Ông Trần Anh Kim lại bị khởi tố điều 79 BLHS

Thanh Trúc, phóng viên RFA.  2015-10-05

000_Hkg3081583

Cựu trung tá quân đội Trần Anh Kim tại tòa án tỉnh Thái Bình hôm 28/12/2009.

AFP photo

Cựu Trung Tá Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, ông Trần Anh Kim từng bị bắt và bị kêu án 5 năm 6 tháng tù và 3 năm quản chế vì tội âm mưu lật đổ chính phủ. Mãn hạn tù tháng Giêng 2015, đến ngày 21 tháng Chín ông bị bắt trở lại và sẽ bị khởi tố vẫn với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền như cáo buộc năm năm về trước.

Thanh Trúc ghi nhận ý kiến của một số nhà hoạt động dân chủ về chuyện này.

Bản tin AFP sáng thứ Hai 5 tháng Mười loan tin cựu trung tá Trần Anh Kim, nhà hoạt động dân chủ được trả tự do tháng Giêng năm nay nhưng còn 3 năm quản chế, bị bắt trở lại hồi tháng Chín và đang bị tạm giam trong bốn tháng để khởi tố tội âm mưu lật đổ chính quyền theo điều 79 Bộ Luật Hình Sự.

Đối với những người bất đồng chính kiến, việc ông Trần Anh Kim bị bắt trở lại là mối thương tâm cho cá nhân và cũng chung cho mọi người. Từ Hà Nội, nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Trung Lĩnh nói:

Anh Trần Anh Kim vận động thành lập tổ chức bao gồm những cựu quân nhân bên Việt Nam Cộng Hòa và bên Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Cái này là một cái mới, có tính cách kêu gọi các sĩ quan hai bên hợp tác với nhau để đấu tranh dân chủ, vấn đề mà đảng cộng sản rất e ngại và tìm cách nhấn chìm, anh Trần Anh Kim là thủ lĩnh thì họ bắt thôi.

Tôi nghĩ anh Trần Anh Kim là một người rất dũng cảm, vừa ra khỏi nhà tù và đang trong quản chế thì anh đã tham gia đấu tranh. Nhưng đúng là để bị bắt thì nó cũng hơi quá, nói chung là anh làm mạnh quá. Nếu đấu tranh khôn khéo và mềm mỏng thì có thể sẽ không bị bắt. Họ tìm những hạt nhân quan trọng để bắt và truy tố thì quả là thương tâm cho anh Trần Anh Kim.

Là sáng lập viên Hội Anh Em Dân Chủ và cũng từng là tù nhân lương tâm, luật sư Nguyễn Văn Đài cho rằng sự kiện ông Trần Anh Kim bị bắt là vấn đề thời điểm:

Nếu đấu tranh khôn khéo và mềm mỏng thì có thể sẽ không bị bắt. Họ tìm những hạt nhân quan trọng để bắt và truy tố thì quả là thương tâm cho anh Trần Anh Kim.
– Nhà hoạt động Nguyễn Trung Lĩnh

Anh Trần Anh Kim từ khi ra tù thì có tham gia Hội Anh Em Dân Chủ. Được một thời gian, anh nói là anh có dự án mới nên anh rút ra khỏi hội. Cách đây khoảng 2 tháng cho tới ngày anh bị bắt thì tôi được biết họ giữ anh tới ngày 3 tháng Mười rồi thông báo anh đã bị khởi tố theo Điều 79 và bị tạm giam 4 tháng để điều tra.

Nghe tin như vậy tôi rất sốc bởi vì từ đầu 2013 đến nay, chính quyền đã tạm ngưng bắt giữ những nhà hoạt động trong các tổ chức gọi là tổ chức chính trị. Không hiểu tại sao họ lại chọn thời điểm này, tôi vừa nghe tin đàm phán TPP vừa kết thúc và Việt Nam đang có cơ hội rất lớn trở thành thành viên chính thức của TPP khi nó có hiệu lực. Chắc chắn việc ký kết chính thức giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ diễn ra, một trong những điều kiện tiên quyết là phải tôn trọng nhân quyền và trả tự do cho tù nhân chính trị.

Tôi cho rằng một trong những nguyên nhân anh Kim bị bắt có thể là anh đã  chọn thời  điểm dự dịnh công bố tổ chức của anh chỉ hai ngày trước khi diễn ra đại hội đảng bộ tỉnh Thái Bình. Người cộng sản không bao giờ muốn người ta công khai thành lập những tổ chức đối lập vào những dịp rất quan trọng của họ. Anh Kim đã lựa chọn không đúng thời điểm cho nên đã bị bắt. Nếu anh có thể dừng lại sau kỳ đại hội đảng bộ của họ một vài tuần thì  chuyện trở nên bình thường hơn. Đó là vấn đề thời điểm.

Tổ chức mà cựu trung tá quân đội nhân dân, cựu tù chính trị Trần Anh Kim vận động thành lập với dự định công bố vào tối 21 tháng Chín có tên là Lực Lượng Quốc Dân Dựng Cờ Dân Chủ. Phát ngôn nhân của tổ chức này, ông Lê Thanh Tùng:

Kế hoạch cho ra mắt Lực Lượng Quốc Dân Dựng Cờ Dân Chủ 21 giờ ngày 21 tháng Chín thì 8 giờ sáng thì trung tá Trần Anh Kim đã bị bắt. Tình hình của  tôi cũng rất căng thẳng, chưa biết họ bắt tôi giờ nào và tôi cũng đang chuẩn bị tinh thần sẵn sàng.

