn thường nói, nó nguợc lại hẳn. Có nghĩa là họ lấy đất của nguời nghèo mà tôi dùng từ cướp đất từ nguời dân cày cho bọn nhà giàu.”

‘Rách rưới’

Nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại ấn tượng lớn về trước ngày 02/09/1945, rằng những bộ quần áo ‘đàng hoàng’ do những người thuộc chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời đó mặc đều là do ông Trịnh Văn Bô cung cấp.

“Năm ấy, toàn bộ chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều là những người rách rưới. Tất nhiên là quần áo đủ mặc nhưng không đàng hoàng như các bạn nhìn thấy trên lễ đài đâu.”

“…Tôi là người chứng kiến ông Võ Nguyên Giáp đến để nhận quần áo và giầy dép, cuối cùng lại phải đôi dép nó chật, thế là cái anh xe của nhà tôi phải mang đôi dép đấy chạy lên phố Hàng Da để đổi đôi khác.”

Trả lời câu hỏi của Hồng Nga về ý kiến cho rằng cuộc cách mạng không dữ dội như trong sách sử, ông Vũ Thư Hiên và ông Trần Tiến Đức, con trai bác sỹ Trần Duy Hưng – thị trưởng đầu tiên của Hà Nội sau cuộc Cách mạng tháng Tám, cùng cho rằng chính quyền lúc đó đã biết lợi dụng “khoảng trống quyền lực”.

“Số Đảng viên chỉ trên 1 nghìn, nhưng quan trọng là kỳ vọng của nhân dân không muốn sống nô lệ nữa, lớn hơn cả. (Xem lại thảo luận tại: http://bit.ly/1TAxdQP)

“Nên số người ít ỏi đấy khi khởi xướng lên cái danh từ không phải là Đảng cộng sản, thì phải nói là Việt Minh, tất cả những nguời không phải Việt Minh cũng xưng là Việt Minh tạo nên một làn sóng rất dữ dội.

“Và vì thế mà cái ngày 19/08 ở Hà Nội đã nổ ra cuộc cướp chính quyền mà cái cuộc cướp chính quyền ấy nổ ra đúng lúc chính phủ Trần Trọng Kim định tổ chức cuộc biểu dương lực lượng với thanh niên và sinh viên ở Nhà hát Lớn thì trong số đó mà ngày hôm đó làm mà sau này tôi có tìm hiểu, có lẽ chỉ có độ vài ba đảng viên Cộng sản, còn tất cả là những người Việt Nam tự xưng đã nắm lấy thời cơ ấy và biến nó thành cuộc khởi nghĩa.”

Nhà báo tự do Trần Tiến Đức cũng phân tích rằng những nguời lãnh đạo của Việt Minh đã “biết tận dụng khoảng trống đó và đặc biệt là biết tận dụng cái khát vọng được thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang và đuợc sống trong độc lập tự do”.

Tinh thần dân chủ

Nhà báo Trần Tiến Đức và Hồng Nga của BBC trong chương trình hôm 13/08

Ông Trần Tiến Đức kể về cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội đầu tiên vào tháng 1/1946 và đánh giá ở Hà Nội lúc đó đã có không khí dân chủ ‘thực sự’.

“Lúc bấy giờ không có Đảng cử dân bầu mà lúc bấy giờ Đảng cũng là lựa chọn mà không chỉ là đảng viên mà cả những người trí thức tiêu biểu của đất nước.”

Trong số 6 đại biểu của liên danh Việt Minh, ông Hồ Chí Minh, ông Trần Duy Hưng và bốn nhân vật khác đều là những người “ngoài Đảng”. Và để đạt được 6 ghế đại biểu Quốc hội của Hà Nội, đã có tới 176 vị tham gia tranh cử, ông nói thêm.

Trong Bàn tròn thứ Năm, nhà báo Trần Tiến Đức nhắc lại lời mở đầu Tuyên ngôn độc lập năm 1945 về quyền bình đẳng, tự do và mưu cầu hạnh phúc.

“Tôi nghĩ rằng những thông địêp ấy gửi cho dân chúng đuợc dân chúng hưởng ứng. Nhà chính trị nào làm việc đó là đã biết đánh vào khát vọng độc lập tự do của dân.

“Nhìn vào những thông điệp ấy, ta thấy rằng chúng ta có độc lập nhưng đã trọn vẹn hay chưa thì rõ ràng hiện nay chúng ta vẫn đang bị những ngoại bang đe doạ, chủ quyền đất nuớc vẫn bị xâm phạm.

“Tôi cho rằng thế hệ chúng tôi đã cố gắng làm rất nhiều nhưng mà những khát vọng độc lập tự do, dân chủ vẫn còn tồn tại và tôi hy vọng rằng những thế hệ trẻ hơn, mai sau vẫn tiếp tục đi theo con đuờng đó.”

Truy cập http://bit.ly/1TAxdQP để xem lại cuộc thảo luận của BBC Tiếng Việt.

Quân đội TQ vào nơi có vụ nổ Thiên Tân

Được biết bốn xe chở binh lính và cảnh sát quân sự đã được điều vào khu vực sau vụ nổ để tìm kiếm người mất tích và dọn dẹp hiện trường vụ nổ.

Chừng 214 binh sỹ có phương tiện phòng chống hóa chất độc hại đã từ Bắc Kinh đến Thiên Tân.

Tổ chức môi sinh Greenpeace vừa nói các hóa chất tại khu công nghiệp bị nạn ở Thiên Tân ‘tiếp tục gây nguy hiểm’ cho con người.

Các bệnh viện đã bị quá tải khi cư dân đổ về đó để được chữa trị các thương tích hoặc tìm người thân đang bị mất tích.

Chừng 10 nghìn y bác sỹ đang làm việc để chạy chữa các bệnh nhân.

Nhiều người nghe lời kêu gọi hiến máu đã tới xếp hàng dài bên ngoài các trung tâm hiến máu.

Hai vụ nổ xảy ra đêm 12/08 ở thành phố Thiên Tân phía bắc Trung Quốc, làm hàng chục người chết.

Một số báo Anh cho biết số người chết lên tới 50 và 701 người bị thương và bỏng.

Tin cho hay 12 lính cứu hỏa nằm trong số người chết và báo chí nhà nước nói vụ nổ xảy ra tại nhà kho chứa hoá chất và vật liệu cháy nổ ở khu cảng trong thành phố đêm thứ Tư.

Giới truyền thông Trung Quốc đưa tin các vụ nổ xảy ra sau khi một chuyến hàng chứa chất nổ đã phát nổ tại một nhà kho thuộc về công ty Ruihai Logistics, một công ty chuyên cung cấp dịch vụ vận chuyển các loại hóa chất độc hại và nguy hiểm.

Đài truyền hình nhà nước Trung Quốc CCTV cho biết ít nhất một người từ “công ty có liên quan” đã bị bắt giữ để thẩm vấn.

Đang có một số chỉ trích trong truyền thông Trung Quốc rằng một nhà kho chứa các hóa chất nguy hiểm như vậy lại được đặt gần một con đường chính, các khu tổ hợp nhà cửa và văn phòng.

Thiên Tân, nơi có 15 triệu người sinh sống, là một cảng lớn và một khu công nghiệp ở phía đông nam thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc.

Các hình ảnh vào video trên mạng xã hội cho thấy lửa cháy sáng bầu trời và được biết có những tòa nhà bị sập.

Chủ tịch Tập Cận Bình thúc giục “nỗ lực tối đa để cứu nạn nhân và dập tắt đám cháy”.

Vụ nổ đầu tiên xảy ra vào lúc 23:30 giời địa phương và sau đó ít giây có tiếp vụ nổ thứ hai. Có thêm các vụ nổ xảy ra sau đó, theo Tân Hoa Xã.

Cửa kính của nhiều tòa nhà trong bán kính 2km đã bị vỡ tung, các khu văn phòng bị phá hỏng và hàng trăm xe hơi bị thiêu cháy.

Những hình ảnh trên truyền thông Trung Quốc cho thấy người dân và công nhân địa phương bỏ chạy khỏi, một số máu me đầy người vì mảnh kính vỡ.

Vào lúc 12:00 giờ địa phương (04:00 GMT), 44 people thiệt mạng và tổng cộng 520 người đã được điều trị tại bệnh viện trong đó 66 người trong tình trạng nguy kịch, Tân Hoa Xã đưa tin.

Vụ nổ đầu xảy ra lúc khoảng 23:30 giờ địa phương (15:30 GMT) hôm thứ Tư và vụ thứ hai lớn hơn theo sau vài giây và tiếp đó là một loạt vụ nổ nhỏ hơn.

Nhân chứng nói mặt đất rung chuyển ở xa nhiều cây số cách nơi xảy ra vụ nổ và chấn động được cơ quan Khảo sát địa lý của Hoa Kỳ tại Bắc Kinh cách đó 160km ghi nhận như một địa chấn.

Trưởng ban tiếng Trung của BBC, Raymond Li, mô tả điều ông gọi là mọi chỉ dấu cho thấy đây là một tai nạn công nghiệp.

Truyền hình nhà nước Trung Quốc CCTV nói một lô thuốc nổ được vận chuyển phát nổ nhưng tin này chưa được xác nhận.

Trung tâm Mạng lưới Động đất Trung Quốc nói mức độ rung chuyển của vụ nổ thứ nhất tương đương với việc kích hoạt 3 tấn thuốc nổ TNT, trong khi vụ nổ thứ hai tương đương với khoảng 21 tấn thuốc nổ.

Khoảng 1.000 lính cứu hỏa cùng với 140 xe cứu hỏa cả đêm qua tìm cách dập các đám cháy.

Một số được tin đã có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ nổ vì được gọi tới do tin có một đám cháy ở trong khu vực này.

Có tin 36 lính cứu hỏa vẫn đang bị mất tích và 33 người khác đang được chữa trị tại các bệnh viện gần đó.

Ảnh và video đưa lên mạng xã hội cho thấy lửa cháy sáng bầu trời.

Người ta nói mặt đất rung chuyển tại nơi xa địa điểm xảy ra nhiều cây số.

Các hình ảnh trên mạng xã hội cho thấy lửa cháy sáng bầu trời.

Khói vẫn bốc nghi ngút dù ngọn lửa đã được dập tắt

Sức ép từ vụ nổ làm vỡ cửa kính các tòa nhà lân cận

Hàng trăm tòa nhà và xe ở khu vực cảng đã bị phá hủy

Vụ nổ đã làm rung chuyển các tòa nhà xung quanh và khiến các phương tiện gần đó phát cháy

Một ga tàu lân cận cũng bị vụ nổ làm hư hại

Vụ nổ tạo ra những cột khói cao

Hàng trăm người bị thương đang được chữa trị tại các bệnh viện

Phóng viên Xinyan Yu từ văn phòng Bắc Kinh của BBC là một trong những nhà báo đầu tiên có mặt tại hiện trường.

Hình ảnh mà phóng viên này đưa lên twitter cho thấy thảm họa “kinh hoàng” của vụ nổ làm rung chuyển thành phố Thiên Tân, cách Bắc Kinh 120 km.

Ảnh của phóng viên Xinyan Yu của BBC gửi về cho thấy nhiều xe hơi mới tinh bị cháy xém..

Người dân địa phương sơ tán khỏi khu vực trong tầm ảnh hưởng của vụ nổ

Hồi đầu tháng Tư năm nay đã xảy ra vụ nổ lớn ở nhà máy hóa chất đặt tại tỉnh Phúc Kiến, đông nam Trung Quốc, gây hỏa hoạn.

Việc xây dựng các nhà máy PX đã gặp phản đối từ phía người dân địa phương Trung Quốc, năm ngoái tại tỉnh Quảng Đông cũng vì lý do này mà nổ ra biểu tình bạo lực.

Báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng đưa tin đây là vụ nổ thứ hai ở nhà máy này trong hai năm qua.

Ông Trầm Bê ủy quyền cổ phần cho NHNN

 
Gia đình ông Trầm Bê đang sở hữu một lượng lớn cổ phần ở Southern Bank và Sacombank

Ông Trầm Bê vừa ủy quyền ‘vô thời hạn’ toàn bộ cổ phần tại Sacombank và Southern Bank cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đồng thời ngưng điều hành tại SacomBank.

Ông Bê hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị SacomBank (Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương tín) và là cổ đông lớn tại Southern Bank (Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam).

Thông cáo trên trang web của Ngân hàng Nhà nước cho biết cơ quan này đã “chấp thuận nguyên tắc” việc sáp nhập hai ngân hàng này.

Việc sáp nhập được thực hiện “trên cơ sở tự nguyện” của hai ngân hàng và “phù hợp với định hướng cơ cấu lại các tổ chức tín dụng”, thông cáo nói.

Ngân hàng Nhà nước cho biết ông Trầm Bê sẽ “không tham gia quản trị, điều hành ngân hàng sau sáp nhập”.

Ông Bê đã “tự nguyện cam kết ủy quyền không hủy ngang, vô thời hạn” các quyền cổ đông cho Ngân hàng Nhà nước sau khi hai ngân hàng sáp nhập, thông cáo có đoạn.

Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ “cử người tham gia quản trị, điều hành ngân hàng sau sáp nhập”.

Ông Trầm Bê được nói là đã “cam kết nếu giá trị tài sản đảm bảo cho các nghĩa vụ nợ của ông Trầm Bê và những người có liên quan không đủ sẽ bổ sung thêm các tài sản khác thuộc sở hữu của ông Trầm Bê.”

Thông cáo của Ngân hàng nhà nước cũng nói cơ quan này đang “phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật để xử lý nghiêm minh các tập thể và cá nhân vi phạm pháp luật gây thất thoát tài sản của nhà nước, của nhân dân.”

Quyền cổ đông

Trả lời BBC ngày 14/8, Luật sư Hoàng Văn Hướng, trưởng văn phòng luật sư Hoàng Hưng, cho biết “trong pháp luật dân sự không có điều khoản nào quy định là không được hủy ngang, chẳng qua là do cam kết của ông [Trầm Bê]”.

“Ủy quyền thì có nghĩa là đưa tất cả các quyền đang có cho nhà nước”, ông nói.

“Quyền cổ đông bao gồm quyền đại diện để thực hiện các vấn đề theo ý chí của cổ đông, căn cứ theo tỷ lệ cổ phần.”

“Bên cạnh đó là các quyền định đoạt, như quyền chào bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố và các quyền khác theo luật dân sự.”

“Ngoài ra còn có quản lý chung như quyền đại diện tham gia họp, điều hành, quản lý.”

Luật sư Hướng cho biết “chắc chắn là khi ủy quyền rồi thì tất cả các quyền này nằm trong tay người được ủy quyền.”

“Nếu nói ‘thưc hiện đầy đủ các quyền cổ đông’ thì trong đó có cả quyền nhận cổ tức’, ông cho biết.

Báo cáo tình hình quản trị của Sacombank trong năm 2014, được công bố hồi tháng Một năm nay, cho thấy ông Bê chỉ còn nắm 0,15% cổ phần tại ngân hàng này.

Tuy nhiên, gia đình của ông lại nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn hơn nhiều.

Ông Trầm Khải Hòa và ông Trầm Trọng Ngân, hai người con trai của ông Bê, sở hữu lần lượt là 1,93% và 4,4% cổ phần. Con gái ông Bê, bà Trầm Thuyết Kiều cũng nắm giữ 0,29%.

Trong một bản tin hồi tháng Bảy năm ngoái, đài VTC cho biết tỷ lệ sở hữu cổ phần của gia đình ông Trầm Bê tại Southern Bank vượt xa so với quy định hiện hành.

VTC dẫn Luật các tổ chức tín dụng 2010 cho biết một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, ông Trầm Bê nắm giữ tới 8,36% cổ phần Southern Bank, trong khi ông Trầm Trọng Ngân sở hữu 4,42%, bà Trầm Thuyết Kiều sở hữu 7,36%, VTC cho biết.

Như vậy, gia đình ông Trầm Bê sở hữu 20,81%, vượt 0,81% so với quy định.

Báo VietnamNet vào tháng Tư năm nay cho biết tổng dư nợ của Southern Bank trong cả năm 2014 là 43 nghìn tỷ đồng, trong đó đến 6% là nợ xấu.

Các cổ đông của Sacombank đã thông qua việc sáp nhập Southern Bank vào Sacombank tại đại hội cổ đông ngày 11/7.

Theo đó, việc sáp nhập dự kiến sẽ hoàn tất trong quý ba năm nay.

Trong năm nay, ngân hàng trung ương của Việt Nam cũng đã mua lại ba ngân hàng là Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Oceanbank, Ngân hàng PGbank với giá 0 đồng.

Nguyên nhân vụ nổ Thiên Tân là gì?

 

Hai vụ nổ lớn tại Thiên Tân, mạn bắc Trung Quốc, đã làm hàng chục người chết và hàng trăm người bị thương, phá hủy một vùng rộng lớn của thành phố.

Phần lớn những gì đã và đang xảy ra vẫn chưa rõ, nhưng đây là những gì chúng ta biết cho tới nay

Các vụ nổ xảy ra như thế nào?

Nó có nguồn gốc từ một nhà kho tại cảng mà người ta được biết là nơi chứa các loại hóa chất nguy hiểm. Tòa nhà thuộc sở hữu của công ty Tianjin Dongjiang Port Ruihai International Logistics (Hậu cần Quốc tế Nhuệ Hải Thiên Tân Đông Cương Cảng). Nhưng vẫn chưa rõ liệu cái gì đã khiến chúng phát nổ.

Trước khi xảy ra vụ nổ, nhiều lính cứu hỏa đã có mặt tại hiện trường tìm cách dập tắt một đám cháy, theo hãng tin AFP đưa tin.

Tình trạng không biết chắc liệu còn bao nhiêu vật liệu dễ gây tai nạn này vẫn còn tại khu vực này khiến đã phải tạm ngưng các hoạt động chữa cháy tại đây vào sáng thứ Năm.

Hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc, Tân Hoa Xã, chiều nói rằng bốn đám cháy vẫn đang tiếp tục và các tuyến đường dẫn tới nơi xảy ra vụ nổ vẫn chưa được dọn sạch.

Hãng tin Reuters thì nói rằng theo đánh giá của chính phủ năm 2014 thì cơ sở Thụy Hải được thiết kế để chứa hóa chất bao gômg chất butanone, một dung môi gây nổ công nghiệp, chất sodium cyanide và khí tự nhiên nén.

Còn chưa rõ chính xác cái gì đã gây ra vụ nổ nhưng truyền thông Trung Quốc nói ít nhất một nhân viên của công Thụy Hải đã bị bắt giữ.

Trước đó trong tháng Tám, các viên chức về an toàn lao động đã gặp công ty này từ nhiều ngành khác nhau để thảo luận về cách thức quản lý các hóa chất nguy hiểm, theo một thông báo đăng trên trang web của tỉnh Thiên Tân.

Nổ lớn tới mức nào?

Nhân chứng nói mặt đất rung chuyển ở xa nhiều cây số cách nơi xảy ra vụ nổ và chấn động được cơ quan Khảo sát địa lý của Hoa Kỳ tại Bắc Kinh cách đó 160km ghi nhận như một địa chấn.

Trung tâm Mạng lưới Động đất Trung Quốc nói mức độ rung chuyển của vụ nổ thứ nhất tương đương với việc kích hoạt 3 tấn thuốc nổ TNT, trong khi vụ nổ thứ hai tương đương với khoảng 21 tấn thuốc nổ.

Sức ép từ vụ nổ làm vỡ cửa kính các tòa nhà lân cận

Cửa kính của nhiều tòa nhà trong bán kính 2km đã bị vỡ tung, các khu văn phòng bị phá hỏng và hàng trăm xe hơi bị thiêu cháy.

Mức độ tàn phá?

Những vụ nổ đã tàn phá một số lượng lớn hàng hóa được chứa ở các kho tại và quanh cảng ở Quận Tân Hải.

Những chiếc công-ten-nơ lớn bị nổ tung lên trời như những que diêm và bị dập méo trong vụ nổ.

Một khu đậu xe hơi chứa vài ngàn chiếc xe đã bốc cháy trong khói lửa.

 

Hàng trăm tòa nhà và xe ở khu vực cảng đã bị phá hủy
Khói vẫn bốc nghi ngút dù ngọn lửa đã được dập tắt

Vụ nổ tàn phá trên một vùng rộng vài km từ cảng tới khu vực dân cư ở.

Những người sống sót đổ ra phố, bệnh viện đầy bệnh nhân trong khi nhiều người đang tìm nơi tạm trú.

Những người bỏ nhà cửa xếp hàng đợi nhận quần áo được quyên góp
Những người bỏ nhà cửa xếp hàng đợi nhận quần áo được quyên góp
Hàng trăm người bị thương đang được chữa trị tại các bệnh viện

Chống CỘNG, Một THÔI THÚC Yêu Nước HAY Mù Quáng HẬN THÙ?

ĐỊNH NGUYÊN    
       
            Chống cộng là sinh hoạt nổi bật nhất của người Việt tỵ nạn.  Tinh thần chống cộng nơi người Việt tỵ nạn, tuy tiềm tàng nhưng còn rất mạnh. Tiếc là không có ai đủ tài để khơi dậy và kết hợp tinh thần ấy nên sự chống cộng tuy ồn ào nhưng không có hiệu quả.  Ngoài những hoạt động chống cộng có sách lược của các đảng phái, các tổ chức chính trị, điều người viết muốn lạm bàn cùng đồng hương các giới về sự chống cộng của một số ít hội đoàn, đặc biệt nhất là sự “chống cộng tự do” của những cá nhân trong tập thể người Việt nước ngoài.  Họ chống cộng theo bản năng, không cần có đồng minh, không cần để ý đến thời thế, đến tình hình chính trị trong giai đoạn cực kỳ phức tạp như hiện nay.  “Con người là một con vật chính trị” (Aristote), ai cũng có quyền có lập trường và hành vi chính trị.  Nhưng thể hiện hành vi chính trị mà lại không có ý thức chính trị đi kèm chỉ là sự tự hại.  Không ai phản đối sự chống cộng nhưng cách hô hào và mục đích của họ có thể làm cho người ta nghĩ họ đang bị dẫn dắt bởi sự hận thù, không phải là sự thôi thúc của lòng yêu nước.
            Chống cộng như thế có thể bị phản ứng ngược.
            Những lời đanh thép trên, nếu được phát biểu trước năm 1975, khi VNCH còn tồn tại, sẽ được nhiều người đồng tình vì có tính cảnh giác cao trước một kẻ thù xảo quyệt.  VNCH không còn, quân cán chính chỉ còn lại một lớp người gần đất xa trời làm được gì mà bảo người ta phải “ăn năn thống hối” với mình?!  Còn Lá Cờ Vàng?  Cờ Vàng tự nó không phải thần thánh, xuất hiện ở đâu thì ở đó có chính nghĩa.  Nó cũng theo mệnh nước nổi trôi, cùng quân dân cán chính phiêu bạt bốn phương trời.  Hiện nay, nếu có chút suy tư thì sẽ thấy sinh mệnh của nó gắn liền với số phận của những cựu quân cán chính VNCH, một thành phần đã quá già nua, lại đang chia năm xẻ bảy, đang tố cáo chưởi bới nhau vung vít, đang sống nhờ đất khách thác chôn quê người.  Muốn Cờ Vàng mãi mãi tồn tại với dân tộc, hãy làm cho nó có ý nghĩa cao hơn, được nhiều thành phần dân tộc chấp nhận hơn.  Cứ buộc mọi người tuyên dương Cờ Vàng trong khi “những người con Cờ Vàng” thì bôi bẩn nó bằng những cuộc biểu tình “ruồi bu” không khác gì sơn đông mãi võ (ngoại trừ những cuộc biểu tình chính đáng, có quy mô lớn chống các phái đoàn và lãnh đạo cộng sản…).  Tôi nhớ cách đây khá lâu, tại nam California, một tốp mười mấy người trương Cờ Vàng biểu tình chống một ca sỹ (TN?) mang giây nịt có hình ngôi sao.  Rồi những lần chống ca sỹ quốc nội trình diễn tại hải ngoại, cha me ông bà thì trương Cờ Vàng biểu tình chống đối bên ngoài trong khi con cháu lại mua vé vào xem bên trong.  Những sự việc như thế xẩy ra hoài, chẳng ra thể thống gì cả.  Nó có thể tạo ra một khoảng cách giữa hai thế hệ trong các gia đình/cộng đồng Việt Nam. Đã có một số giới trẻ khi nghe “chống cộng” và thấy Cờ Vàng họ nhún vai, tuy không dám ra mặt chống đối nhưng đối với họ đó là “old fashion” của những “old men”!  Càng tung hô và buộc người khác tôn trọng Cờ Vàng trong tình trạng phản chính trị đó, kẻ thù càng vổ tay vui mừng.  VC là kẻ muốn người Việt Nam có ác cảm với Cờ Vàng, muốn biến sự nghiệp chống cộng của chúng ta trở thành phi chính nghĩa.  Những ai, bất luận thành phần nào, vô tình hay cố ý, làm cho tinh thần chống cộng trở nên một mớ hổn tạp bầy nhầy như thế đã tiếp tay đắc lực cho VC.  Đây không phải là một sự võ đoán hoặc chụp mũ mà là một sự thật, một sự thật mà chỉ có những kẻ cuồng tín hoặc kém hiểu biết, hoặc cả hai mới không thấy.  
            Chống cộng là sự nghiệp chung của dân tộc Việt Nam, trong cũng như ngoài nước.  Để sự nghiệp nầy ngày càng phát triển và sinh hoạt lâu dài, có hiệu quả, cần phải có sự kết hợp các thành phần dân tộc và các thế hệ già trẻ.  Nếu chỉ có nhóm chống cộng theo “định hướng” nói trên (không phải tất cả cựu quân cán chính VNCH) thì sự chống cộng đó không có sức mạnh tổng thể và sẽ đi vào ngõ cụt.  Khi những “người con Cờ Vàng” quân cán chính VNCH như họ khuất bóng, còn ai để chống cộng!?
            Trong nước, có khá nhiều đoàn thể và cá nhân chống chế độ CSVN.  Thế mà ở hải ngoại nhóm người đó cho rằng họ “chống cộng cuội”!  Đơn giản vì họ không “ăn ăn thống hối đối với Quân Dân Cán Chính VNCH cũng như không chào kính lá Cờ Vàng”!  Những người chống cộng theo “định hướng” nầy không biết rằng người Việt Nam trong nước chống chế độ cộng sản hiện nay là muốn thay thế một thể chế khác tốt đẹp hơn, họ đâu chống cộng để tái dựng VNCH?  Có thể họ không hoặc chưa biết lá Cờ Vàng thì làm sao buộc họ “chào kính”?!  Vả lại, đấu tranh ở trong nước trước nanh vuốt của cộng sản sắt máu và tàn bạo, nếu muốn sống và tiếp tục đấu tranh, họ đâu dám “chào kính lá Cờ Vàng”, dù khi họ ra hải ngoại.  Thật là những ý nghĩ điền rồ của những con người thất chí và hoang tưởng.
            Mới đây, chuyện nhà báo Điếu Cày lại được hâm nóng khi ông ta xuất hiện ở San Jose, California. Cũng như lần trước tại Washington DC. (20/11/2014), lần nầy ông ta cũng bị buộc phải trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh là người yêu nước, là tội đồ dân tộc, hay yêu nước nhưng lầm đường”?  Ông ta không trả lời trực tiếp theo mong muốn của nhóm cực đoan Cờ Vàng nên lại bị lên án và chống đối gay gắt.  Cái trò tố cáo “Điếu Cày ra hải ngoại để nội tuyến” lại xuất hiện.  [Vừa qua, tin tức báo chí cho rằng xác Hồ Chí Minh tại Ba Đình không phải là người Việt Nam mà là người Tàu (Hồ Tập Chương?).  Vậy thì Hồ Chí Minh người Việt ở đâu?  Biểu Điếu Cày nhận xét về Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh nào?].  Điếu Cày không muốn bình luận về cá nhân ông Hồ là quyền của ông ta.  Khác với người miền Nam, người miền Bắc (như Điếu Cày) chịu ảnh hưởng nặng nề nhân vật Hồ Chí Minh nầy, không thể một sớm một chiều mà từ “ông” sang “thằng”, từ “bác Hồ vô vàn kính yêu” sang “tên tội đồ dân tộc” được!  Buộc những người sinh ra, lớn lên, hấp thụ giáo dục dưới chế độ cộng sản suy nghĩ và phát biểu như mình sao được.  Ép những người đã từng phục vụ chế độ cộng sản phải chưởi bới hạ nhục lãnh đạo khai sinh chế độ đó mà một thời họ đã tôn xưng chỉ là một sự truy bức chính trị, vừa không cần thiết cho đại nghiệp chống cộng chung, vừa chứng tỏ kẻ ép buộc có nhân cách kém, có sự hiểu biết thấp, và đặc biệt có bản chất quân phiệt độc tài không thích hợp cho sự đấu tranh đòi tự do dân chủ.  Qua thời gian làm việc, Điều Cày đã thấy được chân tướng xấu xa của kẻ cầm quyền.  Ông ta trở lại chống đảng CSVN, chống đường lối và chủ trương của chế độ nầy, đó là những gì người Việt Nam chúng ta đang cần.  Cùng nhau, tìm cách để giải thể chế độ CSVN quan trọng và cấp bách hơn những lời chưởi bới và hạ nhục nhân vật Hồ Chí Minh của bất cứ ai, kể cả nhân vật Điếu Cày.  (Bạn sẽ phản biện rằng Hồ Chí Minh là linh hồn, là thần tượng của chế độ CSVN, đánh sập thần tượng đó thì chế độ CSVN sẽ tiêu vong?  Hồ Chí Minh đã bị lên án, chưởi bới, hạ nhục…đã mấy chục năm rồi thế mà CSVN vẫn còn đó, bạn không thấy sao?  Cứ tiếp tục nghiên cứu và viết về tội ác của ông ta một cách nghiêm túc và lịch sự nhưng đừng nghĩ rằng đó là điều quan trọng nhất để giải thể cộng sản.  Đặc biệt, không nên dùng những lời lẽ nặng nề hạ cấp để chưởi bới ông ta vì làm như thế tuy có thể “tự sướng” nhưng sẽ phản tác dụng).
            Ngoài sự chống đối và chụp mũ tứ tung những người quốc gia, những nhà đấu tranh trong nước, họ chống đối và chụp mũ luôn cả Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam.  Vừa qua, song song với việc Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng CSVN thăm viếng Hoa Kỳ; Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Ted Osius đã đến nói chuyện với cư dân Việt tại Nam California và San Jose.  Tại những nơi nầy ông ta từ chối đứng dưới lá Cờ Vàng nên bị chống đối.   Bài báo “Ông Đại Sứ Hai Chiều” của Duyên Lãng Hà Tiến Nhất và bài “Hãy Tống Cổ Tên Đại Sứ Mỹ Chối Bỏ Cờ Vàng Ted Osius Ra Khỏi Cộng Đồng Tỵ Nạn Việt Nam” ký tên Người lính già Oregon, với các danh vị và khẩu hiệu kèm theo: cựu sĩ quan VNCH, đương kiêm tỵ nạn tại Mỹ (đương kim tỵ nạn tại Mỹ?), quyết bảo vệ Cờ Vàng chống VC cho đến hơi thở cuối cùng… là nổi bật nhất cho sự chống đối nầy.  Theo Duyên Lãng HTN, ông Ted Osius vừa là Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam vừa là Đại Sứ Việt Nam tại Mỹ, một “người Mỹ gốc VC”, ý nói Đại Sứ Mỹ làm tay sai của VC!  Duyên Lãng HTN nghĩ rằng, Mỹ cũng như Đại Sứ Mỹ cũng phải chống cộng theo “định hướng VNCH và Cờ Vàng” như ông ta và “đồng chí” của ông ta chăng?  Sau khi rút khỏi Nam Việt Nam vào tháng Tư năm 1975, Mỹ trở lại bang giao với Việt Nam là để khôi phục chế độ VNCH và Cờ Vàng chăng?  Đúng là chuyện “mơ giữa ban ngày”.  Không hiểu gì về Mỹ, không thấy được tình hình hết sức phức tạp và nguy hiểm cho đất nước Việt Nam trước âm mưu thôn tính của kẻ thù phương Bắc mà cứ phóng tay chụp mũ, chụp mũ cả ông Đại Sứ Mỹ mới kinh.  Người lính già Oregon càng khiếp hơn, đòi tống cổ Đại Sứ Mỹ ra khỏi cộng đồng Việt Nam tại Mỹ”!  Cộng đồng Việt Nam là cái gì?  Là một “private property” hay một địa phương nào đó có người Việt sinh sống?  Nếu “private property” thì được, nhưng có dám “tống cổ” một viên chức cao cấp của Mỹ không?  Nếu là một địa phương có đông người Việt ở, những kẻ “đương kiêm tỵ nạn” ấy đang ăn nhờ ở đậu trong nhà người ta lấy tư cách gì mà đòi “tống cổ” ông chủ ra khỏi nhà? Người Việt Nam tại Mỹ có lãnh thổ và chủ quyền riêng chăng?  Nếu không thì đúng là loạn ngôn, đúng là “Ếch nằm đáy giếng coi trời bằng vung”! 
            Người yêu ta xấu với người
            Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau (Kiều, Nguyễn Du)
Chống cộng và yêu Cờ Vàng kiểu mê sảng và vĩ cuồng như thế là bôi bẩn tinh thần chống cộng và Cờ Vàng rồi, làm sao thuyết phục được ai?!
           
Chống Đại Sứ Mỹ tức là chống chính sách Mỹ đối với Việt Nam và biển Đông.  Trước sự hung hăng độc chiếm biển Đông, khống chế toàn vùng Đông Nam Á của Trung cộng, ai cũng thấy Mỹ đang lôi kéo Việt Nam để cùng đối phó.  Người Việt trong cũng như ngoài nước đều mong muốn CSVN đi với Mỹ để thoát hoạ Hán hoá.  “Theo Tàu mất nước, theo Mỹ mất đảng”.  Không phải đơn thuần vì xã giao mà Tổng Thống Mỹ phá lệ, tiếp Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng CSVN, một đảng độc tài toàn trị, tại phòng Bầu Dục, Toà Bạch Ốc.  Có thể đó là một sự tương nhượng về phía Mỹ, chấp nhận sự tiếp tục cầm quyền của Đảng CSVN để đổi lấy những thứ khác quan trọng hơn.  Ngoài việc đó, có thể Mỹ phải thoả mãn những đòi hỏi khác của CSVN trong đó có sự chống cộng và lá Cờ Vàng của người Việt tại Hoa Kỳ.  Ông đại sứ từ chối “chào kính” lá Cờ Vàng không phải ông ta ghét lá cờ đó mà như ông ta nói: “làm như thế tôi sẽ mất job”!  Đại sứ không thể đi ngược lại chính sách của chính phủ.
           
Không ai tin chính sách ve vãn CSVN của Mỹ là quan tâm đến số phận của dân tộc Việt Nam, lại càng không phải “thương” tập đoàn lãnh đạo cộng sản.  Họ muốn có đồng minh để chống Tàu, kẻ đang thách thức vị thế của họ tại Đông Nam Á và cả trên thế giới.  Hy vọng, qua việc nầy, dân tộc Việt Nam sẽ được “hưởng lộc”, thoát được nạn Bắc thuộc.  Nếu Mỹ không can thiệp và thoả hiệp, CSVN vẫn còn đó và nguy cơ mất nước rất lớn.  Nếu Mỹ can thiệp và thoả hiệp mà không cần thay đổi thể chế chính trị liền thì CSVN vẫn còn đó nhưng nguy cơ mất nước không còn.  Cả hai trường hợp đều xấu, nghĩa là CSVN vẫn còn đó, nhưng trường hợp thứ hai ít xấu hơn nhiều.  Tôi tin hầu hết dân Việt trong cũng như ngoài nước đều mong điều nầy xẩy ra.  Riêng nhóm chống cộng có “định hướng” thì không, họ đòi lật đổ CSVN với bất cứ giá nào!  Với sức mạnh quân sự vô song, Mỹ vẫn không nghĩ đến việc lật đổ CSVN.  Họ, một số người chống cộng “có định hướng” ở hải ngoại không có tấc sắt trong tay, không có mảnh đất cắm dùi, lại “đương kiêm tỵ nạn” xa cả nửa vòng trái đất thế mà cứ lớn tiếng đòi “tiêu diệt cộng sản”, tái dựng VNCH cho bằng được! 
           
Trong bài “Vai Trò Của Việt Nam Cộng Hoà Trong Sự Nghiệp Chống Cộng” tôi viết cách nay đúng hai năm (tháng 7 năm 2013) có đoạn: “…Liệu VNCH có còn đóng vai trò nào trong sự nghiệp chống cộng không?  Theo tôi, có!  Đó là tinh thần chống cộng triệt để; đó là giá trị tương đối của tự do dân chủ; đó là tinh thần yêu nước chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; đó là những giá trị thiêng liêng về văn hoá, thuần phong mỹ tục…của dân tộc mà VNCH tôn xưng và bảo vệ trong khi chế độ cộng sản miền Bắc (cũng như hiện nay) không có được.  Nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là chống cộng không phải để khôi phục VNCH.  VNCH đã đi vào lịch sử.  VNCH là chế độ dân chủ do dân bầu lên, không phải là chế độ vương quyền, vua bị cướp ngai vàng phải bôn tẩu chờ ngày lấy lại ngôi báu.  Sau cộng sản, VN phải có một chế độ dân chủ tự do khác do dân bầu, bao gồm những giá trị của VNCH hay hơn thế nữa, tuyệt đối không thể có một VNCH tái sinh với các cấp lãnh đạo và quan chức cũ.  Các lãnh đạo cao cấp của VNCH phần lớn đã qua đời, số ít còn lại đã già nua bệnh tật, ngay cả hàng ngũ nòng cốt là các sỹ quan cấp Tá, cấp Uý cũng đã trên dưới bảy, tám mươi rồi thì làm được cơm cháo gì nữa?  Chống cộng để khôi phục VNCH là điều không tưởng…”
           
Cũng như phần đông con dân của VNCH, tôi chưa bao giờ có ý tưởng VNCH sẽ được tái dựng, tôi sẽ trở về cố quốc lấy lại những gì đã mất.  Lịch sử đã sang trang.
           
Cũng như mọi người, tôi hy vọng chế độ CSVN sớm cáo chung hay biến thể để nước Việt được độc lập và có chủ quyền, để dân Việt có tự do và dân chủ.
           
Trước âm mưu bành trướng lộ liễu và ngang ngược của Trung cộng, tôi nghĩ Mỹ sẽ có biện pháp ngăn chận, nhân đó Việt Nam sẽ thay đổi.
           
Không phải vô cớ mà Đại Sứ Mỹ Ted Osius viếng các cộng đồng Việt Nam và tuyên bố: “Tình hình sẽ thay đổi.  Việt Nam sẽ có tự do dân chủ”.  Nếu được như ông nói, tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ tươi sáng hơn bây giờ.  Tôi không cổ võ mọi hình thức hoà hợp hoà giải trá hình đầu hàng cộng sản, nhưng trong khi người Việt chưa có cách nào để loại bỏ chế độ CSVN, mọi sự tác động (của bất cứ ai) làm giảm được sự độc tài toàn trị của chế độ đó, đem ít nhiều tự do và dân chủ đến cho người dân đều được hoan nghênh.  Ai chống lại mà không có kế sách thay thế đều là những kẻ hoang tưởng, những kẻ mù quáng thù quá hoá…mất khôn.  Họ không thể là người yêu nước mà chỉ là những kẻ phá hoại đi ngược lại với ước vọng của toàn dân.
                                                                                         ĐỊNH NGUYÊN
                                                            Sacramento, CA thượng tuần tháng 8 năm 2015

Ý kiến: Nhìn lại Cách mạng tháng Tám

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945Theo sử liệu chính thức thì cuộc “Cách mạng tháng Tám” được khởi động từ 14-8-1945, sau quyết định của Đảng Cộng sản (CS) Đông Dương tại cuộc họp Tân Trào và chấm dứt ngày 30 tháng 8 sau khi vua Bảo Đại thoái vị giao ấn kiếm cho đại diện CS.

Như vậy cuộc “Cách mạng” được diễn ra trong bối cảnh miền Bắc vừa thoát khỏi nạn đói kinh hoàng với 2 triệu người chết và Đồng Minh vừa kết thúc cuộc Đại chiến Thế giới thứ II.

Cuộc cách mạng xảy ra “dưới sự lãnh đạo của đảng, 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa dành lại chính quyền…”.

Việc “giành lại chính quyền” được các sử gia Việt Nam ví như là “cuộc chạy đua nước rút với quân đội Đồng Minh”.

Các bản Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và sau này là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), không ngoại lệ, đều ghi nhận sự thành công của cuộc cách mạng (tháng Tám) là nền tảng khai sinh ra nước VNDCCH.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng nếu xét lại thì vấn đề không đơn thuần xảy ra như vậy.

Thế chiến thứ II tại châu Á kết thúc sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng ngày 15-8-1945.

Theo một số qui định của phe thắng trận, Nhật phải :

Từ bỏ chủ quyền tại các vùng lãnh thổ đã chiếm đóng trước đó.

Các chính quyền do Nhật dựng lên ở các nơi này thì không được nhìn nhận.

Trong thời gian chuyển tiếp, quân đội Nhật có trách nhiệm giữ trật tự trong lúc chờ đợi quân Đồng Minh đến giải giới.

Những vùng lãnh thổ Nhật chiếm đóng này bao gồm Việt Nam.

Quyết định của quân Đồng Minh

Đồng Minh quyết định ra sao về các vùng lãnh thổ này? Trả lại độc lập hay tiếp tục chiếm đóng?

Một số vùng lãnh thổ bị Nhật chiếm đóng số phận đã được quyết định qua các Hội nghị Yalta và Cairo trong lúc chiến tranh như Mãn Châu, Đài Loan… thì trả cho Trung Hoa, Đại Hàn thì được độc lập. Một số được định đoạt hay tái xác định sau chiến tranh theo Hòa ước San Francisco 1951.

Quân Nhật vào Đông Dương tháng 9/1941

Riêng Việt Nam và nói chung là Đông Dương, không thấy nhắc đến vấn đề “trả độc lập” mà chỉ nói đến việc giải giới quân Nhật. Việc giải giới được lực lượng Đồng minh qui định: Quân đội Anh Quốc phụ trách vùng phía nam vĩ tuyến 16 và quân đội Trung Hoa phụ trách phía bắc vĩ tuyến 16.

Theo qui định này, ngày 9-9-1945 quân của Trung Hoa do Tiêu Văn và Lư Hán dẫn đầu có mặt tại Hà Nội. Tương tự, liên quân Anh-Pháp cũng có mặt ở miền Nam.

Ta thấy không hề có việc lực lượng cách mạng “chạy đua giành chính quyền” với quân đội Đồng Minh hay việc “20 triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy giành lại chính quyền” như các sử gia đã viết.

Theo sử liệu, lực lượng cách mạng đã đánh Nhật giành chính quyền. Trên thực tế không có “đánh đấm” gì cả.

Cuộc “Cách mạng” xảy ra sau ngày 15-8, tức lúc quân Nhật đã có lệnh bỏ súng đầu hàng. Thẩm quyền của Nhật tại Việt Nam ngay từ lúc đó đã chuyển sang lực lượng Đồng Minh. Quân Nhật không còn nắm chính quyền mà chỉ có trách nhiệm “giữ an ninh trật tự”.

Quân “Cách mạng” đâu để cướp hay giành cái mà Nhật đã không còn nữa?

Thực chất ‘cuộc chạy đua giành chính quyền’ là Việt Minh lợi dụng khoảng trống quyền lực sau khi Nhật đầu hàng để nắm lấy chính quyền, hy vọng đặt Đồng Minh vào sự đã rồi.

Nhưng điều này thất bại. Bởi vì khi Tiêu Văn và Lư Hán dẫn quân qua Việt Nam, dọc đường lực lượng này tước quyền hành của ‘chính quyền cách mạng’ và trao cho phe thân Trung Hoa. Vì vậy, cho dầu Việt Minh có thực sự cướp được chính quyền thì chính quyền này cũng đã bị Đồng Minh lấy lại.

Cũng không hề có việc ‘lực lượng cách mạng’ cướp chính quyền từ tay Bảo Đại (ngày 30-8-1945).

Quốc gia mang tên Đế Quốc Việt Nam do Bảo Đại lãnh đạo ra đời sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 10/3 năm 1945.

Theo qui định của lực lượng Đồng Minh, phía thắng trận, tất cả những chính quyền do Nhật dựng lên (ở các vùng lãnh thổ chiếm đóng) đều không được nhìn nhận.

Về mặt pháp lý, Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại không được quốc tế nhìn nhận mà điều này là cần thiết để một quốc gia ‘hiện hữu’ trên trường quốc tế.

Đế Quốc Việt Nam trên thực tế không có quân đội. Ngân sách là con số zero. Ngoại giao cũng không. Tất cả đều phải thông qua Nhật. Ông Bảo Đại hay chính phủ Thủ tướng Trần Trọng Kim không có bất kỳ thẩm quyền nào về lãnh thổ cũng như đối với người dân của mình.

Đế Quốc Việt Nam rõ ràng là một ‘quốc gia bình phong’.

Thành quả cách mạng và Tuyên ngôn độc lập

Vậy thì ‘lực lượng cách mạng’ có thể cướp cái gì ở quốc gia này? Người ta đâu thể cướp cái mà người khác không có?

Còn việc “Hai mươi triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy” cũng chỉ là điều tưởng tượng.

Miền Bắc vừa thoát nạn đói vào tháng 5, với 2 triệu người chết. Ba tháng sau người dân có thể nổi dậy để giành cái ăn. Nói 20 triệu người ‘nhất tề vùng dậy’ là điều hoang đường, không thuyết phục được ai hết. Thực chất của Cách mạng Tháng Tám là vậy.

Còn Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9 của ông Hồ? Về thời điểm, ngày 2/9 được ông Hồ lựa chọn không hề do tình cờ mà là kết quả tính toán sâu xa.

Ngày 2/9 năm 1945 cũng là ngày đế quốc Nhật ký văn kiện đầu hàng Đồng Minh trên chiếc Chiến hạm USS Missouri của Mỹ đang neo trong vịnh Tokyo.

Về nội dung, bản Tuyên ngôn của ông Hồ dẫn nhiều ý tứ từ bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.

Từ hai chi tiết này, ta có thể cho rằng ông Hồ đã được sự gợi ý của các chuyên viên OSS, tiền thân của CIA Mỹ, lúc đó đang hoạt động cùng với Việt Nam trên vùng biên giới Việt -Trung.

Tuyên ngôn độc lập của ông Hồ, trên phương diện pháp lý cũng như trên thực tế, không thể hiện được một quốc gia Việt Nam độc lập.

Một số sử gia biện hộ rằng ‘nền độc lập’ của VNDCCH kế thừa từ quốc gia Đế quốc Việt Nam của Bảo Đại (tuyên bố độc lập ngày 12/3/1945).

Trên công pháp quốc tế lý lẽ này không thuyết phục. Như đã nói, Quốc gia Đế Quốc Việt Nam của Bảo Đại vừa không có thực quyền, vừa không được nước nào nhìn nhận, dĩ nhiên ngoại trừ Nhật. Nền độc lập (tức chủ quyền) của quốc gia gọi là “Đế quốc VN” do Nhật dựng lên là không hiện hữu.

VNDCCH làm thế nào kế thừa Đế quốc Việt Nam cái mà thực thể này không có?

Dầu vậy đó là điều may cho Việt Nam. Bởi vì, nếu Đế quốc Việt Nam của ông Bảo Đại là một quốc gia độc lập có chủ quyền thì Việt Nam sẽ bị Đồng Minh xếp vào loại quốc gia hợp tác với phát xít Nhật. Lúc đó Việt Nam sẽ bị đối xử như là quốc gia bại trận. Hệ quả thế nào không ai có thể lường được.

Trường hợp Nhật, quốc gia bại trận, bị đặt dưới sự quản lý của Mỹ cho đến sau Hòa ước 1951. Dầu vậy, lãnh thổ gọi là quần đảo Nam Tây (Nansei), bao gồm quần đảo Okinawa, tiếp tục đặt dưới sự quản lý của Mỹ cho đến đầu thập niên 70.

Hiệp ước Sơ bộ 6/3/1946

Nền ‘độc lập’ của nước VNDCCH sẽ rõ rệt hơn, chỉ vài tháng sau, lúc Hiệp ước Sơ Bộ 6-3-1946 được ký kết.

Điều ước quan trọng của Hiệp ước là Việt Minh và Pháp nhìn nhận VNDCCH như là một “état libre – tiểu bang tự do” thuộc Khối Đông dương, do ông Hồ lãnh đạo. Còn việc thống nhất “ba kỳ”, Pháp hứa sẽ nhìn nhận kết quả qua cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức sau này.

Hồ Chí Minh ký một tài liệu trong chuyến thăm chính thức Pháp ngày 3/7/1946

Các sử gia VN cho rằng từ “etat libre” ghi trong hiệp ước có nghĩa thực sự như là “quốc gia tự do”. Chữ “état” nằm trong một liên bang (hay một “union – khối”) có nghĩa là “tiểu bang” chứ không phải là “quốc gia”. Các “état – tiểu bang”, như California (thuộc Hợp chúng quốc Mỹ) có quốc hội, ngân sách, chính quyền… riêng nhưng “chủ quyền” (tức quyền chủ tể) của nó lại thuộc về Liên Bang.

Từ kết quả hiệp ước sơ bộ ta thấy nền ‘độc lập’ của VNDCCH mà ông Hồ tuyên bố ngày 2/9 năm 1945 là không có thực chất.

VNDCCH chỉ là một vùng lãnh thổ, giới hạn ở Bắc Kỳ, thẩm quyền của ông Hồ thấp hơn Toàn Quyền Pháp. VNDCCH không phải là một ‘quốc gia độc lập’, có chủ quyền.

Dầu vậy đây cũng là điều may mắn. Cả hai bên ký kết đều xem hiệp ước này chỉ là thời đoạn, không có ý muốn tôn trọng. Ông Hồ ký kiệp ước vì muốn Trung Hoa rút đi. Còn Pháp ký hiệp ước vì muốn trở lại miền Bắc.

Giả sử hiệp ước được tôn trọng, chắc chắn Việt Nam sẽ bị chia làm hai (hoặc ba) quốc gia (và lãnh thổ) khác nhau. VNDCCH sẽ trở thành ‘quốc gia’ do ông Hồ lãnh đạo.

Miền Nam (Cochinchine) chắc chắn trở thành thuộc địa của Pháp (như Guyane, Réunion, Nouvelle Calédonie…).

Trong khi miền Trung (An Nam) có thể trở thành một quốc gia khác, do Bảo Đại hay một hậu duệ nào đó của nhà Nguyễn lãnh đạo.

Đây là một sai lầm lớn lao trong sự nghiệp chính trị của ông Hồ.

Sử gia Trần Trọng Kim phê bình đại khái rằng sai lầm của ông Hồ chỉ có thể sửa bằng xương máu. Quả nhiên đúng như vậy. Ông Hồ sửa sai bằng cách đưa cả nước vào cơn máu lửa.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn từ Pháp.

Một trận chiến ngoại tệ nữa?

Nguyên Lam & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA. 2015-08-12

http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/new-currency-war-08112015112349.html

Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ

Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ (minh họa). AFP

Quyết định đột ngột của Ngân hàng Trung ương Bắc Kinh vào sáng Thứ Ba 11 là phá giá đồng bạc tới gần 2%, là mức cao nhất kể từ đầu năm 1994 đã chấn động các thị trường tài chính và nhiều nhà quan sát quốc tế cho rằng các nước lại có thể lâm vào một trận chiến ngoại tệ nữa. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu chuyện ấy qua phần trao đổi do Nguyên Lam thực hiện sau đây với kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Nguyên Lam: Chiến tranh ngoại tệ, thưa ông Nghĩa, là cái gì vậy? Khi chuẩn bị cho chương trình kỳ này, Nguyên Lam cố tìm hiểu và nhớ rằng vào cuối năm ngoái, diễn đàn này của chúng ta đã có một chương trình về đề tài này khi đồng Mỹ kim thì lên giá mà Nhật Bản ráo riết bơm tiền làm đồng Yen sụt giá mạnh. Khi đó, thế giới cũng nói đến nguy cơ của một cuộc chiến tranh ngoại tệ. Bây giờ, khi Trung Quốc phá giá đồng Nguyên của họ thì liệu nguy cơ đó có xảy ra không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Người ta nói đến chiến tranh ngoại tệ là khi các quốc gia thi đua phá giá đồng bạc để tiền rẻ hơn thì hàng xuất khẩu cũng rẻ hơn và dễ bán hơn. Với nhiều quốc gia thì đấy là một hình thức cạnh tranh thương mại bất chính bằng khí cụ ngoại hối, là dùng hối suất hay tỷ giá đồng bạc kích thích ngoại thương. Thật ra, hiện tượng này xuất hiện từ năm năm rồi và lâu lâu lại gây hốt hoảng khi có một chính quyền hốt hoảng là điều chúng ta sẽ tìm hiểu kỳ này.

Nguyên Lam: Phải chăng ông hàm ý rằng lãnh đạo Trung Quốc đang có triệu chứng hốt hoảng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Việc Bắc Kinh ban hành quyết định ấy cho thấy sự hốt hoảng hay bất nhất của họ vì cách nay hai tháng họ cố nâng giá chứ không phải là phá giá để chặn đà tẩu tán tài sản ra ngoài và để về dài thì đồng Nguyên có hy vọng trở thành một ngoại tệ dự trữ phổ biến. Ngay sau đó lại bùng nổ vụ cổ phiếu tụt giá khiến họ phải lụp chụp đối phó mà chẳng có phối hợp.

Cái khéo là họ đã chấm cho đồng Nguyên sụt giá mà phát ngôn viên của Ngân hàng Trung ương vẫn bảo rằng đấy là để tuân thủ quy luật của thị trường. Rốt cuộc là họ vẫn nói nước đôi, ai muốn hiểu sao thì hiểu!

Nguyễn-Xuân Nghĩa

– Thế rồi tuần qua có hai chuyện xảy ra khả dĩ giải thích động thái này. Thứ nhất là xuất khẩu của Trung Quốc giảm mạnh, tới 9% so với cùng kỳ năm ngoái, và tình hình kinh tế bị rủi ro suy trầm vì nhập khẩu cũng giảm cùng với chỉ số về đơn đặt hàng chế biến gọi là PMI cũng sa sút. Vì vậy, Bắc Kinh có nhu cầu bơm tiền kích thích kinh tế. Chuyện kia là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF vừa nhận định tuần qua rằng đồng bạc Trung Quốc chưa đủ tiêu chuẩn để trở thành ngoại tệ dự trữ.

– Bắc Kinh có tham vọng đưa đồng Nguyên lên hàng ngoại tệ dự trữ và muốn vậy thì phải dần dần thả nổi cho đồng bạc lên xuống theo quy luật cung cầu chứ không thể bị nhà nước kiểm soát và tự ý can thiệp. Khi kinh tế có dấu hiệu đình đọng mà IMF lại trì hoãn việc chấp nhận đồng Nguyên là ngoại tệ dự trữ thì Bắc Kinh có một cơ hội can thiệp để kích thích xuất khẩu. Cái khéo là họ đã chấm cho đồng Nguyên sụt giá mà phát ngôn viên của Ngân hàng Trung ương vẫn bảo rằng đấy là để tuân thủ quy luật của thị trường. Rốt cuộc là họ vẫn nói nước đôi, ai muốn hiểu sao thì hiểu!

Nguyên Lam: Quả là chuyện khó hiểu thật. Thưa ông, trước khi ta nói đến các quốc gia khác vì trong một trận chiến ngoại tệ thì phải có nhiều quốc gia, xin đề nghị ông trình bày sơ lược tiến trình ông gọi là chấm giá đồng bạc của Bắc Kinh.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Chuyện này hơi phức tạp nên quả thật là ta cần tìm hiểu thêm một chút.

– Thực tế thì Bắc Kinh vẫn giàng giá đồng Nguyên vào Mỹ kim theo một tỷ giá nào đó được công bố sau chín giờ sáng mỗi ngày và người ta được mua bán trong biên độ nhất định là cao hay thấp hơn giá chính thức thí dụ như 1%. Gần đây, Bắc Kinh có mở rộng biên độ ấy lên 2% để gọi là cho giao dịch thoái mái hơn, nhưng thực tế thì họ vẫn chấm giá chính thức và để thị trường tác động trong một khoảng nhất định thôi. Trước đây, họ chấm giá quá thấp nên bị đả kích là cố ghìm giá cho hạ để chiếm lợi thế xuất khẩu. Từ 10 năm nay, họ lặng lẽ để đồng bạc lên giá, từ khoảng tám đồng ăn một Mỹ kim thì chỉ cần sáu đồng, tức là đồng Nguyên tăng giá chừng 25 so với tiền Mỹ. Nhưng về cơ bản thì Bắc Kinh chưa thả nổi cho đồng bạc tự do lên xuống theo quy luật cung cầu mà chỉ căn cứ trên sức ép của thị trường vào ngày hôm trước để chấm giá vào 9:15 sáng hôm sau.

Nguyên Lam: Bây giờ ta mới đi vào chuyện các nước lâm trận chiến ngoại tệ. Ông nói rằng hiện tượng ấy đã xảy ra từ năm năm trước rồi. Thưa ông, sự thể nó diễn tiến ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Như mọi khi, chúng ta sẽ tìm hiểu về bối cảnh trước.

– Mọi sự khởi đầu vào năm 2008 khi khủng hoảng tài chính bùng nổ tại Hoa Kỳ dẫn tới nạn Tổng suy trầm trên toàn cầu từ 2008 đến 2009. Sau đó, thật ra tình hình chưa sáng sủa và xứ nào cũng muốn tăng xuất khẩu để tìm lực đẩy cho kinh tế trong khi các nước công nghiệp hóa đều cắt lãi suất xuống sàn, tức là mấp mé số không, và tăng chi tới đỉnh, như trường hợp của Hoa Kỳ.

– Sau đó, Hoa Kỳ còn ba lần dùng phương pháp bất thường là “nâng mức lưu hoạt có định lượng” hay “quantitative easing” để bơm thêm mấy ngàn tỷ đô là vào kinh tế. Tiền rẻ với lãi suất hạ khiến Mỹ kim sụt giá so với nhiều ngoại tệ khác và tình trạng đó kéo dài mấy năm nên nhiều nước cũng phải tìm cách hạ giá đồng bạc để khỏi bị mất lợi thế xuất khẩu. Người ta gọi đó là trận chiến ngoại tệ khi mà xứ nào cũng muốn đẩy giá đồng bạc của mình xuống sàn. Ngày 27 Tháng Chín năm 2010, tức là năm năm trước rồi, Tổng trưởng Tài chánh xứ Brazil là kinh tế gia gốc Ý Guido Mantega đã báo động tại São Paulo. Rằng “chúng ta đang ở giữa một cuộc chiến hối đoái quốc tế khi các nước đều giảm giá đồng bạc. Điều ấy đe dọa sức cạnh tranh của chúng tôi”. Xứ Brazil than phiền là họ bị cạnh tranh bất chính vì ngân hàng trung ương của các nước Âu-Mỹ-Nhật, thậm chí Nam Hàn hay Đài Loan đều can thiệp vào thị trường hối đoái để đua nhau phá giá đồng bạc.

Nhưng trong thế giới nhỏ bé này, người ta chưa thể bán hàng lên Sao Hỏa và nếu xứ nào cũng phá giá đồng bạc để xuất khẩu cho dễ thì sẽ chỉ gây thêm biến động và còn phải trả hóa đơn nhập khẩu đắt hơn

Nguyễn-Xuân Nghĩa

– Chuyện chiến tranh ngoại tệ hay hối đoái xuất phát từ đó. Nó tăng cường độ khi đến lượt Nhật Bản cũng ào ạt bơm tiền cứu nguy kinh tế sau khi ông Shinzo Abe đắc cử Thủ tướng vào cuối năm 2012. Bây giờ thì đến lượt Trung Quốc với nền kinh tế đứng hạng thứ nhì sau Mỹ và trước Nhật.

Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, từ cuối năm ngoái thì đô la Mỹ đã tăng vọt so với các ngoại tệ kia chứ không sụt như các nước than phiền năm năm trước. Qua tháng tới, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ có thể nâng lãi suất cơ bản khiến Mỹ kim còn tăng giá mạnh hơn nữa. Như vậy Hoa Kỳ có can dự gì vào trận chiến ngoại hối này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Nghịch lý ở đây là Hoa Kỳ thành nạn nhân của sự thành công. Tình hình kinh tế Mỹ thật ra chưa sáng sủa mà vẫn là khá nhất trong khối công nghiệp hóa Âu-Mỹ-Nhật và đô la hết sụt giá sau khi Ngân hàng Trung ương Mỹ thông báo từ Tháng Năm năm 2012 là sẽ “vót nhọn” chính sách tiền tệ là bớt dần biện pháp bơm tiền rồi có ngày tăng lãi suất để trở về trạng thái bình thường. Khi ấy, các nước lại than rằng đô la lên giá sẽ làm thị trường của họ rúng động!

– Nếu tính tròn cho dễ nhớ, sản lượng kinh tế Hoa Kỳ là gần 18 ngàn tỷ đô la một năm, bằng 22% sản lượng thế giới. Đến 70% của sản lượng này là tiêu thụ, tương đương với khoảng 12 ngàn 500 tỷ. Trong số tiêu thụ đến hơn 12 ngàn tỷ ấy, chỉ có chừng 12% là nhập khẩu, phần còn lại là do thị trường nội địa sản xuất lấy. Phần nhập khẩu trị giá 1.500 tỷ lại là nguồn sống của nhiều quốc gia muốn bán hàng cho Mỹ. Đứng đầu trong số này là Tầu, Nhật và Đức, ba nền kinh tế lệ thuộc mạnh vào xuất cảng. Hoa Kỳ tiêu thụ khoảng 19% số xuất cảng của Trung Quốc, gần 18% xuất cảng của Nhật và 9% của Đức, một đầu máy của nền kinh tế èo uột tại Âu Châu. Cho nên, chính Hoa Kỳ ngày nay mới là nguồn hy vọng cho các nước.

– Nhưng trong thế giới nhỏ bé này, người ta chưa thể bán hàng lên Sao Hỏa và nếu xứ nào cũng phá giá đồng bạc để xuất khẩu cho dễ thì sẽ chỉ gây thêm biến động và còn phải trả hóa đơn nhập khẩu đắt hơn.

Nguyên Lam: Để thực hiện chương trình này, Nguyên Lam cũng coi lại loạt bài tổng kết cuối năm của ông về tình hình kinh tế năm 2014 với nhiều dự báo cho năm nay. Đầu Tháng 12 năm ngoái, ông có nhận định – xin trích nguyên văn – “Nói về các chuyển động lớn thì sau bảy năm ứng phó của ngần ấy khối kinh tế, Hoa Kỳ tưởng như là thủ phạm của mọi vấn đề cho nhân loại lại phục hồi tương đối khá hơn cả nếu so với Âu Châu và Nhật Bản. Một hậu quả sẽ có ảnh hưởng toàn cầu là đồng Mỹ kim đã và sẽ lên giá trong thời gian tới nếu so với các ngoại tệ mạnh khác. Ngược lại, vì các khối kinh tế kia chưa ra khỏi khó khăn nên tiếp tục kích thích bằng biện pháp tiền tệ và tín dụng, như bơm tiền và hạ lãi suất, khiến đồng bạc của họ càng mất giá so với tiền Mỹ. Đó là trường hợp Nhật Bản, Âu Châu, Trung Quốc, Nam Hàn, Singapore hay Thái Lan, v.v… Kết quả là trong năm 2015, chúng ta sẽ chứng kiến điều mà diễn đàn này đã phân tích vào tuần trước, là một trận chiến về ngoại tệ và Việt Nam sẽ lâm vào hoàn cảnh vừa trái chiều vừa có nhiều biến động ngoại hối.” Thưa ông, dự báo này đang xảy ra và tương lai rồi sẽ ra sao?

Về dự báo thì tôi e là thế giới còn có thể bị nạn tổng suy trầm trong thời gian tới, kể cả Hoa Kỳ, chưa nói gì đến Trung Quốc, Nhật Bản hay các nước Âu Châu vốn dĩ chưa ra khỏi vụ khủng hoảng của khối Euro. Dù quyết định của Bắc Kinh được thông báo là “chỉ có một lần” thật ra sẽ còn tiếp tục

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Nói chung, từ năm ngoái rồi, tôi không mấy lạc quan về viễn ảnh kinh tế toàn cầu vào năm nay và bây giờ mình thấy ra nhiều cố gắng tuyệt vọng của Trung Quốc mả vẫn khó thoát khỏi suy trầm. Khi nền kinh tế hạng nhì thế giới mà lao đao như vậy thì các nước bán nguyên nhiên vật liệu cho Tầu đều sẽ điêu đứng và việc phá giá đồng bạc chẳng giải quyết được vấn đề mà còn gây thêm nhiều biến động trong các nước đang phát triển.

– Nói tiếp về dự báo thì tôi e là thế giới còn có thể bị nạn tổng suy trầm trong thời gian tới, kể cả Hoa Kỳ, chưa nói gì đến Trung Quốc, Nhật Bản hay các nước Âu Châu vốn dĩ chưa ra khỏi vụ khủng hoảng của khối Euro. Dù quyết định của Bắc Kinh được thông báo là “chỉ có một lần” thật ra sẽ còn tiếp tục, như nhiều khó khăn khác cũng chỉ gia tăng. Có khi chúng ta đang bước vào một thời kỳ giảm phát chung, là dù hàng họ xuống giá thì vẫn bán không chạy và thất nghiệp sẽ tăng.

Nguyên Lam: Một câu hỏi chót thưa ông, trong khung cảnh của Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương gọi là TPP thì Quốc hội Mỹ đã cài vào đạo luật cho Hành pháp quyền đàm phán theo thủ tục nhanh gọn một điều kiện là cấm các nước không được “lũng đoạn ngoại hối”, là phá giá đồng bạc để cạnh tranh bất chính. Việc Bắc Kinh vừa phá giá đồng bạc có thuộc diện ấy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Tôi thiển nghĩ rằng đấy là quyết định ngớ ngẩn của Quốc hội Mỹ vì hai lẽ. Thứ nhất, Trung Quốc không là một trong 12 nước tham gia vòng đàm phán TPP. Thứ hai, cùng lắm thì chỉ có Nhật Bản là quốc gia đang áp dụng biện pháp bơm tiền là “quantitative easing” để kích thích kinh tế. Mà đấy cũng là biện pháp Hoa Kỳ đã thi hành ba đợt trong năm năm qua.

– Chuyện ta nên theo dõi là Ngân hàng Trung ương Mỹ có nâng lãi suất vào tháng tới không vì trong khi các nước đều sẽ ào ạt hạ lãi suất hay phá giá đồng bạc thì quyết định trái chiều của Mỹ sẽ càng làm đô la lên giá tức là nhất thời gây thêm khó khăn cho Hoa Kỳ, chưa kể là làm các nước lỡ dại vay tiền Mỹ khi đô la còn rẻ sẽ trả nợ đắt hơn và đấy cũng là một vấn đề!

Nguyên Lam: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

Các THẾ LỰC Thù Địch , Chúng Là Ai ?

Lâu nay trên hệ thống truyền thông nhà nước: tivi , đài , báo… luôn tuyên truyền chuyện các thế lực thù địch len lỏi trong đời sống xã hội, kích động mọi người làm loạn, từ chuyện khiếu kiện đất đai đến biểu tình chống Trung quốc… Thực ra cũng chưa ai biết được cái thế lực thù địch đó nó tròn méo ra sao. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết sau đây trên mạng Facebook để bà con nhìn rõ và chỉ mặt điểm tên cái thằng thế lực thù địch đó nhé.

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH , CHÚNG LÀ AI ?

1. Đó là đám quan lại cấu kết với nhau, từ “cấp cao” đến cấp xã để cướp đất người người dân. Loại thế lực thù địch này thời gian gần đây nổi lên như ong, từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi tới miền ngược, từ đồng bằng, miền biển tới miền núi, từ Nam ra Bắc, từ địa đầu Móng Cái tới Mũi Cà Mau. Bọn này làm mất hết niềm tin của người dân vào đảng, vào chính quyền nhanh nhất, gây bức xúc và bất ổn xã hội kéo dài nhất, gây cho người dân nỗi uất hận căm phẫn nhất bởi chúng không từ một thủ đoạn nào để cướp bằng được những tấc đất chúng muốn và chúng vô cảm trước những phản ứng, khiếu nại chính đáng của người dân.

2. Đó là đám công chức làm ở các cơ quan công quyền, quen thói “hành dân” hơn là phục vụ dân. Nhóm thế lực thù địch này lấy tiêu chí “hành dân” là niềm hạnh phúc. Chúng nhan nhản ở các cơ quan công quyền: cấp phường, xã, quận huyện, sở, bộ ngành, v.v… Chúng gây cho người dân bức xúc, khổ sở, muốn được việc phải mất tiền (mà đáng ra không phải mất) nên làm suy giảm niềm tin của người dân vào đảng, vào chính quyền…!!

3. Đó là “một bộ phận không nhỏ” đám quan lại “chui” sâu vào hệ thống đảng, chính quyền, các cơ quan đoàn thể các cấp. Nhóm này đa phần xuất thân từ “bần cố nông”, nhưng sau khi lên làm quan, chúng giàu lên một cách nhanh chóng và khủng khiếp. Tài sản ít thì hàng vài chục tỷ đồng, nhiều thì trăm triệu thậm chí tới tỷ đô la. Làm “quan phụ mẫu” là phải chăm lo cuộc sống cho dân, giúp người dân có cuộc sống ổn định, sung túc, nhưng chúng không bao giờ dám chia sẻ kinh nghiệm hay dạy dân làm giàu theo cái cách mà chúng giàu lên như thế!!! Nhóm này cũng thuộc loại có học, nhưng đa phần là học rởm, có bằng thật, một số có bằng “đểu”! Chúng dùng những đồng tiền kiếm được một cách bất chính để làm băng hoại các giá trị và đạo đức xã hội. Phá hoại một cách nhanh nhất, làm xói mòn niềm tin của người dân với đảng và chính quyền “sâu” và “bền vững nhất”!!.

4. Đó là nhóm những kẻ cầm đầu các tập đoàn kinh tế. Bọn này chỉ chú trọng vào việc làm suy yếu kinh tế đất nước. Chúng làm cho đất nước nhanh chóng đi vào suy kiệt, cuộc sống của người dân ngày càng bị bần cùng hóa. Lý thuyết của bọn này là không quan tâm nhiều tới chính trị, nhưng khi chúng làm cho kinh tế suy kiệt thì lệ thuộc chính trị là lẽ tất yếu!!. Lúc đó còn đâu là thể diện và sức mạnh của đảng và chính quyền nữa!!

5. Đó là nhóm những kẻ biên soạn ra các bộ Luật của đất nước. Bọn này học hành cao, thông hiểu luật pháp quốc tế và trong nước. Chúng làm hại đảng ta, chính phủ ta bằng cách soạn ra các bộ luật, các thông tư, nghị định, quyết định có những điều khoản rất mơ hồ, có hại cho dân. Những bộ luật, thông tư, nghị định, quyết định này là nguyên nhân sâu xa gây ra những đau khổ cho nhiều gia đình, nhiều người dân lương thiện, và gây ra những bất ổn trong xã hội mà khó có thể khắc phục được trong một thời gian ngắn.

6. Đó là “một bộ phận không nhỏ” đám quan lại trong hệ thống từ cấp tỉnh đến cấp phường, bao gồm cả chính quyền, quân đội, bộ đội biên phòng, hải quân, công an phường/xã, an ninh – không biết vô tình hay cố ý – đã gây ra những nguy cơ tiềm ẩn về an ninh cho đất nước. Nhóm“thế lực thù địch này” đã để cho kẻ thù tiềm ẩn len lỏi, sống hàng chục năm vô tư không cần phép tắc ở những nơi hiểm yếu như Cam Ranh, Vũng Rô, Tây Nguyên, v.v… coi biển của ta như ao nhà, coi đất của ta như ruộng vườn của chúng. Chúng (vô tình hay cố ý?) tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù truyền kiếp có cơ hội thuận lợi tìm hiểu, nghiên cứu tâm tư, suy nghĩ, văn hóa, thói quen, địa hình địa lý của người Việt Nam ta, đến mức tại những nơi hiểm yếu đó kẻ thù thông thạo như làng, như thôn, như tổ dân phố nhà nó. Đó là chưa kể thế hệ F1 ra đời ngày càng nhiều ở nhiều tỉnh/thành phố trong cả nước. Thử hỏi khi có chiến tranh như năm 1979, quân đội của kẻ thù truyền kiếp tràn sang, những “chuyên gia” nông nghiệp, ngư nghiệp, khai khoáng này có thành người chỉ điểm, dẫn đường cho quân đội của chúng để đi giết dân ta không???.

7. Đó là những kẻ bồi bút nhan nhản khắp nơi. Những thế lực thù địch này tuy có học cao, hiểu rộng, có kẻ là TS, GS, PGS, đi khắp mọi nơi, sự kiện nào cũng có mặt nhưng lương tâm của chúng thì vắng mặt định kỳ. Chúng chuyên đưa tin bịa đặt hoặc sai sự thật, không phản ánh đúng thực trạng cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân. Chúng ru ngủ, làm cho đảng ta, chính phủ, nhà nước ta luôn nghĩ rằng cuộc sống của người dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng, sự “tận tâm vì dân” của nhà nước mà cuộc sống của người dân được sung sướng, thuộc nhóm người “hạnh phúc” cao trên thế giới. Hệ quả là cuộc sống của người dân khổ cực, lam lũ nhưng nào ai biết đến!!

8. Đó là nhóm những kẻ đại diện cho nhà nước, cho chính phủ ở nước ngoài. Đáng lý chúng phải tận tâm lo việc nước việc dân nhưng thay vào đó chúng đi buôn lậu sừng tê giác, kim cương, vàng, đô la, v.v… Nhóm thế lực thù địch này có thành tích bôi tro trát trấu vào mặt đảng, nhà nước, chính phủ nhanh nhất và rộng rãi nhất, khắp năm châu bốn biển.

9. Đó là “một bộ phận không nhỏ” các “CAC” (công an chìm) và nổi, những kẻ sẵn sàng vùi dập lòng yêu nước chính đáng của người dân. Chúng thản nhiên đạp vào mặt người dân giữa ban ngày, giữa hàng chục, hàng trăm ống kính camera của các phóng viên trong và ngoài nước khi họ biểu tỏ lòng yêu nước. Chúng không cần biết đến Hiến pháp là gì. Một công dân nào đó chỉ cần “ho he” đòi quyền Hiến định là chúng xuất hiện, không từ một thủ đoạn bỉ ổi, bẩn thỉu nào (kể cả ném phân vào nhà họ) để đe dọa buộc mọi người phải từ bỏ quyền chính đáng mình. Bằng việc đưa ra lý thuyết: “mọi việc lớn bé đã có đảng và Nhà nước lo, không việc gì đến chúng bây”, nhóm thế lực thù địch này trực tiếp triệt tiêu ý chí của người dân, làm gia tăng nỗi sợ hãi thường trực trong mỗi con người (bị tù đày hoặc bị đánh đập, hoặc mất hết phương kế kiếm ăn nuôi vợ/chồng con…), từ đó chúng làm cho người người, nhà nhà trở nên “vô cảm”. Bởi vậy, khi ra đường, nhìn thấy đánh nhau thì “đã có đảng, nhà nước lo không phải việc của mình”; nhìn thấy tai nạn giao thông cũng đã “có đảng, nhà nước lo”… Rồi mai kia khi bọn bành trướng TQ sang như năm 1979, lúc đó ai cũng “đã có đảng và nhà nước lo” thì còn gì là ruộng vườn, xã tắc nữa!

10. Đó là đám quan lại ngồi trên các pháp đình xử án. Bọn thế lực thù địch này có “chiêu” đổi trắng thay đen, ăn tiền hối lộ trắng trợn của nạn nhân hoặc những người thưa kiện. Chúng hại đảng và chính quyền ta bằng cách làm suy giảm niềm tin của người dân vào công lý, vào pháp luật. Từng ngày, từng giờ chúng tạo cho người dân thấy rằng ở đất nước “Chính quyền của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng không có sự hiện diện của pháp luật, của công lý, mọi người dân không được bình đẳng như nhau trước pháp luật. Bọn này cũng gián tiếp làm gia tăng nhiễu loạn và bạo lực xã hội, gây ra tình trạng ngày càng nhiều kẻ giết người, côn đồ đánh người vô cớ, trộm cướp, hãm hiếp… bởi từng ngày từng giờ chúng tạo cho một bộ phận người dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên có suy nghĩ đơn giản rằng: cứ đánh người, cứ giết người, cứ trộm cướp, nếu bị bắt thì chạy tiền là án phạt sẽ được giảm nhẹ, sẽ được “ân xá” ra tù sớm.

11. Đó là những “chú công an nhân dân” xử lý công việc bằng cơ bắp nhiều hơn là bằng trí tuệ! Nhóm thế lực thù địch này có những “tuyệt chiêu” mà người dân ai cũng sợ, đến nỗi khi làm việc với chúng bây giờ ai cũng phải cảnh giác, không đi một mình!. Bọn này có thể “biến một người sống thành một xác chết” chỉ sau vài phút “lập biên bản”, hoặc tự va đầu vào gậy, tự đập đầu vào tường chấn thương sọ não mà chết!!” hoặc nhẹ hơn thì đi bệnh viện cấp cứu. Chúng là những kẻ côn đồ núp dưới bóng “công an nhân dân”, “dân phòng”. Đám này học hành thấp kém, nhưng được cái vai u, cơ bắp nở nang! Chúng hạ uy tín của đảng bằng cách núp dưới bóng đảng (để làm nhiều việc ác với nhân dân) bởi khi nhìn kỹ trên trán chúng thì hầu hết (khoảng 90-95%???) đều thấy hiện lên hai chữ “đảng viên”! Chúng coi dân như kẻ thù không đội trời chung. Chúng đánh người dân (kể cả nhân viên/nhà báo của chính phủ đi thi hành công vụ) giữa thanh thiên bạch nhật, không sợ các ống kính ghi hình. Chúng làm những việc mà ngay cả đến mấy con chó nghiệp vụ do chúng huấn luyện cẩn thận còn không dám làm, quay lưng bỏ đi. Chúng thể hiện một thứ văn hóa của “bầy sói”. Khi thấy người dân chúng nhảy vào xâu xé thể hiện cơn cuồng khát máu, cơn thèm khát được đánh người như những chiếc lò xo bị nén, nay gặp dân nó bật lên. Chúng đánh cả phụ nữ, đá thẳng vào bụng người phụ nữ ngay cả khi chị đã bị đồng bọn của chúng khóa tay. Loại thế lực thù địch này gây căm phẫn cao độ trong dư luận quần chúng nhân dân. Chúng hại đảng, hại chính quyền bằng cách chứng minh cho nhân dân, cho thế giới thấy rõ bản chất của chế độ do đảng ta lãnh đạo đã thay đổi hoàn toàn, nhà nước ta không còn là của dân, do dân, vì dân nữa!!.

12. Đó là bọn “mãi lộ” trên khắp các nẻo đường của Tổ Quốc. Chúng ngang nhiên chặn xe ô tô đang lưu thông trên đường để vòi tiền mãi lộ, đến mức mà báo chí của chính phủ phải gọi chúng là bọn “cướp cạn”. Loại thế lực thù địch cũng thuộc nhóm ít học. Bọn này ngoài việc gây bức xúc cho xã hội, góp phần làm suy giảm niềm tin ở người dân nhanh nhất thì chúng còn góp phần làm gia tăng nghèo đói cho người dân do chúng gián tiếp gây tăng giá vận chuyển hàng hóa, giá cước vận chuyển hành khách…. Bên cạnh đó, Chúng cũng “đánh” vào “hầu bao” của Nhà nước thông qua việc gián tiếp làm cho HTCS giao thông nhanh bị xuống cấp bởi tình trạng xe ô tô quá tải lưu thông dày đặc trên đường hàng ngày mà chúng bỏ qua do đã ăn mãi lộ. Đôi khi chúng cũng là nhân tố gây bức xúc cho người dân, là ngòi nổ cho những cuộc “tụ tập đông người!” để phản đối về thứ văn hóa cư xử của chúng dành cho người dân.

13. Đó là những kẻ lưu manh, côn đồ. Nhóm này có một bộ phận là nạn nhân của nhiều nhóm thế lực thù địch khác. Chúng học vấn thấp, không công ăn việc làm, sống chuyên nghề trộm, cướp, đòi nợ thuê. Đặc điểm dễ nhận biết nhất là chúng thường cắt trọc đầu, xăm trổ đầy tay, đầy mình nhìn rất gớm ghiếc. Chúng lấy việc đánh người làm thích thú, giết người không ghê tay. Nhóm thế lực thù địch này gây nhiễu loạn xã hội, gây hoang mang cho người dân, đem lại cho mỗi người dân đang sống trong “Thiên đường xã hội chủ nghĩa” mà cứ nơm nớp lo sợ, không biết hôm nay ra đường có bị chúng đánh không nếu nhỡ có bị va quệt xe??? ….

14. Đó là một bộ phận nhỏ ở “thượng tầng kiến trúc” vẫn kiên định theo một thứ chủ nghĩa đã chết và “thối rữa” hơn 20 năm nay ngay tại nơi nó được sinh ra làm nền tảng phát triển đất nước, đặt sự phát triển của đất nước như xây một căn nhà cao tầng trên một đầm lầy. Đất nước càng ngày càng lún sâu vào các loại nhiễu loạn xã hội và các loại khủng hoảng: khủng hoảng về đường lối phát triển đất nước, khủng hoảng lãnh đạo, lãnh tụ, khủng hoảng niềm tin, khủng hoảng việc làm, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng thừa các loại phí, thuế đánh vào túi tiền của người dân đa số là nghèo…. Hệ quả là sức mạnh tổng hợp của cả một dân tộc bị suy giảm nghiêm trọng, đến mức mà có thể dẫn đến (hoặc đã hiện hữu) nguy cơ một đất nước có gần 90 triệu dân nhưng không thể “hiên ngang” trước kẻ thù truyền kiếp (Trung Quốc) như một đảo quốc hơn 3 triệu dân sống sát cạnh nó, vốn dĩ được coi là đất của nó (Đài Loan).

Theo FB

“Cần xây dựng con người chứ không phải tượng đài”

Hoà Ái, phóng viên RFA. 2015-08-12

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/need-to-build-real-idol-no-statue-08122015073044.html

32 mẫu phác thảo tượng đài Hồ Chí Minh được trưng bày từ năm 2013 tại UBND TPHCM

32 mẫu phác thảo tượng đài Hồ Chí Minh được trưng bày từ năm 2013 tại UBND TPHCM

Báo NLD

Trong xu thế khắp các tỉnh, thành cả nước VN, chính quyền địa phương đua nhau xây tượng đài và mới đấy nhất dự án tượng đài Bác Hồ 1400 tỷ ở tỉnh Sơn La vừa được thông qua gây nên làn sóng phản đối mạnh mẽ trong công chúng. Tìm hiểu về góc độ văn hóa, liệu rằng việc xây dựng tượng đài trong bối cảnh hiện tại có còn phù hợp?Hòa Ái có cuộc trao đổi ngắn với Giáo sư Trần Ngọc Thêm, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Lý luận và Ứng dụng thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM, xoay quanh vấn đề vừa nêu. Mời quý thính gải cùng nghe.

Hòa Ái: Xin chào Giáo sư Trần Ngọc Thêm. Thưa Giáo sư, trước hết, câu hỏi của Hòa Ái về nét văn hóa đúc tượng, xây tượng đài của người Việt bắt đầu xuất hiện từ khi nào trong lịch sử VN?

Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Nền văn hóa VN, theo như cách định danh và phân loại của tôi thì thuộc loại nền văn hóa âm tính. Khu vực ĐNA là khu vực trồng lúa nước nên văn hóa rất âm tính, thiên về tinh thần hơn thiên về vật chất, thiên về văn hóa nghe, nói hơn là văn hóa nhìn. Vì vậy, trong lịch sử VN văn chương rất phát triển còn hội họa thì ngược lại. Đối với phương Tây thì hội họa, tượng đài, kiến trúc rất phát triển. Ở VN thì tượng đài rất gần đây thôi, đặc biệt từ khi người Pháp đến thì mới bắt đầu có xây dựng một số tượng đài chổ này, chổ kia, chổ khác. Thời kỳ xã hội chủ nghĩa thì ảnh hưởng theo Liên Xô cũng có thêm một số tượng đài nữa. Và trong giai đoạn cuối, giai đoạn sau của thời kỳ đổi mới thì việc xây dựng tượng đài bắt đầu ồ ạt. Văn hóa VN có một đặc điểm khác, tức là tính cộng đồng, rất hay theo nhau, thấy chổ này làm điều gì hay thì chổ khác làm theo. Trong lịch sử VN có rất nhiều những phong trào như vậy. Giai đoạn hiện nay khi phong trào phần nhiều phát triển tới mức độ cao thì lại chuyển sang làm hỏng, tiêu cực.

Việc đồng thời xây dựng kinh tế thì xây dựng văn hóa, xây dựng cái này cái khác là cần thiết. Tất nhiên tượng đài cũng cần nhưng có mức độ thôi, nghĩa là quy hoạch như thế nào chứ không phải xây dựng tràn lan. Hiện nay có vẻ như tràn lan rồi. Số lượng quá nhiều

Giáo sư Trần Ngọc Thêm

Hòa Ái: Theo như nhận xét của Giáo sư là do phong trào xây tượng đài hiện đang phát triển với mức độ cao đã gây ra chiều hướng tiêu cực. Có phải vì tính chất tiêu cực ngày mỗi một trầm trọng hơn đến nỗi cả đề án xây dựng tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Sơn La và thêm 14 tượng đài nữa ở các địa phương khác cho đến năm 2030 cũng bị dư luận trong nước phản đối?

Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Tượng đài chỉ đơn thuần là một hình tượng thôi. Và đối với đại đa số người VN thì Bác Hồ là một hình tượng như vậy. Chúng ta có thể nhớ lại ở ngay miền Nam trong hoàn cảnh còn đang chiến tranh ở những vùng của chính quyền VNCH quản lý, trong những vùng của người Mỹ thì sau khi Bác Hồ mất nhiều nơi người ta tự giác, tự nguyện làm những đề thờ Bác Hồ và người ta hy sinh xương máu để bảo vệ những đền thờ này. Đây là một ví dụ để cho thấy thôi. Như vậy, hiện nay trong số các tượng đài thì hình tượng Bác Hồ có không phải là ít. Vả lại xây dựng tượng đài không nhất thiết quy mô phải thật to, phải cao bao nhiêu mét, nặng bao nhiêu tấn…thì mới là tượng đài. Tượng đài có thể to, có thể nhỏ nhưng căn bản phải phù hợp với không gian, phải có hình tượng độc đáo, hình tượng đẹp với mức kinh phí hạn chế hơn nhưng vẫn có thể đạt được hiệu quả.

Tượng đài Hồ Chí Minh được làm bằng hợp kim đồng có chiều cao là 7,2 m được đặt trước mặt UBND TPHCM.
Tượng đài Hồ Chí Minh được làm bằng hợp kim đồng có chiều cao là 7,2 m được đặt trước mặt UBND TPHCM (Kiến Thức)

Hòa Ái: Nhiều ý kiến của dân chúng cho rằng VN đang trong bối cảnh gánh nặng nợ công, nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, đời sống an sinh xã hội của người dân còn ở mức thấp…Cho nên Nhà nước không cần thiết xây dựng dựng các tượng đài như hiện nay. Xét về góc độ văn hóa, ý kiến của Giáo sư như thế nào?

Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Tôi nghĩ không hẳn hoàn toàn như vậy. Là thế này, cùng với việc xây dựng kinh tế thì văn hóa cũng phải được phát triển và văn hóa có nhiều khía cạnh. Văn hóa là nền tảng, mục tiêu của kinh tế. Bởi vì làm kinh tế cuối cùng để nâng hạnh phúc đời sống cho con người. Thế thì đời sống tinh thần cũng được xây dựng chứ không phải cứ còn khó khăn thì cứ tập trung lo xong kinh tế, mọi thứ khác cứ để đó thì không phải. Cho nên việc đồng thời xây dựng kinh tế thì xây dựng văn hóa, xây dựng cái này cái khác là cần thiết. Tất nhiên tượng đài cũng cần nhưng có mức độ thôi, nghĩa là quy hoạch như thế nào chứ không phải xây dựng tràn lan. Hiện nay có vẻ như tràn lan rồi. Số lượng quá nhiều. Hơn nữa vì không có văn hóa xây dựng tượng đài cho nên cũng không có kinh nghiệm về mọi mặt, từ thiết kế ý tưởng, xây dựng biểu tượng cho đến kỷ thuật…Cho nên trong thời gian qua, nhiều tượng đài sau khi xây xong bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, tôi cho rằng cần phải hạn chế, cần phải có chừng mực hơn, có kế hoạch hơn chứ như hiện nay là quá nhiều và như vậy không phải là tốt. Và tôi cho rằng sự phản ứng của dân chúng là có lý.

Trong xây dựng văn hóa thì tôi cho rằng đầu tiên phải xây dựng con người chứ không phải tượng đài

Giáo sư Trần Ngọc Thêm

Hòa Ái: Hòa Ái cũng ghi nhận nguyện vọng của phần lớn dân chúng mong rằng Chính phủ phải quan tâm nhiều hơn nữa và tập trung cải thiện đời sống an dân thì hiển nhiên trong lòng họ sẽ luôn sừng sững những tượng đài các vị lãnh đạo vì nước thương dân chứ không cần phải có những tượng đài hoành tráng như hiện nay. Giáo sư nghĩ sao về quan điểm này?

Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Điều đó thì đúng bởi vì mọi thứ tượng đài nào cũng không vững chắc cho bằng tượng đài trong lòng của người dân. Khi người dân có niềm tin, người ta yêu quý thì đã là có tượng đài rồi.

Hòa Ái: Giáo sư có chia sẻ rằng song song với việc xây dựng kinh tế thì cũng phải phát triển văn hóa. Trong giai đoạn hiện tại theo Giáo sư, VN cần chú trọng phát triển văn hóa như thế nào?

Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Trong xây dựng văn hóa thì tôi cho rằng đầu tiên phải xây dựng con người chứ không phải tượng đài. Con người hiện nay có rất nhiều những mặt xấu của văn hóa truyền thống trong môi trường mới là môi trường đô thị, môi trường công nghiệp trong hòan cảnh toàn cầu hóa, kinh tế thị trường như thế này, có nhiều thói hư tật xấu bộc lộ ra. Cần phải tập trung vào xây dựng điều đó, phải có những con người hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu của giai đoạn toàn cầu hóa, hiện đại hóa, công nghiệp hóa và đô thị hóa thì mới có thể làm tất cả mọi việc khác được.

Hòa Ái: Chân thành cảm ơn thời gian của Giáo sư dành cho đài ACTD.

Đảng lên gân: không đa nguyên chính trị

Nam Nguyên, RFA.  2015-08-11

đảng lên gân: không đa nguyên đa đảng

nguyenphutrong-600.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Đại hội lần thứ 10 Hội Nhà báo Việt Nam ở Hà Nội hôm 9/8/2015.

Courtesy of CPV online newspaper

 

Tại Đại hội lần thứ 10 Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức ở Hà Nội, hôm 9/8/2015 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo truyền thông báo chí nhà nước cần tỉnh táo trước thông tin lợi dụng dân chủ đòi đa nguyên đa đảng, lợi dụng chống tham nhũng để bôi xấu chế độ và chia rẽ nội bộ. Câu hỏi đặt ra là Việt Nam sẽ cải cách bằng cách nào khi tiếp tục không chấp nhận đa nguyên chính trị?

Phát biểu của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng được đưa ra ít ngày, sau khi ông Ted Osius Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội xác định Mỹ không tìm cách thay đổi thể chế chính trị của Việt Nam. Đại sứ Ted Osius đã tuyên bố như vừa nêu trong cuộc họp báo vào cuối tháng 7 ở Hà Nội.

Theo lời ông Đại sứ, Chính sách của Mỹ là tôn trọng sự khác biệt trong hệ thống chính trị của các quốc gia khác. Cách  duy nhất  để có thể tăng cường lòng tin giữa hai nước là phải nói rõ sự tôn trọng của Hoa Kỳ đối với một hệ thống chính trị khác biệt.

Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, TS Phạm Chí Dũng chủ tịch Hội Nhà báo độc lập một tổ chức nằm ngoài sự quản lý của chính quyền, nhận định:

“Điều đó lên giây cót cho chế độ chính trị ở Việt Nam và như vậy họ có thể đương nhiên nghĩ rằng, Mỹ chấp nhận triết lý chính trị của họ. Điều đó cũng lên giây cót cho ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, khẳng định lại không thể có đa nguyên đa đảng ở Việt Nam. Tôi cũng nghe những thông tin chuẩn bị cho Đại hội 12 là trong Đại hội 12 sẽ không diễn ra sự thay đổi lớn về triết lý chính trị. Đây là khái niệm mới được Hoa Kỳ cùng Việt Nam đưa ra và Việt Nam rất thích… Tôi hiểu là tất nhiên họ vẫn không chấp nhận đa nguyên đa đảng.”