Cảm tưởng của tôi bây giờ rất là đau xót nhưng mà anh em chúng tôi đã tiên liệu điều này. Chúng tôi là lính chiến, trách nhiệm của chúng tôi là phải bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân trước thảm họa xâm lăng của Tàu cộng, chúng ta sẽ trở thành khu tự trị thứ sáu của Trung Cộng, chính vì thế mà chúng tôi không kể cả bằng giá nào chăng nữa. Mọi người khuyên tôi nên chạy sang Thái Lan để xin tị nạn nhưng dứt khoát là tôi không đi. Anh em chúng tôi đã ăn thề với nhau rằng là sống cùng nhau và chết cùng nhau, dứt khoát không thể bỏ chủ tịch của chúng tôi tức là anh Trần Anh Kim.

Tôi cho rằng một trong những nguyên nhân anh Kim bị bắt có thể là anh đã chọn thời  điểm dự dịnh công bố tổ chức của anh chỉ hai ngày trước khi diễn ra đại hội đảng bộ tỉnh Thái Bình.
– Luật sư Nguyễn Văn Đài

Không hề quen nhưng biết về việc làm của  cựu trung tá Trần Anh Kim, nên nghe ông bị bắt cảm tưởng đầu tiên của nhà báo Phạm Chí Dũng là:

Tôi cảm thấy chưng hửng, cảm thấy tiếc cho anh và cảm thấy buồn. Theo tôi đó là một người có nhiệt tâm, muốn chống tham những, muốn có dân chủ, một trong những người được bên Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm đánh giá là sáng giá.

Chỉ tiếc quá là dường như anh đi hơi nhanh, còn nhanh như thế nào, làm được gì thì tôi không dám bình luận vì những người như vậy họ biết nhiều hơn hẳn mình. Thâm tâm tôi mong thế này, hy vọng anh Trần Anh Kim đợt này không bị nặng như lần trước và có thể đoàn tụ sớm với gia đình. Có 2 lý do mà ông Trần Anh Kim bị bắt, một, đây là giai đoạn sốt nóng chuẩn bị cho đại hội đảng lần thứ XII đầu 2016. Lý do thứ hai không phải liên quan tới TPP mà liên quan tới chuyến đi dự kiến có thể xảy ra của tổng thống Barack Obama vào tháng Mười Một năm 2015.

Nhà cách mạng lão thành Nguyễn Khắc Mai, giám đốc tổ chức Minh Triết Làm Chủ Biển Đông, cho hay ông vừa gởi một thư ngỏ có hai ý kiến  lên chủ tịch Trương Tấn Sang và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng:

Một ý là phải trưng cầu ý kiến của nhân dân nhân dịp đảng cộng sản đưa dự thảo báo cáo ra để lấy ý kiến. Lời thứ hai là tôi đề nghị nhân dịp này phải làm một cuộc đại ân xá, không phải tha mà thả hết tù chính trị, ông Trần Anh Kim là một trong số ấy.

Tôi cho rằng những việc bắt bớ đối lập chỉ vì họ phê phán đường lối, những hành xử không dân chủ, sự tham lam rồi cướp bóc của dân vân vân… Bắt bớ họ là trái với đạo lý của dân tộc mà một chính quyền có văn hóa không nên và không được làm như vậy.

Việc ông Trần Anh Kim bị bắt và bị khởi tố tội gọi là thành lập tổ chức để âm mưu lật đổ chính phủ, phạm Điều 79 Bộ Luật Hình Sự, là một lời kết tôi chung chung và mơ hồ như chính chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng từng công khai phát biểu:

Cái này Nguyễn Sinh Hùng đã nói huỵch toẹt ra rồi chứ không phải tôi, là “Muốn bắt ai thì bắt à?”Mà bây giờ tôi là người nói ở đây cũng có thể bắt được rồi đấy.

Vẫn theo lời ông Nguyễn Khắc Mai, hành động trấn áp, bắt giữ nhà hoạt động dân chủ Trần Anh Kim là chạm vào nỗi đau của những người từng nhiệt thành tham gia cách mạng nhưng khi đến tuổi già vẫn  cứ loay hoay không biết làm sao cho cái chế độ mình từng phục vụ trở nên tốt hơn và tử tế hơn.

Hội nghị Trung ương 12 bàn về nhân sự lãnh đạo

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok. 2015-10-05

Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã chính thức khai mạc sáng ngày 05-10-2015, tại Thủ đô Hà Nội

Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã chính thức khai mạc sáng ngày 05-10-2015, tại Thủ đô Hà Nội.  VOV

Đây là một hội nghị được cho là quan trọng chuẩn bị cho đại hội đảng cộng sản Việt Nam Khóa 12 dự kiến diễn ra vào năm tới, mà nhiều người mong đợi có những đổi thay so với lâu nay.

Nhân sự mới và chuyện ‘thoát Trung’!