Tại Đại hội 12 sẽ không diễn ra sự thay đổi lớn về triết lý chính trị.… Tôi hiểu là tất nhiên họ vẫn không chấp nhận đa nguyên đa đảng.
TS Nguyễn Quang A, Hà Nội

Theo TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển IDS, tổ chức tư nhân duy nhất về nghiên cứu chính sách ở Việt Nam nhưng đã giải thể sau đó vì bị mất tính độc lập, thì nguyên nhân của tình trạng bê bết vì tham nhũng, kinh tế ách tắc là vì nhà nước không chấp nhận đa nguyên chính trị.

Trong dịp trả lời chúng tôi trước đây, TS Nguyễn Quang A nhận định:

“Do chuyện chỉ có độc đảng, không có cạnh tranh chính trị không có một thế lực độc lập lành mạnh nó luôn luôn canh chừng để vạch ra những việc làm bậy bạ của những người đương chức và nó luôn kè kè là đến cuộc bầu cử tới mà các ông làm bậy, thì dân bằng lá phiếu của mình sẽ đẩy các ông xuống và chúng tôi sẽ lên. Đây là một cơ chế hùng mạnh vô cùng, để buộc người ta bớt tham nhũng đi. Khi buộc người ta bớt tham nhũng đi thì các chính sách mới thực sự thúc đẩy nền kinh tế thị trường…”

Cái cách chính trị: chuyện viễn vông

Sự kiện Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kêu gọi báo chí cảnh giác trước luồng thông tin đòi đa nguyên đa đảng, thật ra không có gì mới vì đây là lập trường cố hữu của ông và của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Điều ngạc nhiên là vì qua chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ vào đầu tháng 7 vừa qua, dư luận cho rằng Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã xích lại gần với Hoa Kỳ hơn và điều này sẽ tiến tới chấp nhận những cải cách về dân chủ nhân quyền.

Việt Nam sau hơn hai thập niên đổi mới đang bị tắc trong điều gọi là bẫy thu nhập trung bình, nền kinh tế khựng lại và không còn động lực phát triển. Trong câu chuyện với chúng tôi, TS Phạm Chí Dũng đồng thuận với những ý kiến cho rằng không thể thay đổi định chế kinh tế nếu nó không xuất phát từ sự thay đổi hệ thống chính trị. Ông nói:

“Một dẫn chứng gần gũi nhất là vừa rồi Việt Nam cùng với Liên minh Châu Âu đạt được sự thống nhất về Hiệp định thương mại tự do nhưng chỉ trên nguyên tắc mà thôi, chứ không phải là một sự ký kết thực chất và đi vào triển khai cụ thể như là phía Việt Nam mong muốn.

Không thay đổi những bản chất gốc rễ về thể chế kinh tế, sẽ càng làm cho nền kinh tế Việt Nam bế tắc mà nền kinh tế hiện nay vốn đang đủ thứ bế tắc.
TS Phạm Chí Dũng, TP.HCM

Vì sao lại như vậy, ít nhất có một lý do là Việt Nam chưa bảo đảm được sự thực thi hoàn chỉnh được một nền kinh tế thị trường đầy đủ như là các nước khối Tây Âu và người Mỹ họ yêu cầu.

Muốn thực thi được điều đó, có được khái niệm nền kinh tế thị trường đầy đủ thì thứ nhất phải bảo đảm được tính minh bạch. Việt Nam quá thiếu minh bạch, luôn luôn đứng gần chót bảng xếp hạng của Tổ chức minh bạch thế giới.

Thứ hai là luôn luôn ưu tiên cho các khối tập đoàn doanh nghiệp kinh tế lớn của nhà nước và gần như có sự cạnh tranh bất bình đẳng sâu xa và sâu sắc đối với khối doanh nghiệp tư nhân…

Tôi chỉ đặt ra dẫn chứng như thế để chúng ta thấy là không thay đổi những bản chất gốc rễ về thể chế kinh tế, thì sẽ không thể phát triển nền kinh tế và tất nhiên sẽ càng làm cho nền kinh tế Việt Nam bế tắc mà nền kinh tế hiện nay vốn đang đủ thứ bế tắc.”

Trong khoảng thời gian trước chuyến đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ, hệ thống tuyên giáo Trung ương Đảng cũng liên tục cảnh báo về diễn biến hòa bình, về điều gọi là tự diễn biến tự chuyển hóa.

Ngay lúc đó nhiều nhà phân tích đã cho rằng, thật là viễn mơ khi trông đợi Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận cải cách chính trị quan trọng, chỉ sau một chuyến đi dù là lần đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ.

Sự quyến rũ từ các Hiệp định thương mại tự do như với Liên minh Châu Âu EU, hoặc Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP với Hoa Kỳ và các đối tác khác luôn gây sự trăn trở cho Đảng và nhà nước Việt Nam. Nhưng làm thế nào để cải cách chính trị, thực hiện dân chủ nhân quyền mà vẫn giữ được vị thế độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là câu hỏi khó có câu trả lời hoàn hảo.

Việt Nam đối mặt với chiến tranh tiền tệ?

Ngân hàng trung ương của Việt Nam đã phá giá VND hai lần trong nửa đầu năm nay

Động thái phá giá tiền tệ của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã gây chấn động cho các thị trường tài chính thế giới trong 24 tiếng qua.

Đồng nhân dân tệ đã được điều chỉnh tỷ giá tham chiếu so với USD xuống 1,9% hôm 11/8, trước khi tiếp tục giảm thêm 1,6% ngày 12/8.

Nhiều hãng tin tài chính lớn như Financial Times, Bloomberg, cho rằng hành động của Bắc Kinh đang châm ngòi cho một ‘cuộc chiến tiền tệ’ trong khu vực, khi hàng loạt các quốc gia châu Á bất ngờ phải đối mặt với áp lực phá giá tiền tệ để giữ tính cạnh tranh tại các thị trường xuất khẩu.

Động thái của Trung Quốc được cho là bước đi nhằm tạo tiền đề cho phép các tác nhân thị trường đóng vai trò lớn hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái.

Bất lợi cho Việt Nam

Sáng 12/8, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra thông báo điều chỉnh nâng biên độ tỷ giá USD/VND lên gấp đôi, từ 1% lên 2%.

Điều này đồng nghĩa với việc giá mua bán USD của các ngân hàng có thể biến động trong phạm vi từ 21.240 đồng đến 22.106 đồng.

Ngân hàng trung ương của Việt Nam giải thích động thái này là nhằm đảm bảo tính linh hoạt cho tỷ giá trước các tác động của thị trường quốc tế và đảm bảo cho khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

“Với đặc thù Trung Quốc là đối tác chiếm tỷ trọng thương mại lớn của Việt Nam thì việc điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ sẽ có tác động bất lợi tới nền kinh tế Việt Nam”, thông cáo viết.

Kết thúc phiên giao dịch sáng 12/8, chỉ số VN-Index dừng lại ở mức 604,24 điểm, giảm 8,81 điểm (-1,44%).

Trả lời BBC ngày 12/8, ông Vũ Thanh Phong, một chuyên gia chứng khoán trong nước, cho biết “tình hình hiện tại không tích cực cho lắm”.

Ông cho biết thị trường đã diễn biến xấu kể từ khi đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương tại Hawaii không mang lại kết quả như kỳ vọng.

“Tuy nhiên việc ngân hàng trung ương Trung Quốc phá giá nhân dân tệ ngày hôm qua đã khiến thị trường bị bất ngờ”, ông nói.

“Điều này gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam cũng như thế giới, nhất là về mặt kinh tế.”

“Về mặt nhập khẩu, Việt Nam vẫn chưa giải quyết được vấn đề nhập siêu với Trung Quốc, và nếu đồng nhân dân tệ tiếp tục yếu hơn thì trong tương lai vấn đề nhập siêu sẽ nghiêm trọng hơn nữa.”

“12 năm trước Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 15 của họ, tính đến quý 1 năm nay thì Việt Nam đã là thị trường xuất khẩu lớn thứ 7 của Trung Quốc và đây là điều rất đáng lo ngại,” ông nói.

‘Không ngờ trước’

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trước đó đã thông báo sẽ không điều chỉnh tỷ giá VND nhiều hơn 2% trong năm nay.

Tuy nhiên, theo ông Phong, cơ quan này đã “không tính được hết biến động tỷ giá trong năm nay”.

“Sự tăng giá của đồng đôla đã khiến Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dùng hết 2% trong nửa năm đầu”, ông nói.

“Hôm qua thì việc Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ tiếp tục nằm ngoài dự kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.

“Trong điều kiện tỷ giá biến động quá mạnh này, nếu tiếp tục bảo vệ tỷ giá tiền đồng thì cái giá phải trả rất lớn và cụ thể là dự trữ ngoại hối sẽ bị tiêu tốn”, ông nói.

“Nếu Ngân hàng Nhà nước cố giữ giá trị tiền đồng thì năm sau sẽ có biến động rất mạnh về tỷ giá.”

“Việc Trung Quốc phá giá tiền tệ nằm ngoài dự đoán chủ quan của Việt Nam cũng như thế giới và việc không giữ cam kết 2% đầu năm hoàn toàn có thể chấp nhận được.”

Nhận định về điều mà các báo nước ngoài gọi là nguy cơ xảy ra chiến tranh tiền tệ trong khu vực, giới chuyên gia cho rằng những yếu tố làm xảy ra chiến tranh tiền tệ hiện nay “có thể nhiều hơn những năm trước.”

Ai được, ai mất khi TQ phá giá tiền?

Hôm thứ Tư, ngân hàng trung ương Trung Quốc hạ mức “trung bình chính thức” của đồng nhân dân tệ xuống 1,6%, một đô la Mỹ ăn 6,3306 nhân dân tệ.

Mức trung bình là tỷ giá hối đoái mang tính định hướng, trên cơ sở đó việc mua bán có thể tăng hoặc giảm 2% trong ngày giao dịch.

Cho tới hôm thứ Ba, tỷ giá này chỉ duy nhất do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) xác định.

Nay, tỷ giá hối đoái sẽ được dựa trên những diễn biến thị trường toàn cầu qua đêm và về việc đồng nhân dân tệ vào lúc đóng cửa ở phiên giao dịch trước được mua bán với giá nào.

PBOC, vốn nói việc điều chỉnh giá xuống 1,9% hôm thứ Ba là lần điều chỉnh ‘một lần rồi thôi’, đã tìm cách trấn an các thị trường tài chính hôm thứ Tư.

“Nhìn vào tình hình kinh tế quốc tế và quốc nội, hiện không có cơ sở gì để nói là đồng nhân dân tệ sẽ xuống giá trong thời gian dài,” PBOC nói trong một tuyên bố.

Được và mất

Tuy việc phá giá khiến các thị trường quốc tế chấn động, nhưng việc xuống giá với tổng cộng hơn 3% chưa có tác động lớn gì cho hầu hết các công ty.

Nhưng việc xuống giá thêm nữa có lẽ sẽ thay đổi số phận của một số doanh nghiệp trong và ngoài Trung Quốc. Dưới đây là một số loại đối tượng có thể thua hoặc thắng trong tình thế đó:

Thắng

  • Các nhà xuất khẩu Trung Quốc, nhất là các công ty may mặc và xe hơi, sẽ được tăng sức cạnh tranh.
  • Các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ có nguồn cung cấp hàng từ Trung Quốc với mức giá rẻ hơn; các công ty có sử dụng dịch vụ , sản phẩm, bộ phận thiết bị Trung Quốc cũng trong tình thế tương tự.
  • Du khách nước ngoài tới Trung Quốc được lợi khi đổi tiền sang đồng nhân dân tệ.

Thua

  • Các công ty Trung Quốc có các khoản nợ bằng ngoại tệ sẽ phải trả lãi nhiều hơn, nhất là các công ty bất động sản và các phương tiện chính quyền địa phương đi thuê mua.
  • Các hãng hàng không Trung Quốc đang nợ bằng ngoại tệ và phải chi trả rất nhiều tiền để mua nhiên liệu bằng đồng đô la Mỹ.
  • Các nhà xuất khẩu hàng vào Trung Quốc, nhất là các mặt hàng xa xỉ, bởi hàng sẽ trở nên đắt đỏ hơn đối với khách hàng Trung Quốc.

Vì sao TQ phá giá đồng nhân dân tệ?

Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc vào hôm thứ Ba xuống mức thấp nhất trong gần ba năm qua.

Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) quyết định nhanh chóng sau khi kết quả kinh tế yếu kém được đưa ra hồi cuối tuần rồi.

Với mức giảm 1,9%, PBOC nói đây là bước đi trước nhằm hướng tới cải cách tiền tệ.

Nhưng thời điểm phá giá khiến một số người cho rằng Trung Quốc đang nỗ lực hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu nước này.

Hồi tháng Bảy, xuất khẩu bất ngờ giảm 8%, chiếm phần lớn trong nền kinh tế Trung Quốc.

Gần đây, Bắc Kinh đã cố giữ đồng nhân dân tệ để người dân trong nước có thể mua hàng hóa nhiều hơn và các công ty Trung Quốc có thể đầu tư ra nước ngoài một cách dễ dàng hơn. Nay, việc thay đổi chính sách rất có thể sẽ đem đến những nguy cơ.

Với các nhà đầu tư, câu hỏi là liệu giờ là lúc nên bán hay nên giữ đồng nhân dân tệ.

Tuy nhiên, ảnh hưởng của việc phá giá đồng nhân dân tệ không chỉ giới hạn trong phạm vi nền kinh tế Trung Quốc, theo bình luận của chủ biên kinh tế BBC, Robert Peston dưới đây.

Robert Peston, Chủ biên kinh tế BBC

Các nhà đầu tư thế giới lâu nay bị ám ảnh với chuyện khi nào Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) sẽ kết thúc kỷ nguyên áp mức lãi suất gần như bằng không, trong lúc kinh tế Mỹ đã gần như trở lại bình thường.

Thế nhưng có lẽ họ đang nhìn không đúng chỗ, nếu xét tới việc điều gì có ảnh hưởng tới dòng vốn và hoạt động kinh tế xuyên quốc gia.

Bởi quyết định của PBOC phá giá đồng nhân dân tệ 1,9% sẽ có tác động toàn cầu, cả trong thời gian ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Ngay lập tức, quyết định trên làm tăng tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào thời điểm nền kinh tế nước này đang tăng ở mức chậm nhất kể từ sáu năm qua, và khi mà nhiều kinh tế gia sợ rằng việc chững lại sẽ trở thành vấn đề đau đớn, cấp bách cần xử lý.

Việc phá giá đồng nhân dân tệ sẽ gợi lại những quan ngại rằng vẫn còn rất lâu nữa Bắc Kinh mới làm mới nền kinh tế để tạo sự tăng trưởng cân bằng hơn, dựa trên những nhu cầu tiêu thụ nội địa mạnh mẽ hơn.

Sự suy yếu của đồng tiền tệ nước này cũng sẽ khiến Fed bị chú ý.

Trên thực tế là Trung Quốc đang xuất cảng tình trạng giảm phát sang Hoa Kỳ.

Nói cách khác, với các nhà sản xuất và xuất khẩu Hoa Kỳ thì Bắc Kinh đã thắt chặt chính sách tiền tệ.

Về trung hạn, Trung Quốc sẽ lại nêu quan ngại về chuyện cạnh tranh thương mại không công bằng.

Không ai nghi ngờ gì, các ứng viên chạy đua chức tổng thống Hoa Kỳ, nhất là phía đảng Cộng hòa, sẽ than phiền nhiều hơn về việc Trung Quốc nỗ lực tái xác lập thị phần xuất khẩu nhằm chặn mức ảnh hưởng của tình trạng đi xuống không thể tránh khỏi của nền kinh tế Trung Quốc.

Về dài hạn, hiện chưa rõ việc phá giá tiền tệ có ảnh hưởng ra sao tới tham vọng của Trung Quốc trong việc muốn đưa đồng nhân dân tệ trở thành một loại tiền tệ dự trữ, được hiểu theo định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).

Các kinh tế gia của IMF và các quan chức tại các ngân hàng trung ương, là những người có quyền điều chỉnh quy chế của các loại tiền tệ dự trữ, sẽ cân nhắc xem liệu việc một ngân hàng trung ương như PBOC buộc phá giá hoặc định giá lại tiền tệ có làm sai lệch đi hoạt động của thị trường tự do hay không.

PBOC đang nói rằng việc làm đồng nhân dân tệ suy yếu là bước đi nhằm tiến tới việc có tỷ giá hối đoái được thị trường tự điều tiết mạnh mẽ hơn.

Với những áp lực thị trường trong những tuần vừa qua, thực tế cho thấy những lỗ hổng trong nền kinh tế Trung Quốc đã ngày càng lộ rõ hơn.

Nghịch lý nhân sự (IV)

lanhdao CSVN

Thời điểm này, một năm trước đây, tôi bắt đầu công việc đặt câu hỏi trên blog RFA. Và một trong những câu hỏi đầu tiên của tôi liên quan đến vấn đề nhân sự của đảng cộng sản Việt Nam. Những ý tưởng của bài « Nghịch lý nhân sự IV » này đã có từ lâu, nhưng còn thiếu một vài điều kiện để cho bài viết có thể hình thành.

Tình cờ những điều kiện này được thỏa mãn khi, do công việc, tôi tìm đọc tạp chí Hérodote, số chuyên đề về Việt Nam, xuất bản tháng 6 năm 2015. Trong số các nghiên cứu về Việt Nam rất đáng đọc ở số 157 này, tôi đặc biệt lưu ý tới bài của Benoit de Tréglodé, vì các nhận định liên quan tới chính trị Việt Nam, nhất là vấn đề nhân sự. Và rất may là dịch giả Phong Uyên đã nhạy bén kịp thời dịch bài này ra tiếng Việt và tờ Dân Luận đã kịp phổ biến. Quý độc giả có thể đọc ở đây :

https://www.danluan.org/tin-tuc/20150805/benoit-de-treglode-viet-nam-dang-quan-doi-va-nhan-dan-duy-tri-su-chi-phoi-chinh-tri#sthash.4hjqZyyn.dpuf

Các trích dẫn của tôi sẽ lấy từ bản dịch này.

Bất luận các nhận định trong bài chính xác tới mức độ nào, người Việt Nam chúng ta cần biết ơn nhà nghiên cứu người Pháp đã thực hiện một nghiên cứu trực diện và đi thẳng vào bản chất của vấn đề như vậy. Chúng ta có cơ hội để biết rằng chúng ta đang được người khác nhìn như thế nào. Chúng ta có cơ hội để đối diện với thực tế nền chính trị Việt Nam qua cái nhìn từ bên ngoài. Để cuối cùng chúng ta cần học cách tự nhìn mình từ một điểm nhìn từ bên ngoài, nếu thực sự chúng ta muốn thay đổi và phát triển.

Nhiều nhận xét của Benoit de Tréglodé cần được chúng ta suy nghĩ và kiểm chứng. Ở đây tôi chỉ dừng lại trên những điểm có liên quan đến chủ đề của bài viết của tôi.

Tôi trích nguyên văn ba ý kiến sau đây :

  1. « Ngay trước khi có ĐH XI , vào khoảng năm 2010, người ta đã trách TC II đứng đằng sau một chiến dịch đàn áp các bloggers và các nhà hoạt động chính trị dưới sự thúc đẩy của Bắc Kinh. Trong hoàn cảnh như vậy, rất nhiều người Việt bắt đầu tự hỏi, có thật hay tưởng tượng, bộ máy an ninh Trung Quốc có can thiệp vào xứ sở của mình. »
  2. « Những lãnh đạo Việt Nam đều biết là những chức vụ chóp bu (Bí thư ĐCSVN, Thủ tướng, Chủ tịch nước và bộ trưởng bộ Quốc phòng) đều phải có sự ưng thuận ngầm của ĐCSTQ. Cái lobbying ấy cũng tốn rất nhiều tiền cho Tàu. Theo nhiều nhà quan sát, Bắc Kinh phải bỏ ra 15 tỷ đô la dưới nhiều hình thức : đầu tư, những chương trình hợp tác, viện trợ Việt Nam tham dự những hoạt động của Asean, và nhất là tiền hỗ trợ thẳng vào túi các lãnh đạo. »
  3. « Theo vài nhà quan sát, giá một phiếu trong QH (498 đại biểu) phỏng chừng 100 ngàn đô. Giá còn cao rất nhiều hơn nữa nếu muốn có sự hỗ trợ của một ủy viên Trung ương (175 người) hay của một ủy viên bộ chính trị (16 người). Cái lo gíc này cứ tiếp tục tăng lên tùy theo thứ hạng trong bộ máy chính trị : để có được một ghế trong bộ Chính trị, vì phải có cuộc bỏ phiếu của Ủy ban Trung ương, phải bỏ ra chừng 1 triệu đô. Rõ ràng là Trung Quốc theo đường lối này, đã đã tìm thấy cách tăng cường ảnh hưởng của mình trong giới cầm quyền của nước CHXHCNVN và biến những kẻ nhận tiền thành những con nợ tinh thần của mình, phải chịu sự giám hộ của mình. Về phía Việt Nam, những tín hiệu, được lập đi lập lại về sự bảo vệ quyền lợi quốc gia đối với Bắc Kinh, lẽ tất nhiên chỉ hoàn toàn là giả tạo. »

Những nhận định này, những con số tiền bạc liên quan đến việc mua bán chức vụ được đưa ra trên đây, đặt người Việt Nam trước một thực tế trần trụi, đáng sợ và tuyệt vọng: sự lệ thuộc vào Trung Quốc không còn là nguy cơ, mà đã là một hiện thực. Và đó là sự lệ thuộc ở hình thái nguy hiểm nhất của nó. Nghịch lý ở đây là : nhân sự lãnh đạo của Việt Nam không do người Việt Nam quyết định mà do Trung Quốc quyết định. Đấy là lý do đưa Benoit de Tréglodé tới kết luận rằng những tín hiệu mà chính quyền đưa ra để chứng tỏ rằng họ đang bảo vệ quyền lợi quốc gia trước sự xâm hấn của Trung Quốc chỉ là những tín hiệu giả tạo.

Đa số người Việt có suy nghĩ đang sống trong một hy vọng rằng ở Việt Nam có một phái thân Mỹ, đối lập với phái thân Tàu. Và họ phó thác số phận đất nước và số phận chính họ cho cái hy vọng vào phái thân Mỹ ấy. Nhưng nếu việc bổ nhiệm nhân sự được tiến hành đúng như cách thức mà de Tréglodé miêu tả trên đây, thì liệu một phái thân Mỹ như vậy có tồn tại thực sự hay không ?

Nếu hy vọng vào một phái thân Mỹ thực ra chỉ là một ảo ảnh được tạo ra trong cơn khát cháy cổ dưới trưa nắng hè bỏng rát khi mà đến cả cái bình nước từ thiện cũng bị tịch thu đi mất, thì người Việt có chịu thoát ra khỏi cơn ảo ảnh đó để mà xắn tay lên, hợp lực lại, tự đào cho mình cái giếng để tìm nguồn nước duy trì sự sống cho mình hay không ?

Và liệu cái hy vọng rằng đảng cộng sản Việt Nam có thể tự cải cách vì lợi ích của dân tộc, cái hy vọng ấy có phải cũng chỉ là một ảo ảnh có tính chất bong bóng xà phòng hay không ?

Bài nghiên cứu của Benoit de Tréglodé khiến chúng ta phải mở to mắt nhìn thẳng cái hố thẳm mà chúng ta đang bị dẫn vào.

Và dĩ nhiên, khi một bài nghiên cứu như vậy được công bố thì các đại biểu Quốc hội, các nhân vật được nhắc đến trong đó không thể nhắm mắt làm ngơ nữa. Hàng trăm câu hỏi của người dân sẽ được đặt ra cho họ xung quanh câu chuyện này. Ở đây tôi chỉ nêu một câu hỏi :

Rút cuộc, nhân sự lãnh đạo cao cấp của Việt Nam do ai quyết định ?

Paris, 12/8/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Báo Việt Nam rút bài về Nguyễn Hữu Đang

 
Nhân vật Nguyễn Hữu Đang vẫn đang gây tranh luận

Một tờ báo ở Hà Nội vừa gỡ bỏ tư liệu vừa đăng tải về ông Nguyễn Hữu Đang, trụ cột của phong trào Nhân văn Giai phẩm.

Hôm 5/8, báo điện tử Dân Sinh thuộc Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội gây bất ngờ khi khởi đăng loạt bài 30 kỳ với chủ đề ‘Nguyễn Hữu Đang – Bi thương và cay đắng’.

Tuy nhiên chỉ vài ngày sau, báo này đã gỡ bài. BBC chưa liên lạc được với tổng biên tập báo để làm rõ nguyên nhân.

Giới thạo tin ở Hà Nội cho hay ông Nguyễn Thành Phong, Tổng biên tập báo Dân Sinh, có thể bị kỷ luật vì đăng bài tư liệu này.

Hôm 6/8, ông Phong nói với BBC sở dĩ ban biên tập quyết định đăng bài về ông Nguyễn Hữu Đang vì tin rằng ông Đang “là nhân vật mà mọi người muốn tìm hiểu, nghe nhiều về ông”.

“Chúng tôi quyết định đăng tư liệu về ông Đang nhân dịp Cách mạng tháng 8 vì cuộc đời của ông có nhiều nỗi niềm trong giai đoạn này”.

Loạt bài dự định sẽ kéo dài kỳ này được trích từ cuốn sách ‘Người đeo lục lạc’ chưa ấn hành của nhà văn Võ Bá Cường, tác giả cuốn sách ‘Chuyện tướng Độ’ do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân phát hành năm 2007.

Loạt bài được viết theo dạng ‘tiểu thuyết tư liệu’, theo đó nhà văn tiếp xúc với những nhân vật thật và tư liệu để xây dựng lên câu chuyện ‘có một phần yếu tố hư cấu nhưng gần với đời sống’.

Khi được hỏi có quan ngại việc loạt bài về ông Đang có thể bị Bộ Thông tin – Truyền thông tạm dừng giữa chừng hay không, ông Phong nói: “Tôi tin là sẽ không có ai ngăn cấm đăng bài về ông Đang. Báo chí ở Việt Nam không có kiểm duyệt. Chúng tôi có quyền lựa chọn nhân vật và câu chuyện để đăng. Và chúng tôi chịu trách nhiệm về những gì mình đăng tải”.

Nhân vật tranh cãi

Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất tại Việt Nam trong thế kỷ 20. Là cột trụ của phong trào Nhân văn Giai phẩm, ông Đang đã bị bắt, bị cầm tù, quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4/1958 đến tháng 2/2007, khi ông mất.

Lâu nay, các tư liệu về ông Đang cũng như những nhân vật khác trong phong trào Nhân văn Giai phẩm bị cho là chủ đề ‘cấm kỵ’ trên mặt báo.

Trong lời mở đầu về loạt bài, báo Dân Sinh mô tả “Nguyễn Hữu Đang có một số phận đặc biệt:

Từ người dựng lễ đài, Trưởng ban tổ chức Lễ Độc Lập, để ra mắt quốc dân đồng bào Chính phủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, là người đứng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Lễ đài, nâng ấn kiếm của chế độ phong kiến lên cho Cụ Hồ để Cụ Hồ tuyên bố: “Lưỡi kiếm này để trừng trị những tên hại dân, phản quốc”.

Vậy mà sau đó, Nguyễn Hữu Đang lại “vướng” vào vụ “Nhân văn – Giai phẩm”, bị kết án tù 15 năm, ra tù tiếp tục bị quản thúc hơn 15 năm nữa. Cuối đời, Nguyễn Hữu Đang được phục hồi chế độ “Lão thành cách mạng”. Câu chuyện Nguyễn Hữu Đang mang đến cho chúng ta rất nhiều chiêm nghiệm và những bài học thấm thía…”.

Báo VN đăng bài về Nguyễn Hữu Đang

  • 6 tháng 8 2015

Nguyễn Hữu Đang là một trong những trụ cột của phong trào Nhân văn Giai phẩm

Lần đầu tiên, một tờ báo ở Hà Nội đăng tư liệu nhiều kỳ về ông Nguyễn Hữu Đang, được xem là trụ cột của phong trào Nhân văn Giai phẩm.

Hôm 5/8, báo điện tử Dân Sinh thuộc Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội gây bất ngờ khi khởi đăng loạt bài 30 kỳ với chủ đề ‘Nguyễn Hữu Đang – Bi thương và cay đắng’.

Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất tại Việt Nam trong thế kỷ 20. Là cột trụ của phong trào Nhân văn Giai phẩm, ông Đang đã bị bắt, bị cầm tù, quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4/1958 đến tháng 2/2007, khi ông mất.

Lâu nay, các tư liệu về ông Đang cũng như những nhân vật khác trong phong trào Nhân văn Giai phẩm bị cho là chủ đề ‘cấm kỵ’ trên mặt báo.

Trong lời mở đầu về loạt bài, báo Dân Sinh mô tả “Nguyễn Hữu Đang có một số phận đặc biệt:

Từ người dựng lễ đài, Trưởng ban tổ chức Lễ Độc Lập, để ra mắt quốc dân đồng bào Chính phủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, là người đứng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Lễ đài, nâng ấn kiếm của chế độ phong kiến lên cho Cụ Hồ để Cụ Hồ tuyên bố: “Lưỡi kiếm này để trừng trị những tên hại dân, phản quốc”.

Vậy mà sau đó, Nguyễn Hữu Đang lại “vướng” vào vụ “Nhân văn – Giai phẩm”, bị kết án tù 15 năm, ra tù tiếp tục bị quản thúc hơn 15 năm nữa. Cuối đời, Nguyễn Hữu Đang được phục hồi chế độ “Lão thành cách mạng”. Câu chuyện Nguyễn Hữu Đang mang đến cho chúng ta rất nhiều chiêm nghiệm và những bài học thấm thía…”.

Đăng và chịu trách nhiệm

Trả lời phỏng vấn của BBC Tiếng Việt vào chiều 6/8, ông Nguyễn Thành Phong, Tổng biên tập báo Dân Sinh cho biết: “Chúng tôi tin rằng Nguyễn Hữu Đang là nhân vật mà mọi người muốn tìm hiểu, nghe nhiều về ông. Chúng tôi quyết định đăng tư liệu về ông Đang nhân dịp Cách mạng tháng 8 vì cuộc đời của ông có nhiều nỗi niềm trong giai đoạn này”.

Theo ông Phong, loạt bài dài kỳ này được trích từ cuốn sách ‘Người đeo lục lạc’ chưa ấn hành của nhà văn Võ Bá Cường – một nhà văn người Thái Bình có nhiều công sức tìm hiểu, chắp nối và nghiên cứu về Nguyễn Hữu Đang. Ông Cường cũng chính là tác giả của cuốn sách ‘Chuyện tướng Độ’ do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân phát hành năm 2007.

Ông Phong giải thích loạt bài được viết theo dạng ‘tiểu thuyết tư liệu’, theo đó nhà văn tiếp xúc với những nhân vật thật và tư liệu để xây dựng lên câu chuyện ‘có một phần yếu tố hư cấu nhưng gần với đời sống’.

Khi được hỏi có quan ngại việc loạt bài về ông Đang có thể bị Bộ Thông tin – Truyền thông tạm dừng giữa chừng hay không, ông Phong nói: “Tôi tin là sẽ không có ai ngăn cấm đăng bài về ông Đang. Báo chí ở Việt Nam không có kiểm duyệt. Chúng tôi có quyền lựa chọn nhân vật và câu chuyện để đăng. Và chúng tôi chịu trách nhiệm về những gì mình đăng tải”.

Ông Phong chia sẻ, loạt bài ‘Nguyễn Hữu Đang – Bi thương và cay đắng’ tuy mới khởi đăng nhưng đã đón nhận được những phản hồi tích cực từ phía bạn đọc, nhất là những nhà văn.

 

Nhà văn Võ Bá Cường, tác giả viết về ông Nguyễn Hữu Đang

‘Vẻ đẹp tiết tháo của người trí thức’

Báo Dân Sinh còn dẫn bức thư của ông Đang ngày 1/6/1990 gửi Dương Thu Hương mà báo này mô tả là ‘nhà văn bất đồng chính kiến, hiện đang sống lưu vong ở nước ngoài’.

Bức thư có đoạn: “Viết đến đây, tôi không nghĩ về tôi; tự thương mình đã rơi vào cái hố duy ý chí từ tuổi mười lăm, rồi cứ thế càng ngày càng cuồng tín, hợm mình, tham thắng, khi biết đến cái bí quyết sống “tri túc” lấy làm đủ của đạo học thì đã muộn”.

Báo Dân Sinh viết thêm: “Chiêm nghiệm từ câu chuyện Nguyễn Hữu Đang, chúng ta càng nhận ra những bước đi vĩ đại của quá trình phát triển cách mạng, nhận ra vẻ đẹp tiết tháo của người trí thức và nhận ra cả những kinh nghiệm sống trong đóng góp và phản biện cho hiện tại và tương lai…”.

Tháng 4/1958, Nguyễn Hữu Đang bị bắt cùng một số trí thức, văn nghệ sỹ liên quan trong vụ “Nhân văn – Giai phẩm”. Tháng 1/1960, ông bị kết án 15 năm tù, ra tù ông tiếp tục bị quản thúc tại quê nhà hơn 15 năm.

Trong kỳ 1 – ‘Mưa thanh xuân’ đăng trên báo Dân Sinh có đoạn:

“Nguyễn Hữu Đang là người không vợ, không con, không nhà không cửa, không một lần chung chăn chung chiếu với người mình yêu và người yêu mình, cũng là người duy nhất ở Việt Nam không nghe thấy tiếng máy bay, tiếng bom Mỹ, không biết ở bên ngoài có cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vì lúc đó ông nằm liệt trong hang đá ăn mắm dòi, gạo mục, uống nước suối.

Chỉ riêng sức chịu đựng không có người đàn bà nương tựa về tâm hồn trong lúc ông bị đánh tơi tả ấy phải chắp tay vái “cụ” ba vái. Và chúng ta tự hỏi: “Trên thế gian này có ai cô đơn hơn Nguyễn Hữu Đang không?” chỉ thấy nổi lên ở ông điều cay cực, oan trái mà ông vẫn bình thản ngồi đọc sách, dịch sách, tìm thấy trong Lão Tử, Trang Tử điều gì để thanh thản sống bám lấy cuộc đời thô nhám này. Ông biết chịu đựng và sống có chừng mực.

Ông bảo: “Đời là cuộc chơi nhưng chơi không cay cú” nên lúc ông bị đày đọa, ông coi đó là cuộc chơi nên cũng không hề hé răng hé lợi kêu than, tố khổ. Cái đáng quan tâm nhất trong cuộc đời cô đơn của ông, công việc gì thuộc phạm trù tư tưởng ông cố làm được tất cả, thắng tất cả với cá nhân mình. Nhưng cái đáng sợ nhất ở ông sau khi chịu tù 30 năm về ông không biết sợ cái gì cả…”.

Phó Chánh án Tòa án tối cao Hoa Kỳ thăm Hà Nội

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Thẩm phán Toà án tối cao Hoa kỳ Ruth Bader Ginsburg

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Thẩm phán Toà án tối cao Hoa kỳ Ruth Bader Ginsburg

Photo Nhat Bac/chinhphu.vn

Phó chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, bà Ruth Bader Ginsburg, hôm nay kết thúc chuyến làm việc chính thức tại Hà Nội.

Thông cáo báo chí của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết trong chuyến thăm và làm việc tại thủ đô Hà Nội, phó chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ Ruth Bader Ginburg gặp thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thảo luận về pháp quyền.

Bà Ruth Bader Ginburg còn có các cuộc gặp với phó chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn thị Kim Ngân, chánh án Trương Hòa Bình, người đứng đầu Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam mới được bổ nhiệm vào tháng 7 vừa qua.

Tại các cuộc gặp phó chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ thảo luận với các cơ quan chức năng Việt Nam về cải cách luật pháp, trình bày về Hệ thống Tòa án của Hoa Kỳ cũng như Tòa án Tối cao nước Mỹ.

Ngoài ra khi có mặt tại Hà Nội, bà phó chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ còn gặp gỡ, trao đổi với những thành viên của Chương trình Sáng kiến Thủ Lĩnh Trẻ Đông Nam Á, các sinh viên luật, các học giả về pháp quyền và truyền thông trong nước Việt Nam.

Luật sư Nguyễn Văn Đài, một cựu tù nhân chính trị tại Việt Nam, cho rằng hợp tác cải cách tư pháp như các hoạt động lâu nay giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ không có hiệu quả nếu không có cải cách về hệ thống chính trị tại Việt Nam:

“ Muốn cải cách hệ thống luật pháp thì trước hết phải cải cách hệ thống chính trị, vì hệ thống chính trị sinh ra luật pháp. Nếu hệ thống chính trị mà duy trì hệ thống toàn trị, độc đảng như Việt Nam thì cho dù các văn bản luật pháp từ Hiến pháp cho đến các đạo luật được viết hay như thế nào chăng nữa thì trong thực tế không được thi hành một cách triệt để. Một ví dụ điển hình là tất cả các quyền con người đều được ghi nhận trong hiến pháp Việt Nam và kể cả các chuyên gia pháp lý trên thế giới cũng đánh giá rất cao những quyển con người được ghi trong đó. Thế nhưng trên thực tế từ năm 1946 đến nay, trải qua 4-5 lần sửa đổi hiến pháp rồi mà quyền con người ở Việt Nam vẫn chưa được thực hiện, chưa được tôn trọng.

Quan điểm của tôi là dù chính phủ Hoa Kỳ hay bất kỳ chính phủ và tổ chức quốc tế nào muốn giúp Việt Nam thì điều đầu tiên là cần khuyến cáo chính quyền Việt Nam sửa chữa hay khắc phục hệ thống chính trị, tôn trọng quyền tự do- dân chủ cho dân trước; tức tôn trọng thể chế chính trị đa đảng. Có thế thì khi những luật pháp được viết ra mới có giá trị trong thực tiễn. Còn nếu không cho dù viết hay đến đâu nó vẫn không có giá trị trong thực tiễn đâu.”

Xin được nhắc lại chuyến thăm của phó chánh án Tóa án Tối cao Hoa Kỳ Ruth Bader Ginburg được Chương trình Diễn giả của Bộ Ngoại giao Mỹ tổ chức. Hoạt động này nằm trong khuôn khổ những cố gắng thúc đẩy quan hệ Đối tác Toàn diện Việt- Mỹ được ký kết vào tháng 7 năm 2013.

Năm nay Hoa Kỳ và Việt Nam cũng tiến hành nhiều hoạt động để kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa đôi bên.

Bà phó chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ sau khi kết thúc làm việc tại Hà Nội còn vào Sài Gòn tiếp tục chuyến thăm 5 ngày tại Việt Nam.

Những lời hứa Nhân quyền của Việt Nam với Hoa Kỳ và Châu Âu

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok.  2015-08-09

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/hr-inspir-wt-us-n-eu-supp-08092015053801.html

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (trái) và của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh  trong cuộc họp báo ở Bộ Ngoại giao tại Hà Nội vào ngày 07 Tháng Tám 2015.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (trái) và của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong cuộc họp báo ở Bộ Ngoại giao tại Hà Nội vào ngày 07 Tháng Tám 2015. AFP

Vấn đề nhân quyền lại được ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đặt ra trong chuyến công du Việt Nam mới kết thúc vào cuối tuần qua. Ủy hội Châu Âu trong văn kiện thông báo kết thúc cơ bản đàm phán Hiệp định Thương Mại Tự Do với Việt Nam cũng nêu ra những ràng buộc về nhân quyền đối với chính quyền Hà Nội.Những người đang đấu tranh cho quyền con người tại Việt Nam nhận định ra sao đối với những tín hiệu đó?

US, EU và vấn đề nhân quyền tại Việt Nam

Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Kerry trong trả lời câu hỏi của hãng thông tấn Pháp AFP nêu ra tại cuộc họp báo chung với người tương nhiệm Việt Nam tại Hà Nội vào ngày 7 tháng 8 vừa qua nói rõ ‘ Và chúng tôi tiếp tục thúc giục Việt Nam cải tổ một số luật mà có thể được sử dụng nhằm bắt bớ và kết án ai đó bày tỏ quan điểm một cách ôn hòa. Đây là chuyện mà rõ ràng chúng tôi cho là không nên xảy ra.’

Ông ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cũng nhắc lại lời của chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói với ông vào cuộc tiếp kiến trước đó rằng nhân quyền là điều mà Việt Nam muốn cấp cho người dân và Việt Nam cần phải cải thiện và tạo ra thay đổi.

Vào ngày 4 tháng 8. Ủy hội Châu Âu ra thông cáo báo chí về việc Liên minh Châu Âu- EU và Việt Nam đạt được thỏa thuận trên nguyên tắc về mậu dịch tự do. Trong thông cáo báo chí cũng như biên bản ghi nhớ kèm theo có nêu rõ thỏa thuận về mậu dịch tự do-FTA cũng có liên kết ràng buộc pháp lý với Thỏa thuận Hợp tác và Đối tác-PCA ký vào tháng 6 năm 2012 chi phối mối quan hệ toàn diện giữa EU và Việt Nam, theo đó bảo đảm rằng nhân quyền, dân chủ và pháp trị là những yếu tố thiết yếu của những mậu dịch song phương. Trong trường hợp xảy ra những vi phạm nghiêm trọng những yếu tố thiết yếu này thì sẽ có quyền tiến hành những biện pháp thích hợp mà cũng liên quan đến FTA, cả việc ngưng thỏa thuận này.

Điều này nghe hoài (cười) chán lỗ tai rồi! Từ xưa nay rồi họ nói nhiều lần chứ đâu phải một lần mà họ có thực hiện đâu. Họ hứa nhưng rồi ‘nói một đằng, làm môt nẻo’; không bao giờ họ thực hiện lời hứa

dân oan Bùi thị Thành

Lạc quan dè dặt

Đối với những người đang tích cực đấu tranh cho quyền con người tại Việt Nam thì những lên tiếng và thỏa thuận mạnh mẽ thúc giục chính quyền Hà Nội cải thiện thành tích nhân quyền như thế có tạo ra được sự khích lệ lớn lao cho công việc họ làm lâu nay hay không?

Cô giáo dân oan Bùi thị Thành, từ Sài Gòn đưa ra nhận định của bản thân trước những hứa hẹn mới về nhân quyền từ các cấp lãnh đạo của Việt Nam với những đối tác nước ngoài:

“ Điều này nghe hoài (cười) chán lỗ tai rồi! Từ xưa nay rồi họ nói nhiều lần chứ đâu phải một lần mà họ có thực hiện đâu. Họ hứa nhưng rồi ‘nói một đằng, làm môt nẻo’; không bao giờ họ thực hiện lời hứa.

Họ giả vờ để khi vào được rồi, đạt được phần lợi rồi, xong lại quay ra đàn áp tiếp dân chứ làm sao … Bản chất của họ như vậy rồi!”

Chị Nguyễn Thị Thúy ở Đồng Linh, Hải Phòng, người đang cùng gia đình giữ đất khiếu kiện và tham gia Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, cũng có đánh giá tương tự như của cô giáo Bùi Thị Thành:

Đại sứ EU tại Việt Nam Franz Jessen và Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng công bố kết thúc cơ bản đàm phán Hiệp định Thương Mại Tự Do với Việt Nam
Đại sứ EU tại Việt Nam Franz Jessen và Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng công bố kết thúc cơ bản đàm phán Hiệp định Thương Mại Tự Do với Việt Nam (laodong.com.vn)

“ Anh, mọi người cũng như tôi đều biết tại Việt Nam cộng sản chỉ nói và để đó thôi chứ thực hành là không có. Dân oan Việt Nam các nơi ngày nào cũng bị chà đạp bất công và bị đàn áp dã man … Người dân Việt Nam mất tin tưởng đối với cộng sản Việt Nam rồi ạ.

Anh, mọi người cũng như tôi đều biết tại Việt Nam cộng sản chỉ nói và để đó thôi chứ thực hành là không có. Dân oan Việt Nam các nơi ngày nào cũng bị chà đạp bất công và bị đàn áp dã man … Người dân Việt Nam mất tin tưởng đối với cộng sản Việt Nam rồi ạ

Chị Nguyễn Thị Thúy

Theo tôi nghĩ nếu có phải làm thì họ chỉ làm để đạt được mục đích của họ thôi, chứ dân Việt Nam mấy chục năm nay sống trong sự cai trị độc tài, độc quyền của họ nên khó có nhân quyền thực chất cho người dân.

Họ cam kết với người Mỹ để đạt được việc của họ thôi. Còn có ( nhân quyền) thì để sau này mới biết được, còn trước mắt chưa có cái gì để người dân tin tưởng.”

Bà Đặng thị Ngọc Minh, cựu tù nhân lương tâm và là mẹ của tù nhân lương tâm Nguyễn Đặng Minh Mẫu hiện thụ án 8 năm tù tại Trại 5 Yên Định Thanh Hóa, cũng tỏ ra dè dặt trước những yêu cầu và cam kết về nhân quyền mà bà biết được:

“ Tôi hy vọng Việt Nam làm gì cũng sẽ phải thay đổi; nhưng họ thay đổi từng bước chứ không làm một lần mạnh mẽ để cho mình thấy có sự thay đổi về đường lối chính sách của họ.

Tôi nghĩ với áp lực của Hoa Kỳ và đồng bào ở hải ngoại, tôi hy vọng khi Việt Nam tham gia hiệp ước kinh tế Xuyên Thái bình dương- TPP thì Việt Nam sẽ thay đổi và chắc chắn các tù nhân lương tâm sẽ được trả tự do và Việt Nam cũng sẽ có nhân quyền; nhưng tôi nghĩ họ sẽ không bỏ đảng, vẫn muốn nắm đảng cộng sản nên theo tôi nghĩ sự thay đổi của họ cũng không được tích cực lắm!”

Thực tế ‘nói và làm’

Tôi nghĩ với áp lực của Hoa Kỳ và đồng bào ở hải ngoại, tôi hy vọng khi VN tham gia hiệp ước TPP thì VN sẽ thay đổi và chắc chắn các tù nhân lương tâm sẽ được trả tự do và VN cũng sẽ có nhân quyền; nhưng tôi nghĩ họ sẽ không bỏ đảng, vẫn muốn nắm đảng cộng sản nên theo tôi nghĩ sự thay đổi của họ cũng không được tích cực lắm

Đặng thị Ngọc Minh

Chính qua thực tế lâu nay tại Việt Nam khi mà vẫn có cách biệt lớn giữa việc thực thi chính sách ở cấp trung ương và địa phương, cũng như tình trạng ‘lời nói không đi đôi với việc làm’ khiến những nhà hoạt động và những người dân phải trực tiếp làm việc với các cơ quan công quyền Việt Nam tỏ ra dè dặt và thiếu tin tưởng như vừa nêu. Theo họ chỉ có thời gian mới cho thấy thực tâm trong việc cải thiện vấn đề nhân quyền của giới chức Hà Nội.

Trong khi chờ đợi, những người đấu tranh cho biết họ vẫn tiếp tục công việc đang theo đuổi dù rằng cách thức giải quyết của chính quyền chỉ là những lời hứa suông.