Trang mạng Chính phủ Việt Nam loan tin hội nghị trung ương lần thứ 12 diễn ra trong tuần này từ ngày 5 đến 11 tháng 10, Bộ chính trị sẽ trình Trung ương kết quả giới thiệu nhân sự qua hai vòng của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan/đơn vị trực thuộc trung ương; báo cáo công tác chuẩn bị nhân sự bộ chính trị, ban bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung Tâm Minh Triết làm chủ Biển Đông trình bày một số nhận định hiện nay về vấn đề nhân sự cấp cao sẽ được đưa ra vào năm tới:

“ Về cơ bản, nhân sự phải đi theo đường lối. Hiện nay đường lối không thấy thay đổi gì, vẫn là Mác- Lê nin đã phá sản. Đường lối như thế ‘dơi không ra dơi, chuột không ra chuột’, không rõ ràng.

Thế thì hiện nay đang có mấy xu hướng tranh luận như thế này: một là lệ thuộc Tàu nhiều hay ít, thoát ra thế nào? Nhưng xu hướng lệ thuộc Tàu bị phá sản, nên đó là một khả năng có sự tương đối thống nhất với nhau: phải bảo vệ đất nước, phải thoát Trung. Thoát Trung là dân gian nói thôi chứ ‘họ’ không nói.

Về cơ bản, nhân sự phải đi theo đường lối. Hiện nay đường lối không thấy thay đổi gì, vẫn là Mác- Lê nin đã phá sản. Đường lối như thế ‘dơi không ra dơi, chuột không ra chuột’, không rõ ràng

Ông Nguyễn Khắc Mai

Thứ hai vẫn giữ đường lối Mác- Lê nin như hiện nay nhưng có khuynh hướng điều chỉnh nhỏ giọt. Ví dụ chủ trương vẫn giữ Mác- Lê nin, vẫn giữ Hồ Chí Minh, vẫn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng phải tăng cường coi trọng kinh tế tư nhân.

Còn khuynh hướng nữa là ‘muốn tử tế’ thì phải thay đổi chế độ.”

Thay đổi chính sách!

Một nhà nghiên cứu Việt Nam hiện đang nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, vào cuối tháng 8 vừa qua cho rằng chính sách ngoại giao của Việt Nam đối với Trung Quốc sau đại hội đảng 12 còn tùy thuộc vào thái độ của Bắc Kinh ở Biển Đông. Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp phát biểu:

“ Về chính sách đối ngoại (của Việt Nam) kể cả sau đại hội 12 khả năng có những đột biến, có những thay đổi lớn về chính sách đối ngoại thì tôi nghĩ khả năng đó tương đối thấp.  Tôi nghĩ những chính sách hiện tại vẫn được tiếp tục; tuy nhiên tiếp tục trong chiều hướng nào? Ví dụ chuyển động của chính sách đối ngoại của Việt Nam giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra nhanh hay chậm là tùy thuộc nhiều vào động thái của Trung Quốc trên Biển Đông hơn thay đổi về mặt lãnh đạo hay thay đổi về mặt chính sách của Việt Nam. Theo tôi ở một mặt nào đó chính sách của Việt Nam mang tính chủ động, nhưng ở một khía cạnh khác thì lại chủ động theo nghĩa đối phó với các hành vi, các bước đi của Trung Quốc trên Biển Đông. Cho nên phải chờ xem Trung Quốc có tiếp tục hung hăng, hiếu chiến hay không hay họ có cách tiếp cận khác. Trong trường hợp họ tiếp tục có những hành động gây hấn, hiếu chiến thì các chuyển động chính sách của Việt Nam sẽ nhanh hơn, sẽ dễ có các bước đi táo bạo hơn; nếu không cứ như tình hình hiện tại thì theo tôi ít có khả năng đó. Và các điều chỉnh nếu có sẽ xảy ra từ từ, tiệm tiến hơn là có những thay đổi lớn.”

Lệ thuộc kinh tế ‘Trung Quốc’

Trong khi đó giáo sư Ngô Vĩnh Long, Khoa Sử, Đại học Maine Hoa Kỳ vào tháng 8 chỉ ra tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam cũng như thực tế Trung Quốc đang bỏ tiền ra mua đất đai, bất động sản và thuê hay mua kho bãi để chứa hàng như là hoạt động khuynh loát của Trung Quốc về mặt kinh tế đối với Việt Nam.

Trung Quốc đưa hàng vào Việt Nam có hai lý do: một ở bên nước họ quá nhiều hàng tồn kho, nếu không đẩy đi thì không vay tiền được của ngân hàng thêm nữa để sản xuất; hai họ đẩy hàng sang Việt Nam để chờ Hà Nội ký TPP và nói đó là hàng của Việt Nam và dùng cái đó để xuất đi

giáo sư Ngô Vĩnh Long

“ Từ 6-7 năm nay các tỉnh được quyền sử dụng đất, trừ những nơi nào dính đến an ninh quốc gia. Trung Quốc đưa người đến tận các tỉnh và huyện tìm mọi cách để mua chuộc các lãnh đạo ở đó. Đó cũng là điều mà tại sao chúng ta thấy bao nhiêu vấn đề lem nhem trong vấn đề đất đai. Đất đai rất quan trọng đặc biệt ở các tỉnh duyên hải hay các tỉnh gần thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tôi cho ví dụ là những kho hàng ở chung quanh Hà Nội, Sài Gòn giá một bộ vuông ( square foot) tùy nơi từ khoảng 3,5 đến 4 đô la mấy. Trong khi giá một bộ vuông kho hàng ở Boston là 2,10 đô la và ở Los Angeles cũng khoảng 2,10 đến 2,20 đô la. Theo điều tra của một số người và của tôi thì Trung Quốc mướn những kho để đưa hàng của họ vào. Đó là lý do vì sao mà giá đắt đến như vậy.

Trung Quốc đưa hàng vào Việt Nam có hai lý do: một ở bên nước họ quá nhiều hàng tồn kho, nếu không đẩy đi thì không vay tiền được của ngân hàng thêm nữa để sản xuất; hai họ đẩy hàng sang Việt Nam để chờ Hà Nội ký TPP và nói đó là hàng của Việt Nam và dùng cái đó để xuất đi. Cho nên số tiền vào rất nhiều, chẳng hạn năm ngoái ‘nhập siêu’ của Trung Quốc với Việt Nam là 20 tỷ đô la. Số tiền này rất lớn: hai lần số tiền Việt Nam xuất siêu sang Mỹ. Năm nay chưa hết năm mà nhập siêu của Trung Quốc đối với Việt Nam đã 32 tỷ đô la rồi.

Vậy đặt câu hỏi ‘số tiền lớn đó đi đâu?’ Nó được dùng để mua đất đai, thuê hay mua kho hàng và kể cả mua địa ốc tại Sài Gòn và một số chỗ khác. Cho nên nhìn vào ‘lũng loạn’ kinh tế của Trung Quốc, tôi thấy còn nguy hiểm hơn tình hình Biển Đông nữa. Có thể họ ‘rục rịch’ ở Biển Đông để đánh lạc hướng nhằm gây ảnh hưởng trên đất liền.”

Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp cho rằng cần phải chờ xem và ông hy vọng sẽ có những chuyển động được nói là kiên quyết hơn với Trung Quốc.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai thì cho rằng dù bất cứ ai được đưa vào các chức vụ lãnh đạo đất nước đều cần phải vì dân, vì nước chứ không thể vì ý thức hệ cộng sản mà theo ông này đã quá lỗi thời. Ông Nguyễn Khắc Mai so sánh việc Nga đã từ bỏ chủ nghĩa đó như cưa bỏ ‘cặp sừng trâu’; trong khi ấy Hà Nội qua dự thảo báo cáo chính trị đại hội đảng 12 được phổ biến thì chưa thấy có gì đổi thay mà dường như lại tiếp tục đi vào ngõ cụt của chiếc sừng trâu mà Nga từng cưa bỏ.

Hội nghị Trung ương lần thứ 12 khai mạc hôm nay tại Hà Nội và tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam có bài phát biểu khai mạc.

TPP: Việt Nam ai mừng ai lo?

Image copyrightReuter.  Dệt may Việt Nam được dự đoán sẽ tăng trưởng nhờ TPP

Sau nhiều nỗ lực và không biết bao nhiều vòng đàm phán, Hiệp định thương mại TPP, là Hiệp định thương mại lớn nhất trong lịch sử, gồm 40% của tổng GDP toàn cầu, cuối cùng đã được cả 12 nước thành viên đồng ý.

Dù vẫn còn một số trở ngại trong Quốc hội Hoa Kỳ…dường như TPP đã được đàm phán thành công.

Việc này sẽ có những tác động đáng kể đối với sự phát triển của nền kinh tế Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Vậy, dân Việt Nam nên mừng về kết quả này? Hay mừng bao nhiêu %? Ở đây chỉ xin chia sẻ vài ấn tượng đơn giản, chưa sâu.

Thứ nhất, gần như tất cả những nhà quan sát đều đồng ý “Việt Nam” sẽ là một trong những “người” thắng – tức là sẽ là một “bigWINNER,” chủ yếu vì TPP sẽ (1) mở rộng và nâng cao khả năng của các công ty sản xuất tại Việt Nam để tiếp cận những thị trường lớn trong khối, trong đó có Hoa Kỳ.

(2) Do đó, cũng sẽ khuyến kích FDI vào Việt Nam. Oh, nhiều tiền hơn hả? Thế thì tốt quá! Phải không? Cũng tốt chứ, nhưng tiền đó sẽ đi đâu, vào túi của ai? Các công ty (cả của Việt Nam lẫn ngoại quốc) sẽ ‘ăn’ bao nhiêu? Còn người dân? Những đồng tiền này sẽ tác động đến tài chính công cộng/ngân sách nhà nước như thế nào? Nhiều câu hỏi lắm. Chính vì thế nói “Việt Nam” sẽ có nhiều lợi ích là chưa được. Phải hỏi và nói cụ thể: Việt Nam là ai? Ai ở Việt Nam sẽ được quyền lợi .v.v…

(3) Điểm được đề cập và nêu ít hơn nhưng tôi thấy quan trọng hơn, liên quan đến khả năng của TPP để kích thích những bước phát triển trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tại Việt Nam.

Ở đây phải xin lỗi vì tiếng Việt của mình còn quá hạn chế để nói/viết đúng. Theo Hiệp định TPP (cũng như hiệp định EU đã được ký cách đây mấy tháng) để được miễn thuế v.v., những hàng hóa xuất khẩu ở Việt Nam phải gồm những “đầu vào” (inputs) từ trong nước (hay các nước thành viên của TPP khác).

Điều này có thể khuyến khích các nhà sản xuất tại Việt Nam đầu tư nhiều hơn trong nước, và đồng thời giảm sự hấp dẫn của mô hình nhập khẩu đầu vào từ Trung Quốc lắp ráp tại Việt Nam. Như nhiều người Việt Nam thấy, kinh tế “lắp ráp” chưa thực sự là một nền kinh thế công nghiệp đúng nghĩa.