Cô giáo Bùi thị Thành cho biết nhân viên an ninh đích thân cảnh báo không cho bà được đến tại những cơ quan tiếp dân, giải quyết khiếu kiện mà Nhà nước và đảng lập nên. Bà từng bị xịt hơi cay khi đến những nơi đó. Theo bà thì dường như người dân khiếu kiện đang ở trong tình trạng bế tắc. Có những cụ già trên 80 đã phải khiếu kiện mấy mươi năm rồi và không biết đến khi nhắm mắt có được giải quyết hay không.

Trong khi đó cựu tù nhân lương tâm Đặng thị Minh Mẫn thì thấy tình tình của những nhóm đấu tranh có khả quan hơn. Chị Nguyễn Thị Thúy tại Hải Phòng thì xác định cuộc đấu tranh sẽ kéo dài và có thể phải chịu hy sinhm mất mát.

Trong một trả lời phỏng vấn của chúng tôi sau khi tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng được tổng thống Hoa Kỳ tiếp đón tại Phòng Bầu Dục- Nhà Trắng hồi ngày 7 tháng 7 vừa qua, giáo sư Jonathan London từ Đại Học Hồng Kong nói rằng để tạo được niềm tin thì hãy thực thi những gì đã nói.

Thần kinh khốn nạn

Cánh Cò, viết từ Việt Nam. 2015-08-10

http://www.rfa.org/vietnamese/blog/the-bad-nerve-08102015113021.html

Tượng đài Hồ Chí Minh ở thành phố Vinh

Tượng đài Hồ Chí Minh ở thành phố Vinh là bức tượng mô phỏng hình ảnh ông Hồ về thăm quê hương. Tượng cao 12m cùng với bệ và khán đài cao 6m, và có khối lượng trên 200 tấn.

Vietjetgiare

Đó là hệ thống thần kinh mới, vừa được Giáo sư Ngô Bảo Châu, một nhà khoa học của Việt Nam tìm ra sau khi ông Vũ Đức Đam, trên cương vị Phó thủ tướng ký thế cho Thủ tướng chính phủ quyết định chấp thuận cho UBND thành phố Sơn La kinh phí 1.400 tỷ để xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh trong thành phố.

GS Ngô Bảo Châu viết trên Facebook của ông: “Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh”.

Rõ ràng là GS Châu chơi chữ. Không thể nào một ông Phó Thủ tướng lại mắc bệnh thần kinh, có nghĩa là tâm thần không bình thường, ký những quyết định đi ngược lại với nhân văn, với đạo lý dân tộc. Ông chỉ có thể “khốn nạn” trong ý thức. Ông không xem trẻ em lê lết trong các mái trường không thua chuồng trại súc vật đầy dẫy tại các tỉnh biên giới mà Sơn La là một điển hình của sự nghèo túng cùng cực. Ông không hề nghĩ tới hàng chục ngàn hộ thiếu ăn quanh năm và đối với họ chỉ cần đủ ăn đã là hạnh phúc. Đối với họ Hồ Chí Minh chỉ là một cục đá được dẽo gọt chỉ để đứng nhìn sự thống khổ, kiệt quệ của họ, những người quanh năm không biết tới một mẩu thịt là gì.

Họ túng đói và lê lết như những con thú hoang trong khi chính phủ của ông Vũ Đức Đam đang phải đối phó với nợ công, phải ăn xin tứ phương từ Mỹ với miếng bánh TPP, từ Trung Quốc với những khoản vay thắt cổ, từ Nhật với ODA dễ nuốt và ngay cả từ Việt kiều hải ngoại với câu chữ không biết hổ thẹn là gì, lại bỏ ra 1.400 tỷ xây một hình tượng đang mục nát trong trái tim quần chúng.

Với những sự thật không thể chối cãi ấy câu hỏi đặt ra tại sao chính phủ lại tiếp tục ký những quyết định trái với lòng dân, trái với lương tri của con người mà bất cứ một chính phủ, một nhà độc tài nào cũng đều tránh né?

Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh

GS Ngô Bảo Châu

Chỉ có thể xem đó là những thái độ khốn nạn. Sự khốn nạn lâu ngày thành nếp nghĩ, thành cách hành xử quen thuộc. Việc coi thường luân thường đạo lý trong huyết quản đã tạo nên một loại gene mới trong cơ chế cộng sản. Loại gene ấy biến thành hệ thần kinh chủ đạo, từ tư duy cho tới phản ứng, nó nằm song song với các hệ thần kinh khác như buồn, vui, giận, ghét. . . hệ thần kinh khốn nạn chỉ khác ở chỗ, nó tự đứng riêng và tự đánh bóng hay tôn tạo chính mình. Nó phản ứng với hệ thần kinh bình thường một cách bất bình thường. Khi nhân dân đói nó cho là nhân dân đủ ăn và GDP của họ ngày một cao hơn. Khi trẻ em thiếu trường, thiếu lớp nó cho đấy chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong tổng thể phát triển của đất nước. Khi người dân phản ứng vì bị đẩy vào đường cùng nó cho là sự xúi giục của bọn phản động và phản ứng của nó không kém bất cứ cách hành xử côn đồ nào.

Thần kinh khốn nạn tự nghĩ ra những kịch bản chỉ có trong giấc mơ của những kẻ sở hữu nó. Nhân dân vẫn yêu thương Hồ chủ tịch và họ có như cầu nhìn tượng của ông thay cơm. Nhân dân hãnh diện khẳng định ông là ánh sáng dẫn họ trên con đường….vạn dặm! Nhân dân sáng suốt tin rằng ông là ngôi sao không hể tắt và có ông thì người dân sẽ thấy đời đáng sống biết dường nào.

Một trong những người sở hữu thần kinh khốn nạn, Trần Bảo Quyến, Phó Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Sơn La cả quyết rằng: “sau khi xây dựng tượng đài, Sơn La sẽ có cơ hội quảng bá về du lịch. Đây sẽ là điểm đến thú vị cho người dân đến tham quan và tìm hiểu về lịch sử Tây Bắc nói chung và Sơn La nói riêng. Hiện, Sở cũng đang nâng cấp nhà tù Sơn La và một số địa danh văn hóa khác”.

Con cá gỗ còn tạm dùng để đánh lừa mình chứ tượng ông Hồ to quá mà lại làm bằng đá thì làm sao đem vào mâm cơm của họ để mà chấm, mà mút cho chén bắp trong bữa ăn thường nhật đậm đà hơn một chút?

Nếu chú ý người dân sẽ lo sợ vô cùng khi tượng đài được xây dựng song song với việc nâng cấp nhà tù. Tham quan hay vào đó nằm nếu chống đối đề án thì có gì khác nhau?

Trần Bảo Quyến cho rằng: “Đã là tình cảm của nhân dân Tây Bắc không thể cân đong đo đếm được. Do đó, cá nhân nào nói lãng phí là chưa đúng”.

Đúng, nó không hề là một đề án lãng phí. Nó không lãng phí mà là phá hoại. Phá hoại tới tận đáy cái nền của nhân bản. Tiêu diệt những gì ít ỏi còn lại trong lòng người dân đối với hình ảnh Hồ Chí Minh. Người miền núi vốn không được học hành tử tế họ chỉ biết ông Hồ là người cha già dân tộc theo tuyên truyền của bộ máy Đảng. Sau gần một thế kỷ người cha ấy chia cho đám con ruột là quan lại triều đình xây dựng những công trình để tư túi trên các đề án khốn nạn. Chỉ cần thông minh một chút là họ biết mình bị bóc lột, bị chà đạp tới xương khi con cái họ quần không có mà mặc, gia đình họ không có gạo đủ ăn phải lê lết trên những con ruộng bậc thang, đẹp thì có đẹp nhưng leo trèo trên ấy để kiếm từng hạt lúa thì người Kinh đã bỏ chạy từ xưa.

Chỉ tiếc một điều đồng bào miền Tây Bắc không mấy người có hệ thần kinh khốn nạn như quan đầu tỉnh Trần Bảo Quyến và do đó họ không thể tự bào chữa cho mình lý do họ quá yêu bác Hồ nên nhà nước cần phải dựng tượng của ông cho họ ngắm thay cơm.

Con cá gỗ còn tạm dùng để đánh lừa mình chứ tượng ông Hồ to quá mà lại làm bằng đá thì làm sao đem vào mâm cơm của họ để mà chấm, mà mút cho chén bắp trong bữa ăn thường nhật đậm đà hơn một chút?

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

Quan hệ Việt-Mỹ có đồng sàng dị mộng?

8 tháng 8 2015

http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/08/150808_us_vn_relations_vuduckhanh

 
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam bắt tay với các thành viên phái đoàn ngoại giao của Hoa Kỳ do Ngoại trưởng John Kerry dẫn đầu hôm 7/8

Sáng ngày 7/8/2015, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, John Kerry đã có buổi tiếp kiến với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Phủ Chủ tịch.

Đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ hai của ông trong cương vị Ngoại trưởng Mỹ từ khi ông nhậm chức vào tháng 2 năm 2013.

Các cơ quan truyền thông cho biết Ngoại trưởng John Kerry đến Việt Nam lần này nhân kỷ niệm 20 năm ngày Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội thiết lập bang giao, bình thường hóa quan hệ.

Theo chương trình nghị sự thì ông Kerry sẽ gặp người đồng nhiệm, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh và một số nhà lãnh đạo cao cấp khác của Việt Nam để trao đổi về những vấn đề song phương, an ninh Biển Đông và các vòng đám phán TPP hiện nay.

Ngoài ra, ông Kerry còn tham gia các hoạt động kỷ niêm 20 năm thiết lập bang giao Việt-Mỹ.

Ông Kerry được dẫn lời đã tuyên bố tại Hà Nội rằng “Chuyến công du Việt Nam của ông lần này là biểu tượng của sự hòa giải giữa những quốc gia từng đương đầu nhau trong chiến tranh nhưng họ đã tìm ra đồng thuận để xây dựng một mối bang giao mới.” Và theo ông Kerry thì “Mỹ và Việt Nam đã minh chứng rằng các quốc gia cựu thù vẫn có thể trở thành những đối tác của nhau.”

Tuy nhiên, ông Kerry cũng không quên nhắc nhở các nhà lãnh đạo Hà Nội rằng “Những tiến triển về nhân quyền sẽ giúp xây dựng nền tảng cho một mối quan hệ đối tác chiến lược sâu sắc và bền vững hơn và chỉ Việt Nam mới có thể quyết định tiến độ và phương hướng của quá trình xây dựng mối quan hệ đối tác này.”

Sau đó ông kết luận rằng tôn trọng nhân quyền sẽ là điều kiện cơ bản cần thiết giúp Việt Nam ổn định, phát triển và thúc đẩy quan hệ Việt-Mỹ.

Nhân quyền luôn là rào cản chính trong quan hệ Việt-Mỹ từ 20 năm nay mặc dù Hoa Kỳ và Việt Nam đã có nhiều mối quan hệ mạnh mẽ, đặc biệt trong kinh tế với cán cân thương mại hai chiều đạt 36 tỷ đô la Mỹ trong năm 2014. Quan hệ kinh tế Việt-Mỹ còn được cho là sẽ phát triển mạnh vào những năm tới một khi Việt Nam chính thức tham gia TPP.

Hà Nội từ trước đến nay luôn bác bỏ các cáo giác về vi phạm nhân quyền, tuy nhiên gần đây, họ thẳng thắn nhìn nhận có những khác biệt về quan điểm trong vấn đề này và mong thu hẹp các cách biệt đó thông qua đối thoại ngoại giao.

Một số lãnh đạo CSVN luôn cho rằng Hoa Kỳ không hề từ bỏ ý định thay đổi thể chế chính trị Viêt Nam, loại bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với nhà nước và nhân dân Việt Nam thông qua chính sách “diễn biến hòa bình”.

Để đánh tan hoài nghi đó, Hoa Kỳ đã tổ chức tiếp đón trọng thị TBT Nguyễn Phú Trọng tại tòa Bạch Ốc hôm 7 tháng 7 vừa qua và một lần nữa ông Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Ted Osius cũng nhân dịp này tuyên bố rằng“Chính sách của Mỹ là tôn trọng sự khác biệt trong hệ thống chính trị của các nước khác…”

Ông còn nói rằng “Câu trả lời của tôi là điều mà người hỏi có thể không muốn nghe, nhưng tôi phải nói rõ rằng chính sách của Mỹ là luôn tôn trọng hệ thống chính trị của nước khác”.

Ông khẳng định “Hoa Kỳ mong muốn xây dựng quan hệ bền vững với Việt Nam, muốn thấy một Việt Nam thịnh vượng, độc lập, tôn trọng dân chủ, nhân quyền và pháp quyền.”

Bất đồng về giá trị

Nếu tôn trọng những giá trị phổ quát nhân quyền đúng theo tinh thần của Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc 1948 là những gì quá lớn lao với Hà Nội thì người dân Việt Nam có quyền đặt câu hỏi về tính chính danh của chính quyền Việt Nam hiện tại.

Liệu chính quyền này có thực sự là của dân, do dân và vì dân Việt Nam không? Tại sao người dân Việt Nam không được hưởng những quyền cơ bản này?

Và Hoa Kỳ cũng nên tự đặt câu hỏi cho chính mình là liệu mối quan hệ mà họ đang cố sức xây dựng với lãnh đạo CSVN có phải là một mối quan hệ đồng sàng dị mộng không?

Không thể phủ nhận rằng Hoa Kỳ đang có quyền lợi chiến lược lớn lao tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trước sự trổi dậy hung hăn của Trung Quốc và Hà Nội có thể được xem như đang hoặc sẽ là một đối tác đầy hứa hẹn, tiềm năng của Hoa Kỳ.

Ông John Kerry nói quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiến triển nhanh chóng nếu vấn đề nhân quyền tại Việt Nam được cải thiện

Nhưng một mối quan hệ lớn lao như thế không thể và không bao giờ được xây dựng trên những bất đồng có tính cơ bản như những giá trị mà hai quốc gia đeo đuổi: một bên là một chế độ độc tài, độc đảng trị, vô pháp, phỉ báng những quyền cơ bản của con người và một bên là một thể chế chính trị tự do, dân chủ, pháp trị và, tôn trọng nhân quyền.

Đúng là chúng ta cũng cần cho Hà Nội một cơ hội. Chúng ta thừa biết rằng thành La Mã không thể xây qua đêm được. Chặng đường 20 năm qua trong “quan hệ Việt-Mỹ đã chứng minh được rằng các cựu thù vẫn có thể trở thành đối tác thực sự”, như diễn từ của Ngoại trưởng Kerry hôm 7/8 vừa qua tại Hà Nội.

Nhưng dứt khoát, cái mà chúng ta không thể chấp nhận được, đó là sự thiếu nghiêm túc, một sự dễ dãi quá đáng của Hoa Kỳ trong việc kêu gọi Hà Nội thực thi những cam kết quốc tế về tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam.

Chính phủ Obama đã vô hình trung đưa cho Hà Nội một tín hiệu sai lầm rằng nhân quyền cũng chỉ là món hàng trao đổi. Những giá trị thiêng liêng mà nhân dân Mỹ đã liên tục tranh đấu từ hơn 300 năm nay cũng sẽ được đem ra mặc cả, cân đo, đong đếm trong mối quan hệ đặc biệt này.

Liệu những lời khuyến cáo rất chân thành của ông Kerry, sự mềm mỏng ngoại giao đến độ ngạc nhiên của ông Osius và thái độ thiện chí đầy thân thiện của chính phủ Obama có làm cho Hà Nội thay đổi gì không nếu như Hoa Kỳ không có những chính sách, biện pháp cụ thể để giám sát và chế tài Hà Nội trong việc thực thi cam kết tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam?

Thiết tưởng cũng cần nhắc lại rằng dù đối với Hoa Kỳ không có kẻ thù truyền kiếp cũng như bè bạn vĩnh viễn nhưng một mối quan hệ đối tác lành mạnh, bền vững vẫn phải được xây dựng trên nền tảng của những giá trị chung mà hai bên cùng chia xẻ.

Có đối tác nào gần gũi với Hoa Kỳ trên thế giới mà có chế độ chính trị và một số giá trị nhất định hoàn toàn đối nghịch không? Nếu Nhật và Đức, một thời cũng là cựu thù của Mỹ nhưng sau đó đã trở thành những đồng minh quan trọng, đơn giản vì tất cả họ đã cùng chia sẻ những giá trị cơ bản mà các quốc gia họ tôn vinh.

Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả

Vì sao có thư của ông Võ Văn Kiệt?

10 tháng 8 2015

 Thủ tướng Võ Văn Kiệt đón Thượng nghị sỹ Mỹ Tom Harkin thăm Hà Nội 3/07/1995

Bước vào tuổi 80, tôi không ít những ký ức vui và buồn. Một trong những ký ức đeo đuổi tôi dai dẳng nhất, đó là bức thư của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngày 09-08-1995 gửi Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ông kiến nghị Đảng phải thay đổi gần như tất cả, để trở thành một đảng khác, ngõ hầu có thể đưa đất nước lên con đường của phát triển.

Vậy, bức thư 09-08-1995 nói gì và đất nước chúng ta hôm nay đang đối mặt với những vấn đề gì?

Dưới đây xin nêu lên vài suy nghĩ.

Bối cảnh và nội dung bức thư:

Mười năm đầu tiên của đổi mới trong kinh tế (1986 – 1995) có thể được xem là thời kỳ kinh tế Việt Nam phát triển ngoạn mục nhất cho đến nay, với nghĩa (a)các chỉ số của tăng trưởng và phát triển có thể nói là rất hài hòa, (b)kinh tế thị trường được phát huy, và (c)nhà nước chỉ thực hiện sự can thiệp tối thiểu phải có, vì không khí dân chủ trong kinh tế thời ấy một phần, và sự thật là vì còn thiếu nhiều luật lệ.

Quá trình phát triển nói trên làm xuất hiện trong giới lãnh đạo nỗi lo kinh tế thị trường có thể uy hiếp sự tồn vong của chế độ chính trị, mặt khác nạn tham nhũng bắt đầu nở rộ – gốc gác không phải do kinh tế thị trường; cha đẻ của tệ nạn này là quyền đứng trên luật pháp của chế độ chính trị một đảng.

Trong tình hình ấy, Bộ Chính trị quyết định họp Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (20 – 25-01-1994), một hiện tượng bất thường chưa hề có thời bình, nhắm “chấn chỉnh” hướng phát triển của đất nước.

Hội nghị này nêu lên bốn nguy cơ: (1) tụt hậu về kinh tế, (2) chệch hướng chủ nghĩa xã hội, (3) tham nhũng, (4) diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Song hội nghị đặc biệt nhấn mạnh nguy cơ chệch hướng và nguy cơ diễn biến hòa bình.

Đây cũng là thời kỳ trong lãnh đạo Đảng có những quan điểm khác nhau quyết liệt chung quanh các vấn đề sinh tử: chiến lược phát triển, hội nhập quốc tế, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, đàm phán gia nhập WTO…

I
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nêu ra nhiều vấn đề quốc tế

Sự xoay đổi của hội nghị này tác động nghiêm trọng tiến trình đổi mới tiếp, tăng cường xu thế bảo thủ. Từ đây trở đi kinh tế Việt Nam đi vào chu kỳ trồi – sụt nối nhau liên tiếp (khoảng 5 – 6 năm / chu kỳ, nghĩa là khá ngắn, luôn dao động), mặc dù kinh tế Việt Nam ngày một phát triển cao hơn và hội nhập sâu hơn.

Tình hình trên chi phối sâu sắc quá trình chuẩn bị Đại hội VIII, làm mất đà phát triển kinh tế năng động vừa mới gây dừng lên được; trong khi đó lãnh đạo Đảng thiếu sự nhìn nhận đúng và thống nhất về con đường phát triển mà đất nước đòi hỏi. Đấy là bối cảnh thôi thúc viết bức thư ngày 09-08-1995.

Vào thời điểm soạn thảo thư, hầu như toàn bộ công việc chuẩn bị Đại hội VIII đã lên khuôn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, theo hướng đã được Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII ấn định (bốn nguy cơ). Nghĩa là rất khó có cơ hội thay đổi hướng đi hoặc đưa ra những luồng suy nghĩ khác.

Giữa lúc này trong Đảng lại xảy ra sự cố một số vị lãnh đạo bảo thủ muốn đưa Nguyễn Hà Phan lên làm thủ tướng vào dịp Đại hội VIII sắp họp (28-06 đến 01-07-1996), khiến cho mọi chuyện thêm phức tạp.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt hiểu rõ thực tế đã đóng khung này, song ông cố tận dụng những điều kiện hạn chế còn cho phép, nêu lên bốn 4 vấn đề hệ trọng yêu cầu Bộ Chính trị xem xét:

(1) Phải nhìn nhận lại để hiểu đúng cái thế giới chúng ta đang sống và quyết tâm hội nhập,

(2) Chệch hướng hay không chệch hướng xã hội chủ nghĩa?

(3) Nâng cao năng lực quản lý nhà nước,

(4) Đổi mới xây dựng Đảng.

Xin lưu ý, thư được viết ra cách đây 20 năm, nên không thể thoát ly được sự ràng buộc khắt khe của hoàn cảnh khách quan và sự hạn chế của nhận thức lúc ấy.

Nội dung cốt lõi của bức thư là:

Phải hiểu đúng thế giới, để từ đó xem lại và xác định cho đúng con đường phát triển của đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thế giới hôm nay phải được bắt đầu từ xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ, muốn thế Đảng phải thay đổi toàn diện.

Phần nhìn nhận lại thế giới nêu lên sự cần thiết phải loại bỏ cách nhìn ý thức hệ, nhận thức rõ những xu thế mới trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay, sự cần thiết Việt Nam phải chủ động tham gia vào quá trình này để xây dựng và bảo vệ đất nước, không được phép bỏ lỡ cơ hội này.

Đáng chú ý trong phần này, bức thư đặt vấn đề phải nhìn rõ thực chất của bốn nước xã hội chủ nghĩa còn lại (Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, Triều Tiên), không thể được xem như một dạng còn tồn tại của chủ nghĩa xã hội, trong khi đó quan hệ Việt – Trung có không ít điểm nóng.

Phần mổ xẻ câu hỏi “chệch hướng hay không chệch hướng?” nhấn mạnh:

“Phải kiên định kinh tế thị trường với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế, tạo động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, không thể chỉ một chiều nhấn mạnh kinh tế quốc doanh là chủ đạo. Nguy cơ chệch hướng nằm trong tình trạng làm ăn trái pháp luật và tham nhũng, trong kinh tế ngầm, trong các mafia… mặc dù chỗ nào cũng có các tổ chức cơ sở Đảng. Chệch hướng không nằm ở đâu khác.”

Phần nâng cao năng lực quản lý nhà nước nêu lên những yếu kém nghiêm trọng trong hệ thống nhà nước, đi tới kết luận phải hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền với đầy đủ các phần lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhấn mạnh Đảng trong bộ máy và hệ thống của nhà nước pháp quyền phải thực hiện đúng vai trò lãnh đạo là:

Làm cho bộ máy và hệ thống nhà nước thực hiện được các chức năng của nó, Đảng nhất thiết không được làm thay.

Qua đời năm 2008, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt để lại nhiều băn khoăn về chính trị Việt Nam

Phần đổi mới xây dựng Đảng xác định: để hoàn thành được nhiệm vụ, nhất thiết phải đổi mới xây dựng Đảng (a) về đường lối và (b)về tổ chức.

Đổi mới về đường lối: Phải lựa chọn con đường dân tộc và dân chủ để phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời tạo ra cho nước ta khả năng tập hợp lực lượng mới trong thế giới ngày nay. Đảng cần đặc biệt quan tâm nâng cao dân trí, giáo dục, phát huy và bảo vệ quyền công dân để phát huy sức mạnh của cả nước, đẩy mạnh giáo dục đảng viên về chủ nghĩa yêu nước với nội dung sớm làm cho đất nước giầu mạnh.

Đổi mới về tổ chức: Cần xắp xếp lại các tổ chức và đổi mới sinh hoạt đảng để khắc phục tình trạng bất cập nghiêm trọng của đảng viên và của tổ chức; cần loại bỏ nguyên tắc “dân chủ tập trung” rất công thức và được vận dụng tùy tiện, để thay thế bằng nguyên tắc triệt để phát huy dân chủ trong Đảng, tuyệt đối trung thành với Điều lệ Đảng, phục tùng các nghị quyết của Đảng.

Có thể kết luận: Cả bốn vấn đề nêu trong bức thư 09-08-1995 đến hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự đối với đất nước cũng như đối với Đảng, thậm chí đang trở nên vô cùng bức xúc trong tình hình và nhiệm vụ mới mà đất nước đang phải đối mặt.

Ông Nguyễn Trung là cựu đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Thái Lan. BBC sẽ giới thiệu tiếp các phần sau của bài này trên mục Diễn đàn của chúng tôi.

Đọc lại bài: BBC phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt

  • Tư duy Võ Văn Kiệt và quan hệ Việt – Mỹ
  • Tư tưởng Võ Văn Kiệt ‘vẫn còn nguyên giá trị’
    8 tháng 8 2015
  • Âm thanh Nhìn lại bức thư Võ Văn Kiệt 20 năm trước
    8 tháng 8 2015

Tin chính

Nhà báo mất chức ‘vì bài về 2/9’

Phó Tổng Thư ký tòa soạn Báo điện tử Thanh Niên mất chức và bị thu hồi thẻ nhà báo.

4 tháng 9 2015

Người di cư tràn lan ở bến tàu Budapest

4 tháng 9 2015

Thanh tra doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng VN

4 tháng 9 2015

Góc nhìn và chuyên mục

 Những loài cây và hoa nhiều độc tố nhất

Màu sắc làm thay đổi tâm trạng ra sao?

Khủng hoảng di dân: Ảnh bé chết đuối gây sốc

Bảo Đại trao kiếm giả cho ‘cách mạng’?

Trần Hạnh: ‘Người đem lại thay đổi’

‘Vui buồn’ về lễ thượng cờ đỏ tại Mỹ

Quốc khánh và ‘quyền mưu cầu hạnh phúc’

Ông Nguyễn Quang A lên án việc bị câu lưu

Nguyễn Hùng trở lại đất Phật

Cộng sản Việt Nam sợ gì nhất: “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”

Lê Anh Hùng. 09.08.2015

http://www.voatiengviet.com/content/cong-san-vietnam-so-gi-nhat/2908688.html

Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) là tấn bi kịch của nhân loại. Thật không may khi Việt Nam chúng ta lại là một phần trong tấn bi kịch có lẽ là lớn nhất trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại đó.

Đáng buồn hơn, trong khi hầu hết các quốc gia trong cái gọi là “phe xã hội chủ nghĩa” đều đã đoạn tuyệt với CNCS theo cách này hay cách khác thì Việt Nam vẫn là một trong số những quốc gia cộng sản ít ỏi còn sót lại trên trái đất.

Dù vậy, theo đúng quy luật đào thải của lịch sử, sự tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam cũng chỉ còn được tính từng năm. Như một lẽ tự nhiên, càng gần đến thời khắc sụp đổ, các giới chức cộng sản càng lo sợ, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, nhìn đâu cũng thấy “thế lực thù địch”.

Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ cùng phân tích xem chế độ cộng sản ở Việt Nam sợ nhất điều gì.

Dân oan

Với một chế độ độc tài, phi nhân, buôn dân bán nước như ở Việt Nam thì trong 90 triệu người dân Việt Nam ai cũng là nạn nhân của nó. Tuy nhiên, “đồng tiền liền khúc ruột”, chỉ đến khi bị tước đoạt đến những thứ “liền khúc ruột” nhất thì một bộ phận trong số họ mới quyết vùng lên để đòi lại.

Ở Việt Nam, những dân oan bị tước đoạt phi pháp nhà cửa, ruộng vườn của mình thông qua đủ kiểu “dự án” gần như hiện diện khắp nơi. Không chỉ chống đối chính quyền sở tại, một số dân oan còn kéo ra tận thủ đô Hà Nội để trường kỳ đấu tranh, không đơn thuần là để đòi lại tài sản chính đáng của mình mà chính là đòi một quyền còn thiêng liêng hơn: quyền được sống.

Vậy dân oan có phải là mối lo sợ lớn nhất của chế độ cộng sản ở Việt Nam hay không? Xin thưa là không. Dân oan chưa phải là vấn đề được đề cập đến nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông của nhà nước. Dù bị trấn áp, sách nhiễu, thậm chí bị kết án tù, nhưng ở Hà Nội vẫn luôn hiện diện một lực lượng dân oan khá đông, mà một trong những lý do chính cho sự tồn tại làm lem luốc bộ mặt chế độ ấy là vì dân oan chưa phải là mối nguy lớn nhất cho chế độ.

Giới đấu tranh dân chủ

Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ và nhân quyền đang ngày càng lớn mạnh ở Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây. Dĩ nhiên, nhà cầm quyền Việt Nam cũng nhận ra mối đe doạ ngày càng lớn này, thể hiện qua chính sách đàn áp, khủng bố ngày càng khốc liệt và tinh vi nhằm vào những người đấu tranh.

Tuy nhiên, phong trào đấu tranh dân chủ vẫn chưa phải là mối đe doạ lớn nhất của hệ thống. Dù không ngừng lớn mạnh trong thời gian qua, nhưng lực lượng này vẫn còn yếu, chưa đủ sức thách thức chế độ, chưa phải là chủ đề được bàn tới như là mối đe doạ lớn nhất đối với chế độ trên báo chí “lề đảng”.

Tham nhũng

Lãnh đạo Việt Nam nói rất nhiều về tham nhũng và chống tham nhũng, với những lời lẽ khó có thể mạnh mẽ hơn như “Tham nhũng đe doạ sự tồn vong của chế độ” hay “Nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay”, v.v.  Nhưng họ đã làm như thế nào thì ai ai cũng biết.

Tham nhũng có thể đe doạ sự tồn vong của chế độ trong dài hạn, nhưng chính nhờ tham nhũng nên mới có những kẻ sẵn sàng sống chết để bảo vệ chế độ, khi càng ngày họ càng nhận ra cái gọi là “lý tưởng cộng sản” kia chung quy cũng chỉ là quyền lực và lợi lộc mà thôi.

Không khó để nhận ra, tham nhũng chính là “lẽ sống” của cả bộ máy cầm quyền ở Việt Nam hiện nay, nghĩa là còn lâu nó mới là mối đe doạ lớn nhất đối với chế độ.

Hoa Kỳ

Hoa Kỳ từng là đối thủ của chế độ cộng sản ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1954-1975. Giai đoạn 1975-1994, lệnh cấm vận thương mại của Mỹ nhằm vào Việt Nam là một trong những tác nhân chính khiến Việt Nam lao đao. Hàng chục năm qua, Hoa Kỳ luôn là nguồn cỗ vũ lớn nhất cho phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.

Vậy Hoa Kỳ có phải là mối đe doạ lớn nhất cho sự tồn vong của chế độ cộng sản ở Việt Nam hay không? Câu trả lời là không. Việc Nhà Trắng mở cửa chào đón TBT Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Mỹ vừa qua của người đứng đầu chế độ cộng sản ở Việt Nam là một minh chứng nữa cho triết lý thực dụng của Hoa Kỳ: “Không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn.”

Hoa Kỳ không muốn Việt Nam rơi vào khoảng trống quyền lực, một khả năng khó tránh khỏi nếu chế độ CS ở Việt Nam bất ngờ sụp đổ. Một khi điều đó xẩy ra, Trung Quốc sẽ phát động cuộc tấn công chớp nhoáng nhằm vào Trường Sa hòng kiểm soát hoàn toàn Biển Đông, thậm chí có thể gây chiến với Việt Nam hầu bảo đảm chí ít chế độ hậu cộng sản ở Việt Nam không đi theo quỹ đạo của Mỹ.

Đương nhiên, Hoa Kỳ không thể khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc “múa gậy vườn hoang” như thế được: họ có quá nhiều lợi ích ở Việt Nam nói riêng và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói chung. Song nếu để bị động kéo vào một cuộc chiến tranh với Trung Quốc thì kết cục rất khó lường và tổn thất cho Hoa Kỳ là không nhỏ chút nào.

Vì vậy, bản thân Hoa Kỳ cũng mong muốn Việt Nam sẽ từng bước chuyển tiếp sang một chế độ dân chủ và nhân bản. Hoa Kỳ đã và vẫn là một mối đe doạ với chế độ cộng sản ở Việt Nam, nhưng hoàn toàn không phải là hiểm hoạ lớn nhất. Thậm chí Việt Nam còn cần Hoa Kỳ hơn Hoa Kỳ cần Việt Nam. Không có Việt Nam thì Hoa Kỳ còn rất nhiều lựa chọn khác trong cuộc đối đầu thế kỷ Mỹ-Trung, nhưng nếu không có Hoa Kỳ thì Việt Nam rất dễ bị Trung Quốc thôn tính, từ lãnh thổ cho đến kinh tế – chính trị.

Trung Quốc

Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam. Điều đó thì hầu như người dân Việt Nam nào cũng biết, còn đảng viên Đảng CSVN thì chẳng mấy ai biết, ít nhất là qua lời nói và việc làm của họ. Thậm chí, các nhà lãnh đạo Việt Nam, từ TBT Nguyễn Phú Trọng trở xuống, còn tôn thờ cái gọi là “phương châm 4 tốt 16 chữ vàng” như thể đó chính là ông bà ông vải của họ.

Trung Quốc có muốn chế độ cộng sản ở Việt Nam hiện nay sụp đổ không? Xin thưa là không đời nào. Bởi cứ đà này thì sớm muộn gì Trường Sa cũng rơi vào tay họ, khi mà lãnh đạo Việt Nam chẳng ai hé răng phản đối việc Trung Quốc cấp tập bồi đắp các đảo đá ở Trường Sa trong bối cảnh cộng đồng quốc tế kịch liệt lên án Trung Quốc, còn Quốc hội Việt Nam thì không ra nổi một nghị quyết; khi mà Việt Nam không dám kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế như Philippines bất chấp việc họ ngang ngược đặt giàn khoan HD-981 ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.

Trong khi đó, ban lãnh đạo Việt Nam vẫn đang ngày đêm “dâng” nền kinh tế nước nhà cho Trung Quốc;  các vị trí xung yếu về an ninh – quốc phòng của Việt Nam lần lượt bị người láng giềng “4 tốt 16 chữ vàng” khống chế; Campuchia thì đã bị Bắc Kinh “mua” đứt và những diễn biến gần đây ở biên giới Tây Nam cho thấy Campuchia là con bài cực kỳ lợi hại với Trung Nam Hải và là bài toán vô cùng nan giải với Việt Nam; Lào cũng tỏ ra ngày càng lạnh nhạt với Hà Nội và mặn nồng với Bắc Kinh.

Nghiêm trọng hơn cả, việc Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, một người Hán khai man lý lịch và đã bị tố cáo công khai, nắm trong tay gần như cả nền kinh tế Việt Nam suốt từ năm 2007 đến nay và gây ra không biết bao nhiêu thảm hoạ cho Việt Nam cả về kinh tế – xã hội lẫn an ninh – quốc phòng là bằng chứng không thể chối cãi rằng bộ máy chóp bu ở Việt Nam đã bị ông Hoàng Trung Hải và Bắc Kinh khống chế, thao túng.

Như vậy, nếu cứ đà này thì sớm muộn gì Việt Nam cũng sẽ trở thành “một bộ phận không thể tranh cãi” của Trung Hoa Đại Hán. Trung Quốc dại gì mà mong hay làm cho chế độ hiện nay ở Việt Nam sụp đổ, bởi khi đó họ sẽ bị đặt vào thế phải phát động chiến tranh cả trên biển lẫn trên đất liền để rồi khó tránh khỏi phải gánh chịu những rủi ro khôn lường.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”

Không phải dân oan, không phải giới đấu tranh dân chủ, không phải tham nhũng, không phải Hoa Kỳ và càng không phải Trung Quốc, vậy đâu mới là điều cộng sản Việt Nam sợ nhất? Mối đe doạ lớn nhất đối với sự tồn vong của chế độ độc tài cộng sản ở Việt Nam hiện nay là gì?

Xin thưa, đó chính là hiện tượng mà bộ máy tuyên truyền của đảng gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

Giới lãnh đạo cộng sản ở Việt Nam thừa khôn ngoan để hiểu rằng, nhân tố bên trong mới đóng vai trò quyết định trong sự sụp đổ của bất kỳ hệ thống nào. Đó là những gì từng xẩy ra ở Liên Xô và Đông Âu trước kia; Việt Nam bây giờ cũng không phải ngoại lệ. Càng nhiều người “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” thì ngày tàn của chế độ CSVN càng đến gần.

Chính vì vậy, không phải “thế lực thù địch”, “phản động”, “Việt Tân”… mà chính “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” mới là những cụm từ được nhắc đến nhiều nhất trong các cuộc hội thảo, các bài tham luận, các bài báo, các bài phát biểu… ở Việt Nam khi đề cập đến những mối đe doạ đối với chế độ.

Trong lễ kỷ niệm 85 ngày truyền thống ngành Tuyên giáo mới đây, việc chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” tiếp tục được đặt ra như một nhiệm vụ trọng tâm của ngành.

Bộ máy cầm quyền ở Việt Nam không sợ dân oan, không sợ giới đấu tranh dân chủ, thậm chí không sợ quảng đại quần chúng… chừng nào các công cụ trấn áp trong tay họ như công an, viện kiểm sát, toà án, quân đội… còn nghe theo họ mà sách nhiễu dân oan, kìm kẹp dân chúng, khủng bố những người đấu tranh đòi tự do, dân chủ và nhân quyền.

Họ chỉ sợ khi cỗ máy đàn áp này “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, không còn tuân lệnh họ để gây tội ác với những người dân vô tội, với những người dấn thân vì cộng đồng, xã hội và đất nước; họ chỉ sợ những hình ảnh thảm thương của dân oan khiến ngày càng nhiều người trong bộ máy thức tỉnh lương tri, trở về với nhân dân, với chính nghĩa dân tộc.

Để chống hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong bộ máy, nhà cầm quyền ra sức tuyên truyền, nhồi sọ họ. Bên cạnh đó, lực lượng trấn áp, đặc biệt là công an và quân đội, luôn nhận được chế độ đãi ngộ cao nhất trong số những đối tượng hưởng lương từ ngân sách.

Giới lãnh đạo chóp bu Việt Nam không quá sợ những vụ tố cáo nhằm vào họ; pháp luật trong tay họ, họ muốn “điều tra” thế nào thì điều tra, muốn “xử” thế nào thì xử. Họ chỉ thực sự lo sợ khi sự thật về những vụ tố cáo đó được phơi bày trên các phương tiện truyền thông đại chúng, khiến dân chúng và đặc biệt là những người trong bộ máy biết được bộ mặt thật thối tha, nhơ nhuốc của chế độ.

Họ luôn tìm mọi cách che dấu, bưng bít những vụ tố cáo “khủng” đó, bởi chúng không chỉ khiến cho quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” bên trong bộ máy diễn ra nhanh hơn mà thậm chí có khi còn đủ sức làm tê liệt cả hệ thống.(i)
________________

Ghi chú:

(i) Đây là một trong những lý do khiến tác giả bài viết này kiên trì theo đuổi vụ tố cáo nhằm vào các ông Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng Trung Hải – Nông Đức Mạnh suốt từ năm 2008 đến nay, cũng như việc công bố “Tài liệu tố cáo Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang bán nước” hôm 1.7 vừa qua.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


Lê Anh Hùng . Lê Anh Hùng là một blogger tự do trẻ trong nước tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.

Thư ngỏ gửi ông chủ tịch phường Dương Nội

NGUYỄN TƯỜNG THỤY

Chiều ngày 6/8/2015, dân oan Dương Nội (quận Hà Đông, Hà Nội) tổ chức chia gạo cứu đói cho các hộ. Nguồn gạo này từ các nhà hảo tâm trong và ngoài nước gửi cứu đói cho dân oan Dương Nội bị cướp ruộng đất.

Khi bà con đang tổ chức chia thì chủ tịch phường Lã Quang Thức cầm loa điện ra rả tuyên tuyền cho bà con cho rằng việc cứu trợ và nhận cứu trợ như vậy là sai và đề nghị “ai là chủ nhân phát số gạo này hãy đem đến phường Dương Nội, Mặt trận Tổ quốc, Ủy ban sẽ phát gạo cho các đối tượng”. Ông ta còn cho rằng “Nhân dân Dương Nội đã phải nhục nhận gạo cứu đói cứu trợ”, “làm mất đi hình ảnh của địa phương”, cho những người làm công việc thiện nguyện là những “đối tượng đã lôi kéo, lợi dụng quyền tự do dân chủ với danh nghĩa cứu đói”.

***

Xin mạo muội thay mặt những người đã đóng góp công, của để cứu đói cho dân oan Dương Nội có mấy lời với ông chủ tịch phường Dương Nội và những kẻ đã gây nên nỗi thống khổ cho bà con nông dân Dương Nội như sau:

Hẳn các ông thừa biết, đã 7 năm nay, bà con nông dân Dương Nội bị thu hồi đất, không còn đất canh tác. Họ cưỡng chế xong rồi bỏ đấy cho cỏ mọc, bà con tiếc đất nên chiếm lại để canh tác. Khi cây trái, hoa màu sắp đến lúc thu hoạch thì bị chính quyền, công an tàn phá trong cuộc tái cưỡng chế tàn khốc ngày 25/4/2014. Đây thực chất là cuộc cướp bóc, càn quét có tổ chức. 7 người dân oan Dương Nội lâm vào cảnh tù đày, bệnh tật, có người tàn phế. Mồ mả cũng bị đào xới, xương phơi trắng giữa đồng. Hỏi như thế đã tận cùng tội ác của các ông chưa?

Không có đất canh tác, không chuyển đổi được nghề nghiệp, tiền đền bù thì không thể nhận vì quá bất công, đã bao giờ các ông nghĩ đến những hộ dân này ăn bằng cái gì, chi tiêu hàng ngày bằng cái gì chưa? Thế mà ông bảo việc cứu đói cho họ là không đúng đối tượng. Vậy theo ông, những hộ như thế nào mới đúng đối tượng nhận gạo cứu trợ? Ông làm lãnh đạo mà vô cảm với nỗi khổ của dân như thế, ông có xứng đáng làm chủ tịch không?

Ông cho rằng những bà con chưa nhận tiền bồi thường hỗ trợ là chưa chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Cưỡng chiếm đất canh tác của họ trong khi họ không chịu nhận đền bù với giá rẻ mạt, không giúp họ chuyển đổi nghề nghiệp, đó là chủ trương của Đảng và Nhà nước ư? Hay là vì lợi ích từ việc “thu hồi” đất đối với nhóm lợi ích quá lớn mà chúng nhắm mắt làm cho bằng được, không nghĩ đến làm thế có độc ác không, đã đẩy dân vào nỗi khổ hạnh, oan sai như thế nào. Chủ trương chính sách gì đi nữa thì cũng phải hợp lòng dân, nếu vô lý, sai trái thì việc dân phản ứng cũng là điều dễ hiểu.

Việc nông dân Dương Nội đi khiếu kiện, đi diễu hành, ông cho là bôi tiếng xấu, hoen ố hình ảnh của địa phương. Thưa ông, ông nhầm rồi. Nếu các ông làm việc tốt cho dân thì sẽ chẳng có chuyện dân đi khiếu kiện. Nếu các ông không gây nên hai cuộc cưỡng chế bạo ngược, nếu các ông không bỏ tù oan 7 người nông dân Dương Nội thì lấy đâu ra clip mà đưa lên mạng, lấy đâu ra sự phẫn nộ của công luận trong và ngoài nước và làm gì có hạt gạo nào của chúng tôi gửi đến Dương Nội. Đúng là lâu nay, hình ảnh Dương Nội chẳng đẹp đẽ gì. Nhưng điều đó là do các ông gây nên chứ không phải người dân cố tình bôi nhọ các ông.

Ông còn yêu cầu bà con cảnh giác với chúng tôi, cho chúng tôi là lôi kéo bà con, lợi dụng quyền tự do dân chủ. Ông nói thế là rất hồ đồ. Chúng tôi làm vì lương tâm và chỉ làm những gì pháp luật không cấm. Không thể có chuyện cứu đói cho những người bị các ông ghét thì gọi là lợi dụng quyền tự do dân chủ, còn nộp cho các ông thì không. Ấy là tôi chưa nói đến chuyện quyền tự do dân chủ ở Việt Nam có không và ở mức nào.

Ông đề nghị “ai là chủ nhân phát số gạo này hãy đem đến phường DN, mặt trận Tổ quốc, Ủy ban sẽ phát gạo cho các đối tượng”. Ơ hay, ông vừa gọi chúng tôi là các đối tượng lợi dụng quyền tự do dân chủ, lôi kéo bà con mà ông lại sẵn sàng nhận gạo của chúng tôi mang đến ư? Như vậy, là đảng viên, ông có mất lập trường không? Hay ông lừa chúng tôi mang đến ủy ban để các ông hạch sách hoặc bắt bớ?

Ông cần phải hiểu tại sao chúng tôi mang gạo đến trực tiếp cứu đói cho bà con dân oan. Họ là những người đang đói, như tôi vừa nêu nguyên nhân. Dân của ông đói, các ông đã giúp họ được cân gạo nào chưa. Ông đã thăm hỏi từng gia đình xem hoàn cảnh họ như thế nào chưa? Hay ông đợi đến khi họ đói lả hoặc chết đói trên đường Lê Trọng Tấn thì các ông mới biết?

Nếu các ông lo được cho dân thì đâu đến lượt chúng tôi phải lo. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Ông có biết, dân phường ông đói, gõ cửa Hội chữ thập đỏ Trung ương, được cứu trợ 2 thùng mì tôm không? Có lẽ, đó là món hàng cứu trợ duy nhất từ chính quyền, mặt trận cho những hộ dân oan Dương Nội từ khi bị cướp đất đến nay. Trong tình trạng đó, lẽ ra, có người mang gạo cứu đói cho dân phường ông, ông phải cảm ơn chứ, sao ông lại gọi họ là đối tượng này nọ, làm mất trật tự ở địa phương. Xin hỏi ông, việc nhận gạo, chia gạo cho bà con làm mất trật tự chỗ nào, còn hai cuộc cưỡng chế đất ở địa phương ông không gây mất trật tự ở chỗ nào? Chúng tôi cho rằng chính hành vi đem ô tô cùng với công an, dân phòng, dùng loa điện tuyên truyền ông ổng, làm náo loạn cả một khu dân cư mới là mất trật tự. Và khi hàng chục côn đồ xông vào nhà dân hăm dọa, nói phải nhận tiền đền bù, không được đi khiếu kiện, lúc ấy ông ở đâu mà không đến để đảm bảo an ninh trật tự? Sao giọng côn đồ và giọng các ông giống nhau đến thế.