Khuyến khích chất lượng

Như vậy, TPP có thể khuyến khích các ngành công nghiệp ở Việt Nam có những bước đột phá đối với công nghệ, sáng tạo, v.v., đầu từ mạnh hơn vào việc nâng cấp công nghệ, nâng cao chất lượng…

Vậy, sao ở đầu bài tôi hàm ý chưa chắc nên mừng về TPP? Tất nhiên, việc TPP sẽ mở rộng những cơ hội cho Việt Nam cũng như gia tăng FDI vào Việt Nam là hai tác động hứa hẹn. Nhưng, cuối cùng, những lợi ích của TPP đối với người dân Việt Nam sẽ phụ thuộc vào hiệu quả của các thể chế chính trị và kinh tế trong nước.

Với vị trí chiến lược và những lợi thế đó, chắc chắn nền kinh tế của Việt Nam sẽ tiếp tục có tăng trưởng từ 5% trở lên. Nhưng câu hỏi đặt ra là không phải Việt Nam có thể có tăng trưởng kinh thế như thế nào mà là chất lượng của sự phát triển của Việt Nam sẽ ra sao?

Nếu ở các nước tư bản có câu nói rằng chủ nghĩa tư bản là quan trọng để cho những nhà tư bản quản lý, thì có lẽ ở Việt Nam có thể nói kinh tế thị trường là quan trọng để thống trị bằng một hệ thống thiếu minh bạch.

Như vậy, đối với TPP tôi thấy nếu cải cách thể chế theo hướng minh bạch bao nhiều, số người dân Việt Nam có lý do để mừng về Hiệp định TPP sẽ tăng bấy nhiêu.

Tóm lại: TPP sẽ mang lại những cơ hội tốt cho Việt Nam. Nhưng những tác động của TPP tới sự phát triển của Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các thể chế chính trị, kinh tế ở Việt Nam trong những năm tới. Còn sớm là đúng.

Bài đã đăng trên trang web cá nhân, thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ, giảng viên tại Đại học Thành thị Hong Kong.

Ông Trần Anh Kim lại bị bắt vì Điều 79

Ông Trần Anh Kim tại phiên tòa tháng 12/2009

Chín tháng sau khi mãn hạn tù, nhà đấu tranh Trần Anh Kim lại bị tạm giam với cáo buộc ‘hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’ theo Điều 79 Bộ luật Hình sự.

Ông Kim bị tạm giam bắt đầu từ 1/10 và dự kiến sẽ bị truy tố theo Điều 79.

Trong cuộc trao đổi với BBC hôm 6/10, bà Nguyễn Thị Thơm, vợ ông Kim, cho biết: “Phòng điều tra an ninh tỉnh Thái Bình bắt chồng tôi, khám xét nhà và tịch thu tài liệu của ông ấy trong lúc tôi bị giữ ở trụ sở công an hôm 21/9”.

Bà Thơm nói thêm, công an thông báo rằng ông Kim tàng trữ tài liệu mà họ bảo là của ‘Tập hợp quốc dân dựng cờ dân chủ’, cũng như giấy ghi lời ra mắt một tổ chức dân chủ mà ông làm chủ tịch.

Ngoài ra, công an bảo chồng bà phạm luật vì “trả lời phỏng vấn đài nước ngoài”.

‘Không việc gì phải xấu hổ’

“Công an thông báo thế nào thì tôi chỉ biết thế ấy. Vợ chồng tôi tôn trọng suy nghĩ của nhau. Ông ấy bảo tôi không việc gì phải xấu hổ vì những điều ông ấy làm chỉ vì quyền lợi của người dân”, bà nói.

Bà Thơm cho biết trước ngày bị bắt trở lại, ông Kim đang trong tình trạng “rụng hết răng, thân tàn ma dại vì 5 năm rưỡi tù trước đó”.

Bà cho hay đã chuẩn bị tâm thế sẵn sàng bươn chải một mình và đi tiếp tế cho chồng vào thứ Năm hàng tuần.

Theo bà, tuy ông Kim đã bị bắt đi nhưng hiện tại công an vẫn duy trì chốt canh gác gần nhà và theo dõi gắt gao mọi hoạt động của bà.

Bà Thơm cho biết mình hiện đang làm cấp dưỡng tại một công ty tư nhân, cuộc sống eo hẹp nhưng luôn “tin tưởng chồng là người hiểu biết, xác định việc ông ấy làm là đúng”.

Tự nhận mình là người không am hiểu về luật, nhưng bà bày tỏ hy vọng chồng mình sẽ được các tổ chức nước ngoài can thiệp để được trả tự do vì “ông Kim đã già, sức khỏe kém và đã chịu nhiều khổ ải trong chiến tranh và tù đày”.

Ông Kim được tổ chức Human Rights Watch (HRW) trao giải Hellman/Hammett năm 2009

Cựu sỹ quan quân đội

Ông Trần Anh Kim, 66 tuổi, đã đi tù hai lần, lần đầu năm 1994-1995 khi còn trong quân ngũ.

Trong phiên tòa ngày 28/12/2009, ông Trần Anh Kim bị buộc tội đã tham gia Đảng Dân chủ Việt Nam, phát tán tài liệu trên mạng internet và tham gia Khối 8406, một phong trào đấu tranh dân chủ ở trong nước.

Ngay sau khi ra tù tháng 1/2015, ông Kim nói với BBC rằng ông “không thay đổi con đường đã chọn”.

“Tôi sẽ vẫn tiếp tục đấu tranh cho tự do, dân chủ”.

Ông cũng khẳng định không bao giờ nhượng bộ trước áp lực từ chính quyền.

Sinh năm 1949, ông Kim từng mang quân hàm trung tá, giữ chức Bí thư Đảng ủy quân sự, phó chỉ huy chính trị Ban quân sự Thị xã Thái Bình.

Ông là thương binh, đã được tặng thưởng nhiều huân huy chương.

Ông được tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch (HRW) trao giải thưởng Hellman/Hammett năm 2009.

Việt Nam sẽ thực hiện những cam kết về quyền của người lao động trong TPP?

Việt Hà, phóng viên RFA, 2015-10-05

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-commits-to-adhere-labor-conditions-in-tpp-vh-10052015151752.html

  • Việt Nam cam kết thực hiện những cam kết về quyền của người lao động trong TPPPhần âm thanh Tải xuống âm thanh
053_4TPP20151005238

Đại diện 12 nước tham gia đàm phán TPP tại Atlanta, Mỹ ngày 5/10/2015

AFP photo

Vào 5 giờ sáng giờ miền Đông Hoa Kỳ ngày 5 tháng 10, 12 nước tham gia Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP đã kết thúc vòng đàm phán cuối cùng tại Atlanta. Kết thúc đàm phán, 12 đại diện của các nước tham gia đàm phán đã có cuộc họp báo ngắn, đề cập đến một loạt các khúc mắc liên quan đến thỏa thuận này trong đó có vấn đề về quyền của người lao động mà đại diện Việt Nam coi là một trong những vấn đề khó khăn và nhạy cảm nhất.

Sau 8 năm với nhiều vòng đàm phán, cuối cùng, hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là TPP) giữa 12 nước thành viên đã đạt được vào 5 giờ sáng giờ miền Đông Hoa Kỳ ngày 5 tháng 10. Vào 9 giờ sáng cùng ngày, đại diện các nước tham gia đàm phán đã có cuộc họp báo ngắn thông báo kết quả đàm phán.

Phát biểu mở đầu buổi họp báo, đại diện thương mại Mỹ, Michael Forman ca ngợi thỏa thuận mới đạt được:

Sau hơn 5 năm với những vòng đàm phán căng thẳng, chúng tôi đã đạt được thỏa thuận sẽ tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, thúc đẩy đổi mới trên khắp khu vực châu Á Thái Bình Dương. Nhưng điều quan trọng hơn cả là thỏa thuận đã đạt được mục tiêu mà chúng tôi đặt ra đó là một thỏa thuận đầy tham vọng, toàn diện, chuẩn mục cao và sẽ có lợi cho người dân các nước thành viên.

Đại diện thương mại Mỹ cũng hy vọng thỏa thuận đạt được giữa các nước có GDP chiếm 40% GDP trên toàn thế giới, sẽ mang lại những lợi ích cụ thể trong xóa đói giảm nghèo ở từng quốc gia:

Sau hơn 5 năm với những vòng đàm phán căng thẳng, chúng tôi đã đạt được thỏa thuận sẽ tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, thúc đẩy đổi mới trên khắp khu vực châu Á Thái Bình Dương.
– Ông Michael Forman

Chúng tôi hy vọng thỏa thuận lịch sử này sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, hỗ trợ cho những công việc được trả lương cao hơn, cải thiện sức sáng tạo, năng suất, sức cạnh tranh, tăng mức sống, giảm đói nghèo ở các nước, cải thiện tính minh bạch trong điều hành, bảo vệ môi trường và người lao động.

Phát biểu tại buổi họp báo, đại diện từ phía Australia nhìn nhận thỏa thuận mới thực sự có tính đổi mới và là thảo thuận thương mại lớn nhất, đầy tham vọng nhất với sự tham gia của nhiều quốc gia trong suốt 20 năm qua, định hình các thỏa thuận thương mại khác trong thế kỷ 21.

Ngay sau khi thỏa thuận vừa đạt được. Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã có thông cáo báo chí hoan nghênh thỏa thuận. Ông nói rằng thỏa thuận mới đã đưa đến một sân chơi bình đẳng cho các nông dân, chủ trang trại, người sản xuất bằng cách loại bỏ hơn 18,000 thứ thuế mà các nước áp dụng lên hàng hóa. Thỏa thuận cũng bao gồm những cam kết mạnh mẽ nhất của các nước về lao động và môi trường so với các thỏa thuận thương mại trước đó trong lịch sử và những cam kết này hoàn toàn có thể thực thi.

Hội đồng thương mại Mỹ ASEAN, hôm 5 tháng 10 cũng ra thông cáo báo chí ca ngợi thỏa thuận mới đạt được. Thông cáo viết thỏa thuận sẽ có ảnh hưởng lớn và tích cực lên quan hệ thương mại giữa Mỹ và các nước ASEAN và là một nhân tố quan trọng trong cam kết của Mỹ tại Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung.

Để đạt được kết quả cuối cùng, các nước tham gia đàm phán cũng có những nhượng bộ nhất định ở vòng đàm phán cuối như bản quyền thuốc, chế tạo xe hơi và sản phẩm từ sữa.