Ông cho rằng, gia đình chị Cấn Thị Thêu có công tìm các nguồn tài trợ nhưng nhưng phải liên hệ với mặt trận (để chia cho … công bằng). Điều này cần phải giải thích với ông rằng gia đình chị Thêu và bà con dân oan ở Dương Nội chưa bao giờ xin ai, gợi ý ai cứu đói cho họ. Họ thiếu thốn nhưng họ có lòng tự trọng. Chỉ có những người biết thương cảm trước nỗi đau khổ của người khác, tự tìm hiểu mới biết bà con đang đói mà tự nguyện người ít kẻ nhiều gom góp giúp họ mà thôi.

Cũng cần giải thích cho ông hiểu, tại sao chúng tôi mang thẳng gạo đến cho bà con đang đói mà không thông qua các ông. Ông cho rằng, làm như thế là sai. Vậy xin hỏi ông, hàng cứu trợ của các cá nhân phải thông qua ủy ban, mặt trận là theo qui định nào hay là qui định do các ông nghĩ ra? Chọn hình thức nào là do chúng tôi, tuy nhiên chúng tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện phải thông qua ủy ban hay mặt trận. Đơn giản vì chúng tôi là những người thần kinh vẫn bình thường. Chúng tôi không điên. Đã có quá nhiều vụ hàng cứu trợ bị bớt xén hoặc không tới tay người cần được giúp. Nhiều vụ cán bộ đem tiền, hàng cứu trợ chia nhau hoặc ưu tiên cho người nhà cán bộ. Những vụ việc này nhan nhản trên các mặt báo, chắc ông cũng đã đọc qua. Việc thông qua mặt trận, ủy ban chia gạo đến cho người nghèo chỉ có thể thực hiện khi mà các tổ chức này có cơ sở để tin cậy. Tiếc rằng lòng tin của các nhà hảo tâm không đặt vào mấy tổ chức đó mà gửi gắm ở những người nông dân tuy không có quyền hành gì nhưng họ sống có lương tâm.

Ông cho việc nhận gạo là nỗi nhục của bà con. Thưa ông, nỗi nhục ấy là của các ông, chứ bà con dân oan Dương Nội không hề nhục. Với lòng quả cảm, bất khuất, sẵn sàng chấp nhận tù đày và tinh thần quyết tử giữ đất, bà con chỉ có vinh chứ không có nhục. Tinh thần ấy của bà con đã lay động chúng tôi, tạo nên sự kính trọng, cảm phục trong chúng tôi. Tinh thần ấy còn lan tỏa tới những bà con dân oan ở các vùng miền khác, khiến họ vững tin hơn, can đảm hơn trong cuộc đấu tranh giành lấy sự sống bị chiếm đoạt từ bàn tay của bọn tà quyền.

Thưa ông chủ tịch,

Tuy không cùng chung quyền lợi với bà con dân oan bị cướp đất nhưng ông vẫn gần bà con hơn về mặt địa lý. Ông là người biết rõ sự đau khổ, nỗi oan khuất của bà con. Cùng với những bản án được dựng nên khiến 7 công dân phường ông lâm vào cảnh tù tội, lẽ nào chưa đủ để thức tỉnh được lương tri ông?

Chúng tôi viết thư ngỏ này không có mục đích nào hơn ngoài việc mong ông hiểu rõ ngọn nguồn, cảm thông với những người nông dân cùng khổ mà 7 năm nay không làm ra được hạt lúa nào trên những thửa ruộng bị cướp. Chúng tôi, những người làm công việc cứu trợ cho bà con mất đất ở Dương Nội sẵn sàng đối thoại với các ông. Cũng như với những người lâm vào cảnh cùng khổ khác, việc giúp bà con dân oan Dương Nội đối với chúng tôi không thể vì những lời cảnh báo, xuyên tạc của các ông mà dừng lại. Mong ông hãy ủng hộ việc làm của chúng tôi và hãy đứng về phía bà con dân oan, không tiếp tay cho kẻ cướp. Ông hãy từ bỏ quyền lợi trong việc “thu hồi” ruộng đất của bà con nếu có và hơn nữa tìm cách bảo vệ những công dân địa phương ông. Làm như thế, có thể chức quyền của ông bị mất nhưng danh dự, uy tín của ông sẽ là mãi mãi vì nó được xây dựng trong tâm khảm những người nông dân tuy nghèo khó nhưng đầy tình nghĩa.

Clip: Chủ tịch phường Dương Nội tuyên truyền cho dân về việc nhận gạo cứu đói:

7/8/2015

Nguyễn Tường Thụy

Cựu chiến binh Việt Nam

Số nhà 11 Tổ Quỳnh Lân, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội

Ông Alan Lowenthal với việc trùng tu nghĩa trang quân đội Biên Hòa

Thanh Trúc, phóng viên RFA. 2015-08-07

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-should-allow-the-restoration-of-bh-cemetary-as-promised-tt-08072015121029.html

zmail.rfa.org-600.jpg

Dân biểu Alan Lowenthal đến thăm Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa tháng 5/2015

Ảnh do văn phòng DB Alan Lowenthal gửi RFA

Dân biểu Hoa Kỳ, ông Alan Lowenthal, là người rất quan tâm đến công việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, từng gởi văn thư với 18 chữ ký của đồng viện để yêu cầu Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng Mỹ nêu vấn đề  Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa bị bỏ phế với chính quyền Việt Nam.

Vận động trùng tu nghĩa trang

Trong chuyến đi làm việc tại Việt Nam hồi tháng Năm vừa qua, ông đã ghé thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Trở về Mỹ ông đã họp với VAF Sáng Hội Mỹ Việt, là tổ chức đang vận động công cuộc  trùng tu Nghĩa Trang Quân Đợi Biên Hòa bao năm nay, rồi tiếp đó  lại có cuộc họp liên quan khác với VAF và đại sứ Mỹ tại Việt Nam là ông Ted Osius. Trả lời bài phỏng vấn do Thanh Trúc thực hiện, dân biểu Alan Lowenthal cho biết:

“Thực tế tôi nghĩ đã có một ít tiến triển khá tích cực, thế nhưng tôi không tin chắc rằng chính quyền Việt Nam sẽ đáp ứng yêu cầu cũng như chịu hợp tác với VAF trong vấn đề trùng tu, nâng cấp, thay đổi hiện trạng của Nghĩa Trang Biên Hòa, đưa nơi này trở về nguyên trạng  một nghĩa trang quốc gia  cần  được chăm sóc và cần được bảo tồn.

Chính vì VAF chủ động tìm đến và nhờ tôi giúp đỡ mà tôi đã thực hiện chuyến đi Việt Nam để nói rằng Việt Nam nên hàn gắn và chứng tỏ sự hiểu biết bằng cách chung tay với VAF để trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, trả nó về vị trí một nghĩa trang quốc gia. Việt Nam cần nhìn ra tầm quan trọng của nghĩa trang này đối với cộng đồng người Việt bên ngoài, cần biết một khi cho trùng tu và nâng cấp nghĩa trang này tức là thực hiện được sự hàn gắn tích cực và đáng hãnh diện.”

Việt Nam nên hàn gắn và chứng tỏ sự hiểu biết bằng cách chung tay với VAF để trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, trả nó về vị trí một nghĩa trang quốc gia.
– DB Lowenthal

Thanh Trúc: Ông dân biểu vừa sử dụng từ gọi là “nghĩa trang quốc gia”, xin phép được nhắc là đối với chính phủ Việt Nam từ “national cemetery” không thể được áp dụng đối với Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi an táng 16.000 tử sĩ miền Nam trong cuộc chiến.

DB Lowenthal: Đó là vấn đề. Nếu tôi nhớ không lầm, hồi năm 2006 chính quyền Việt Nam đã đổi tên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa bằng một cái tên khác trong mục đích dân sự hóa nó, đặt nó dưới sự quản lý của Ủy Ban Nhân Dân  tỉnh Bình Dương.

Điều đáng trách là chính quyền địa phương Bình Dương khởi sự cắt xén, bán bớt những khoảng đất trong nghĩa trang này bất kể chính phủ trung ương nói rằng sẽ làm việc với VAF và có thể cho VAF trùng tu nghĩa trang như VAF đã yêu cầu và đã vận động. Chính quyền Bình Dương không muốn Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hiện hữu, không muốn giúp đỡ cũng không muốn cấp giấy phép trùng tu cho VAF.

Vậy khi tôi nói nghĩa trang quốc gia có nghĩa là Việt Nam nên để cho VAF được trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa qua công việc có tầm cấp quốc gia chứ không phải công việc trong  tầm cấp địa phương hay trong tầm cấp một nghĩa dịa dân sự. Lý do là vì theo tôi thì chính quyền địa phương Bình Dương không có thiện chí và không cho phép thực hiện một công việc vừa nhân đạo vừa có tính cách hàn gắn những vết thương chiến tranh còn tồn tại đến giờ.

Thanh Trúc: Thưa ông dân biểu Lowenthal, khi ghé thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nay là nghĩa trang Bình An, ông có nhìn thấy tình trạng hoang tàn đổ nát nơi đó như trong những bức ảnh mà VAF đã chụp và đưa cho ông coi?

DB Lowenthal: Đúng là rất khó để tìm thấy cái mình muốn thấy, nhưng cũng dễ dàng nhận ra là nơi đó chẳng có ai quan tâm, chẳng có ai chăm sóc. Tôi nghĩ nếu được trùng tu thì đây là một nơi đáng cho những người trở về đến viếng thăm và cho họ cái cảm giác được chào đón  trở lại. Đáng tiếc chính phủ Việt Nam không muốn  thực hiện nghĩa cử đó, không muốnchứng tỏ thiện chí cởi mở, thay đổi tư duy trong việc tôn trọng nhân quyền của người đã chết qua việc cho VAF quyền được trùng tu nghĩa trang này một cách chính thức.

Chính phủ VN không giữ lời

Thanh Trúc: Thưa ông, trong lúc gặp gỡ và làm việc với viên chức chính phủ Việt Nam, ý kiến của ông về việc cần thiết phải trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa được phản hồi như thế nào?

zmail.rfa-400.jpg
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osious và dân biểu Alan Lowenthal trong một buổi họp mặt với cộng đồng VN tại California

DB Lowenthal: Có, tôi có làm điều đó vì một ngày sau khi thăm viếng nghĩa trang, tôi và hai đồng viện đã bay ra Hà Nội và đã gặp các vị lãnh đạo trong chính phủ. Đó cũng là thời điểm chúng tôi muốn thảo luận liên quan chuyện  Việt Nam gia nhập Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương TPP .

Trong lúc hai đồng viện của tôi, dân biểu Salmon và dân biểu Emmers, ủng hộ ý kiến cho Việt Nam vào TPP thì tôi trong tư cách người hướng dẫn  đã phát biểu rằng tôi không thuận cho Việt Nam vào TPP trừ khi nào Hà Nội thay đổi chính sách nhân quyền cứng rắn mà trước nhất là phải cộng tác phải để cho những cựu chiến binh trong VAF ở ngoài được trở về để trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa,  nơi 16.000 đồng đội của họ đã nằm xuống trong cuộc chiến.

Các viên chức chính phủ đều nói sẽ làm nhưng họ đã không giữ lời hứa. Họ không giữ lời thì tôi cũng không bỏ phiếu cho họ vào TPP. Thế nhưng sắp tới  có một vòng biểu quyết TPP nữa, tôi sẽ cố gắng trong khả năng của mình để thuyết phục đồng viện giữ quan điểm là Việt Nam phải thay đổi phải tôn trọng nhân quyền trước, phải giúp VAF trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, phải chấm dứt chuyện gây khó dễ dân chúng vân vân …  rồi mới tính được chuyện vào TPP.

Theo tôi thì chính quyền địa phương Bình Dương không có thiện chí và không cho phép thực hiện một công việc vừa nhân đạo vừa có tính cách hàn gắn những vết thương chiến tranh còn tồn tại đến giờ.
– DB Lowenthal

Theo tôi hiểu chí ít thì phó thủ tướng Việt Nam và thứ trưởng Sơn (Bộ Ngoại Giao) đã nói được cho việc trùng tu, thế nhưng chính quyền địa phương (Bình Dương) chẳng những không chịu cấp giấy phép cho VAF mà còn ngưng lại mọi kế hoạch hợp tác trong việc này. Đó là vấn đề.

Thanh Trúc: Thưa ông, hôm 12 tháng Bảy, trong cuộc họp tiếp theo giữa ông với đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Ted Osius, và đại diện VAF, ông đại sứ có ủng hộ việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa không và có hứa sẽ làm gì không?

DB Lowenthal: Có hai điều. Khi nghe VAF nói là hiện có nhiều hộ gia đình đang sống trong nghĩa trang, ông đại sứ cho rằng dời những người này rất khó vì chừng như họ mua đất trong nghĩa trang mà chính quyền địa phương đã cắt xén để bán cho họ. Ông đại sứ hứa ông sẽ cố gắng tìm cách giải quyết chuyện vừa nói.

Điểm thứ hai, khi nghe nói về việc tìm kiếm hài cốt tù cải tạo chết trong những trại tập trung trước kia,  ông đại sứ cho rằng đây là công việc vô cùng quan trọng và ông sẽ bằng mọi cách giúp người thân trong nước hoặc bên ngoài có phương tiện tìm kiếm, xét nghiệm DNA để  nhận dạng, mang hài cốt ra khỏi nước để an táng hoặc là đưa vào chôn cất và lập mộ ngay tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa đang cần được trùng tu này.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn dân  biểu Alan Lowenthal và thời giờ của ông cho bài phỏng vấn này.

https://youtu.be/oMiXnVZwhJQ

 

Kerry hails US-Vietnam ties, urges progress on rights

Secretary of State John Kerry says Vietnam has made "positive steps" on human rights issues but more needs to be done
View gallery

Hanoi (AFP) – US Secretary of State John Kerry on Friday hailed the transformation of relations with Vietnam 20 years after ties were established, but warned Hanoi’s poor rights record stood in the way of deeper bonds between the former wartime foes.

Kerry, on the last leg of a trip through the Middle East and Asia, said progress on rights issues was key to boosting the partnership between the two countries, which fought a bitter decades-long war that ended in 1975.

“We have seen some positive steps on human rights in Vietnam over the past year,” Kerry said after meeting Vietnam’s Foreign Minister Pham Binh Minh, pointing to the release of several high-profile prisoners of conscience, some of whom now live in exile in the United States.

But he said there was “room for improvement”, urging legal reforms to remove vaguely-worded provisions in the penal code that are frequently used to persecute domestic critics.

Minh responded that the communist country “respects and promotes” human rights, while it was willing to engage with the US to improve.

In a sign of warming US ties with Hanoi, last year Washington partially lifted a 40-year ban on arms sales to Vietnam.

The move came in the face of growing assertiveness by Beijing in the South China Sea where Hanoi is locked in a longstanding territorial dispute with China over island chains.

On Friday Minh asked the US to fully lift the embargo on lethal weapons sales, saying Vietnam “respected” its role in contributing to peace in the region.

But a senior US state department official told reporters the embargo, imposed after the Vietnam War ended, would not be eased further without concrete progress on rights issues.

The contested South China Sea is a key global shipping route and a major geo-strategic tension point between China and the US.

Earlier Friday, Kerry said resolution of disputes in the waters “should depend on who has the better argument not who has the bigger army”, urging all parties to refrain from “provocative acts”.

– Trade and TPP –

The one-time presidential hopeful also called for further economic integration between the former enemies on his Hanoi tour.

Bilateral trade has surged from around $450 million in 1995 to more than $36 billion today, even as the two countries work towards concluding the ambitious US-led Trans-Pacific Partnership (TPP) trade deal.

“These aren’t just statistics. They’re a measure of one of the most remarkable transformations in the history of world affairs,” Kerry said.

Labour rights issues — Vietnam does not allow independent trade unions — have been a sticking point in the ongoing trade negotiations, which also include Singapore, Malaysia, Japan and other Pacific Rim countries, but not China.

Despite this, Kerry said that the TPP, a key economic priority for the US administration, was close to completion after years of painstaking talks.

“We are hoping very much that over the course of a couple of months, before the end of the year, TPP can be completed.”

Kerry, who has said his political activism was inspired by his experiences patrolling waterways in the Mekong Delta during the Vietnam War, said the turn-around in US-Vietnam relations could serve as a model for others.

“The war that took place here half a century ago divided each of our countries and it stemmed from the most profound failure of diplomatic insight and political vision,” he said earlier Friday.

The top US diplomat served with the US Navy from 1966 to 1970 as a lieutenant and it was on his return after two tours of duty that he became a fierce campaigner against the war.

His trip has been dogged by domestic US debate over the Iran nuclear deal and on Friday key Democrats in Congress said they would vote against the deal in a blow to President Barack Obama’s efforts to sell the measure.

Abandoning the deal “will lead people to put pressure on military action since the United States would have walked away from a diplomatic solution”, he said in Hanoi.

“Rejection is not a policy for the future. It does not offer any alternative,” he added.

Quan hệ Việt-Mỹ có đồng sàng dị mộng?

 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam bắt tay với các thành viên phái đoàn ngoại giao của Hoa Kỳ do Ngoại trưởng John Kerry dẫn đầu hôm 7/8

Sáng ngày 7/8/2015, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, John Kerry đã có buổi tiếp kiến với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Phủ Chủ tịch.

Đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ hai của ông trong cương vị Ngoại trưởng Mỹ từ khi ông nhậm chức vào tháng 2 năm 2013.

Các cơ quan truyền thông cho biết Ngoại trưởng John Kerry đến Việt Nam lần này nhân kỷ niệm 20 năm ngày Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội thiết lập bang giao, bình thường hóa quan hệ.

Theo chương trình nghị sự thì ông Kerry sẽ gặp người đồng nhiệm, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh và một số nhà lãnh đạo cao cấp khác của Việt Nam để trao đổi về những vấn đề song phương, an ninh Biển Đông và các vòng đám phán TPP hiện nay.

Ngoài ra, ông Kerry còn tham gia các hoạt động kỷ niêm 20 năm thiết lập bang giao Việt-Mỹ.

Ông Kerry được dẫn lời đã tuyên bố tại Hà Nội rằng “Chuyến công du Việt Nam của ông lần này là biểu tượng của sự hòa giải giữa những quốc gia từng đương đầu nhau trong chiến tranh nhưng họ đã tìm ra đồng thuận để xây dựng một mối bang giao mới.” Và theo ông Kerry thì “Mỹ và Việt Nam đã minh chứng rằng các quốc gia cựu thù vẫn có thể trở thành những đối tác của nhau.”

Tuy nhiên, ông Kerry cũng không quên nhắc nhở các nhà lãnh đạo Hà Nội rằng “Những tiến triển về nhân quyền sẽ giúp xây dựng nền tảng cho một mối quan hệ đối tác chiến lược sâu sắc và bền vững hơn và chỉ Việt Nam mới có thể quyết định tiến độ và phương hướng của quá trình xây dựng mối quan hệ đối tác này.”

Sau đó ông kết luận rằng tôn trọng nhân quyền sẽ là điều kiện cơ bản cần thiết giúp Việt Nam ổn định, phát triển và thúc đẩy quan hệ Việt-Mỹ.

Nhân quyền luôn là rào cản chính trong quan hệ Việt-Mỹ từ 20 năm nay mặc dù Hoa Kỳ và Việt Nam đã có nhiều mối quan hệ mạnh mẽ, đặc biệt trong kinh tế với cán cân thương mại hai chiều đạt 36 tỷ đô la Mỹ trong năm 2014. Quan hệ kinh tế Việt-Mỹ còn được cho là sẽ phát triển mạnh vào những năm tới một khi Việt Nam chính thức tham gia TPP.

Hà Nội từ trước đến nay luôn bác bỏ các cáo giác về vi phạm nhân quyền, tuy nhiên gần đây, họ thẳng thắn nhìn nhận có những khác biệt về quan điểm trong vấn đề này và mong thu hẹp các cách biệt đó thông qua đối thoại ngoại giao.

Một số lãnh đạo CSVN luôn cho rằng Hoa Kỳ không hề từ bỏ ý định thay đổi thể chế chính trị Viêt Nam, loại bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với nhà nước và nhân dân Việt Nam thông qua chính sách “diễn biến hòa bình”.

Để đánh tan hoài nghi đó, Hoa Kỳ đã tổ chức tiếp đón trọng thị TBT Nguyễn Phú Trọng tại tòa Bạch Ốc hôm 7 tháng 7 vừa qua và một lần nữa ông Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Ted Osius cũng nhân dịp này tuyên bố rằng“Chính sách của Mỹ là tôn trọng sự khác biệt trong hệ thống chính trị của các nước khác…”

Ông còn nói rằng “Câu trả lời của tôi là điều mà người hỏi có thể không muốn nghe, nhưng tôi phải nói rõ rằng chính sách của Mỹ là luôn tôn trọng hệ thống chính trị của nước khác”.

Ông khẳng định “Hoa Kỳ mong muốn xây dựng quan hệ bền vững với Việt Nam, muốn thấy một Việt Nam thịnh vượng, độc lập, tôn trọng dân chủ, nhân quyền và pháp quyền.”

Bất đồng về giá trị

Nếu tôn trọng những giá trị phổ quát nhân quyền đúng theo tinh thần của Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc 1948 là những gì quá lớn lao với Hà Nội thì người dân Việt Nam có quyền đặt câu hỏi về tính chính danh của chính quyền Việt Nam hiện tại.

Liệu chính quyền này có thực sự là của dân, do dân và vì dân Việt Nam không? Tại sao người dân Việt Nam không được hưởng những quyền cơ bản này?

Và Hoa Kỳ cũng nên tự đặt câu hỏi cho chính mình là liệu mối quan hệ mà họ đang cố sức xây dựng với lãnh đạo CSVN có phải là một mối quan hệ đồng sàng dị mộng không?

Không thể phủ nhận rằng Hoa Kỳ đang có quyền lợi chiến lược lớn lao tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trước sự trổi dậy hung hăn của Trung Quốc và Hà Nội có thể được xem như đang hoặc sẽ là một đối tác đầy hứa hẹn, tiềm năng của Hoa Kỳ.

Ông John Kerry nói quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiến triển nhanh chóng nếu vấn đề nhân quyền tại Việt Nam được cải thiện

Nhưng một mối quan hệ lớn lao như thế không thể và không bao giờ được xây dựng trên những bất đồng có tính cơ bản như những giá trị mà hai quốc gia đeo đuổi: một bên là một chế độ độc tài, độc đảng trị, vô pháp, phỉ báng những quyền cơ bản của con người và một bên là một thể chế chính trị tự do, dân chủ, pháp trị và, tôn trọng nhân quyền.

Đúng là chúng ta cũng cần cho Hà Nội một cơ hội. Chúng ta thừa biết rằng thành La Mã không thể xây qua đêm được. Chặng đường 20 năm qua trong “quan hệ Việt-Mỹ đã chứng minh được rằng các cựu thù vẫn có thể trở thành đối tác thực sự”, như diễn từ của Ngoại trưởng Kerry hôm 7/8 vừa qua tại Hà Nội.

Nhưng dứt khoát, cái mà chúng ta không thể chấp nhận được, đó là sự thiếu nghiêm túc, một sự dễ dãi quá đáng của Hoa Kỳ trong việc kêu gọi Hà Nội thực thi những cam kết quốc tế về tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam.

Chính phủ Obama đã vô hình trung đưa cho Hà Nội một tín hiệu sai lầm rằng nhân quyền cũng chỉ là món hàng trao đổi. Những giá trị thiêng liêng mà nhân dân Mỹ đã liên tục tranh đấu từ hơn 300 năm nay cũng sẽ được đem ra mặc cả, cân đo, đong đếm trong mối quan hệ đặc biệt này.

Liệu những lời khuyến cáo rất chân thành của ông Kerry, sự mềm mỏng ngoại giao đến độ ngạc nhiên của ông Osius và thái độ thiện chí đầy thân thiện của chính phủ Obama có làm cho Hà Nội thay đổi gì không nếu như Hoa Kỳ không có những chính sách, biện pháp cụ thể để giám sát và chế tài Hà Nội trong việc thực thi cam kết tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam?

Thiết tưởng cũng cần nhắc lại rằng dù đối với Hoa Kỳ không có kẻ thù truyền kiếp cũng như bè bạn vĩnh viễn nhưng một mối quan hệ đối tác lành mạnh, bền vững vẫn phải được xây dựng trên nền tảng của những giá trị chung mà hai bên cùng chia xẻ.

Có đối tác nào gần gũi với Hoa Kỳ trên thế giới mà có chế độ chính trị và một số giá trị nhất định hoàn toàn đối nghịch không? Nếu Nhật và Đức, một thời cũng là cựu thù của Mỹ nhưng sau đó đã trở thành những đồng minh quan trọng, đơn giản vì tất cả họ đã cùng chia sẻ những giá trị cơ bản mà các quốc gia họ tôn vinh.

Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả

Thiếu niên 15 tuổi dám đả đảo CSVN ở huyện Thạnh Hoá bị bắt giữ

Vào tối ngày 06 tháng 8 năm 2015, em Nguyễn Mai Thảo Vy báo tin anh trai Nguyễn Mai Trung Tuấn, chỉ mới 15 tuổi, bị công an bắt giữ sau 4 tháng bị truy nã vì tội “cố ý gây thương tích” trong vụ giải toả đất ở huyện Thạnh Hoá – tỉnh Long An.

Sự việc xảy ra vào ngày 14 tháng 4 năm 2015, khi nhà cầm quyền huyện Thạnh Hóa đã huy động một lực lượng rất đông gồm: công an, cảnh sát cơ động, dân quân tự vệ đến để cưỡng chế thu hổi đất gia đình ông Nguyễn Trung Can, Nguyễn Trung Tài, và Nguyễn Thị Nhanh thuộc khu phố 3, thị trấn Thạnh Hóa.

Chính quyền huyện Thạnh Hoá đền bù cho dân chỉ có 300.000(vnd)/m2 nhưng bán cho người khác là 3 triệu đồng/m2. Số lãi thu được nhằm vụ lợi mục đích cá nhân.

Gia đình ông Nguyễn Trung Can và bà Mai Thị Hương đã nhiều lần gửi kiến nghị, khiếu kiện về việc làm sai trái của chính quyền địa phương về việc thu hồi đất của gia đình nhưng không được giải quyết.

Sau đó, 12 người trong gia đình ông Nguyễn Trung Can và bà Mai Thị Kim Hương bị bắt giam và bị khởi tố. Còn Nguyễn Mai Trung Tuấn (con ông Mai Trung Can) bị truy nã vì tội “cố ý gây thương tích” theo điều 104, bộ Luật Hình Sự.

Tuy nhiên, trong bản kết luận của cơ quan Cảnh Sát Điều Tra và bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát Nhân Dân huyện Thanh Hoá gửi cho gia đình không có nhắc đến hành vi của Nguyễn Mai Trung Tuấn. Nhưng bản kết luận và cáo trạng cho biết đang truy nã Nguyễn Mai Trung Tuấn về tội “cố ý gây thương tích” theo điều 104, bộ Luật Hình Sự.

Em Nguyễn Mai Thảo Vy cho phóng viên SBTN biết: “Hiện tại em đang rất lo lắng cho tình trạng của anh trai. Công an đã truy nã anh trai em trong 4 tháng qua. Nay anh trai đang chữa bệnh ở Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận thì bị công an họ bắt giữ và di lý về tỉnh Long An. Hiện tại đang ở công an tỉnh Long An. Hôm xảy ra cưỡng chế, anh trai ấy chẳng làm gì sai pháp luật. Anh ấy chỉ ngăn cản công an vào cưỡng chế nhưng bị họ đánh lại giờ phải mang bệnh. Vậy mà họ vu khống là anh trai em đánh trọng thương người khác.”

Được biết, hôm xảy ra vụ cưỡng chế đất, Nguyễn Mai Trung Tuấn đã cầm loa kêu gọi nhà cầm quyền huyện Thạnh Hoá dừng ngay việc cưỡng chế và hô lớn các khẩu hiệu: “Tiêu diệt đảng CSVN, đả đảo đảng cộng sản bán nước, đả đảo Nguyễn Tấn Dũng bán nước,…”

Sống trong một xã hội luôn luôn phải đối đầu với sự áp bức, bóc lột đã khiến thiếu niên chỉ mới 15 tuổi mất niềm tin vào chính quyền CSVN, để dám đấu tranh cho đến cùng, dù có phải hy sinh tính mạng trước bạo quyền.

Ân Thiên / SBTN

Trao đổi thư tín với thính giả 07.08.2015

000_Hkg10127733.jpg

Bức tượng ông Hồ Chí Minh tại một công viên ở thành phố Cần Thơ, ảnh chụp hôm 11/12/2014.

AFP photo

Thông tin về tỉnh Sơn La thông qua dự án xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh với kinh phí dự kiến lên đến 1400 tỷ đồng. Phát biểu của Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La, ông Cầm Ngọc Minh, hôm mùng 6 tháng 8, nói với báo giới rằng “chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng tôi” khiến công luận trong và ngoài nước mạnh mẽ lên tiếng phản đối đề án này.

Tượng đài Hồ Chí Minh

Mở đầu chương trình hôm nay, Hòa Ái trích đăng những ý kiến của quý khán thính giả cùng độc giả gửi về trong tuần qua.

“Điều này chứng tỏ rằng tỉnh Sơn La rất giàu có nên mấy ông lãnh đạo có ý định chơi ngông. Các ông nên xem lại còn bao nhiêu cây cầu giống như cầu Chu Va rồi hãy làm tượng đài cũng không muộn”.

“Những người đưa ra ý tưởng và thông qua ý tưởng đó tôi tin chắc đằng sau những việc này có những lợi ích bất chính, khuất tất. Có thể là sự tham ô, tham nhũng thông qua hình thức lãng phí vô cùng ghê gớm và thông qua dễ những dự án được gán cho ý nghĩa chính trị. Mà như chúng ta biết ý nghĩa chính trị này gắn liền với chế độc độc tài của Việt Nam; tức tôn thờ lãnh tụ một cách sùng bái và thái quá.”

“Tôi rất bức xúc và nhiệt liệt phản đối xây tượng đài Hồ chí Minh phải tốn kém 1400 tỷ. Trong khi chúng tôi là những người dân không có chỗ ăn, chỗ ở. Theo tôi nghĩ nếu bỏ 1400 tỷ này ra để giải quyết cho dân oan chúng tôi có cuộc sống thì phần nào giảm đi những người bị oan ức. Nếu khắc phục được như vậy thì sẽ tốt hơn. Đàng này xây một tượng đài như thế là phí quá. Để nói cho dân biết đó là công lao của một người cứu nước thì không cần phải xây những tượng đài như thế. Chỉ cần làm những việc tốt thôi, người dân có cuộc sống ấm no thì trong lòng họ tự khắc hiểu, tự biết. Không cần làm những hình thức phô trương như vậy. Mấy ông có xây tượng đài để ở mỗi ngả tư đường đi, chưa chắc người dân thấy và hiểu được. Sợ người ta còn tức giận thêm”.

“Xây tượng thì xây rất nhanh.

Trường học, bệnh viện, loanh quanh không làm”.

“Mục tiêu của Nhà nước có thể là đúng nhưng VN vẫn còn nghèo thậm chí nợ công quá lớn, hơn 110 tỷ Mỹ kim. Tỉnh Sơn La cũng là một tỉnh quá nghèo, có rất nhiều công trình lợi ích cho dân rất cần Nhà nước đầu tư số tiền quá lớn như vậy để cải thiện cuộc sống thiết yếu cho đồng bào nghèo, để phát triển thành một tỉnh trung bình hoặc hơn thế nữa.

Nếu nhân dân được phép phủ quyết dự án không hợp lý này, tôi nghĩ rằng những dự án khác có thể đạt được thành công nhất định. Xin những quan chức VN xem xét lại việc đầu tư xây dựng hợp lý cho hiệu quả”.

…Cứ 1400 tỷ đã nhé! Sau này quyết toán ta lại xin bổ sung thêm cho đủ 2000 tỷ thì chia chác mới thoải mái.
– Thính giả

“Xây tượng đài Hồ Chí Minh 1400 tỷ thì chính phủ VN nên để số tiền đó xây dựng cơ sở làm ăn, nhà máy cho người dân có công ăn việc làm, giúp hàng ngàn gia đình ở đó có cuộc sống tốt hơn. Phát triển lên rồi thì lúc đó có tiền hãy xây. Bây giờ người dân đang đói khổ mà chính phủ bỏ số tiền đó ra để xây cất một cái tượng lớn lao như vậy trong lúc người dân nhìn cái tượng đó không no được đâu”.

“Lấy số tiền đó cứu trợ đồng bào lũ lụt, hỗ trợ ngư dân bám biển, mua vũ khí bảo vệ biển đảo có tốt hơn không? Nếu xây tượng đài thì hãy xây trong lòng dân mới trường tồn”.

“Mặc người ta nói, xây cứ xây. Trước giờ vẫn vậy thôi”.

“Chẳng lẽ tượng Bác bé tẻo teo thì nhìn sao cho được? Phải to đùng hơn tượng Mẹ anh hùng của Đà Nẵng mới không mất quan điểm chứ lị! Cứ 1400 tỷ đã nhé! Sau này quyết toán ta lại xin bổ sung thêm cho đủ 2000 tỷ thì chia chác mới thoải mái”.

“Học tập và làm theo gương Bác Hồ vĩ đại như thế này thì nguy hiểm quá!”

“Trong tương lai đến năm 2030, VN sẽ có 45 tượng đài Hồ Chí Minh. Nhà nước Việt Nam sẽ tổ chức các chuyến du lịch đi thăm các tượng đài này. Một tôn giáo mới từ từ được hình thành. Các đảng viên từ cấp Trung ương đến cấp địa phương sẽ tha hồ vui. Chỉ có dân đen là khổ”.

Nhạc Trung Quốc ở Bộ Quốc Phòng

Trong tuần qua, dư luận đặc biệt chú ý đến đoạn nhạc Trung Quốc trong chương trình giao lưu nghệ thuật “Khát vọng đoàn tụ” diễn ra tại Hội trường Bộ Quốc phòng ở Hà Nội vào tối hôm 27 tháng 7-Ngày Thương binh Liệt sĩ VN, được truyền hình trực tiếp trên kênh truyền hình quốc gia VTV. Tiếp theo trong chương trình, Hòa Ái trích đăng các ý kiến liên quan:

“Đảng Cộng sản là của Trung Quốc thì phải phát nhạc Trung Quốc chứ sao?”

“Tưởng nhớ những người lính đã ngã xuống trên biên giới để ca ngợi kẻ giết lính của mình”.

“Tổng đạo diễn Lê Hùng đã thừa nhận cố tình đưa ít phút vào, không ảnh hưởng gì. Do vậy không phải là sơ xuất nhầm lẫn”.

“Vậy họ không phải tổ chức Ngày Thương binh Liệt sĩ VN đã hy sinh mà là tổ chức kỷ niệm Ngày Thương binh Liệt sĩ của Trung cộng nên mới có ‘Khát vọng đoàn tụ’ với quê hương Trung Quốc”.

“Truyền hình quốc gia giới thiệu một Chủ tịch nước trong chương trình với các thương binh liệt sĩ mà phát một đoạn nhạc Tàu ‘Tôi yêu Tổ quốc Trung Hoa” thì đó là một sự nhục mạ cho đất nước VN. Là 1 người dân trong số những người dân VN, suy nghĩ về thể diện quốc gia, về khí phách dân tộc, về lòng tự trọng tối thiểu của dân tộc thì đó là sự sỉ nhục đối với mọi người dân VN. Thứ hai nữa, đó là sự xúc phạm một cách nặng nề đối với các liệt sĩ đã hy sinh ở biên giới, ngoài hải đảo, ở biên giới Tây Nam cũng có bàn tay của Tàu cộng. Đoạn nhạc Tàu ca ngợi tổ quốc Trung Hoa mà đưa lên truyền hình VN như vậy thì đó là sự sỉ nhục vong hồn các liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước. Còn suy nghĩ của chúng tôi thì đó là sự nô lệ hóa trong mọi lãnh vực mà bắt đầu trong lãnh vực về truyền hình, về văn hóa, về mặt tư tưởng của thể chế này đối với người dân VN”.

Xin hỏi nếu như người dân mà hát bài quốc ca của VNCH trong ngày lễ có bị bắt bỏ tù không? Vậy, nói xã hội bình đẳng, công bằng có hay không?
– Thính giả

“Nội tuyến đã nằm sâu trong đài truyền hình, trong ban tuyên giáo. Kể sơ những chuyện gần đây như cờ 6 sao, thủ đô Hà Nội chuyển sang Trung Quốc trên bản đồ, giờ thì nhạc nền cho Chủ tịch nước lên khai mạc lễ Thương binh Liệt sĩ là quốc ca của Trung cộng. Biết nói gì đây khi sự việc đã được trên an bài”.

“Không biết lúc nào VN sáp nhập vào Trung Quốc đây?”

“Đây là một hành động phản lại dân tộc, phản lại Tổ quốc, là điều sỉ nhục đối với anh hùng liệt sĩ. Đây mới chính là phản động cần phải nghiêm trị như thế mới thỏa lòng dân VN chúng ta”.

“Phải cách chức những người trực tiếp có liên quan. Xin hỏi nếu như người dân mà hát bài quốc ca của VNCH trong ngày lễ có bị bắt bỏ tù không? Vậy, nói xã hội bình đẳng, công bằng có hay không? Sự việc như vậy mà chỉ kiểm điểm thôi à?”

“Rút kinh nghiệm rồi. Chả sao cả. Không ai bị gì hết”.

Trong thời gian còn lại của chương trình, mời qý thính giả nghe chia sẻ qua hộp thư thoại sau đây:

“Thưa quý đài ACTD, tôi tên là Vũ Văn Cường, trú quán tại tỉnh Ninh Bình. Tôi rất cảm ơn quý đài đã mang lại cho người dân chúng tôi những thông tin về văn hóa, xã hội rất chân thực. Tôi rất mong có 1 ngày đóng góp ý kiến thiết thực cho quý đài. Tôi mong quý đài sớm liên lạc cùng với tôi và làm ơn cho tôi gia nhập cùng quý đài. Cuối cùng, cho tôi gửi lời chúc tốt đẹp tới quý đài và chúc mọi người mạnh khỏe, thành công. Xin chân thành cảm ơn”.

Quý thính giả quý mến, thay mặt ban Việt ngữ, Hòa Ái chân thành cảm ơn chia sẻ vừa rồi của thính giả Vũ Văn Cường. Quý thính giả có thể liên lạc với đài và đóng góp ý kiến về các vấn đề quý vị quan tâm qua email tại đại chỉ vietweb@rfa.org hoặc hoaai@rfa.org, hoặc qua hộp thư thoại tại số 202-530-7775. Quý vị vui lòng nói ý kiến của mình để hộp thư thoại tự động thu âm lại giọng nói của quý vị. Ban Việt ngữ hy vọng quý khán thính giả và độc giả nhiệt tình đóng góp cũng như chia sẻ ý kiến để chương trình phát thanh của đài ACTD ngày một thêm phong phú.

Mục “Trả lời Thư tín” đến đây xin tạm dừng. Trước khi dứt lời, Hòa Ái xin lưu ý, chương trình phát thanh qua làn sóng radio bị phá sóng và trang web của ban Việt ngữ đài ACTD bị chặn ở VN, quý thính giả vui lòng truy cập vào trang Facebook của đài để cập nhật các proxy vượt tường lửa mới nhất cũng như truy cập vào kênh Soundcloud và Youtube để nghe các chương trình phát thanh của đài RFA.

Chương trình phát thanh của ban Việt ngữ đài ACTD vẫn được phát qua làn sóng radio vào buổi sáng từ 6:30 đến 7:30 sáng trên làn sóng ngắn 31 mét và vào buổi tối từ 9 đến 10 giờ tối, giờ VN trên làn sóng ngắn 25 và 31 mét cùng làn sóng trung bình 1503 khz.

Các chương trình phát thanh được lưu trữ trên trang web tại:

www.RFATiengViet.net hoặc www.achautudo.info

Quý thính giả cũng có thể truy cập vào các đường dẫn dưới đây để nghe và xem các chương trình phát thanh và phát hình qua:

-Trang Facebook tại: www.facebook.com/RFAVietnam

-Kênh Soundcloud tại: www.soundcloud.com/rfavietnam

-Kênh Youtube tại: http://www.youtube.com/rfavietnamese

 Tin, bài liên quan

‘Nhân quyền sẽ thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt’

John Kerry tham VietNam2

Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói quan hệ Mỹ-Việt sẽ phát triển “sâu sắc và bền vững hơn” nếu vấn đề nhân quyền tại Việt Nam được cải thiện.

Ông John Kerry phát biểu tại hội thảo “Thúc đẩy Thịnh vượng: 20 năm Hợp tác phát triển Việt Nam – Hoa Kỳ” hôm 7/8 tại Hà Nội.

“Chúng ta đã chứng minh được rằng các cựu thù vẫn có thể trở thành đối tác thực sự”, ông được dẫn lời nói.

Tuy nhiên, “những tiến triển về nhân quyền cũng như pháp quyền sẽ giúp xây dựng nền tảng cho một mối quan hệ đối tác chiến lược sâu sắc và bền vững hơn”, ông nói thêm.

“Chỉ [Việt Nam] mới có thể quyết định tiến độ và phương hướng của quá trình xây dựng mối quan hệ đối tác này. Nhưng chắc quý vị cũng thấy những đối tác gần gũi nhất với Hoa Kỳ trên thế giới đều chia sẻ với chúng tôi một số giá trị nhất định”, ông nói.

Ông Kerry cho rằng việc tôn trọng quyền tự do ngôn luận và tự do hội họp là điều cần thiết để đảm bảo cho ổn định.

“Hàng triệu người Việt Nam đã bắt đầu biểu đạt tự do trên Facebook”, ông nói thêm.

Biển Đông

Trong phần phát biểu về tình hình trên Biển Đông, Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói “hai chính phủ cùng có chung lợi ích về tự do hàng hải, giải pháp hòa bình đối với những tranh chấp tại Biển Đông.”

Ông cũng lặp lại lập trường của Hoa Kỳ rằng nước này “không coi trọng tuyên bố chủ quyền của nước này hơn nước kia”.

“Chúng tôi thực sự ủng hộ tiến trình mà qua đó những tranh chấp có thể được giải quyết một cách hòa bình và tuân theo luật quốc tế”.

“Luật quốc tế coi tất cả các nước đều như nhau. Nó không phân biệt tầm ảnh hưởng hay quyền của các nước lớn hơn muốn áp đặt quyết tâm của họ lên các nước láng giềng nhỏ hơn chỉ đơn giản vì các nước lớn này có thể làm điều đó. Nó nói với chúng ta rằng giải pháp cho các cuộc tranh chấp cần phụ thuộc vào quốc gia có lập luận vững chắc hơn, quốc gia mà luật pháp đứng về phía họ chứ không phải quốc gia có quân đội lớn hơn.”

“Tại đây, tại Việt Nam, hiến pháp mới của các bạn nói về dân chủ và những hứa hẹn bảo vệ nhân quyền. Và trong cuộc trò chuyện của tôi hôm nay với Chủ tịch Sang, ông đã nói rất rõ về tầm quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam trong việc tôn trọng các quyền của người dân.”

“Họ tôn trọng và muốn làm điều đó.”

“Chính phủ của các bạn cam kết sẽ làm cho luật pháp phù hợp với hiến pháp mới và các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Những cuộc khảo sát độc lập đều cho thấy là người dân Việt nam rất ngưỡng mộ các định chế và giá trị dân chủ, một dấu hiệu chắc chắn cùng chia sẻ với công dân Mỹ.”

“Vì thế thậm chí trong khi chúng tôi tôn trọng sự khác biệt về hệ thống chính trị, chúng tôi cũng có cơ sở để thảo luận về việc thực thi bảo vệ hiến pháp, về tù nhân chính trị, vai trò của nhà báo, cải tổ pháp lý cũng như ý nghĩa của việc tuân thủ và thực thi những đòi hỏi mà chúng ta cảm kết trên nguyên tắc.”

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry trong cuộc gặp với các sinh viên và doanh nhân Việt Nam ở Trung tâm Hoa Kỳ, Hà Nội

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

Chiều ngày 7/8, ông Kerry đã có buổi gặp gỡ với giới doanh nhân, đầu tư và sinh viên ở Việt Nam tại Trung tâm Hoa Kỳ, Hà Nội.

Phát biểu tại cuộc gặp, do Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius dẫn chương trình, ông Kerry thừa nhận còn “một số khó khăn” trong đàm phán về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương.

Ông cũng nói chính phủ Việt Nam đang “nỗ lực” giải quyết một số khó khăn còn tồn đọng, trong đó có vấn đề chuẩn mực lao động.

“20 năm qua, Việt Nam đã làm tốt việc phát triển đất nước. Sẽ còn nhiều thách thức trong 20 năm tới và Việt Nam phải nỗ lực nhiều hơn”, ông nói.

Trả lời câu hỏi liên quan đến thất bại trong vòng đàm phán TPP tại Hawaii vừa qua, ông Kerry nói mọi diễn biến vẫn “đang trong tầm kiểm soát”, dù vẫn có một số trở ngại chính.

Tuy nhiên, ông tin rằng mọi bất đồng sẽ được giải quyết vào cuối năm nay.

Giá phải trả của sự liều lĩnh

Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi thuộc Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn nói với báo chí rằng, ngành chăn nuôi gần như là vật hy sinh cho TPP

Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi thuộc Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn nói với báo chí rằng, ngành chăn nuôi gần như là vật hy sinh cho TPP. File photo

Chính phủ Việt Nam vừa loan báo đã kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do với EU cũng như hoàn tất đàm phán song phương với tất cả 11 đối tác tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hội nhập quá nhanh trong khi nội lực doanh nghiệp còn yếu kém có thể tạo ra nhiều rủi ro và cũng được cho là một cuộc chơi quá liều lĩnh.

Những điều đáng lo ngại

Câu chuyện Hiệp hội Chăn nuôi Đông Nam bộ đòi kiện chống bán phá giá đùi gà cánh gà đông lạnh nhập khẩu từ Mỹ, có vẻ báo trước một tình trạng khó khăn hơn rất nhiều đối với ngành chăn nuôi nói chung và những ngành kém lợi thế cạnh tranh khác của Việt Nam.

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể là gã khổng lồ  đến chậm, mà Việt Nam kỳ vọng vào lúc đó sẽ tăng tổng sản phẩm nội địa GDP mỗi năm từ 1,4 đến 2,9 tỷ USD, theo tính toán của các chuyên gia nhà nước. Nhưng ngược lại 10 triệu hộ chăn nuôi gia đình sẽ mất kế sinh nhai nếu không chuyển sang lĩnh vực khác. Ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi thuộc Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn nói với báo chí rằng, ngành chăn nuôi gần như là vật hy sinh cho TPP.