Riêng trong vấn đề về lao động và quyền của người lao động, đại diện thương mại Mỹ cho biết hiệp định mới thiết lập tiêu chuẩn lao động rất cao so với bất cứ hiệp định thương mại nào trước đó, trong đó bao gồm quyền lập hội, quyền đàm phán của người lao động, chống cưỡng bức lao động, phân biệt đối xử, lương và an toàn cho người lao động. Hoa Kỳ cam kết sẽ làm việc chặt chẽ với các nước để đạt được những tiến bộ thực sự trong việc cải thiện đời sống của người lao động.

Với Việt Nam, một trong những vấn đề phức tạp nhất trong đàm phán TPP là lao động. Bộ trưởng Bộ Công thương, Vũ Huy Hoàng, đại diện đàm phán từ phía Việt Nam phát biểu tại buổi họp báo rằng Việt nam cam kết thực hiện những điều kiện về lao động đưa trong hiệp định vốn cũng là những quy đinh của Tổ chức Lao động Thế giới ILO, mà Việt Nam là thành viên.

Chúng tôi là một trong 12 nước tham gia TPP và là nước kém phát triển trong nhóm, nhưng chúng tôi nghĩ là chúng tôi sẽ vượt qua được mọi khó khăn để hoàn tất những application và quyền hạn của mình.
– Ông Vũ Huy Hoàng

Tôi nghĩ vấn đề lao động là một trong những vấn đề khó khăn và nhạy cảm nhất cho Việt Nam trong quá trình đàm phán. Chúng tôi đã dành nhiều thời gian đàm phán với các đối tác. Tôi nghĩ, những điều kiện về lao động đưa ra trong thỏa thuận không phải chỉ của riêng Hoa Kỳ hay bất cứ nước nào mà là của ILO. Việt Nam là thành viên của ILO và chúng tôi cam kết thực hiện các quyền và nghĩa vụ với các điều kiện của ILO và tôi nghĩ đây là cam kết và sự sẵn sàng mà chúng tôi sẽ thực hiện liên quan đến các vấn đề về lao động.

Hiện Việt Nam chưa cho phép công nhân được lập các công đoàn độc lập mà phải tham gia vào công đoàn do nhà nước chỉ đạo.

Bộ Trưởng Vũ Huy Hoàng cũng nói mặc dù tham gia đàm phán, Việt Nam là một nước kém phát triển so với các nước khác, nhưng ông tin Việt Nam sẽ vượt qua được những khó khăn của mình để thực hiện các cam kết đưa ra trong hiệp định.

Việt Nam, Malaysia và brunei cùng tham gia  TPP và ASEP. Tôi nghĩ là đối với Việt Nam, chúng tôi là một trong 12 nước tham gia TPP và là nước kém phát triển trong nhóm, nhưng chúng tôi nghĩ là chúng tôi sẽ vượt qua được mọi khó khăn để hoàn tất những application và quyền hạn của mình. Nếu chúng tôi đã quyết định tham gia vào đàm phán ASEP thì tôi nghĩ chúng tôi cũng sẽ tuân theo cùng cách như khi chúng tôi đã làm với các nước khi tham gia đàm phán TPP.

Cũng trong buổi họp báo, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng nhận định việc tham gia TPP sẽ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam phát triển, do đó cải thiện đời sống của người dân vì theo ông ngành công nghiệp này thu hút hàng triệu lao động tại Việt Nam.

Chỉ Một CÂU HỎI Thôi: “Tại sao anh có mặt ở đây ?”

Đặng Chí Hùng

Dịp rảnh rỗi, tôi được mời đến nhà của một người bạn ăn cơm. Không khí quả là đông vui của ngày cuối tuần đồng thời là bữa tiệc sum họp gia đình, bạn bè. Sống ở xứ Người mà có thời gian như vậy là rất quý báu. Ở đây ai cũng làm, cũng học thật miệt mài, chỉ tranh thủ có 2 ngày cuối tuần gia đình bạn bè gặp gỡ.
 
Câu chuyện đang hào hứng và đầm ấm. Bỗng có mấy người bàn về chuyện đi du lịch. Hai cặp vợ chồng người bạn kể về chuyến du lịch mà theo họ là “thú vị” khi bay từ Canada về Trung Cộng rồi đi tàu thủy qua Singapore, Thailand và Việt Nam. Giá của chuyến đi khá rẻ, khoảng 2000 Canadian Dollar / người cho chuyến đi trọn gói đó. Tính với mức thu nhập ở Canada thì đó là khá rẻ. Ai cũng vui, ai cũng cười và chung nhau những ly rượu thật đậm đà.
Nhưng ở góc phòng, chỉ có tôi và anh bạn thân lặng lẽ bỏ ra ngoài hút thuốc lá. Đã lâu rồi tôi không hút thuốc, nhưng hôm đó tôi bỗng nhiên thèm thuốc trở lại, cái thèm để xua đi nỗi buồn, cái thèm để xóa những ưu tư. Không ai bảo ai nhưng anh bạn thân và tôi đều hiểu chúng tôi bỏ ra ngoài vì lý do gì. Chúng tôi không muốn nghe những chuyến đi đó bởi nó đang góp phần giúp cho Trung Cộng thu được những đồng tiền để tiếp tục xâm lấn Việt Nam, còn Việt Cộng cũng thu được những đồng tiền để có thể tiếp tục đàn áp người dân Việt. Hai anh em chúng tôi đều tự hứa với nhau không trở về Việt Nam khi còn Việt Cộng.
 