Trao đổi với Nam Nguyên, Tiến sĩ Huỳnh Thế Du giảng viên Chuơng trình kinh tế Fulbright TP.HCM nhận định rằng, lẽ tất nhiên những ngành không có lợi thế cạnh tranh sẽ bị thiệt hại. Đó là bản chất của quá trình hội nhập nhưng về tổng thể hội nhập mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. TS Huỳnh Thế Du nhấn mạnh:

Về nông nghiệp chẳng hạn, những cây trồng, vật nuôi mà không có lợi thế cạnh tranh có thể chuyển ngay sang những cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh. Như thế phần lợi ích sẽ được nhiều, ngược lại nếu quá trình chuyển đổi không diễn ra nhanh chóng mà để chậm trễ, thì số người bị ảnh hưởng sẽ nhiều hơn, lúc đó nó sẽ gây ra những trục trặc trong xã hội

Tiến sĩ Huỳnh Thế Du

“ Câu chuyện đặt ra là có một khía cạnh quan trọng nữa, làm sao quá trình chuyển dịch việc làm, chuyển dịch cơ cấu có thể nhanh chóng chuyển qua những lĩnh vực hiệu quả. Thí về nông nghiệp chẳng hạn,  những cây trồng, vật nuôi mà không có lợi thế cạnh tranh có thể chuyển ngay sang những cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh. Như thế phần lợi ích sẽ được nhiều, ngược lại nếu quá trình chuyển đổi không diễn ra nhanh chóng mà để chậm trễ, thì số người bị ảnh hưởng sẽ nhiều hơn, lúc đó nó sẽ gây ra những trục trặc trong xã hội.”

Các chuyên gia cho rằng FTA của Việt Nam với EU sẽ nhanh chân hơn TPP. Cả hai Hiệp định quan trọng này sẽ mang lại rất nhiều cơ hội cho Việt Nam, như miễn thuế hàng hóa xuất khẩu vào khu vực Liên minh Châu Âu EU và các nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trải dài từ Úc tới một phần Châu Á sang Trung Mỹ và Bắc Mỹ. Nhưng cả hai hiệp định lớn vừa nói đòi hỏi Việt Nam phải hội đủ những tiêu chuẩn cao về nhiều lĩnh vực. Thí dụ môi trường đầu tư và kinh doanh minh bạch và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường cũng như các tiêu chuẩn cao về lao động. Thí dụ, công đoàn độc lập, tự do hội họp, cấm sử dụng lao động trẻ em v..v…

Ngoài những vấn đề liên quan tới cải cách thể chế, điều quan trọng nhất trên sân chơi hội nhập chính là khả năng cạnh tranh. Đây là một điều đáng lo ngại cho Việt Nam. TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương ở Hà Nội từng nhận định:

Cuộc đình công của gần 90 ngàn công nhân công ty  PouYuen trong Khu công nghiệp Tân Tạo, quận Bình Tân là để phản đối luật bảo hiểm xã hội đã được Quốc hội VN thông qua cuối năm 2014 và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2016
Công nhận công đoàn độc lập, tự do hội họp là thực sự bảo vệ cho người công nhân: minh họa ảnh Cuộc đình công của gần 90 ngàn công nhân công ty PouYuen trong Khu công nghiệp Tân Tạo, quận Bình Tân hồi tháng 3, 2015 phản đối luật bảo hiểm xã hội

Hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân những doanh nghiệp có đăng ký tức là hoạt động hợp pháp chỉ chiếm khoảng 12% GDP thôi, còn nền kinh tế hộ gia đình thì chiếm đến 52%. Kinh tế hộ gia đình thì quá bé không có tiền vốn cho nên họ không có năng lực cạnh tranh gì cả. Cho nên nếu Việt Nam cạnh tranh quốc tế mà lại cạnh tranh với các hộ gia đình quá nhỏ thì điều ấy là một nguy cơ quá lớn.”

Thiếu chuẩn bị

Chỉ trong nội bộ các nước ASEAN mà Việt Nam sớm tham gia khu mậu dịch tự do, hàng tiêu dùng Việt Nam đã yếu thế rất nhiều so với các nước láng giềng. Ở lĩnh vực dịch vụ, hàng loạt đại gia bán lẻ thâu tóm các công ty siêu thị và trong tương lai gần, khi lộ trình cắt giảm thuế đã hết ân hạn cho Việt Nam thì chắc chắn các quầy hàng sẽ tràn ngập hàng hóa vừa rẻ vừa tốt hơn sản phẩm cùng loại của Việt Nam.

Tôi cũng có mối lo ngại như vậy, không phải chỉ những cam kết sâu và mạnh như TPP hoặc là FTA với EU không thôi, mà ngay sự việc hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN. Các doanh nghiệp VN cho đến nay có vẻ thiếu sự chuẩn bị cần thiết cho nên rất có thể họ sẽ gặp khó khăn

Bà Phạm Chi Lan

Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cũng từng dóng tiếng chuông báo động về việc hội nhập nhanh mà thiếu chuẩn bị:

Tôi cũng có mối lo ngại như vậy, không phải chỉ những cam kết sâu và mạnh như TPP hoặc là FTA với EU không thôi, mà ngay sự việc hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN. Các doanh nghiệp Việt Nam cho đến nay có vẻ thiếu sự chuẩn bị cần thiết cho nên rất có thể họ sẽ gặp khó khăn. Ngoài ra khu vực RCEP cũng đang được bàn thảo và hình thành giữa 10 nước ASEAN và 6 nước ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia, New Zealand và Ấn Độ cũng sẽ đặt sức ép cạnh tranh rất lớn cho doanh nghiệp.”

Sau đổi mới cuối thập niên 1980, Việt Nam đã đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Ngoài việc chính thức tham gia WTO Tổ chức Thương mại Thế giới, cho đến nay Việt Nam đã ký kết gần một chục Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Mới nhất vào ngày 3/8/2015 chính phủ Việt Nam cùng lúc loan báo đã kết thúc đàm phán FTA với Liên minh Châu Âu EU, cũng như hoàn tất đàm phán song phương với tất cả các nước thành viên tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP.

Việt Nam theo cơ chế chính trị một đảng độc quyền cai trị, Hiến pháp 2013 khẳng định đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Theo các chuyên gia, đây chính là nguyên nhân của tình trạng thiếu giám sát, thiếu trách nhiệm giải trình và thiếu công khai minh bạch nói chung. Nền chính trị của Việt Nam cho đến nay không có sự cạnh tranh hoặc giám sát của các đảng đối lập.

Dẫu sao thì hội nhập khởi sự sau giai đoạn đổi mới 1986, cũng đã giúp Việt Nam tăng thu nhập bình quân đầu người gấp 10 lần từ hơn 200 USD năm 1977 lên mức 2.000 USD hiện nay. Mặt tích cực của hội nhập được nhìn nhận, cho dù xã hội hình thành hố sâu giàu nghèo càng ngày càng lớn.

Và theo một số nhà hoạt động xã hội dân sự, nếu một thể chế chính trị độc tài sắp tới phải công nhận công đoàn độc lập, tự do hội họp, phải công khai minh bạch hơn trong điều hành kinh tế, thì hội nhập cũng thể hiện những mặt tích cực.

RFS: ‘Mỹ phải nêu tự do thông tin với VN’

 
Ngoại trưởng Hoa Kỳ có chuyến thăm Việt Nam trong ba ngày, 6-8/8/2015

Tổ chức Phóng viên Không biên giới (RFS) kêu gọi Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi đến thăm Việt Nam tuần này hãy ‘nêu vấn đề tự do thông tin’ với giới chức nước chủ nhà.

Tổ chức có trụ sở tại Paris, Pháp thúc giục ông John Kerry hãy gây áp lực để chính quyền Việt Nam trả tự do cho toàn bộ các phóng viên và các blogger đang bị cầm tù, và chấm dứt việc truy lùng, tấn công những đối tượng cung cấp tin tức, thông tin.

Lời kêu gọi được đưa ra trong thông cáo báo chí đề ngày 4/8/2015, ngay trước khi ông John Kerry có chuyến thăm chính thức tới Hà Nội 6-8/8 nhân dịp kỷ niệm 20 năm bình thường hoá quan hệ Mỹ – Việt.

Nhắc lại việc Việt Nam đứng thứ 175 trong tổng số 180 quốc gia thuộc Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới 2015 và một số vụ bắt bớ, bỏ tù các blogger trong thời gian gần đây, RSF cho rằng Việt Nam “vẫn là một trong những nhà tù lớn nhất đối với các phóng viên” trên thế giới.

RSF kêu gọi Hoa Kỳ hãy dùng Hiệp định Hợp tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP) như một công cụ nhằm thúc đẩy nhân quyền, quản trị công, tự do thông tin, tự do ngôn luận thay vì chỉ là biện pháp tạo mạng lưới thương mại tự do trong khu vực.

‘Vướng mắc về nghiệp đoàn độc lập’

Trước chuyến thăm của ông John Kerry, Trợ lý Ngoại trưởng chuyên trách vấn đề dân chủ, nhân quyền và lao động Tom Malinowski đã tới Thành phố Hồ Chí Minh hôm 5/8.

Theo thông tin chính thức trên trang web chính phủ Mỹ thì ông Malinowski có kế hoạch gặp gỡ các quan chức chính phủ, các lãnh đạo tôn giáo và đại diện các tổ chức xã hội dân sự.

Tuy nhiên, tin tức trên mạng xã hội nói rằng việc gặp các đại diện xã hội dân sự đã bị cản trở, với một số người bị chặn, không được ra khỏi nhà.

Một trong những người có mặt trong buổi gặp gỡ được tổ chức tại tư gia của bà Rena Bitter, Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh tối hôm 5/8, là blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người từng được giải thưởng quốc tế Công dân mạng Netizen của RSF và Google đồng trao tặng hồi 2013.

Trên trang Facebook cá nhân của mình, ông

Giới blogger ở Việt Nam nói nhiều người bị ngăn cản không thể tới dự buổi gặp gỡ với Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Tom Malinowski tại Sài gòn tối 5/8

Chênh viết: “Có lẽ do tôi chỉ là người viết báo, hiếm khi tham gia những sự kiện như thế này, an ninh không nghĩ rằng tôi cũng được mời nên không bố trí chốt chặn.”

Trong buổi tiệc tối này, ông Chênh viết: “[Ô]ng Tom Malinowski thông báo vài nội dung liên quan đến tiến triển trong quan hệ Việt – Mỹ và về đàm phán TPP… Với Việt Nam, trở ngại chính [trong thất bại đàm phán TPP] vừa rồi là vấn đề công đoàn độc lập và việc bảo vệ quyền lợi người lao động.”

Trong số những người bị chặn không tới được có bác sỹ Nguyễn Đan Quế, nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, và điều đó đã khiến “ông Tom Malinowski và bà Rena Bitter phải đích thân đến nhà riêng bác sỹ Nguyễn Đan Quế để thăm viếng từ buổi chiều trước khi vào tiệc tối”, ông Chênh viết trên Facebook.

Quan hệ Hoa Kỳ với Việt Nam đang tiến triển nhanh chóng sau chuyến thăm tới Tòa Bạch Ốc của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, ông Nguyễn Phú Trọng hồi tháng 7 vừa qua.

Ngoài các đối thoại tiếp tục về thương mại và nhân quyền, Hoa Kỳ có thái độ ủng hộ những nỗ lực phê phán Trung Quốc xây đảo nhân tạo ở Trường Sa và kế hoạch lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông mà giới chức Bắc Kinh từng có ý định thực hiện.

Hôm 6/08 các hãng tin quốc tế trích lời ông John Kerry cảnh báo rằng “Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận bất cứ nỗ lực kiểm soát hàng không và hàng hải tại Biển Nam Trung Hoa”.

Công an ngăn chận các nhà dân chủ gặp gỡ phụ tá ngoại trưởng Hoa Kỳ

T4, 08/05/2015 – 08:03

http://www.sbtn.tv/vi/tin-viet-nam/cong-ngan-chan-cac-nha-dan-chu-gap-go-phu-ta-ngoai-truong-hoa-ky.html

Vào chiều 5 tháng 8, công an thành phố Sài Gòn đã ngăn chận nhiều nhà đấu tranh đân chủ, khi những người này được mời tới tư gia bà Rena Bitter – Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn dùng bữa tối, và gặp gỡ Phụ tá ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách về dân chủ, nhân quyền và lao động.

Phụ tá ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách về dân chủ, nhân quyền và lao động Tom Malinowski.

Theo trang Việt Nam Thời Báo, chiều 4 tháng 8, với hàng chục nhân viên an ninh sắc phục và không sắc phục được bố trí canh giữ và ngăn chận tại nhà một số nhà hoạt động dân chủ như bác sĩ Nguyễn Đan Quế, giáo sư Phạm Minh Hoàng, chị Dương Thị Tân, kỹ sư Nguyễn Bắc Truyển, nhà báo Phạm Chí Dũng…

Mặc dù việc gặp gỡ người Việt Nam và mời ăn tối của một cơ quan lãnh sự như Hoa Kỳ là hết sức bình thường và không trái với pháp luật, nhưng khi được những người bị ngăn chặn chất vấn về việc tại sao bị ngăn chặn đến ăn tối tại nhà bà Rena Bitter, nhân viên an ninh chỉ thông báo: “Có lệnh của cấp trên”.

Chuyến viếng thăm Sài Gòn và gặp gỡ các tổ chức xã hội dân sự của ông Malinowski diễn ra một ngày trước khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đến Hà Nội, để bàn thảo các vấn  đề liên quan đến quan hệ Việt – Mỹ, Hiệp định TPP và những nội dung về nhân quyền mà nhà nước Việt Nam phải cam kết thực hiện, nếu muốn được Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ cho tham gia TPP.

Theo Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhận định, hành động ngăn chặn này “liên đới mật thiết với cơ quan ngoại giao của một quốc gia lớn như Hoa Kỳ đã cho thấy tương lai mịt mù về quan điểm và thực tế ‘tôn trọng nhân quyền’ của Nhà nước và ngành công an Việt Nam – những giới chức đang mong đợi các lợi ích thiết thân từ người Mỹ về hợp tác quốc phòng và bảo vệ chủ quyền, lợi ích kinh tế và cả một chuyến thăm dự định vào cuối năm 2015 của Tổng thống Barak Obama.

“Hành động ngăn chặn trên cũng chứng minh rất sống động cho tư thế độc quyền được ‘gặp Mỹ’ của giới lãnh đạo Việt Nam”, Ts Phạm Chí Dũng chia sẻ tiếp. Ts Dũng cũng nhắc lại trong chuyến đi Hoa Kỳ của ông Nguyễn Phú Trọng vừa rồi, “đã không có bất kỳ áp lực nào từ phía cảnh sát Mỹ nhằm ngăn chặn ông Trọng được gặp ông Obama tại Phòng Bầu dục và đến nhà riêng của cựu tổng thống Bill Clinton. Không khí an toàn tương tự cũng được dành cho ông Lê Thanh Hải – Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy TP.HCM – khi ông này đến ‘kết nghĩa’ ở Sacramento.”

Trên cả hai phương diện ngoại giao và văn hóa, hành động ngăn chặn trên là một sự xúc phạm lớn đối với cơ quan Tổng lãnh sự Hoa Kỳ, làm chậm đáng kể bước tiến của mối quan hệ Việt – Mỹ, đặc biệt gây ảnh hưởng lớn đến việc Việt Nam có được Quốc hội Hoa Kỳ bỏ phiếu thông qua TPP hay không vào cuối năm nay.

Thanh Lan / SBTN

Những xóm nổi 3 không giữa trung tâm Hà nội

Xóm Nổi không khác gì một đống phế liệu. Xóm Nổi tồn tại đã hơn 20 năm nay, với những những ngôi nhà phao nổi lên trên mặt nước nằm ngay dưới chân cầu Long Biên

Xóm Nổi không khác gì một đống phế liệu. Xóm Nổi tồn tại đã hơn 20 năm nay, với những những ngôi nhà phao nổi lên trên mặt nước nằm ngay dưới chân cầu Long Biên. Courtesy Kienthuc.net

Cách trung tâm Hà nội chỉ 2 cây số, có những xóm nổi trên sông Hồng, ở đây người dân đang sống trên các bè tre tạm bợ trong tình cảnh 3 không: không hộ khẩu, không điện, nước máy và trẻ em không được đến trường. Họ sống như vậy đã 30 năm nay.

Cuộc sống của những người dân ở đây ra sao và vai trò của chính quyền địa phương đối với họ thế nào?

Xóm nổi dưới cầu Long Biên

Trên sông Hồng, đọan chảy qua trung tâm Hà nội, ít ai biết rằng giữa phố xá nhộn nhịp, mua bán ồn ào, thì vẫn có những phận đời lặng lẽ để sinh tồn. Đây là những xóm nổi nằm ngay dưới chân cầu Long Biên, đã tồn tại khoảng 30 năm nay.

Dân cư ở đây rất đông đúc, họ là những người lang thang, bỏ quê quán từ nhiều nơi về đây để làm ăn sinh sống. Ở đây, người dân sống giữa sông nước, trong cảnh 3 không: không giấy tờ tùy thân, không có điện và trẻ em thì không biết chữ.

Ông Được, một cựu chiến binh là đại diện cho người dân ở xóm nổi phường Ngọc Thụy, Quận Long biên cho biết, hiện ở xóm này hiện có 28 gia đình với trên 100 nhân khẩu, hầu hết là không có giấy tờ tùy thân. Ông nói với chúng tôi:

“Tôi quê ở Quảng bình đi bộ đội mấy năm thì giải phóng, họ cho về. Song chán nản cảnh xã hội và gia đình thì bỏ nhà ra Hà nội đi lang thang, vậy thôi. Tôi sống ở bãi giữa sông Hồng 25 năm rồi. Bà con ở đây đa số là người ta đã bỏ nhà đi vài ba chục năm rồi, thành ra không ai có hộ khẩu. Ở đây đã có 3 thế hệ rồi, thế hệ này kế tiếp thế hệ kia, song việc giấy tờ hộ khẩu thì rất là khó khăn. ”

Tôi quê ở Quảng bình đi bộ đội mấy năm thì giải phóng, họ cho về. Song chán nản cảnh xã hội và gia đình thì bỏ nhà ra Hà nội đi lang thang, vậy thôi. Tôi sống ở bãi giữa sông Hồng 25 năm rồi. Bà con ở đây đa số là người ta đã bỏ nhà đi vài ba chục năm rồi, thành ra không ai có hộ khẩu

một cựu chiến binh

Chị Ngân, một người thuộc thế hệ thứ 2 sinh ra ở xóm nổi cho biết, tất cả dân ở đây đều là người tạm cư, trai gái gặp nhau thành vợ thành chồng hầu hết không có hôn thú, nên con cái sinh ra cũng chẳng có giấy khai sinh nếu như bố mẹ không có giấy tờ. Chị bày tỏ:

“Mình ở trên sông, mình làm trên những cái thùng phi rồi đóng ván lên. Các lớp tuổi như các ông, các bà thì giấy tờ thì không có gì, nhưng bọn trẻ con thì đứa có, đứa không vì tùy theo bố, theo mẹ. Trước đây thì họ có đuổi, song bây giờ thì họ không đuổi nữa. Ở đây thì mùa mưa rất vất vả, mình phải chuyển đồ lên, chuyển đồ xuống. Còn điện thì dùng bình ắc quy đi nạp ở trên phố, nước thì dùng nước giếng khoan. ”

Họa sĩ Mai Dũng một nhà hoạt động xã hội ở Hà nội, thành viên của tổ chức XHDS Cứu lấy Dân oan, một tổ chức đã nhiều lần giúp đỡ và trợ giúp cho bà con tại khu vực này nhận xét:

“Tôi nghĩ rằng cách xa trung tâm thủ đô không có bao nhiêu mà có một cuộc sống có thể nói là rất tồi tệ như vậy, tức là họ phải sống trên những cái phao làm bằng tôn, bằng thùng phuy che chắn bằng tre, gỗ sống trôi nổi trên mặt nước. Và họ không hề có giấy tờ tùy thân, vì không được chính quyền cấp bất kỳ thứ giấy tờ nào để thừa nhận sự tồn tại của họ hiện nay. Hơn thế nữa, họ không hề nhận được bất kỳ sự giúp đỡ nào từ nhà nước, theo tôi đây là điều hết sức vô lý.”

Nói về kế sinh nhai của những người ở đây, ông Được cho biết, phần lớn dân cư ở đây làm những nghề tự do, như bốc vác, gánh hàng thuê, xe ôm, thu mua đồng nát… Ông nói với chúng tôi:

Dân nơi đây có thể nói là những người nghèo nhất Hà Nội. Courtesy TCTN Phía Trước
Dân nơi đây có thể nói là những người nghèo nhất Hà Nội. Courtesy TCTN Phía Trước

“Thì ở đây mọi người họ không có công ăn việc làm ổn định, cho nên chỉ biết đi nhặt ve chai phế thải hay đi làm thuê làm mướn thôi, vì đâu có nghề nghiệp gì mà đi làm được.”

Chị Ngân tiếp lời:

“Trước thì tôi bán hàng trên cầu Long biên, nhưng nay thì trên cầu Long biên họ đuổi không cho bán, thì mọi người cũng không biết làm gì để có tiền mua bán các thứ. Nay thì trời thì mưa gió như thế này, nếu như trời không mưa thì mình có thể đi nhặt giấy (để bán), nhưng nay trời mưa thì giấy ướt mình không đi được.”

Không quan tâm hay không biết?

Điều mà người dân ở đây lo lắng nhất là trẻ em không được đi học, nói về lý do các cháu nhỏ không được đến trường, ông Được ghi nhận:

“Chúng tôi bữa no, bữa đói nên thiệt thòi nhất là các cháu vì bây giờ không có điều kiện cho các cháu ăn học. Vì các thế hệ ở đây lớn lên khi gặp nhau thì lấy nhau, rồi ăn ở với nhau nên pháp luật chẳng công nhận, các cháu thì phải theo mẹ hay bố để có giấy khai sinh để đi học nên rất thiệt thòi. Mặt khác, mỗi tháng cũng 5-6 triệu tiền học, trong khi ăn chưa no thì nói chuyện học cũng vất vả đấy.”

Cho dù cuộc sống của người dân gặp muôn vàn khó khăn như vậy, song hầu như các cấp chính quyền địa phương đã không quan tâm đến họ. Ông Được khẳng định:

“Cuộc sống trên phao nổi như thế này nói chung là thì được bữa nào biết bữa đấy thôi, bây giờ về quản lý thì họ (nhà nước) cũng chỉ quản lý về an ninh trật tự thôi. Chứ còn về cuộc sống và quyền lợi của dân thì họ chẳng quan tâm đâu. Khi cần việc gì mà mình đi xin thưa như giấy tờ cho các cháu được học hành thì một số người họ nhận, một số người họ không nhận, khó khăn lắm bác ạ.”

Điều đó cũng nói lên rằng là, nhà nước họ không muốn nhìn nhận, không quan tâm đến những người dân, bởi vì ngay ở trung tâm thủ đô không xa, mà thông tin thì có lẽ họ có biết trong khi trên thế giới họ đều biết và đã giúp đỡ, mà nhà nước tỏ ra không thèm biết

Họa sĩ Mai Dũng

Chúng tôi đã liên lạc với ông Thẩm Bá Phước, Chủ tịch kiêm người phát ngôn chính thức của UBND phường Ngọc Thụy, Quận Long biên để hỏi về vấn đề này, thì ông Phước đã từ chối trả lời.

Trước đây đã có các tổ chức quốc tế cũng như các hội đoàn, cá nhân đã đến thăm và làm từ thiện cho xóm nổi này, đó là các công trình giếng khoan và sân chơi cho trẻ nhỏ, cũng như tặng quà cho người dân. Họa sĩ Mai Dũng đánh giá:

“Điều đó cũng nói lên rằng là, nhà nước họ không muốn nhìn nhận, không quan tâm đến những người dân, bởi vì ngay ở trung tâm thủ đô không xa, mà thông tin thì có lẽ họ có biết trong khi trên thế giới họ đều biết và đã giúp đỡ, mà nhà nước tỏ ra không thèm biết. Không thể nói lý do là không có kênh để đối thoại, tôi nghĩ rằng ở bất cứ địa phương nào cũng có đều có những người đại diện của chính quyền. Theo tôi đây là sự thiếu vắng của tình cảm con người cũng như sự quan tâm của lãnh đạo nhà nước đối với người dân của mình.”

Những người dân ở xóm nổi này cũng có những mơ ước nhỏ nhoi, song theo họ đó chỉ là giấc mơ mà sẽ không bao giờ có được. Chị Ngân bày tỏ:

“Trong tương lai thì mọi người ai cũng ước có một chỗ để có thể đi về, nhưng như bây giờ thì chắc chẳng bao giờ có được. Tất cả những người ở đây ai cũng có quê quán, nhưng ở đó cũng chẳng có nhà, có đất nên muốn về cũng không thể về được. Cho nên mọi mong ước để được lên bờ là xa vời lắm.”

Tương tự như xóm nổi ở Ngọc Thụy này, bây giờ ở giữa trung tâm thủ đô Hà nội những cái tên như Phúc Xá, An Xá, Phú Thượng, Bãi giữa… là tên gọi quen thuộc của những xóm nổi, nơi cư ngụ của những người lang thang, không giấy tờ tùy thân. Họ tồn tại trong tình cảnh như thể bị chính quyền đã quay lưng bỏ mặc và không quan tâm.

Hy vọng và lo ngại của công đoàn độc lập

Kính Hòa, phóng viên RFA. 2015-08-05

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/hope-n-fear-of-inde-union-08052015100608.html

Bài Công đoàn là của ai đăng trên Thời báo kinh tế Sài gòn ngày 24 tháng 7, 2015

Bài Công đoàn là của ai đăng trên Thời báo kinh tế Sài gòn ngày 24 tháng 7, 2015

Screenshot

/audio>Những bàn luận ngày càng công khai hơn về hoạt động của công đoàn tại Việt nam gây nhiều chú ý cho những nhà hoạt động cổ vũ cho những tổ chức công đoàn thực sự đại diện cho quyền lợi của người lao động Việt nam. Trong số những bàn luận đó có bài báo trên tờ Thời báo kinh tế Sài gòn mang tựa đề Công đoàn là của ai, được đăng tải vào ngày 24/7. Trong bài báo này một số cựu quan chức cao cấp của nhà nước Việt nam cũng lên tiếng cho rằng tổ chức công đoàn do nhà nước kiểm soát hiện nay không thực sự đại diện cho quyền lợi của người công nhân.

Ông Trần Ngọc Thành, một trong những sáng lập viên của phong trào Lao động Việt, một tổ chức nghiệp đoàn tự do, dành cho Kính Hòa một cuộc phỏng vấn nói về triển vọng của nghiệp đoàn độc lập tại Việt nam cũng như là những lo ngại của ông.

Đầu tiên ông nhận xét về bài báo Công đoàn là của ai.

Ông Trần Ngọc Thành: Tôi nghĩ rằng cái bài báo đó là nằm trong xu hướng cởi mở của nhà cầm quyền. Trong này có nhận định của một số quan chức cũ, trước đây họ ở trong hệ thống, bây giờ có thể họ nghỉ hưu. Nhưng trong thời điểm gần đây tôi nghĩ những nhận định của họ tôi thấy là đúng. Nhưng vấn đề là những người đương quyền hiện nay có nhận ra được vấn đề đó hay không lại là một vấn đề khác.

Kính Hòa: Nếu một ngày không xa có sự cho phép thành lập công đoàn độc lập thì theo ông có sự trở ngại nào không?

Khi mà có công đoàn độc lập và những người đại diện cho công nhân thương lượng trực tiếp với giới chủ thì tôi nghĩ là các mâu thuẫn sẽ được hóa giải chứ không phải như là khi người công nhân không có người đại diện của mình

Ông Trần Ngọc Thành

Ông Trần Ngọc Thành: Tôi nghĩ rằng là nếu một ngày không xa ở Việt nam cho phép công đoàn độc lập thì cái trở ngại chính là nhận thức của người công nhân về công đoàn độc lập không đồng đều. Ở một số nơi như các thành phố đã được tác động của một số anh em để hiểu rõ công đoàn độc lập là gì, thì ở đó có thuận lợi, ví dụ như Hà nội, hay Sài gòn. Nhưng ở một số nơi khác người công nhân từ trước tới nay không hiểu công đoàn độc lập là gì thì tôi nghĩ là có khó khăn, và những nơi đó có thể bị các tổ chức của công đoàn nhà nước hiện nay họ lợi dụng và làm cho biến dạng.

Kính Hòa: Thưa ông mối lo ngại của những người cộng sản từ trước đến nay về việc thành lập các nghiệp đoàn độc lập là gì?

Ông Trần Ngọc Thành: Từ trước đến nay người cộng sản họ lo ngại các tổ chức hay các cơ sở nằm ngoài tầm kiểm soát của họ thì coi như họ không điều khiển được. Và họ nghĩ rằng tất cả các tổ chức của họ, ngoài các tổ chức chính trị thì phải nằm trong Mặt trận tổ quốc Việt nam. Hiện nay nếu công đoàn độc lập thành lập thì sẽ không nằm trong Mặt trận tổ quốc Việt nam thì họ sẽ không điều khiển hay khống chế các tổ chức này.

Ông Trần Ngọc Thành một trong những người thành lập Liên đoàn lao động Việt trong ngày Đại Hội Kỳ I của Liên Đoàn Lao Động Việt tại Bangkok 2014
Ông Trần Ngọc Thành một trong những người thành lập Liên đoàn lao động Việt trong ngày Đại Hội Kỳ I của Liên Đoàn Lao Động Việt tại Bangkok 2014

Kính Hòa: Thưa ông cũng có suy nghĩ cho rằng nếu có công đoàn độc lập thì công đoàn sẽ thường xuyên lãnh đạo công nhân đối kháng với giới chủ, thậm chí đối kháng với các chính sách xã hội của chính quyền, như thế sẽ gây bất ổn xã hội. Ông nhìn điều đó như thế nào?

Ông Trần Ngọc Thành: Những suy đoán, những nỗi sợ đó tôi nghĩ là không đúng. Khi người công nhân thành lập được công đoàn độc lập, thì cái thứ nhất người công nhân biết rõ rằng những người đại diện cho họ biết rõ luật pháp. Thứ hai nữa là họ biết có những cuộc đình công bảo vệ được quyền lợi công nhân, có những cuộc có thể gây bất ổn, hay là không mang lại lợi ích cho người công nhân. Do đó khi mà có công đoàn độc lập và những người đại diện cho công nhân thương lượng trực tiếp với giới chủ thì tôi nghĩ là các mâu thuẫn sẽ được hóa giải chứ không phải như là khi người công nhân không có người đại diện của mình. Chúng ta thấy ở các nước tư bản, các nước phát triển vai trò của ba bên là nhà nước, người lao động và giới chủ có thể thực hiện được chứ không phải như Việt nam. Ở Việt nam chỉ có giới chủ và nhà nước, mà vai trò được thực hiện qua Tổng liên đoàn lao động Việt nam. Tôi nghĩ là khi có công đoàn độc lập thì vai trò của người công nhân trong ba bên này được tôn trọng thì sẽ không xảy ra bất ổn xã hội hay các cuộc đình công.

Vai trò của người lao động luôn luôn quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Khi một nền kinh tế chậm phát triển hay kỹ thuật kém như hiện nay thì vai trò của công đoàn sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, khi người công nhân được đại diện các vấn đề xã hội cũng như tất cả các vấn đề đời sống của mình

Ông Trần Ngọc Thành

Kính Hòa: Vai trò của công đoàn độc lập là như thế nào đối với sự thịnh vượng của một quốc gia?

Ông Trần Ngọc Thành: Vai trò của người lao động luôn luôn quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Khi một nền kinh tế chậm phát triển hay kỹ thuật kém như hiện nay thì vai trò của công đoàn sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, khi người công nhân được đại diện các vấn đề xã hội cũng như tất cả các vấn đề đời sống của mình.

Kính Hòa: Thưa ông xin ông cho câu hỏi cuối cùng là trong bài báo trên tờ kinh tế Sài gòn có nói đến việc Tổng công đoàn đã đổi tên, thì liệu có như một số lo ngại cho rằng đảng cộng sản sẽ đưa ra các tổ chức giả danh như là họ đã làm với cá tổ chức phi chính phủ để thực sự họ vẫn nắm quyền chi phối?

Ông Trần Ngọc Thành: Đây thực sự là một lo ngại chính vì từ trước đến nay bản thân những người cầm quyền họ luôn luôn lắt léo trong đàm phán rồi sau đó thực hiện khác đi. Khi mà theo dõi các biến chuyển của Việt nam, ví dụ như khi họ gia nhập WTO thì những cam kết của WTO là cũng là tạo điều kiện cho người lao động. Hay chúng ta thấy khi mà đưa đơn vào tổ chức lao động thế giới ILO thì chắc là họ cũng hứa về cái vai trò của nghiệp đoàn. Hay là khi nộp đơn vào Ủy ban nhân quyền của Liên Hiệp quốc thì họ cũng cam kết về nhân quyền.

Tôi lo đây là sự biến tướng khi gia nhập TPP. Họ sẽ chuyển Tổng liên đoàn lao động Việt nam thành một tên khác nhưng ảnh hưởng của đảng cộng sản hay giới cầm quyền vẫn như cũ chứ không có gì thay đổi.

Tất nhiên khi có luật pháp cho rằng công đoàn độc lập được phép hoạt động tự do tại Việt nam thì những cuộc đấu tranh của công nhân Việt nam để giành quyền tự quyết của mình nó sẽ dduwwojc thuận lợi hơn thưa anh.

Kính Hòa: Xin cám ơn ông.

Ý thức hệ và lợi ích quốc gia – Bên nào trọng bên nào khinh?

Ông Ted Osius, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam trong cuộc gặp gỡ với cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở Little Saigon hôm Chủ Nhật, 12 Tháng Bảy, 2015

Ông Ted Osius, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam trong cuộc gặp gỡ với cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở Little Saigon hôm Chủ Nhật, 12 Tháng Bảy, 2015.  Photo Ngọc Lan, RFA
Trong buổi gặp gỡ cộng đồng người Việt tại Little Sài Gòn, thủ phủ của người Việt tỵ nạn ở Hoa Kỳ, ông Ted Osius, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nhận được câu hỏi rằng liệu nước Mỹ sẽ có chính sách gì để thay đổi hệ thống chính trị, chính quyền tại Việt Nam? Câu trả lời của ông là: “Điều này không phải là chính sách của nước Mỹ.”

Ý thức hệ

Trong  cuộc họp với báo giới Hà Nội về chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, một lần nữa ông Ted Osius, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nhắc lại rằng nước Mỹ không có chính sách muốn can thiệp và thay đổi hệ thống chính trị của bất cứ quốc gia nào.

Lời phát biểu của ông Đại sứ diễn ra sau chuyến đi được cho là lịch sử của người đứng đầu Đảng Cộng sản nhà nước Việt Nam và lời hứa đến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Barrack Obama.

Tiếp theo ngay sau đó là chuyến viếng thăm của phu nhân phó tổng thống Hoa kỳ Joe Biden và sắp đến, là chuyến đi của ngoại trưởng ngoại giao John Kerry và bà Thẩm phán Toà tối cao Mỹ Ruth Bader Ginsburg trong tháng Tám.

Tất cả những chuyến đi hữu nghị này diễn ra trong thời điểm đánh dấu 20 năm bình thường hoá quan hệ Mỹ-Việt. Trong lịch sử quan hệ ngoại giao quốc tế, đã có rất nhiều chuyến công du giữa một quốc gia lấy chủ nghĩa cộng sản làm thể chế chính trị và đường hướng phát triển, với một đất nước tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, với Việt Nam, một quốc gia từng là cựu thù với Hoa Kỳ, đã và đang chọn con đường chủ nghĩa Marx làm nền tảng xây dựng đất nước từ 40 năm qua thì không những là “lịch sử” theo tính chất của sự việc, mà điều này còn được cho là một “sự thay đổi.”

Đặc biệt là sự thay đổi này trong bối cảnh hiện tại về tình hình biển Đông và những hành động gây hấn khác của người láng giềng Trung Quốc. Giáo sư Tạ Văn Tài, giảng dạy môn Luật quốc tế tại Đại học Havard xác nhận về ‘sự thay đổi’ này:

Tôi thấy rõ ràng là nước Việt Nam, chính phủ Việt Nam và Đảng Việt Nam muốn xích lại gần Mỹ. Cái đó không thể phủ nhận là không có. Vì sao vụ giàn khoan, cả nước Việt Nam rất bực tức, không có ai dám công khai thân Trung Quốc. Vì thế trong chính trị bộ, đã có 4,5,6 người sang Mỹ trước ông Trọng

Giáo sư Tạ Văn Tài

“Tôi thấy rõ ràng là nước Việt Nam, chính phủ Việt Nam và Đảng Việt Nam muốn xích lại gần Mỹ. Cái đó không thể phủ nhận là không có. Vì sao vụ giàn khoan, cả nước Việt Nam rất bực tức, không có ai dám công khai thân Trung Quốc. Vì thế trong chính trị bộ, đã có 4,5,6 người sang Mỹ trước ông Trọng.”

Quyền lợi quốc gia

Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có khẳng định hữu nghị và hợp tác là hướng đi duy nhất đúng của quan hệ song phương Việt Nam Hoa Kỳ, phù hợp với lợi ích của nhân dân của hai nước, của khu vực và trên thế giới. Ông cũng nhấn mạnh trong lời phát biểu rằng Hoa Kỳ và Việt Nam có sự khác biệt, tuy nhiên không nói rõ đó là khác biệt gì.

Tổng thống Barrack Obama đã đón tiếp tù nhân chính trị Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tại phòng Bầu dục, trước chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
Tổng thống Barrack Obama đã đón tiếp tù nhân chính trị Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tại phòng Bầu dục, trước chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

“ Điểm khác biệt giữa hai đất nước là thực tế khách quan, là tất yếu cho 1thế giới đa dạng mà trong đó các dân tộc có quyền tìm kiếm lựa chọn con đường phát triển của riêng mình.”

Trong bài phóng sự “Phong trào dân chủ đứng giữa Đảng Cộng sản và nước Mỹ” của Kính Hoà, Đài Á Châu Tự Do có nêu lên ý kiến của học giả về quan hệ quốc tế Vũ Hồng Lâm rằng: “Hiện nay Hoa Kỳ cần Việt Nam trong bước đi chiến lược của họ cho nên họ có thể làm ngơ trước những vi phạm tự do và nhân quyền tại Việt Nam.” Thế nhưng vị học giả này cũng hy vọng ở một tầm mức nào đó, sẽ có những cải cách chính sách, và quan hệ Việt Mỹ ấm hơn sau chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đến Washington.

Cũng nói về thái độ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, giáo sư Tạ Văn Tài nhận định ở góc độ chuyên môn:

“Khi nước Mỹ công nhận ngoại giao một nước thì không có chủ trương lật đổ chế độ đó nữa đâu.”

Lời của giáo sư Tạ Văn Tài dựa theo điều khoản của luật pháp Mỹ nêu rõ trong Neutrality Acts, đạo luật thông qua bởi Quốc hội Mỹ năm 1930s, đó là không lật đổ chế độ nào mà họ đã có sự bang giao.

Có nghĩa rằng, từ khi Mỹ tuyên bố ban giao với Việt Nam năm 1995 thì đồng nghĩa với việc Hoa Kỳ sẽ không can thiệp, lật đổ hoặc thay đổi thể chế chính trị của Việt Nam.

Khi nước Mỹ công nhận ngoại giao một nước thì không có chủ trương lật đổ chế độ đó nữa đâu

Giáo sư Tạ Văn Tài

Nói về những ý kiến của cộng đồng người Việt hải ngoại nhiều năm qua về việc thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam, giáo sư Tài khẳng định:

“Đấy là vấn đề nội bộ giữa cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại và ở trong nước. Nước Mỹ không có nhiệm vụ, không muốn công khai chủ trương thay đổi. Hiện nay vẫn là Đảng cầm quyền theo nghĩa dân chủ mà họ hiểu.”

Cũng có quan điểm như thế, học giả Vũ Hồng Lâm nói theo một góc độ khác:

“Cái chuyện tự do dân chủ nhân quyền là chuyện muôn thuở đối với ngoại giao của nước Mỹ. Vì chính quyền Mỹ còn phải nói đến tiếng nói của nhân dân. Thứ hai nữa là bản ngã của nước Mỹ, hay Việt Nam dùng từ là bản sắc của nước Mỹ là người đấu tranh cho tự do, nhân quyền thì cái đó không thể nào mất đi được. Cho nên luôn luôn vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền nằm trong nghị sự làm việc giữa Mỹ và Việt Nam.”

Thế nhưng, bên cạnh đó, thực hiện theo điều luật của Neutrality Acts không có nghĩa rằng Hoa Kỳ không quan tâm đến tình trạng dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Một chứng minh cụ thể rằng đã có những cuộc gặp gỡ giữa Quốc hội Hoa Kỳ và các nhà đấu tranh dân chủ trong nước.

Trong đó, sự kiện nổi bật nhất là Tổng thống Barrack Obama đã đón tiếp tù nhân chính trị Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tại phòng Bầu dục, trước chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

“Vì thế vẫn có tiếp tục những áp lực hay đối thoại, ít nhất là đối thoại về cải tổ nhân quyền. Điều đó vẫn xảy ra và tiếp tục xảy ra.”

Xin mượn nhận định của Tiến sĩ Hà Sĩ Phu trong lần trả lời phỏng vấn của Đài Á Châu Tự do để nói lên tầm quan trọng của một ý thức hệ và quyền lợi quốc gia, ông nói rằng mặc dù Hoa Kỳ luôn thể hiện đường lối cân bằng trong việc chống Trung Quốc, và xem biển Đông là ưu tiên số 1, dân chủ nhân quyền là quan tâm thứ 2, nhưng về lâu dài, mối quan hệ với Hoa Kỳ vẫn chắc chắn sẽ tốt hơn cho vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.

Dự luật tổ chức chính phủ: phe đảng hay cải cách

Các nhà lãnh đạo Việt Nam. Từ trái qua: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rời khỏi lăng cố chủ tịch Hồ Chí Minh hôm 20/10/2014.

Các nhà lãnh đạo Việt Nam. Từ trái qua: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, rời khỏi lăng cố chủ tịch Hồ Chí Minh hôm 20/10/2014. AFP

<Quốc hội Việt Nam thảo luận dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ với nhiều tranh cãi về quyền và trách nhiệm của Thủ tướng. Liệu những cải cách về tổ chức chính phủ có giúp ích gì cho tiến trình dân chủ hay chỉ thể hiện những tranh chấp nội bộ.

Trong phiên thảo luận toàn thể tại Hội trường ngày 1/6/2015, nhiều đại biểu quốc hội cho rằng Thủ tướng Việt Nam có nhiều quyền hạn nhưng trách nhiệm thì rất nhỏ, ngắn gọn là Thủ tướng chỉ phải báo cáo công tác trước Quốc hội. Đại biểu Nguyễn Bá Thuyền được báo mạng Dân Trí trích lời nói rằng trách nhiệm nhỏ như vậy thì ông cũng làm Thủ tướng được.

Quyền của thủ tướng

Nhà phản biện xã hội dân sự độc lập TS Phạm Chí Dũng từ Saigon cho rằng, những tranh cãi liên quan tới Dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ chỉ là một cuộc đấu tranh giữa các phe nhóm nội bộ. Bên Quốc hội không muốn Chính phủ có nhiều quyền, ngược lại bên Chính phủ đòi nhiều quyền hơn, đặc biệt là quyền của Thủ tướng. Vừa rồi Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thống nhất chỉ bổ sung hai quyền của Thủ tướng thôi, là quyền giao quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong trường hợp khuyết nhân sự khi chờ Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm; kế đó là quyền tạm thời giao quyền Chủ tịch UBND tỉnh trong trường hợp chưa bầu chức danh này. TS Phạm Chí Dũng cho rằng hai quyền này không quan trọng, ít xảy ra trong thực tế trong khi hai quyền quan trọng mà bên Chính phủ mong muốn đã bị loại bỏ. Hai quyền này liên quan vấn đề tổng động viên, quyền xét duyệt soát xét giới thiệu bầu cử ở địa phương thì Thủ tướng không được quyền đó. TS Phạm Chí Dũng nhấn mạnh:

“Nếu muốn liên quan tới tiến trình dân chủ, thì trong thực tế đương nhiên ông thủ tướng phải có quyền bổ sung, xét duyệt về mặt nhân sự được quyền cách chức những nhân sự đầu ngành mà thủ tướng thấy làm việc không được. Đó là phương pháp làm việc ở các nước phát triển, các nước tư bản. Nhưng ở Việt Nam qui định của Ban Bí thư là cấp ủy viên trung ương Đảng trở lên là do Ban Bí thư quản lý. Ngoài ra còn những qui định khác, cán bộ trung cao ở chừng mực nào đó cũng do trung ương quản lý. Thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, hai ông từng phải kêu là thủ tướng thực ra không có quyền hành gì cả không cách chức được ai. Nếu muốn có tiến trình thực sự dân chủ hóa thì không những phải tam quyền phân lập, mà còn phải đẩy mạnh quyền hành của bên hành pháp và để bên hành pháp vừa chịu trách nhiệm về công việc của mình, đồng thời cũng có thẩm quyền nhất định trong sắp xếp nhân sự.”

Nếu muốn liên quan tới tiến trình dân chủ, thì trong thực tế đương nhiên ông thủ tướng phải có quyền bổ sung, xét duyệt về mặt nhân sự được quyền cách chức những nhân sự đầu ngành mà thủ tướng thấy làm việc không được. Đó là phương pháp làm việc ở các nước phát triển, các nước tư bản

TS Phạm Chí Dũng

Chúng tôi nêu câu hỏi với TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ở Hà Nội đã tự giải thể, là trong thể chế chính trị hiện tại, Việt Nam có cần một Thủ tướng mạnh và có nhiều thực quyền hay không. TS Nguyễn Quang A nhận định rằng,

 

“ Tôi nghĩ rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào thì một người giữ trọng trách như thế cũng phải qui định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm. Càng qui định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay, một ông Thủ tướng cũng lại do Đảng chỉ định ra, thì cuối cùng tất cả những cái đó chỉ mang tính hình thức thôi. Nhiều khi người ta lại đổ cho là làm theo lệnh của Đảng. Ngược với một nửa câu trả lời ở phần trước của tôi, thì cái đó không có ý nghĩa lắm và nó chỉ có ý nghĩa chừng nào những trách nhiệm đó được qui định rõ ràng và người dân thực sự có một quyền để kiểm soát, để thấy rằng ông không làm được chuyện đấy thì lần sau chúng tôi không bầu cho ông nữa. Nói cách khác nghĩa là dân có quyền đuổi người đó. Chỉ trong trường hợp như thế thì nó mới có đầy đủ ý nghĩa mà thôi.

Ngược dòng thời gian, vào ngày 14/11/2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi trả lời chất vấn trước Quốc hội đã bác bỏ vấn đề từ chức vì trách nhiệm khủng hoảng kinh tế tài chính, thất thoát 84.000 tỷ đồng và sự sụp đổ của Tập đoàn Vinashin. Lúc đó ông Nguyễn Tấn Dũng đã biện giải, chức vụ thủ tướng của ông là do Đảng phân công mà Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn có một phát biểu gây chú ý khi ông nói, suốt cuộc đời theo Đảng, ông “không chạy, không xin, không từ chối bất kỳ nhiệm vụ nào Đảng giao cho”.

Trách nhiệm của thủ tướng

Theo các nhà phân tích chính trị, Việt Nam theo chế độ gọi là tập trung dân chủ với trách nhiệm tập thể và gần đây đặt vấn đề nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tuy vậy vấn đề trách nhiệm của người đứng đầu sự thể hiện vẫn quá mờ nhạt.

TS Phạm Chí Dũng nhận định:

Thực tế trong 8 năm cầm quyền của ông Nguyễn Tấn Dũng, nền kinh tế, xã hội Việt nam gần như tan hoang và điều đó phản ánh rằng cái cơ chế không chỉ với thủ tướng và rất nhiều các quan chức đầu ngành khác không có chịu trách nhiệm gì cả

TS Phạm Chí Dũng

“ Thực tế trong 8 năm cầm quyền của ông Nguyễn Tấn Dũng, nền kinh tế, xã hội Việt nam gần như tan hoang và điều đó phản ánh rằng cái cơ chế không chỉ với thủ tướng và rất nhiều các quan chức đầu ngành khác không có chịu trách nhiệm gì cả. Mỗi khi xảy ra sự cố lại trám chỗ này bít chỗ kia hoặc là đánh bùn sang ao. Minh chứng điển hình trong quản lý điều hành kinh tế như những vụ Vinashin, Vinalines và sắp tới đây sẽ là những vụ ngân hàng lớn. Tôi cho rằng nếu không ràng buộc trách nhiệm thật cụ thể thật chi tiết và cả về mặt chế tài đối với quan chức cấp cao từ Thủ tướng trở xuống thì công tác điều hành của chính phủ vẫn luôn mãi đi vào lối mòn và yếu kém và tình trạng tham nhũng, bội chi, chi tiêu hoang phí …tất cả những cái đó sẽ càng ngày càng lớn không thể dừng lại được.”

Phải chăng thể chế chính trị một đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo tại Việt Nam là nguyên nhân của tình trạng trách nhiệm tập thể mà suy cho cùng là không có ai chịu trách nhiệm. TS Nguyễn Quang A nhận định:

“Đấy là một cái đặc trưng chung của tất cả các chế độ độc tài hay là độc đoán hay là chuyên quyền. Bởi vì ý chí của người nắm quyền rất là thất thường và người ta coi ý chí của mình trong trường hợp này lá ý chí tập thể pháp luật và chính như thế cái gốc của nó ở đó khó mà có thể gọi là rạch ròi được; bởi vì nếu có rạch ròi thì lúc đó họ khó có thể làm việc được…nhưng họ vẫn làm việc được bởi vì họ không chịu trách nhiệm và họ không có trách nhiệm giải trình với dân…họ chỉ chịu trách nhiệm với chính họ mà thực chất là để sát phạt lẫn nhau.”

Nhà nước Việt Nam từng nói tới cải cách thể chế cả về chính trị lẫn kinh tế để giúp đất nước bứt phá thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài. Nhưng theo các nhà phân tích, có lẽ cốt lõi của vấn đề không thể cải cách hiệu quả lại chính nằm ở chỗ Hiến pháp qui định Đảng Cộng sản là người lãnh đạo toàn diện đất nước.

 

Nhân Quyền và Phát Triển của Việt Nam trong Bang Giao Việt-Mỹ

Trần Phan. 02.08.2015, VOA.

http://www.voatiengviet.com/content/nhan-quyen-va-phat-trien-cua-vietam-trong-bang-giao-viet-my/2895558.html

Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đón sự tiếp trọng thị của chính quyền Mỹ được xem là một cột mốc trong tiến trình chuyển trục của Việt Nam.
Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đón sự tiếp trọng thị của chính quyền Mỹ được xem là một cột mốc trong tiến trình chuyển trục của Việt Nam.
 Ý đồ của Trung Quốc xâm lấn biển đảo Việt Nam và độc chiếm con đường hàng hải quốc tế đi qua Biển Đông có hệ quả đương nhiên là đẩy chính sách ngoại giao của Việt Nam dần dần xa hơn với Trung Quốc và gần hơn với Mỹ, Nhật… Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đón sự tiếp trọng thị của chính quyền Mỹ được xem là một cột mốc trong tiến trình chuyển trục của Việt Nam.

Chuyến thăm này liên quan tới nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng… Các nhà hoạt động xã hội yêu cầu nhân quyền phải được tôn trọng và thực thi tại Việt Nam như là một điều kiện cho việc nâng cấp quan hệ Mỹ – Việt. Thậm chí có những người trông đợi Mỹ sẽ gây áp lực buộc Việt Nam tuân thủ các qui định về nhân quyền.

Chính quyền Mỹ có sẽ can thiệp vào tình trạng nhân quyền của Việt Nam hay không?

Câu trả lời của người viết là KHÔNG.

Vẫn có các báo cáo nhân quyền hàng năm để phân loại các quốc gia. Nhưng các báo cáo này góp phần không quan trọng vào chính sách ngoại giao của Mỹ so với các nhu cầu về an ninh, kinh tế, chính trị… của quốc gia. Ngay cả khi Việt Nam bị xếp hạng vi phạm nhân quyền thì chính quyền Mỹ cũng KHÔNG can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Nhân quyền của người dân Việt Nam phải do dân chúng Việt Nam đòi hỏi và tranh đấu.

Cho nên, liên quan tới đề tài này, thay vì đặt câu hỏi Mỹ sẽ làm gì để ủng hộ nhân quyền cho Việt Nam, tác giả sẽ đặt vấn đề như sau:

Dân chúng Việt Nam sẽ dùng mối quan hệ Việt – Mỹ đang ngày càng phát triển để đòi hỏi, tranh đấu cho nhân quyền của mình như thế nào?

Để nhận định về đề tài này, trước hết người viết xin xem xét mục tiêu của quan hệ Mỹ – Việt và đặt vị trí của nhân quyền trong mối liên quan với các mặt khác của xã hội phát triển hiện đại.

Mục tiêu chính của quan hệ Mỹ – Việt hiện nay

Mục tiêu chính của quan hệ Mỹ – Việt là chống Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. Để đạt mục tiêu này, Việt Nam phải mạnh về kinh tế và quân sự. Cho nên quan hệ Mỹ – Việt trước hết là quan hệ về kinh tế và quân sự. Mỹ và đồng minh sẽ ủng hộ Việt Nam xây dựng một nền kinh tế vững vàng và tự chủ hơn, cũng như xây dựng một nền quốc phòng đủ mạnh để bảo vệ độc lập và chủ quyền.

Các Yêu Cầu Cho Một Nước Việt Nam Phát Triển

Thời đại hiện nay là thời đại của nền kinh tế dựa trên khoa học và tri thức, với tất cả các mối liên hệ đan xen của các ngành kinh tế, của các nước cạnh tranh và hợp tác, hội nhập với nhau. Để nền kinh tế một nước phát triển vững vàng và tự chủ, xã hội nước đó phải cởi mở, đa chiều, đa cực, giảm tính nhà nước cai trị và tăng tính dân sự. Cụ thể là phải có cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thành phần kinh tế nhà nước ngày càng lui bước nhường chỗ cho thành phần kinh tế dân doanh ngày càng lớn mạnh, phải có công đoàn độc lập phi nhà nước…

Các đòi hỏi nói trên không phải là đòi hỏi của Mỹ đối với Việt Nam, mà chính là đòi hỏi của nhu cầu hội nhập và phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam.

Đảng Cộng Sản Việt Nam hiển nhiên không muốn mất thế độc quyền độc đảng trên đất nước này. Tuy nhiên các biến chuyển thời cuộc đang tạo áp lực cực lớn lên đảng từ nhiều hướng:

a) Trung Quốc đã chứng tỏ là kẻ hung hăng lấn chiếm. Nước này cũng đã cho thấy các bất cập trong phát triển kinh tế bền vững, cũng như trong quản lý chính trị và xã hội.

b) Các vấn đề nội trị của đất nước đang bộc lộ suy thoái trên nhiều mặt: tham nhũng, lợi ích nhóm, dân chúng mất các quyền tự do căn bản và bị bốc lột tàn tệ, đạo đức xã hội và phong hóa suy đồi…

c) Nền kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc, và càng thấp kém so với lân bang.

d) Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao cùng với các sự thật về chính quyền ngày càng được phơi bày, do đó dân chúng có các đòi hỏi ngày càng mạnh mẽ hơn và càng cao hơn về trình độ của chính quyền.

Đáp Ứng Các Yêu Cầu Về Phát Triển Có Ích Lợi Cho Ai?

Việc đáp ứng các đòi hỏi về phát triển bền vững cho đất nước sẽ mang lại ích lợi cho dân chúng Việt Nam. Nhưng đồng thời cũng sẽ làm giảm bớt áp lực trên đảng CSVN. Như vậy việc này mang lại lợi ích vừa cho dân chúng vừa cho cả chính quyền.

Các đòi hỏi cho sự phát triển đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới nhân quyền. Thực vậy, Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới Về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc nêu rõ Nhân Quyền chính là nền tảng của Tự Do, Công Bằng và Hòa Bình trên thế giới (1). Và, một dân tộc mất tự do, không có bình đẳng không thể phát triển kinh tế giàu mạnh và tự chủ vốn chỉ có thể được tạo nên bởi những con người tự do trong một xã hội công bằng không có chiến tranh. Do đó, vấn đề nhân quyền của Việt Nam không chỉ là nhân quyền, mà là tương lai phát triển của dân tộc.

Dân chúng Việt Nam có thể tranh đấu và hợp tác với đảng CSVN, với nhà cầm quyền xây dựng xã hội theo hướng ngày càng thỏa mãn các đòi hỏi phát triển đất nước đã nêu trên, trong đó bao hàm đòi hỏi về nhân quyền. Chắc có độc giả sẽ nói mong muốn hợp tác với đảng CSVN là mộng mơ, bởi kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy đảng chỉ muốn độc quyền thống trị chớ không muốn hợp tác. Người viết thì nghĩ rằng trong hoàn cảnh “bí lối” như hiện nay, có nhiều khả năng đảng CSVN sẽ chấp nhận hợp tác với dân chúng để tìm lối thoát. Bởi vì một mình đảng thì không làm được. Hơn nữa, một số lượng không ít đảng viên đã bị thuyết phục rằng dân chúng có tự do sẽ mang lại lợi ích cho đất nước. Đảng chắc cũng biết lời cảnh cáo: “Nhân quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại chế độ cường quyền và áp bức” (2)

Kịch Bản Gì Có Thể Xảy Ra?

Vậy thì, một cách khả thi nhất, dân chúng có thể đặt cho nhà cầm quyền các yêu cầu gì?

Các yêu cầu đầu tiên nhằm xây dựng môi trường kinh doanh thông thoáng, thân thiện và hỗ trợ mà trong đó người ta có thể kinh doanh có hiệu quả hơn.

Tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việc này đương nhiên dẫn tới thu hẹp phạm vi độc quyền hay ưu tiên dành cho thành phần kinh tế quốc doanh và mở rộng quyền tự do dân doanh.

Giảm các thủ tục quản lí hành chánh của chính quyền đối với hoạt động kinh doanh. Các thủ tục hải quan, thuế… sẽ dần dần được giảm bớt và minh bạch hơn.

Giảm bớt vai trò, sự hiện diện của tổ chức đảng, đoàn… trong công ty dân doanh.

Công đoàn phi nhà nước, do chính người lao động lập ra, sẽ được phép thành lập và hoạt động.

Khi môi trường kinh doanh lành mạnh và năng động hơn, giàu có hơn, xã hội sẽ có nhu cầu, và cũng có điều kiện kinh tế giảm nhanh kích thước của bộ máy hành chánh.

Lúc này, giới tư sản doanh nhân đã tương đối có thế lực, tầng lớp trung lưu trong xã hội đã đông đúc, các lực lượng khác nhau trong xã hội tạo nên thế cân bằng và một trong các hệ quả là quyền tự do ngôn luận, báo chí tư nhân sẽ chính thức được nhà nước công nhận. Song song với đó là tự do lập hội, rồi tiến tới tự do lập đảng…

Hoàn cảnh thế giới và khu vực đang diễn biến rất thuận lợi cho Việt Nam, nếu dân chúng và chính quyền hợp tác hiệu quả trong việc canh tân đất nước thì các tình huống như kể trên sẽ diễn tiến nhanh chóng. Đây là con đường tốt nhất để Việt Nam mở ra cục diện tăng trưởng trong vài thập niên tới, và thúc đẩy phát triển lâu dài. Đây cũng là con đường tốt nhất giúp Việt Nam thoát vòng ảnh hưởng của Trung Quốc, xây dựng nền tự chủ. Việt Nam có thể kém Trung Quốc về một số tiềm năng, nhưng chắc chắn Việt Nam có tiềm năng vượt trội về khả năng canh tân, thích nghi với môi trường sống dân chủ tự do.

Dân chúng mong mỏi điều này. Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã biết lòng dân đang hướng về đâu.

Sự Hợp Tác giữa Dân Chúng và Chính Quyền

Nước Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, trong vòng 25 năm nay, đang ngày càng lệ thuộc vào một Trung Quốc không hề giấu giếm dã tâm và đang ngang ngược xâm lấn lãnh thổ đất nước. Dân chúng Việt Nam, dù rất gần gũi và yêu mến nền văn hóa lâu đời của Trung Quốc, có tinh thần và truyền thống rất quyết liệt chống xâm lăng đến từ phương Bắc. Trong vài chục năm nay, lòng dân phẫn uất vì cuộc chiến biên giới phía Bắc, càng phẫn uất hơn về việc đảng CSVN đưa cả nước vào cái thòng lọng Thành Đô, và do đó đã cúi đầu chấp nhận việc quân Trung Quốc đánh vào lãnh thổ Việt Nam giết hại trăm ngàn con dân nước Việt, chiếm đất Việt Nam.

Không nhà chính trị khôn ngoan nào dám thách thức lòng dân Việt chống Bắc xâm. Vẫn biết đảng Cộng Sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm toàn diện về hoàn cảnh hiện nay của đất nước đang bị phụ thuộc và xâm lấn bởi Trung Quốc, nhưng nhà lãnh đạo Cộng Sản nào đưa đất nước thoát khỏi “lối bí” hiện nay để mạnh tiến trên con đường phát triển, nhà lãnh đạo đó sẽ trở thành anh hùng dân tộc.

Trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, triển vọng hợp tác giữa dân chúng và chính quyền trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết. Thoát Độc tài, thoát Trung là ngọn cờ qui tụ lòng dân. Chính quyền thực lòng tiến về hướng đó là dân chúng ủng hộ, người tài xuất hiện, vận nước sẽ trung hưng.

Dân chúng và chính quyền cần hợp tác với nhau để xóa bỏ hận thù Quốc – Cộng trong quá khứ, xóa bỏ hố chia rẽ giữa chính quyền và người dân, xây dựng đức bao dung trong lòng dân tộc, củng cố lòng tự hào và tự tín dân tộc, phục hồi các giá trị sống truyền thống và văn minh… Tinh thần đó sẽ được thể chế hóa bởi các chính sách và cách tổ chức xã hội như tam quyền phân lập, báo chí tư nhân, quyền lập hội (và tiến tới lập đảng), chính quyền thuộc về dân, phục vụ dân chứ không thuộc về đảng, phục vụ đảng… Công cuộc cải cách này là rất to lớn và phức tạp, cần có lộ trình thích hợp cùng các nguồn lực dồi dào,  nhưng sức dân đồng lòng có thể đảm đương nổi.

Dân chúng, trong khi thông cảm và ủng hộ các chính sách của chính quyền hướng về cải cách, văn minh, cần dứt khoát và kiên quyết đấu tranh để:

1) đòi các quyền tự do căn bản;    

2) phản biện, và nếu cần, chống lại các chính sách mị dân, các trò gian lận, không trung thực trong chính trị (như kiểm phiếu…)… nhằm mục đích giữ con đường cải cách đi đúng hướng, hữu hiệu nhằm phục vụ dân tộc và tổ quốc chứ không bị lợi dụng cho mưu đồ cá nhân hay đảng phái;

3) cũng cần mở rộng thảo luận công khai về các chọn lựa chính trị cho tổ quốc, nâng cao tri thức và ý thức của quần chúng tạo bệ đỡ rộng lớn cho việc canh tân. Việc này cũng giúp dân tộc vững vàng thẳng tiến tới mục tiêu, gạt bỏ các hận thù, cực đoan có thể xảy ra trong quá trình canh tân.

Kết Luận

Bài viết này được kết luận trên các điểm sau:

1) Thời cơ trước mắt là cực kì to lớn cho nước Vệt Nam xóa bỏ hận thù, chia rẽ trong lòng dân tộc để xây dựng một đất nước giàu mạnh căn cơ;

2) Việc canh tân đất nước theo hướng tôn trọng nhân quyền, xây dựng đất nước theo thể chế tự do dân chủ mang lại lợi ích cho cả dân chúng và chính quyền;

3) Sự hợp tác của dân chúng và chính quyền trong sự nghiệp canh tân sẽ mang tới các thành công vượt bậc.

Lúc đó Việt Nam không cần nói tới mục tiêu thoát Trung, bởi vì thoát Trung là hệ quả đương nhiên của việc canh tân đất nước. Người viết tin tưởng mạnh mẽ rằng, với kích thước, cấu trúc dân số thuận lợi, với kinh nghiệm tổ chức xã hội tự do dân chủ từ chế độ miền Nam trước đây, Việt Nam sẽ canh tân thành công và vượt Trung về nhiều mặt, ít nhất là theo tiêu chí đầu người.

Có thể hi vọng rằng nếu Việt Nam thành công trên con đường này sẽ là niềm cảm hứng cho dân tộc Trung Quốc vốn vẫn còn âm ỉ ngọn lửa tự do Thiên An Môn, Hồng Kông… chắc cũng không cam chịu cảnh mất nhân quyền lâu. Việt Nam không mong làm ngọn cờ đầu, chỉ mong tạo nền hòa bình lâu dài cho tổ quốc. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy chỉ có thể chế độc tài mới tạo chiến tranh tàn khốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1), (2): Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới Về Nhân Quyền của Liên Hợp Quốc. http://www.ohchr.org/EN/UDHR/Documents/UDHR_Translations/vie.pdf

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


Trần Phan Trần Phan từng làm việc tại Việt Nam, châu Âu và châu Mỹ. Trước đây làm việc nhiều năm tại Procter & Gamble (Mỹ), Hoffman La Roche (Thụy Sĩ) ở vị trí quản lý. Hiện đã nghỉ làm việc cho các công ty đó.

Phản ứng về việc Tướng Vịnh đề cao hợp tác Trung Quốc

123402512013060718312393-622.jpg

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam. Ảnh minh họa chụp trước đây.

Courtesy photo

Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định quan hệ Việt Trung không bao giờ thay đổi và Trung Quốc luôn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng. Ông Vịnh đã phát biểu như vừa nói vào tối 28/7 vừa qua nhân dịp Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội tổ chức chiêu đãi kỷ niệm 88 năm ngày thành lập Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

Hòa hiếu hay thần phục?

Nam Nguyên phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang nhà bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam từ 40 năm qua. Từ Hà Nội, trước hết TS Nguyễn Thanh Giang nhận định:

TS Nguyễn Thanh Giang: Tôi cho rằng, Việt Nam rất không may mắn có vị trí địa dư nằm sát với Trung Quốc, ở bên cạnh một anh khổng lồ mà rất không tử tế. Anh ấy không chỉ không tử tế đối với Việt Nam mà anh ấy đang cố gắng trỗi dậy bằng những thủ đoạn xấu xa, một khi đã trỗi dậy thì anh ấy sẽ không tử tế với nhiều dân tộc trên thế giới. Cho nên đấy là cái họa của dân tộc Việt Nam. Nhưng vì đã trót ở bên cạnh anh ấy rồi cho nên cũng đành phải hòa hiếu với anh ấy. Lâu nay tôi vẫn nói rằng, Việt Nam nếu muốn có thể tồn tại bên cạnh Trung Quốc thì Việt Nam phải vận dụng sức ủng hộ mạnh mẽ của thế giới đặc biệt của Hoa Kỳ. Cho nên Việt Nam trước hết phải xiết chặt được giao hảo tốt đẹp với Hoa Kỳ. Tôi cho rằng đáng lẽ lần đi vừa qua của ông Nguyễn Phú Trọng sang Hoa Kỳ, thì ông phải làm được việc nâng tầm quan hệ lên đối tác chiến lược nhưng ông ấy đã không làm được việc rất cần thiết này cho dân tộc.

Họ không chỉ giữ tinh thần muốn hòa hiếu với cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ mà họ còn muốn tuyên truyền cho một thứ gọi là thần phục Trung Quốc, coi Trung Quốc là bậc thầy, coi Trung Quốc là Thiên tử mà mình phải rắp tâm cung phụng và theo họ.
-TS Nguyễn Thanh Giang

Nhưng mà bên cạnh giao hảo hữu nghị với Hoa Kỳ, tôi nghĩ cũng vẫn cần hữu nghị với Trung Quốc. Nhưng tôi đặc biệt căm giận những ai mà có tư tưởng thần phục Trung Quốc và muốn đẩy dân tộc này vào ách đô hộ mềm của Trung Quốc. Nói giao hảo hữu nghị là cần thiết đấy không nên đối địch với họ, nhưng tôi rất không ưng một số người trong đó có ông Nguyễn Chí Vịnh, trong đó có những người như ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, như là Bộ trưởng Phùng Quang Thanh… họ không chỉ giữ tinh thần muốn hòa hiếu với cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ mà họ còn muốn tuyên truyền cho một thứ gọi là thần phục Trung Quốc, coi Trung Quốc là bậc thầy, coi Trung Quốc là Thiên tử mà mình phải rắp tâm cung phụng và theo họ.

Nam Nguyên: Chính sách đi dây của Việt Nam như nhiều nhà bình luận nói. Theo Tiến sĩ có còn thích hợp hay không, nhất là khi Trung Quốc đã thể hiện tham vọng chiếm trọn Biển Đông.

TS Nguyễn Thanh Giang: Việt Nam ở một thế kẹt như vậy, thì vẫn phải giữ trạng thái đu dây giữa hai thế lực lớn là Trung Quốc và Hoa Kỳ . Nhưng mà cách đu dây như thế nào lại là một cái tài của nhà lãnh đạo, đu dây mà không phải là đu dây. Đu dây mà thực chất vẫn phải nghiêng về phía Hoa Kỳ để cho có thể tạo được một sức mạnh có thể đương đầu được với Trung Quốc. Những người lãnh đạo phải hiểu cho được là làm sao phải thực hiện cho được các đường lối chủ trương của mình, làm sao phải thực sự coi Hoa Kỳ bây giờ là người bạn mà mình thực sự dựa vào, để mình giữ lấy toàn vẹn lãnh thổ.

nguyen-chi-vinh-400.jpg
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh gặp Đại tướng Martin Depsey hồi nam 2014. Courtesy photo.

Đu dây không có nghĩa là cân bằng bên này một tí bên kia một tí, mà trong tình hình này phải thấy Trung Quốc là kẻ thù thực sự rồi. Trước đây ta quan niệm Mỹ là kẻ thù, không bằng cớ, Mỹ không có âm mưu xâm chiếm nước ta, không chiếm đoạt đất đai tài nguyên của chúng ta. Mà lúc bấy giờ chỉ là cuộc chiến tranh vô nghĩa, đi theo cái gọi là ý thức hệ. Còn bây giờ Trung Quốc nó là một kẻ xâm lược thực sự, nó đã xâm lược Việt Nam, nó đang xâm lược Việt Nam, nó không chỉ xâm lăng ở Bản Giốc, ở Ải Nam Quan, nó thực sự xâm lăng Hoàng Sa, nó đang xâm lăng Trường Sa và xâm lăng trên toàn bộ mặt biển.

Cho nên mình phải nuốt hận vào lòng mà nói ‘hảo hảo’với nó, nhưng thực chất phải xem nó là kẻ thù. Hảo hảo với nó không có nghĩa sợ nó mà làm sao để ngược lại Trung Quốc phải sợ mình. Trung Quốc sợ mình thì có hai điều kiện. Một là mình làm cho nội lực dân tộc mình mạnh mẽ lên. Hai là mình phải dựa vào được sự bảo trợ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đặc biệt là Mỹ và xung quanh đây là Nhật, Úc và khối Đông Nam Á.

Nam Nguyên: Thưa Tiến sĩ, hồi tháng 5 vừa qua, theo tin ghi nhận khi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh họp với tướng Thường Vạn Toàn của Trung Quốc ở Lào Cai, ông Thanh đã đảm bảo sự tin cậy chính trị với Trung Quốc. Bây giờ Tướng Vịnh nhấn mạnh, các nhà lãnh đạo cấp cao của hai lực lượng vũ trang sẽ tiếp tục duy trì và thúc đẩy hợp tác quốc phòng vào chiều sâu và chiều rộng. Điều này có là nguy hiểm hay không? Khi mà TQ đang tiến hành âm mưu chiếm trọn Biển Đông?

Còn để cho những nhân vật như là Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh thao túng nền quân sự, nền chính trị của Việt Nam thì đấy rõ ràng là một hiểm họa hết sức to lớn cho dân tộc.
-TS Nguyễn Thanh Giang

TS Nguyễn Thanh Giang: Còn để cho những nhân vật như là Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Chí Vịnh thao túng nền quân sự, nền chính trị của Việt Nam thì đấy rõ ràng là một hiểm họa hết sức to lớn cho dân tộc. Tôi nghĩ chúng ta phải hết sức cảnh giác đối với những con người đó. Nhưng tôi cho là hệ thống ý kiến của Nguyễn Chí Vịnh trong thời gian qua mà nhiều lần tôi đả kích, tôi vẫn nghi ngờ đó là cánh tay thân thiết của tình báo Hoa Nam, đặc biệt trong thời gian mà Nguyễn Chí Vịnh còn nắm Tổng Cục 2.

Nam Nguyên: Thưa, nghiên cứu quốc tế cho biết Trung Quốc là mối bận tâm hàng đầu của người Việt Nam, nhưng Tướng Nguyễn Chí Vịnh còn nhấn mạnh rằng quan hệ hai nước hình thành rất nhiều điểm tương đồng về văn hóa. Việt Nam đã cho mở Viện Khổng Tử ở Đại học Quốc gia Hà Nội, điều này tạo thêm mối lo sợ là sau kinh tế, chính trị, quân sự bây giờ lại thêm ảnh hưởng nhiều quá vào văn hóa Trung Quốc?

TS Nguyễn Thanh Giang: Lâu nay chúng ta ngộ nhận, cứ ca ngợi nền văn hóa của hai nước tương đồng nhau. Thực ra đạo Nho cũng có giá trị trong thời gian lịch sử nhất định. Trước đây nó cũng ảnh hưởng được vào trí thức, vào nền văn hóa nước ta làm cho trí thức của nước ta cũng có được một nếp sống đạo lý và đặc biệt tập hợp được lực lượng để chống cường quyền, chống ngoại xâm. Lúc bấy giờ có một giai đoạn lịch sử nó ảnh hưởng tích cực đến nền văn hóa và tâm lý dân tộc. Nhưng hiện nay, phải nói đạo Nho và cái văn hóa chính trị mà nói chung Trung Quốc dựa vào cho đến bây giờ, là thứ văn hóa chính trị lạc hậu, chỉ để giữ đời sống con người không thể vươn tới được nhân quyền và tự do dân chủ.

Nam Nguyên: Cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang đã trả lời phỏng vấn.

Khi báo chí chỉ là công cụ của nhà cầm quyền

Song Chi. 2015-07-30

http://www.rfa.org/vietnamese/blog/song-chi-blog-0730-07302015134703.html

phung-quang-thanh-622.jpg

Báo Tuổi Trẻ loan tin phóng viên của tờ báo này chứng kiến Đại tướng Phùng Quang Thanh trong bộ complet màu xám nhạt bước xuống cầu thang máy bay, ông Thanh tươi cười bắt tay những người ra đón và lên xe ôtô mang biển số quân sự TH -28 -09 đang chờ sẵn.

Giữa muôn vàn tin tức, sự kiện tiêu cực có, tích cực có (mà phần lớn là tiêu cực) xảy ra trong đời sống xã hội VN thời gian gần đây, thông tin về tinh trạng sức khỏe của ông Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một trong những thông tin khiến người Việt trong và ngoài nước hết sức quan tâm.

Vẫn dắt mũi được dư luận

Sau hơn một tháng “biến mất” một cách bí ẩn mặc cho mọi lời đồn đoán, đến ngày hôm qua, 25.7, ông Đại tướng được báo chí VN loan tin đã về đến Hà Nội từ Paris sau chuyến đi điều trị bệnh tại Pháp. Dù báo chí đã đưa tin, và báo Tuổi Trẻ còn có được một tấm hình quý hiếm chụp từ xa hình dáng một nhân vật trông hao hao ông Phùng Quang Thanh tại sân bay Nội Bài, nhưng không vì thế mà dư luận bớt nghi ngờ. Bởi nếu thực sự ông Phùng Quang Thanh còn sống và khỏe mạnh, chỉ cần một động tác đơn giản là để báo chí chụp cận mặt ông ấy hoặc để cho ông ấy xuất hiện ít phút trên truyền hình, nhà cầm quyền cũng không làm được.

Nhưng khác với nhiều người cho rằng dư luận đã thắng thế và nhà cầm quyền hoàn toàn bị động, lúng túng, vụng về trong suốt màn kịch về sự “mất tích và xuất hiện cũng như không” của ông Phùng Quang Thanh, người viết bài này lại nghĩ khác.

Đúng là xung quanh sự việc của ông Đại tướng, báo chí “lề dân” và các trang mạng xã hội tha hồ thoải mái, nhanh nhạy đưa tin, bình luận, săm soi trong lúc báo “lề đảng” bị trói tay, đưa thông tin gì, bao giờ đưa, đưa như thế nào… hoàn toàn phụ thuộc vào sự cho phép của đảng và nhà nước. Và đúng là nhà cầm quyền lúng túng trước cơn bão dư luận, cứ phải biện minh, bào chữa, và hễ đưa ra thông tin gì để bào chữa thì bị dư luận cầm kính lúp soi, vạch ra đủ thứ phi lý, mâu thuẫn, sai sót, khiến người dân càng nghi ngờ thêm. Nhưng cuối cùng đảng và nhà nước cộng sản VN vẫn dắt mũi được dư luận và đạt được mục đích của họ, đó là vẫn không ai biết được thực sự chuyện gì đã xảy ra cho ông Phùng Quang Thanh. Ông có thực sự phải vào bệnh viện Georges Pompidou ở Paris để trị bệnh không, và nếu có thì có đúng là bệnh về phổi, ông còn sống hay đã chết, sinh mạng chính trị của ông sắp tới sẽ ra sao cũng như nguyên nhân thực sự đằng sau việc nhà cầm quyền phải ra sức giấu diếm, che chắn này là gì.

Cũng giống như trước kia, với trường hợp của ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên Trưởng Ban Nội chính Trung ương, phó trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Cho dù báo chí “lề dân” có phanh phui được việc ông Nguyễn Bá Thanh đang điều trị ung thư tại một bệnh viện ở Mỹ, có cả hình, thậm chí còn có thông tin ông bị đầu độc phóng xạ, buộc nhà cầm quyền phải lên tiếng, hay các trang mạng biết trước cả thông tin ông sẽ được đưa về VN ngày giờ nào…Nhưng tóm lại, vẫn không ai được nhìn hay nghe thấy hình, tiếng trực tiếp từ ông Nguyễn Bá Thanh kể từ lúc ông bị bệnh, dù ở nước ngoài hay lúc đã về nước, ông có thực sự chết vì bệnh rối loạn sinh tủy như tin chính thức cho hay, và chết vào ngày giờ nào (vì có người còn đặt nghi vấn trên chiếc máy bay từ Mỹ về có một vật rất giống cái hòm)…

Nghĩa là mặc dù nhà cầm quyền bị động, phải vất vả hết phủ nhận, chối cãi đến biện minh, nhưng cuối cùng, kẻ bị dắt mũi vẫn là nhân dân.

Cũng may mà thời bây giờ có internet, có tai mắt của người dân ở khắp nơi trong và ngoài nước mà đảng “ta” còn dắt mũi được dư luận như vậy, huống gì trước kia khi chưa có internet.

Ảnh hưởng trực tiếp đời sống người dân?

Đại tướng Phùng Quang Thanh đến hội trường Bộ Quốc phòng tối ngày 27/07/2015
Đại tướng Phùng Quang Thanh đến hội trường Bộ Quốc phòng tối ngày 27/07/2015

Có thể có những người cho rằng chuyện ông Phùng Quang Thanh còn sống hay đã chết, chết vì lý do gì thì có liên can gì đến ai, thêm hay bớt một quan chức, lại là một ông quan có tiếng thân Tàu thì có gì là quan trọng. Khi cả một hệ thống độc đảng độc tài “hèn với giặc ác với dân” vẫn còn tồn tại thì việc sống hay chết, lên hay xuống của một cá nhân cũng chẳng thay đổi được gì. Có thể nhưng lại cũng không hẳn là thế. Bởi trong tình hình hiện nay, mỗi một biến động xảy ra cho một cá nhân thuộc hàng cao cấp trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN không chỉ cho thấy tình hình nội bộ bên trong đảng đang rối ren như tơ vò, mà còn hé lộ những bước đi chập chờn, nghiêng ngả của họ trong sự lựa chọn giữa ngã ba đường quốc tế, sẽ có ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước và dân tộc, tức là ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của từng người dân VN.

Quan trọng không kém, người dân cần phải biết rằng mình có quyền được biết sự thật mọi chuyện xảy ra cho đất nước và trong xã hội. Từ nguyên nhân vì sao giá xăng dầu tăng, tiền thuế của nhân dân đóng góp đi đâu, vì sao, cơ chế như thế nào mà chẳng hạn, một tay quan chức vụ không cao như Giang Kim Đạt (nguyên quyền Trưởng phòng Kinh doanh của Công ty TNHH MTV vận tải Viễn Dương Vinashin, thuộc Tập đoàn Vinashin) còn có thể tham nhũng đến gần 19 triệu USD…, cho đến tình trạng sức khỏe của một vị tướng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng…tât cả đều phải minh bạch. Bởi vì chính nhân dân chứ không phải cái đảng cộng sản mới là chủ nhân thực sự của đất nước này, chính người dân phải đóng thuế nuôi cái bộ máy cầm quyền này.

Sự việc thứ hai, cũng thu hút sự quan tâm của dư luận, là vụ thảm sát khiến 6 người trong một gia đình chết thảm tại Bình Phước. Hai sự việc chẳng liên quan gì đến nhau, và lý do quan tâm của người dân vì vậy cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng lại cho thấy những điểm chung mà hệ quả là từ một chế độ độc tài, không có một nền báo chí tự do, dân chủ. Đó là báo chí chỉ được đưa tin theo những gì mà nhà nước cho phép. Trong vụ sức khỏe của Đại tướng Phùng Quang Thanh là nguồn tin từ cấp nhà nước, còn trong vụ án mạng tại Bình Phước là tin tức do công an cung cấp.

Ở các nước tự do, dân chủ trong khi đang điều trị bệnh hoặc tệ nhất, sau khi điều trị xong trở về, một nhân vật cỡ Bộ trưởng Bộ quốc phòng như ông Thanh phải có “nghĩa vụ” xuất hiện trước truyền thông bằng cách này cách khác đề thông báo cho nhân dân an tâm rằng mình vẫn còn sống, vẫn minh mẫn, vẫn có thể tiếp tục làm việc. Còn trong những vụ án, đặc biệt án gây chấn động dư luận như vụ án tại Bình Phước, cảnh sát phải có nghĩa vụ họp báo ngay tức khắc để thông tin chính xác cho báo chí và sau đó thường xuyên cập nhật tin tức, chứ không phải đợi mấy ngày sau mới họp báo rồi còn trách báo chí đưa tin không đúng điểm này điểm kia.

Cả hai sự việc đều cho thấy lòng tin của người dân đối với nhà cầm quyền đã sút giảm một cách nghiêm trọng, trừ một thiểu số vẫn cứ nhà nước nói gì là nghe, là tin nấy, bây giờ đối với đa số người VN nhà nước nói gì cũng không tin hoặc chỉ tin một phần nào. Trong câu chuyện về ông Phùng Quang Thanh, người dân hoàn toàn có lý do để nghi ngở bởi mới trước đó không lâu, nhà cầm quyền cũng tìm cách che chắn xung quanh vấn đề sức khỏe của một ông Thanh khác, ông Nguyễn Bá Thanh. Và lần này nhà cầm quyền cũng lại có thái độ loanh quanh dấu đầu hở đuôi, vụng về không khác. Còn trong vụ án Bình Phước, người dân nghi ngờ vì sao phá án quá nhanh, có bị tác động gì từ sức ép của dư luận không, vì sao có quá nhiều điểm còn nghi vấn, vì sao không cho thực nghiệm lại hiện trường… Nhưng lý do trên hết vẫn là vì từ trước tới nay đã có quá nhiều vụ án oan sai, người bị bắt thừa nhận tội ác dù không thực hiện chỉ vì bị nhục hình, bị bức cung.

Sự mất lòng tin này là hậu quả mà nhà cầm quyền xứng đáng nhận lãnh, bởi đã hàng triệu triệu lần dối trá bưng bít, bóp méo sự thật với nhân dân.

Trong một chế độ độc tài, số phận của mọi người dân-từ những thân phận tầm thường như những nghi phạm trong vụ án Bình Phước cho tới một nhân vật chính khách cấp cao như ông Phùng Quang Thanh đều hết sức mong manh. Càng leo cao càng bấp bênh. Đến lúc đảng không cần nữa thì cho sống hay chết, lúc nào mới được chết, cho thân bại danh liệt theo kiểu nào là tùy đảng. Số phận của ông Phùng Quang Thanh và phản ứng thậm chí vui mừng của số đông dân chúng trong suốt thời gian qua may ra có thể khiến cho những nhân vật khác trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN phải suy nghĩ, rằng trung với đảng có ngày cũng bị chính các đồng chí của mình hãm hại, mà dân thì oán ghét. Chi bằng trung với dân với nước, khi còn tại vị cố gắng sống cho tử tế, tìm cách thoát khỏi đảng hoặc ít nhất, tìm cách lái đảng đi theo con đường dân chủ hóa, thoát Trung, gần với các nước dân chủ để cứu nước, thì còn được lòng dân. Có dân bên cạnh lo gì không làm được tất cả.

Không phải đợi đến bây giờ, từ những vụ việc như trên mới cho thấy sự cần thiết phải có một nền báo chí tự do dân chủ. Không có một nền báo chí tự do, độc lập, nhà cầm quyền còn dắt mũi người dân dài dài, đảng còn thao túng đất nước dài dài, từ cái thuở xa xưa xung quanh nhân thân, lý lịch, cái chết của ông Hồ Chí Minh cho tới tận bây giờ. Không có báo chí tự do, một vụ án hình sự như Bình Phước, khó mà biết được liệu có oan sai hay ít nhất, có bỏ lọt tột phạm, nguyên nhân vụ án có thực là vì ghen tuông cộng với tiền bạc hay có ai đứng đẳng sau thuê giết người vì lý do khác…; cho tới sự thật nào phía sau những “nghi án chính trị” như kiểu Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh…

Tất nhiên, có một nền báo chí tự do không đủ, phải có một thể chế chính trị đa đảng, tam quyền phân lập để hạn chế quyền lực trong tay một đảng lãnh đạo duy nhất.

Và cuối cùng về phía người dân, bài học nhỏ cho những ai còn một lòng một dạ tin vào nhà cầm quyền, vào hệ thống báo chí của đảng, đó là khi phải sống trong một chế độ độc tài toàn trị ở đó luật pháp hay báo chí đều nằm trong tay nhà cầm quyền, người ta phải tập cách “đọc giữa hai dòng chữ” từ những gì mà nhà nước nói, báo chí của đảng nói, tập phân tích, phán đoán sự việc bằng cái đầu của mình, thay vì cứ nhất nhất tin theo.

Song Chi

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

 

“Hãy phá đổ bức tường này!”

 Võ Thị Hảo. 2015-07-29

000_Hkg10109836.jpg

Từ trái qua: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rời khỏi lăng cố chủ tịch Hồ Chí Minh hôm 20/10/2014. AFP photo

Để sống sót

Theo nhiều nhà quan sát thì các phe nhóm cầm quyền Việt Nam vẫn canh chừng nhau, ăn miếng trả miếng. Quyền lực có lúc phân tán giữa phe thân TQ và phe thân Mỹ bởi rất nhiều người cơ hội gió chiều nào che chiều ấy.

Tình hình có biến chuyển gần đây. Theo báo Boxun của TQ và một số nguồn tin “phái thân TQ” đã phải đầu hàng “phái thân Mỹ”. Phái thân Mỹ  hiện đã chiểm được sự ủng hộ của khoảng 80% ủy viên TW và rồi sẽ nắm ưu thế tuyệt đối.

Dưới sức ép đấu tranh trong nước và quốc tế đang dâng lên mạnh mẽ, người thâu tóm được quyền lực sẽ lựa chọn điều gì?

Có thể xẩy ra hai trường hợp: hoặc độc tài hơn và tàn bạo hơn, hoặc sẽ cải cách và đổi mới ở một mức độ tương thích để sống sót. Kinh tế, chính trị và ngoại giao VN sẽ sụp đổ và bế tắc nếu không thay đổi theo những giá trị dân chủ, tự do theo nguyện vọng của người dân.

Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Trung quốc cùng nhiều dấu hiệu cho thấy ngày tàn của đế chế “tư bản đỏ” TQ không xa. Tương tự thời kỳ mà chính Liên xô cũng đã không thể lo nổi phận mình, buộc phải buông các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Cái phao cứu sinh duy nhất của VN hiện nay là nước Mỹ và khối đồng minh.

Hiện trạng này khiến người ta nhớ lại Diễn văn lịch sử  của Tổng thống Hoa kỳ Ronald Reagan ngày 12/6/1987 tại Bức tường Berlin:

“Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông mưu tìm hòa bình, nếu ông mưu tìm thịnh vượng cho Liên xô và Đông Âu,, nếu ông mưu tìm giải phóng, hãy đến đây nơi cổng này.  Ổng Gorbachev, hãy mở cổng này, hãy phá đổ bức tường này!”

Răng và mắt đều “phát triển vượt bậc”

Người Việt Nam ít nhiều đều hoặc là người của  Cộng sản hoặc nạn nhân của Cộng sản. Hành trình gần một thế kỷ trong con đường xã hội chủ nghĩa đã sinh ra những thế hệ thần tượng sự tăm tối, thế hệ ngu trung, thế hệ lầm lạc… Nhưng cho đến nay, trước đỉnh điểm phô bày những khối ung thư của thể chế này, thì ngay cả nhiều đảng viên đã cả đời trung thành với thể chế này cũng thấy rằng không thể chấp nhận nó nữa. Đơn giản chỉ vì họ biết họ đang lênh đênh trên một con thuyền thủng đáy. Tiếng sôi réo chết chìm đã vang động không gian.

Cuộc đấu đã đến một mất một còn. Hiện tượng Phùng Quang Thanh chết hay sống vừa rồi cùng với những che chắn vụng về của nhà cầm quyền cùng ngành tuyên giáo Việt Nam thật ly kỳ như phim trinh thám, khiến cho dân chúng được một phen mãn nhãn.

Đại tướng Phùng Quang Thanh đến hội trường Bộ Quốc phòng tối ngày 27/07/2015
Đại tướng Phùng Quang Thanh đến hội trường Bộ Quốc phòng tối ngày 27/07/2015

Việc ông Phùng trở về, nhưng bỗng có sở thích khác thường như chỉ thích xem văn nghệ, không thích vào lăng viếng “Cha già”. Hình hài của ông sau khi xuất viện từ Pháp quốc có vẻ như là một hình ảnh quảng cáo siêu hiệu quả cho tài năng biến dạng của bệnh viện này. Khán giả tính toán ông  trong ảnh của báo “lề phải” dường như cao hơn cả chục cm chỉ trong hơn một tháng nằm viện. Răng và mắt ông đều phát triển vượt bậc. Đặc biệt lại thêm sở thích kỳ lạ: không chịu về nhà, chỉ ở lại Bộ quốc phòng… Những hình ảnh của ông càng khiến dư luận thêm thắc mắc. Khổ là nhà cầm quyền và “lề phải” dối trá quá nhiều rồi nên ngay cả khi nói thật cũng chẳng ai tin. Tất cả những lùm xùm quanh vụ này tố cáo sự giằng co hai phe nhóm quyền lực.

Ai nắm được đồng thời cả công an và quân đội, người đó sẽ thắng.

Và người thắng ấy, nếu là “phái thân Mỹ”,  sẽ có được vô số thuận lợi, được sự ủng hộ của dân VN trong và ngoài nước, được điều kiện vô tiền khoáng hậu để bảo vệ và tái thiết đất nước dưới sự hỗ trợ toàn diện của Mỹ và các nước đồng minh.

“Phá bỏ bức tường này”

Có thể cải tổ Đảng CS  được không?

Cải tổ tương tự chữa một vết thương. Vết thương chỉ có thể lành khi đó không phải là khối ung thư. Với khối ung thư, không thể cải tổ. Dẫu là dạ dày, cũng phải cắt bỏ để thoát chết.

Đảng cộng sản với thể chế độc tài toàn trị có cải tổ được không?

Rất tiếc là không. Lịch sử đã minh chúng điều đó.

Nguyên Tổng Bí thư Đảng CS Liên xô Mikhain Gorbachev, khi trả lời phỏng vấn về những điều mà ông hối tiếc nhất, đã nói: “Đó là việc tôi nấn ná quá lâu với nỗ lực cải tổ đảng Cộng sản.”

Những người theo cộng sản Việt Nam nên hiểu rằng thay đổi thể chế chính trị sang dân chủ đa nguyên không phải với mục đích là trừng trị, cướp đoạt quyền lợi của họ, như đảng cộng sản đã làm với người dân trong Cải cách ruộng đất và sau này. Mà thay đổi thể chế chính trị là để sống sót, cứu tất cả mọi người và để cứu chính cả những người cộng sản.

Tại các nước khối Đông Âu đã không có tắm máu, thậm chí đời sống của người theo cộng sản trước đây đều được cải thiện vượt bậc theo mức sống chung cả nước. Đó không phải vì lòng tốt của một ai đó, mà chỉ vì trong chính thể chế chính trị dân chủ đa nguyên cùng nền tự do ngôn luận, hệ thống giám sát minh bạch đã tự động bảo vệ quyền lợi của mọi công dân khỏi những phân biệt đối xử và thù địch.

Tổng thống Nga V. Putin, vốn là một trong những con cưng và đồng phạm của chế độ cộng sản Liên Xô, lại là một cựu sĩ quan KGB, hẳn cũng khó tránh khỏi một số tội ác, chí ít là khi phải tuân lệnh cấp trên, đã nhận thức rất rõ về việc không thể để nước Nga quay lại thể chế cộng sản. Ông nói: “Đừng mong cái triều đại cộng sản gian tà ấy có cơ hội sống lại trên đất nước này khi dân tộc Nga còn tồn tại.”

Bàn tay nào?

Cán cân sẽ thay đổi, nếu có một ai đó trong tứ trụ triều đình đủ tài năng và khôn ngoan chớp thời cơ nắm cả ngành công an và quân đội để đưa Việt Nam đi theo con đường phong quang nhất mà Liên xô và các nước Đông Âu đã đi từ những năm 90.

Đó là con đường duy nhất để cứu Việt Nam lúc này. Nếu các phe phái nhận thức rõ tình thế, chịu ngồi lại với nhau theo quyền lợi đất nước thì người Việt Nam sẽ không phải đổ máu. Một cuộc thay đổi từ trên xuống, dưới áp lực của người dân Việt Nam và các lực lượng quốc tế. Tại sao không?

Nhiều người nghi ngờ khả năng này. Và ai mà chẳng phải ngờ, bởi các nhà cầm quyền Việt Nam đều đã gây ra quá nhiều thất vọng,  đã làm mọi biện pháp để tước đoạt những quyền đương nhiên của các công dân và đẩy đất nước vào thảm họa.

Nhưng nếu ta nhìn lại lịch sử, những cuộc thay đổi thể chế từ trên xuống là điều không hiếm.

Mùa xuân năm 1991, Tổng Bí thư Đảng CS Liên xô Gorbachev đã bị mắc kẹt giữa hai khuynh hướng quyền lực khiến ông rất khó xoay chuyển tình hình. Một bên là phe bảo thủ cứ cố lật ngược mọi chính sách cải cách của ông. Bên kia là những người am hiểu thời thế, có lương tâm với đất nước, muốn ông thiết lập một hệ thống chính trị đa đảng và đi theo xu hướng cải cách thị trường. Ông phải lựa chọn.

Và nền dân chủ đã đến từ bàn tay của Mikhain Gorbachop. Đương nhiên đó không phải là bàn tay sạch. Ông vốn là một trong những kẻ thống soái thể chế độc tài cộng sản lớn nhất, gần một thế kỷ dìm nhân loại vào ác mộng.

Nhưng ông đã tỉnh ngộ, đã kịp thời hành động và được nhân loại mãi tri ân trên phương diện là người trực tiếp trả lại quyền dân chủ và tự do cho người dân. Lãnh đạo Liên bang Xô viết chỉ 6 năm nhưng nỗ lực của ông là không thể tính đếm. Ông đã giúp  chấm dứt Chiến tranh lạnh, giải thể Liên bang Xô viết, làm sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa trái tự nhiên, chấm dứt gần một thể kỷ ác mộng của loài người trong chủ nghĩa cộng sản. Từ chỗ là một trong những thủ phạm lái con tàu độc tài cản trở phát triển, ông đã được trao giải Nobel Hòa bình và trở thành một anh hùng thời đại.

Có vô số ví dụ về việc con cưng của một thể chế chính trị – vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm, đã thức tỉnh và đứng lên thay đổi thể chế ấy.

Có thể có nhiều người có khát vọng hơn họ, trong sạch hơn họ, nhưng không hội đủ nguồn lực và tài năng, đủ thủ đoạn chính trị để đốn vào tử huyệt của chính thể hiện thời.

Tại sao Myanmar – chế độ độc tài quân phiệt đã đi theo khuynh hướng tự do dân chủ? Ngoài những nỗ lực của bà Aung San Suu Kyi, ai mà ngờ được rằng Than Shwe, kẻ độc tài có nhiều nợ máu với người dân lại là kiến trúc sư của nền dân chủ hiện tại của Myanmar?

Tổng thống Thein Seinn đương nhiệm chính là người được tiền nhiệm Than Shwe – vị tổng thống được cho là  tàn nhẫn nhất trong các nhà độc tài quân sự của Myanmar lựa chọn. Thein Sein đã có công thúc đẩy cải cách thể chế chính trị này bằng việc thoát Trung và mở cửa, đi với Mỹ và phương Tây, bỏ cấm vận, dưới âm hưởng của cách mạng mùa xuân A rập.

Nền dân chủ  đa nguyên sơ khai của Việt Nam có thể đến qua tay một vài nhân vật nào đó trong đám cầm quyền độc tài hiện tại, khi họ tận dụng được sự đấu tranh của người dân, áp lực quốc tế và thời cơ,  là điều hoàn toàn tin được.

Tốt nhất là có một Thánh Gióng. Nhưng Gióng là huyền thoại và chỉ biết đánh giặc rồi bay về trời.

Vậy thì cần những ai đó trong đám nhân quần, với những ưu nhược và vị thế sẵn có, dám sám hối và dâng tặng phần cuối cuộc đời mình cho dân nước Việt Nam, trước hết là cũng để cứu chính họ.

Sao không là một vài người nào đó trong Tứ trụ “Sang Trọng Hùng Dũng?”

Hoặc, sao không là Nguyễn Tấn Dũng?

Các vị này đã kịp hưởng thụ quá nhiều tiền rừng bạc bể mặn mồ hôi và máu của dân Việt. Họ chỉ còn thiếu việc biết sám hối bằng hành động “để có danh gì với núi song.”

Võ Thị Hảo

Trưởng ban kiểm tra hội Nhà báo VN: Nhầm lẫn nhạc TQ ‘không được phép xảy ra’

Ở phút thứ 4'16

Ở phút thứ 4’16” đến 4’30” khúc nhạc được vang lên khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên bục phát biểu trong chương trình ‘Khát vọng đoàn tụ’ tối 27/7 tại Hà Nội.

Một đoạn nhạc trong bài hát “Ca ngợi tổ quốc” của Trung Quốc đã được sử dụng để làm nhạc nền cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên đọc diễn văn khai mạc trong một chương trình nghệ thuật quy tụ nhiều quan chức hàng đầu diễn ra tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Đây được xem là một nhầm lẫn nguy hiểm trong tình hình “nhạy cảm” hiện nay trong quan hệ Việt – Trung giữa bối cảnh căng thẳng gia tăng ở Biển Đông. Khánh An của Ban Việt ngữ VOA tường trình thêm chi tiết về phản ứng của một giới chức thuộc Ban Kiểm tra Hội Nhà báo Việt Nam về vụ việc này.

Sau vụ việc phát đoạn nhạc trong bài hát “Ca ngợi tổ quốc”, một bài hát được xem là “quốc ca thứ hai” của Trung Quốc trong chương trình nghệ thuật mang tên “Khát vọng đoàn tụ” diễn ra tại trụ sở Bộ Quốc phòng Việt Nam bị phát giác, VOA Việt ngữ liên lạc với ông Trần Bình Minh, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam, nhưng không nhận được trả lời.

Trong khi đó, bà Hà Kim Chi, Ủy viên thường vụ – Trưởng Ban Kiểm tra Hội Nhà báo Việt Nam, phản ứng ngay khi nghe về sự việc trên: “Tôi cho rằng nhầm lẫn đó là không được phép xảy ra”.

Đấy, đoạn tôi vừa hát là đoạn nhạc người ta sử dụng để dẫn đường cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên diễn đàn. Bài hát ‘Ca ngợi tổ quốc’ [của Trung Quốc] là ‘…Cờ hồng vươn làn gió vờn năm ánh sao. Câu ca chiến thắng đang vui vẻ, náo nức reo. Ta ca hát nước nhà ngàn tình chan hòa…’. Đấy, lời bài hát dịch sang tiếng Việt là như vậy…

Chương trình “Khát vọng đoàn tụ” là một chương trình nghệ thuật lớn được tổ chức nhân ngày Thương binh Liệt sĩ. Chương trình này thu hút sự chú ý của dư luận khi được đồng loạt loan báo trên các kênh truyền thông của nhà nước trước đó với sự xuất hiện trở lại của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, người đột nhiên vắng bóng trong một thời gian khiến gây ra nhiều tin đồn về tình trạng sức khỏe của ông cũng như khả năng ông đã qua đời nhưng không được tiết lộ.

Chương trình quy tụ nhiều quan chức hàng đầu Việt Nam và được phát sóng trực tiếp trên Đài Truyền hình Việt Nam vào tối 27/7. Ngay khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên sân khấu để đọc diễn văn khai mạc thì một đoạn nhạc được phát lên.

Đoạn nhạc này ngay sau đó được người dân Việt Nam phát hiện là bài hát “Ca ngợi tổ quốc” do ông Vương Tân, người Vô Tích, Giang Tô, Trung Quốc, sáng tác vào tháng 9/1950. Người đầu tiên phát hiện ra “sự cố” này là ông Phan Tất Thành, một cựu chiến binh đã từng có một thời gian được học tập, nuôi dạy tại Quế Lâm, Trung Quốc. Ông cho biết:

Cựu chiến binh Phan Tất Thành trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc.Cựu chiến binh Phan Tất Thành trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc.

“Những năm 60, tôi được nhân dân Trung Quốc đùm bọc, nuôi dưỡng. Tôi học tập và lớn lên ở Quế Lâm, Trung Quốc. Những năm đó tôi 15, 16 tuổi, tôi thuộc rất nhiều bài hát của Trung Quốc. Ví dụ như rất nhiều bài ca ngợi Mao Trạch Đông, rồi bài quốc ca Trung Quốc, nhưng có một bài hát mà tôi rất có cảm tình là bài “Ca ngợi tổ quốc”. Bài “Ca ngợi tổ quốc” của Trung Quốc (ông Thành hát bằng tiếng Trung Quốc). Đấy, đoạn tôi vừa hát là đoạn nhạc người ta sử dụng để dẫn đường cho Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên diễn đàn. Bài hát “Ca ngợi tổ quốc” là “…Cờ hồng vươn làn gió vờn năm ánh sao. Câu ca chiến thắng đang vui vẻ, náo nức reo. Ta ca hát nước nhà ngàn tình chan hòa…”. Đấy, lời bài hát dịch sang tiếng Việt là như vậy.”

Nói về quy trình giám sát và xử lý các sai sót, vi phạm trong truyền thông, bà Hà Kim Chi cho biết:

Bà Hà Kim Chi – Ủy viên Ban thường vụ, Trưởng ban kiểm tra - Hội nhà báo Việt Nam. (Ảnh: congluan.vn)Bà Hà Kim Chi – Ủy viên Ban thường vụ, Trưởng ban kiểm tra – Hội nhà báo Việt Nam. (Ảnh: congluan.vn)

“Khi xảy ra các sai sót trong các tác phẩm báo chí hay trong các chương trình thì sẽ có rất nhiều cơ quan giám sát, quản lý, trước hết là Ban Tuyên giáo Trung ương, rồi Bộ Thông tin Truyền thông và cơ quan quản lý nhà nước về cơ quan báo chí. Về phía Hội Nhà báo thì cũng sẽ phối hợp để cùng hội họp trong cái quản lý hội viên. Và như tôi đã nói, cái mức độ nhầm lẫn thì cũng phải xem là do vô tình hay do cố ý, mức độ ảnh hưởng của nó đến đâu, thì sẽ có các cơ quan quản lý nhà nước người ta sẽ xem xét việc này để quyết định hình thức hoặc mức độ xử lý.”

Nhiều cư dân mạng tỏ ra lo ngại là sự cố trên có liên quan đến vấn đề “nội gián”. Một cư dân mạng viết: “Nội gián, ngoại gián, phản gián đều ở đó thì quá nguy hiểm cho nước Việt”. Trong khi đó, một người khác nói cám ơn ông Thành vì “đã phát hiện ra một điều khủng khiếp nhưng bình thường ở đất nước này”.

Và như tôi đã nói, cái mức độ nhầm lẫn thì cũng phải xem là do vô tình hay do cố ý, mức độ ảnh hưởng của nó đến đâu, thì sẽ có các cơ quan quản lý nhà nước người ta sẽ xem xét việc này để quyết định hình thức hoặc mức độ xử lý.

Giữa bối cảnh căng thẳng ngày càng gia tăng ở Biển Đông, nhất là sau khi Trung Quốc tiến hành các hoạt động bồi đắp, xây đảo nhân tạo ở khu vực Trường Sa, rồi đưa giàn khoan 981 đến vùng biển mà Việt Nam có tuyên bố chủ quyền, nhiều hoạt động chống Trung Quốc vốn âm ỉ ở Việt Nam lại bắt đầu nhóm lên bằng nhiều hình thức khác nhau như mặc áo có in chữ chống Trung Quốc, chụp ảnh mang biểu ngữ chống Trung Quốc và chia sẻ lên mạng…

Một chuyên gia về Biển Đông trong buổi điều trần về “Vai trò an ninh của Mỹ ở Biển Đông” cho rằng đây là khu vực hiện rất “nhạy cảm”. Chính trong sự nhạy cảm không chỉ dừng lại ở mức độ khu vực mà sự nhầm lẫn dù là vô tình hay cố ý như trên lại càng “không được phép xảy ra” như bà Hà Kim Chi đã nhận xét.

Bấm để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn.

Hôm nay (29/7), Đài Truyền hình Việt Nam đã cắt bỏ âm thanh phần nhạc nền Trung Quốc có “sự cố” trên trong video đăng tải trên trang web chính thức. Tuy nhiên, bản gốc chương trình đã được sao lưu trên các trang mạng xã hội nổi tiếng như Youtube, Facebook.
Xem clip của chương trình ‘Khát vọng Đoàn tụ’:

https://youtu.be/yK1AN5GGfVk

Mỹ tuyên bố ‘không trung lập’ trong vấn đề biển Đông

VOA Tiếng Việt. 29.07.2015

Tàu chiến USS Fort Worth (LCS 3) của Mỹ hiện diện trên biển Đông.

Tàu chiến USS Fort Worth (LCS 3) của Mỹ hiện diện trên biển Đông.

Tin liên hệ

Ngoại trưởng Mỹ tới Việt Nam sau chuyến thăm lịch sử của ông Trọng

Ông Kerry sẽ tới Hà Nội vào đầu tháng 8 trong chuyến công du một loạt các quốc gia Đông Nam Á, và dự kiến sẽ lặp lại lời kêu gọi ngưng xây đảo nhân tạo

Người Việt sát cánh chống Trung Quốc với Philippines

Người Việt cùng hàng trăm người Philippines xuống đường biểu tình phản đối bên ngoài lãnh sự quán Trung Quốc ở thủ đô Manila

Có nước ‘chống lưng’ trong vụ tranh chấp Việt Nam – Campuchia?

Những căng thẳng thời gian qua trên biên giới Tây Nam đã khiến vấn đề phân định biên giới Việt Nam – Campuchia lại ‘nóng’ lên

Ông Phùng Quang Thanh về nước giữa tin đồn qua đời

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh về tới Hà Nội sớm hôm nay, 25/7, và “tươi cười bắt tay những người ra đón và lên xe ôtô mang biển số quân sự”.

Hoa Kỳ nhấn mạnh nước này sẽ không trung lập khi buộc các quốc gia khác phải tuân thủ luật lệ quốc tế trong vụ tranh chấp biển Đông, và sẽ cương quyết bảo đảm rằng các bên phải làm theo luật, một nhà ngoại giao hàng đầu của nước này tuyên bố.

Hoa Kỳ từng nhiều lần nhấn mạnh không đứng về phía nào và không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của bất kỳ ai, đồng thời tuyên bố muốn chứng kiến các bên giải quyết tranh chấp theo đúng luật pháp quốc tế và không sử dụng vũ lực.

Chính điều đó đã khiến nhiều người nghĩ rằng Hoa Kỳ “trung lập” trong vấn đề biển Đông, và sau những tuyên bố chỉ trích Trung Quốc của Washington thời gian qua, Bắc Kinh cáo buộc Mỹ đi ngược lại quan điểm bấy lâu nay.

Tại một cuộc hội thảo mới đây ở Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở thủ đô Washington, trả lời câu hỏi về tính trung lập của Hoa Kỳ ở biển Đông, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, ông Daniel Russel, nói:

“Chúng tôi không trung lập khi nói tới việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng tôi sẽ có thái độ cương quyết liên quan tới việc tuân thủ pháp luật. Chúng tôi không đứng về phía nào trong việc tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo. Điều đó có nghĩa là quan ngại của chúng tôi là về thái độ, cách xử sự cũng như cách thức các bên tuyên bố chủ quyền”.

Chính vì lẽ đó, ông Russel nói rằng Hoa Kỳ hiện thúc giục các bên liên quan ở biển Đông duy trì các điều kiện cần thiết và môi trường hợp tác nhằm xử lý các tranh chấp một cách hòa bình, thông qua biện pháp ngoại giao và đúng luật.

Nhà ngoại giao này cũng kêu gọi các nước, không chỉ riêng Trung Quốc, tránh gây ra các hành động đi ngược lại “tinh thần hợp tác”, như lấn biển, xây dựng các cơ sở và quân sự hóa các đảo.

Tuyên bố của ông Russel đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc rầm rộ tiến hành các hoạt động xây đảo nhân tạo trên biển Đông, gây quan ngại cho các quốc gia tranh chấp chủ quyền khác cũng như Mỹ.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ tới thăm Việt Nam, Singapore và Malaysia vào đầu tháng tới, và dự kiến sẽ nhắc lại vấn đề này trong cuộc họp với những người đồng cấp của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, ASEAN.

Phát biểu trước các cử tọa gồm các nhà nghiên cứu hàng đầu về biển Đông, ông Russel thừa nhận rằng sẽ là một thách thức lớn để giải quyết tranh chấp khi các nước đều tuyên bố chủ quyền “không thể tranh cãi” đối với vấn đề biển Đông.

‘Phải tuân theo quyết định’

Về vấn đề giải quyết tranh chấp qua tòa trọng tài Liên Hiệp Quốc, ông Russel đề cập tới vụ kiện Trung Quốc của Philippines. Nhà ngoại giao này nói rằng cho dù kết quả ra sao thì cả Bắc Kinh và Manila cần phải tuân theo quyết định của tòa vì hai nước đều từng ký vào Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển.

Ông nói thêm: “Khi tham gia vào Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển, cả Philippines và Trung Quốc đồng ý với cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của công ước. Theo đó, quyết định của tòa trọng tài có tính cưỡng hành đối với các bên tranh chấp. Để duy trì pháp quyền, cả Philippines và Trung Quốc cần phải tuân thủ bất kỳ quyết định nào đưa ra trong vụ này, dù họ có thích hay không”.

Ông Russel nói thêm rằng Hoa Kỳ sẽ bảo vệ các quyền lợi riêng của mình theo nhiều cách, trong đó có việc củng cố liên minh cũng như thúc đẩy các cam kết an ninh và hỗ trợ việc phát triển các tổ chức khu vực một cách hiệu quả.

Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ nói thêm rằng Washington “không hậu thuẫn Philippines để chống lại Trung Quốc trong vụ kiện mà Mỹ chỉ bảo vệ quyền của Philippines”.

Bắc Kinh mới đây kêu gọi Manila đàm phán trực tiếp với Bắc Kinh, thay vì tiếp tục nỗ lực giải quyết tranh chấp biển Đông trước tòa án quốc tế.

Philippines đã yêu cầu tòa án ở La Haye bác bỏ các yêu sách chủ quyền gần như toàn bộ biển Đông của Trung Quốc và cho rằng hành động của Bắc Kinh là chà đạp lên quyền lợi của các nước khác.

Trong khi đó, Bắc Kinh nói rằng tòa này không có thẩm quyền và từ chối tham gia giải quyết vụ việc mà Philippines đệ đơn kiện.

Tòa hoạt động theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển đã tổ chức một phiên toà kéo dài một tuần, và kết thúc hôm qua nhằm xem xét vụ việc Manila nêu ra. Cơ quan này đặt thời hạn chót là ngày 17/8 để Bắc Kinh trình bày lý lẽ của mình.

Thăng giáng trên chính trường Việt Nam

 Quan chức Việt Nam – hình chỉ có tính minh họa

Đầu mùa hè 2015, các báo Việt Nam dồn dập đăng tin về thay đổi nhân sự trong bộ máy Đảng, Công an và chính quyền địa phương Việt Nam, với các chức vụ mới được bổ nhiệm, có người bị cho về nghỉ hoặc bị kỷ luật.

Mới nhất, hôm 29/07, trang VietnamPlus, Ủy ban Kiểm tra Trung ương của Đảng Cộnt Sản Việt Nam đã có thông báo về việc xem xét, quyết định thi hành kỷ luật với một loạt quan chức:

Đó là các ông Lê Thanh Phương, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Phú Yên.

Lý do là “một số đơn vị trực thuộc Sở vi phạm nghiêm trọng về quản lý tài chính, gây thất thoát, lãng phí tiền và tài sản của Nhà nước, một số cán bộ, đảng viên vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước”, theo trang web này.

Theo đó, ngay cả khi tiến hành kiểm điểm trước các tổ chức đảng, ông Lê Thanh Phương “chưa tự giác, nghiêm túc nhận thấy khuyết điểm của mình và trách nhiệm của người đứng đầu”.

Ông nay bị ‘cách chức các chức vụ trong Đảng’, theo thông báo.

Ngoài ra các ông Phạm Hoàng Anh, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hậu Giang bị kỷ luật ‘cảnh cáo’, và ông Võ Văn Tánh, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang bị ‘khiển trách’.

Lý do đưa ra là cả hai đã ‘lợi dụng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng trong thực hiện chính sách đất đai để vụ lợi’.

Trung ương Đảng cũng cho hay có dấu hiệu vi phạm của ông Nguyễn Hữu Hoài, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình, và yêu cầu ông “nghiêm túc rút kinh nghiệm về những thiếu sót, khuyết điểm”.

Với sỹ quan, cán bộ của ngành công an và quân đội, đợt kiểm tra này cũng đề nghị “tiến hành kiểm điểm theo quy trình đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu 9 và Tư lệnh Quân khu” nhưng không nêu tên nhân vật này.

Ngoài ra, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương quyết định việc giữ nguyên hình thức kỷ luật “khiển trách” đối với các ông Ngô Minh Vũ, Phó Cục trưởng Cục Chính trị, Tổng cục Cảnh sát Thi hành án và hỗ trợ tư pháp, Bộ Công an, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, nguyên Phó Giám đốc Công an tỉnh Bến Tre.

Trước đó, hôm 21/07, báo Việt Nam đăng tin tại Hà Nội , ‘hàng loạt quan chức huyện xin nghỉ hưu sớm’.

Theo bài báo, Thành ủy Hà Nội cho ông Tô Văn Cường – Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch huyện Thường Tín; ông Nguyễn Văn Nguyệt – Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân huyện Sóc Sơn; ông Phạm Hùng Vỹ – Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Phú Xuyên về nghỉ.

Ngoài ra, các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân các quận huyện Đông Anh, Phúc Thọ, Mê Linh, Thị xã Sơn Tây, Ứng Hòa và quận Hai Bà Trưng đều được nghỉ công tác chờ nghỉ hưu.

Cũng hôm 20/07, báo Việt Nam đưa tin, ông Phạm Thế Tập chính thức thôi giữ chức Bí thư Thành ủy Hải Dương, chờ nghỉ hưu.

Cùng thời gian, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bổ nhiệm ông Đặng Công Huẩn, Bí thư huyện Tân Hiệp (Kiên Giang) ra Hà Nội giữ chức Phó tổng Thanh tra Chính phủ, theo VnExpress 20/07.

Ngoài ra, Thủ tướng cũng phong ông Huỳnh Quang Hải, Vụ trưởng Ngân sách nhà nước lên làm Thứ trưởng Bộ Tài chính.

Đầu tháng 7 đã có sự thay đổi nhân sự tại Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.

Báo Dân Trí hôm 3/07 cho hay theo một quyết định từ 13/6 thì Trung tướng Phí Quốc Tuấn, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô và Trung tướng Lê Hùng Mạnh – Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô đều được cho về nghỉ hưu.

Cùng lúc, Thiếu tướng Nguyễn Doãn Anh – Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Thủ đô lên giữ chức Tư lệnh và Thiếu tướng Nguyễn Thế Kết – Phó Chính Ủy được bổ nhiệm vào chức Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.

Các thay đổi nhân sự tại Bộ Tư lệnh Thủ đô diễn ra trong thời gian Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh đang điều trị sau phẫu thuật hôm 30/06 tại Pháp, theo các báo Việt Nam.

Phong trào dân chủ đứng giữa Đảng cộng sản và nước Mỹ

Kính Hòa, phóng viên RFA.  2015-07-29
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/democratic-struggle-between-party-n-america-kh-07292015134147.html

nhatrang1-622.jpg

Những người tranh đấu ôn hòa tham gia cuộc tuyệt thực đòi thả tù nhân lương tâm tại Nha Trang hôm 25/7. Courtesy DLB

Không bao lâu sau cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Obama và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, ngày 25/7 nhà cầm quyền Việt Nam đã sử dụng những biện pháp cứng rắn đối với những người tranh đấu ôn hòa tham gia cuộc tuyệt thực đòi thả tù nhân lương tâm tại Nha Trang. Liệu sự nồng ấm lên giữa Đảng cộng sản Việt Nam và nước Mỹ có ảnh hưởng gì đến phong trào dân chủ hóa bên trong Việt Nam hay không?

Những cái nhìn trái chiều

Bà Nguyễn Thị Như Quỳnh, tức blogger Mẹ Nấm, một trong những người tham gia phong trào tuyệt thực bị đán áp tại Nha Trang cho biết quan điểm của bà về sự liên quan giữa quan hệ Việt Mỹ và cách cư xử của đảng cộng sản Việt Nam:

Lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam có thể thả một vài tù nhân lương tâm, để đổi lấy quyền lợi chính trị cho mình. Nhưng bên cạnh đó, nếu các tổ chức xã hội dân sự, những người đấu tranh cho dân quyền độc lập sống tại Việt Nam mà có bất kỳ hành động nào kêu gọi ý thức về quyền con người dưới bất cứ hình thức nào đều sẽ bị đàn áp.
-Blogger Mẹ Nấm

“Quan niệm về sự xích lại với nhau trong quan hệ Việt Mỹ, từ trước tới giờ tôi vẫn không thay đổi quan điểm là sẽ không có bất kỳ sự thay đổi nào sau những tuyên bố. Lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam có thể thả một vài tù nhân lương tâm, để đổi lấy quyền lợi chính trị cho mình. Nhưng bên cạnh đó, nếu các tổ chức xã hội dân sự, những người đấu tranh cho dân quyền độc lập sống tại Việt Nam mà có bất kỳ hành động nào kêu gọi ý thức về quyền con người dưới bất cứ hình thức nào đều sẽ bị đàn áp.”

Tuy nhiên một nhà hoạt động xã hội khác là Luật sư Nguyễn Văn Đài, thành viên của tổ chức Hội anh em dân chủ tại Hà Nội lại có cái nhìn khác. Ông lấy ví dụ về sự thay đổi trong cách cư xử của cơ quan anh ninh Việt Nam với tổ chức của ông:

“Cụ thể là đối với Hội anh em dân chủ chúng tôi. Đầu tháng tư năm 2013 chúng tôi thành lập. Trong suốt 2013, 2014 thì mỗi khi làm việc với họ thì họ cứ gây áp lực buộc Hội anh em dân chủ phải giải tán. Họ không chấp nhận bất kỳ sự hoạt động nào của mình ở Việt Nam. Trong năm nay gặp họ thì họ không có thái độ thù địch như là trước đây.”

Một nhà bất đồng chính kiến khác là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, hiện sống ở Đà Lạt lại nêu ra những trở ngại mà phong trào dân chủ tại Việt Nam có thể sẽ gặp phải khi quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam trở nên hữu hảo hơn. Ông nói với chúng tôi:

“Khi đảng đã chủ động bắt tay với Hoa Kỳ thì dân chủ hãy liệu hồn, chứ không tốt cho dân chủ tí nào, mũi nhọn sẽ chĩa vào dân chủ. Bây giờ họ sẽ đàn áp khéo léo hơn, nhưng họ sẽ làm mạnh hơn trước. Phía Việt Nam cũng như phía Hoa Kỳ mở rộng liên kết với nhau một chút là bước cờ quốc tế mà họ phải đi chứ không liên quan gì đến dân chủ.Trước đây hai bên chưa thân nhau thì Hoa Kỳ có thể ép cộng sản Việt Nam về dân chủ và nhân quyền, nhưng bây giờ đã có quan hệ hữu hảo với đảng cộng sản Việt Nam, thì cái sức ép về dân chủ nhân quyền trước mắt là giảm đi.”

Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh cũng chia sẻ quan điểm của Tiến sĩ Hà Sĩ Phu:

“Sự thân thiện giữa chính phủ Mỹ và đảng cộng sản Việt Nam sẽ gây ra một số trở ngại. Nó buộc những người tranh đấu cho quyền tự do của con người tại Việt Nam phải lùi một bước, bởi vì sự thừa nhận của chính phủ Mỹ đối với đảng cộng sản Việt Nam sẽ nâng cái tầm của đảng cộng sản lên một chút. Cộng đồng sẽ nhìn cái quan điểm và khái niệm của họ về quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, theo qui định của pháp luật bởi các điều luật vi hiến như điều 258, điều 245, nghị định 38, nghị định 72, nó sẽ được thừa nhận một cách bán công khai.”

150726165225_me_nam_624x351_menam_nocredit-400.jpg
Bà Nguyễn Thị Như Quỳnh, tức blogger Mẹ Nấm, một trong những người tham gia phong trào tuyệt thực bị hành hung chảy máu miệng. Courtesy photo.

Ông Hà Sĩ Phu cũng nêu lý do theo đó mà sự cải cách dân chủ không đi liền theo cuộc gặp gỡ Nguyễn Phú Trọng Obama:

“Ông ấy đi là cốt để giữ cho cái đảng của ông ấy, chứ không có liên quan gì đến dân chủ, không có giác ngộ dân chủ tí nào. Nhiều người đấu tranh cho dân chủ bảo rằng họ cũng là người chứ, họ cũng có xu thế dần dần dân chủ chứ, điều đó hoàn toàn nhầm. Trong đầu những người đảng viên như ông Nguyễn Phú Trọng, không bao giờ là người như vậy cả. Không bao giờ ông ấy thấy xu thế là phải dân chủ, và ngày càng phải dân chủ hơn đâu.”

Luật sư Nguyễn Văn Đài thì lạc quan hơn, ông nói rằng điều quan trọng hiện nay nằm ở khả năng của phong trào dân chủ trong nước:

“Mặc dù những cái cơ bản nhất chưa thay đổi, nhưng mà cái không gian chính trị tức là cái điều kiện để mình hoạt động một cách an toàn hơn, phát triển hơn thì nó mở ra rồi. Vấn đề bây giờ nó phụ thuộc chính cái nội tại của phong trào dân chủ, với các tổ chức xã hội dân sự, chứ không phải chính quyền nữa. Chính quyền ở thế bị động còn mình ở thế chủ động rồi.”

Một học giả về quan hệ quốc tế là Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm tại Hawaii cũng nêu ý kiến rằng hiện nay Hoa Kỳ cần Việt Nam trong bước đi chiến lược của họ cho nên họ có thể làm ngơ trước những vi phạm tự do và nhân quyền tại Việt Nam. Nhưng ông lại hy vọng ở tầm mức cải cách chính sách, quan hệ Việt Mỹ ấm hơn sau chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đến Washington là khả quan:

“Nó tạo nên một môi trường mới. Trong môi trường mới này sẽ thuận tiện hơn rất nhiều so với trước đây, đối với xu hướng cải cách, xu hướng hiện đại hóa. Có thể nói là cái xu hướng bảo thủ, xu hướng chống phương Tây sẽ yếu đi và dần dần sẽ yếu hẳn ở Việt Nam.”

Tự do ở con đường xa

Tự do nó không đến từ những mối quan hệ và sự xích lại như vậy. Bởi vì khi anh bằng lòng với cái thứ tự do mà người ta nhả cho anh để người ta đổi lấy quyền lợi chính trị thì đó không phải là thứ tự do thật sự.
-TS Vũ Hồng Lâm

Ông Lâm cũng nói thêm là còn một yếu tố quan trọng cần phải kể đến nữa là sự thay đổi theo khuynh hướng dân chủ trong xã hội Việt Nam, nhất là ở thế hệ trẻ. Trong khi đó bà Như Quỳnh cho rằng hiện tại ý thức về dân chủ hãy còn thấp trong dân chúng Việt Nam và tự do phải giành lấy một cách khó nhọc chứ không đến chỉ sau một sự xích lại gần nhau về ngoại giao:

“Tự do nó không đến từ những mối quan hệ và sự xích lại như vậy. Bởi vì khi anh bằng lòng với cái thứ tự do mà người ta nhả cho anh để người ta đổi lấy quyền lợi chính trị thì đó không phải là thứ tự do thật sự. Cái thứ tự do đó phải được đổi lấy bằng sự tranh đấu của mỗi người. Bởi vì mỗi người muốn tự do thì nó mới có tự do. Không có một thứ tự do nào như thế, nhất là trong tình cảnh Việt Nam hiện nay khi mà ý thức về quyền tự do công dân của mỗi người không được phổ biến.”

Tuy nhiên bà cũng nói là bà ủng hộ một quan hệ rộng mở với nước Mỹ vì quốc gia này đại diện cho những giá trị dân chủ phổ quát mà nhân loại đang có. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nói rằng:

“Đối với Hoa Kỳ hiện nay thì số một là phải cân bằng để chống Trung quốc. Thế còn dân chủ nhân quyền cũng là yêu cầu nhưng xếp xuống thứ hai, chứ không phải là không quan tâm, nhưng mà quan tâm ở mức độ thứ hai. Tức là về lâu dài quan hệ với Hoa Kỳ chắc chắn là cũng tốt hơn cho nhân quyền.”

Khi chúng tôi đặt câu hỏi về mối quan tâm của người Mỹ trong tương lai về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm nói rằng bản ngã của nước Mỹ là người đấu tranh cho tự do, cho nhân quyền và điều đó không bao giờ mất đi được.

 

Ngược dòng tin tức về Đại tướng Thanh

 Chủ đề về sức khoẻ của Đại tướng Phùng Quan Thanh đã và đang thu hút sự chú ý của dư luận (chỉ bốn bài trên trang BBCVietnamese Facebook đã thu hút 1 triệu 578 lượt xem trong vòng 24 giờ qua), xin điểm lại các tin chính và những sự kiện liên quan đến đề tài này những ngày qua theo nguyên văn những gì đã đăng tải:

VTC News 28/07: Đại tướng Phùng Quang Thanh đã tới tham dự chương trình giao lưu nghệ thuật “Khát vọng đoàn tụ” nhân kỷ niệm ngày Thương binh liệt sỹ (27/7).

Bộ trưởng đến dự chương trình từ rất sớm. Ông chủ động đi chậm, bắt tay từng người để phóng viên tác nghiệp.

Dù bị bệnh phổi và mới trải qua cuộc phẫu thuật, theo khuyến cáo của các bác sĩ bên Pháp, Đại tướng Phùng Quang Thanh phải kiêng và hạn chế tất cả các cuộc tiếp xúc và gặp gỡ nơi đông người. Tuy vậy, tối qua Bộ trưởng vẫn tham dự đến khi chương trình kết thúc.

Không những vậy, khi chương trình kết thúc, ông đi bắt tay chào quan khách và các mẹ Việt Nam anh hùng. Đặc biệt, khi ra xe, Bộ trưởng đã không lên xe luôn mà dừng lại hỏi các phóng viên ảnh đang tác nghiệp có chụp được nhiều ảnh đẹp không. Ông cho biết chương trình rất hay và ý nghĩa. Ông bắt tay từng phóng viên trước khi lên xe ra về.

BBCVietnamese.com 27/07: Đại sứ Hoa Kỳ Ted Osius đã hỏi thăm sức khỏe Đại tướng Phùng Quang Thanh khi gặp Thượng tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh. Một đại diện có mặt tại cuộc gặp công khai dẫn lời ông Vịnh đáp lại: “Cảm ơn ngài hỏi thăm sức khoẻ Bộ trưởng của chúng tôi”.

Sài Gòn Giải Phóng 25/07: Chiều 25-7, trao đổi với phóng viên Báo SGGP, Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam cho biết, sáng 25-7 ông đã gặp Đại tướng Phùng Quang Thanh và “Đại tướng rất mạnh khỏe”. Tại trụ sở Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã có buổi làm việc, nghe báo cáo về tình hình một số công việc trong thời gian ông đi chữa bệnh.

Tuổi Trẻ 25/07: Chiếc máy bay đưa Đại tướng Phùng Quang Thanh về nước của Vietnam Airlines, mang số hiệu VN A143, đã hạ cánh xuống Sân bay Nội Bài lúc 6 giờ 38 phút sáng 25/7.

Dân Trí 25/07: Lãnh đạo Cảng Hàng không Quốc tế Nội Bài xác nhận, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã về Hà Nội trên chuyến bay VN18 của Vietnam Airlines, xuất phát từ sân bay Charles de Gaulle, Paris (Pháp) và hạ cánh xuống sân bay Nội Bài lúc 6h10 sáng nay.

Đại tướng Phùng Quang Thanh trên VTV hôm 27/7

Dân Trí 20/07: Trung tướng Võ Văn Tuấn – Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam khẳng định sức khỏe Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh vẫn ổn định, Bộ trưởng sẽ về nước trong vài ngày tới.

Hãng thông tấn Đức DPA 20/07 dẫn một nguồn tin riêng nói ông Thanh đã qua đời sau ca mổ khối u tại Paris.

Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, sau đó đã bác bỏ thông tin này trên truyền thông Việt Nam và BBC.

Đài Á châu Tự do tại Mỹ 17/07 có bài ‘Tướng Thanh và sự đoản mệnh chính trị’.

Trí Thức Trẻ 07/07: Theo GS Phạm Gia Khải, vào tối 30/6, ông Thanh đã được phẫu thuật và cắt khối u trong phổi thành công.

Dân Trí 3/07: Tại Hà Nội, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội tổ chức hội nghị bàn giao nhiệm vụ Tư lệnh, Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Thực hiện các quyết định ngày 13/6 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Trung tướng Phí Quốc Tuấn, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô nghỉ hưu; Trung tướng Lê Hùng Mạnh – Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô nghỉ hưu; bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Doãn Anh – Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Thủ đô giữ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô; bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Thế Kết – Phó Chính Ủy giữ chức Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.

Người Lao Động 02/07: GS-TS Phạm Gia Khải cho biết lần mới đây nhất ông gặp Bộ trưởng Phùng Quang Thanh là ngày 22/6 vừa qua.

“Ngày 24/6 thì Đại tướng chính thức qua Pháp để điều trị” – GS Khải nói.

VietnamNet 19/06: ‘Tăng thẩm quyền cho Thủ tướng’ – Theo luật Tổ chức chính phủ (sửa đổi) được QH thông qua sáng nay, Thủ tướng được tăng thêm thẩm quyền quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.

Vietbao.com ở Hoa Kỳ điểm tin: Theo quyết định của Quốc hội Việt Nam thì kể từ ngày 01/1 năm 2016, theo đề nghị của Bộ trưởng Nội vụ, nếu có Bộ trưởng hay chức vụ ngang Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các cấp thành, tỉnh bị xem là sai phạm thì Thủ tướng có quyền cử người thay thế trong lúc giữa nhiệm kỳ Quốc hội chưa họp.

Ngày 15/05: Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh họp cùng Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn tại Lào Cai nhân dịp Tọa đàm hữu nghị Quốc phòng Biên giới Việt Nam – Trung Quốc lần thứ 2.

Khoa học gia cảnh báo về robot sát thủ

Giáo sư Stephen Hawking

Giáo sư Stephen Hawking cảnh báo về mối nguy hiểm của trí tuệ nhân tạo.

Hơn một ngàn chuyên gia công nghệ cao, khoa học gia và các nhà nghiên cứu đã viết một bức thư cảnh báo về sự nguy hiểm của vũ khí tự điều khiển.

Hòa cùng làn sóng phản đối mới đây nhất trước việc phát triển loại “robot sát thủ”, lá thư cảnh báo rằng “một cuộc chạy đua vũ khí quân sự AI (Artificial Intelligence – Trí tuệ nhân tạo) là một ý tưởng không hay”.

Trong số những người ký tên có khoa học gia Stephen Hawking, doanh nhân Elon Musk và người đồng sáng lập Apple, Steve Wozniak.

Lá thư này sẽ được đưa ra tại một hội nghị quốc tế AI hôm nay.

“Robot sát thủ” hiện đang là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận và gần đây đã được thảo luận tại các ủy ban của Liên Hiệp Quốc. LHQ sẽ xem xét khả năng cấm một số loại vũ khí điều khiển tự động nhất định.

Hiện nay các chuyên gia kêu gọi có một lệnh cấm cụ thể đối với việc sử dụng Trí tuệ nhân tạo để quản lý những vũ khí nào có thể “vượt ra ngoài tầm kiểm soát có ý nghĩa của con người”.

“Cũng như hầu hết các nhà hóa học và sinh vật học không quan tâm tới việc làm ra vũ khí hóa học hoặc sinh học, nhiều nhà nghiên cứu AI không quan tâm đến việc tạo ra vũ khí AI – và không muốn người khác làm hoen ố lĩnh vực của họ bằng cách tạo ra vũ khí này,” họ thêm.

Giáo sư MIT Noam Chomsky, Trưởng nghiên cứu AI của Google Demis Hassabis, và chuyên gia về tâm thức Daniel Dennett là trong số những người đã ủng hộ lá thư này.

Nội dung lá thư, được đăng trên trang mạng Viện Tương lai cuộc sống (FLI), sẽ được trình trước các đại biểu tại Hội nghị quốc tế về Trí tuệ Nhân tạo ở Buenos Aires.

AMA về AI

Giáo sư Hawking, một trong những người ký vào lá thư, hiện đang tham gia vào một phiên Ask Me Anything (AMA) trên Reddit, trong đó ông thu thập các câu hỏi về “làm cho tương lai của công nghệ được nhân bản hơn”.

Ông sẽ trả lời một số câu hỏi được chọn ra trong suốt tuần, nhưng cho tới nay chưa đăng câu trả lời đầu tiên của mình.

Hồi tháng Mười Hai, trong một cuộc phỏng vấn dành riêng cho đài BBC, vị giáo sư này đã nêu lên mối quan ngại của ông rằng AI có thể báo hiệu kết thúc của nhân loại.

“Con người, vốn bị hạn chế bởi sự tiến hóa chậm về sinh học, không thể cạnh tranh (với trí tuệ nhân tạo), và sẽ bị thay thế,” ông nói.

Tuy nhiên Eric Horvitz – người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Microsoft – người ký thư về vũ khí tự điều khiển – đã đưa lên mạng một đoạn video biện hộ cho các nghiên cứu AI khác.

“Quý vị nhìn xem máy tính đã làm được biết bao nhiêu cho xã hội chúng ta, cho kinh tế xã hội, trong các ứng dụng như y tế. Thật là không thể tin được. AI sẽ làm thay đổi rất nhiều thứ,” ông nói.

“Cùng với nó là rất nhiều hy vọng, rất nhiều lợi ích có thể có và cũng có một số quan ngại.

“Tôi cho rằng có những câu hỏi rất thú vị cần phải được giải quyết trong quá trình này nhưng tôi hy vọng kết quả đa phần là có lợi sẽ được đem lại từ các nghiên cứu này mà chủ yếu là do chúng ta định hướng nó.”

Tướng Thanh ‘ở lại trụ sở Bộ Quốc phòng’

 Bộ trưởng Phùng Quang Thanh tại Chương trình “Khát vọng đoàn tụ” tối 27/7

Trợ lý của Đại tướng Phùng Quang Thanh nói hôm 27/7 ông sẽ “ở lại trụ sở Bộ Quốc phòng chứ không về nhà riêng”.

Lý do được Thiếu tướng Ngô Quang Liên giải thích là để “hạn chế tiếp khách nhiều”.

Ông Liên cũng được dẫn lời nói “sau khi trở về từ Pháp, Đại tướng Phùng Quang Thanh khỏe mạnh, mọi sinh hoạt và làm việc điều diễn ra bình thường”.

Tuy nhiên, ông Thanh chỉ có thể làm việc “có mức độ” và chưa thể tham gia các hoạt động, sự kiện.

Thiếu tướng Liên nói: “Do bị bệnh phổi và mới trải qua cuộc phẫu thuật, theo khuyến cáo của các bác sĩ bên Pháp, Đại tướng Phùng Quang Thanh đang phải kiêng, hạn chế tất cả các cuộc tiếp xúc và gặp gỡ nơi đông người.”

Ông Phùng Quang Thanh đã không tham dự lễ đặt vòng hoa và viếng lăng Hồ Chủ tịch vào sáng thứ Hai 27/7 như dự định.

Thế nhưng ông đã có mặt tại sự kiện nhân Ngày Thương binh Liệt sỹ Việt Nam – Chương trình giao lưu nghệ thuật “Khát vọng đoàn tụ”, được truyền hình trực tiếp tối 27/7.

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam được giới thiệu tên, và ngồi cạnh các nhân vật lãnh đạo khác tại chương trình giao lưu nghệ thuật ở Bộ Quốc phòng.

Các bức ảnh cũng như sự xuất hiện của ông Phùng Quang Thanh trên truyền hình đã xua tan đồn đại rằng ông đã qua đời tại Pháp.

Trên ảnh và truyền hình, ông Thanh khá tươi cười khi tiếp xúc với các quan chức và người tham dự, tuy cũng có lúc tỏ ra mệt mỏi.

Trước đó một tuần, hãng thông tấn Deutsche Presse-Agentur (DPA) đưa tin Bộ trưởng Phùng Quang Thanh qua đời hôm 19/7 tại một bệnh viện tại Paris.

Hãng này sau đó đã thừa nhận thông tin “sai lầm” và gửi thư riêng xin lỗi Bộ trưởng Thanh.

Hôm 25/7 DPA cũng gửi thông báo bằng tiếng Đức tới khách hàng để xin lỗi.

Thông báo có đoạn: “Dựa vào một nguồn tương đối tin cậy, DPA ngày 19/7 đã đưa tin Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh qua đời vì ung thư tại một bệnh viện ở Paris. Thông tin này sau đó được chứng minh là sai sự thật. Chúng tôi muốn xin lỗi các quý vị vì sai sót này.”

Tướng Thanh xuất hiện trên truyền hình

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam được giới thiệu tên, và ngồi cạnh các nhân vật lãnh đạo khác.

Chương trình giao lưu nghệ thuật “Khát vọng đoàn tụ” được truyền hình trực tiếp tối 27/7.

Trước đó, trên mạng xã hội vẫn có dư luận hoài nghi rằng thực sự ông Thanh đã trở về nước sau thời gian chữa bệnh ở Pháp.

Truyền thông Việt Nam nói Tổng Bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến trực tiếp trò chuyện với Đại tướng Phùng Quang Thanh hôm 26/7.

Thế nhưng không có báo nào đăng ảnh ông Thanh.