Thật ra, không phải chỉ những anh em trong bữa tiệc mà chúng tôi dự hôm đó mới có những chuyến đi về Việt Nam, chuyến đi Trung Cộng tưng bừng. Mà còn rất, rất nhiều người Việt trên khắp toàn cầu vẫn có những chuyến đi như vậy. Họ vô tình đã tiếp tay cho giặc và Việt gian tiếp tục đàn áp những người dân Việt Nam.
 
Câu chuyện của những người hải ngoại trở về Việt Nam hoặc đi tới Trung Cộng chỉ dừng lại ở một câu hỏi. Câu hỏi thật giản đơn mà có lẽ ai cũng biết nhưng ít người dám trả lời. Câu hỏi đó là : “Tại sao anh có mặt ở đây ?”. “Ở đây” chính là Hải ngoại này, chính là những quốc gia có tự do dân chủ như Canada, Mỹ, Pháp, Đức…
questionmarkNói về những người ở đây thì có nhiều dạng như tị nạn, di dân kinh tế, du sinh vv…Nhưng tựu chung có hai lý do chính đó là vì chính trị hoặc ra đi vì kinh tế. Nếu vì lý do chính trị thì rõ ràng là không có lý do gì để biện hộ cho việc anh quay về Việt Nam ăn chơi, anh đi sang Trung Cộng để tiêu tiền cả. Đó chính là một sự phản bội chính lý tưởng của mình. Lý tưởng của người tị nạn chính trị không đội trời chung với cộng sản. Ăn chơi nơi xứ cộng sản là tiếp tay cho chúng, là bán rẻ lương tâm, là xé bỏ căn cước tị nạn chính trị. Các vị tị nạn chính trị nghĩ gì khi nhớ lại lúc phỏng vấn định cư?. 100% các vị trả lời rằng đi vì lý do không sống được với cộng sản. Vậy thì nay ai về Việt Nam ăn chơi liệu có còn nhớ đến những gì mình đã khai báo với Cao Ủy tị nạn và Chính quyền các nước nhận mình?.
 
Nếu nói về những ai qua đây vì lý do kinh tế bao gồm di dân kinh tế, du sinh và tị nạn kinh tế thì cũng cần câu hỏi đó. Vì sao anh đến đây ? Bởi vì ở Việt Nam kinh tế, giáo dục, y tế là một sự thấp kém nên các vị phải ra đi tìm chốn tốt hơn. Điều đó là hợp lý. Nhưng rõ ràng như vậy các vị đã thừa nhận CSVN không hề tốt đẹp gì cả nên khiến các vị phải ra đi. Nếu ở Việt Nam tốt đẹp, có một nền kinh tế phát triển tốt thì các vị sẽ chẳng ra đi để phải bắt đầu lại từ đầu với đủ thứ khó khăn như: ngôn ngữ mới, văn hóa mới và hàng năm mất tiền về thăm gia đình…Như vậy các vị cũng phải thù ghét cộng sản mới đúng chứ. Vì cộng sản đã không cho các vị được cuộc sống tốt đẹp trên chính quê hương mình.
Nói như vậy, nhưng chúng ta cũng thông cảm với một phần nhỏ nào đó phải trở về Việt Nam thăm cha mẹ, ông bà còn đau yếu hoặc tang gia. Nhưng số đó rất ít và có thể thông cảm được.
 
Rõ ràng dù ra đi với lý do chính trị hay kinh tế thì chúng ta vẫn là người Việt Nam, chúng ta cần phải nghĩ về cho đất nước và dân tộc chúng ta còn trong vòng kiềm tỏa của CSVN, cũng như vòng xâm lăng của giặc Tầu. Chúng ta có ích kỷ không khi chúng ta trở về Việt Nam hoặc đi sang Trung Cộng để tiêu những đồng tiền như thể tiếp máu cho loài quỷ đàn áp chính đồng bào mình. Không thiếu gì chốn tươi đẹp để chúng ta đi du lịch, để chúng ta hưởng thụ. Chúng ta không thể bỏ những đồng tiền ra mà không suy nghĩ điều đó cho quê hương Việt Nam. Chúng ta không nghĩ đến điều đó là chúng ta ích kỷ. Một điều quan trọng hơn, xứ sở tự do chúng ta đang sống dạy cho chúng ta sự yêu thương, sự chia sẻ, không ích kỷ cá nhân và cả tình yêu thương đất nước, dân tộc. Vậy mà lẽ nào chúng ta quên đi cội nguồn dân tộc, quên đi những bài học nhân bản nơi xứ tự do để mua lấy những thú vui rẻ tiền. Điều đó thật đáng buồn !
 
Thưa các quý vị !
 
Không ai có quyền chỉ trích ai, quyền đi đâu, làm gì và tiêu tiền ở đâu chính là quyền của các bạn. Nhưng xin các bạn hãy luôn nhớ chỉ một câu “Tại sao các bạn ở đây, ở xứ này ? “ để thấy rõ lý do mình có là phía đối lập của CSVN hay không. Và các bạn cũng cần đắn đo suy nghĩ xem những gì mình đang làm có tiếp tay cho CSVN, Trung Cộng đàn áp quê hương chúng ta hay không. Nghĩ đến những điều đó bằng tấm lòng dân tộc, chắc chắc chúng ta sẽ có câu trả lời đúng cho riêng mình.
 
Không có đâu bằng quê hương mình, điều đó ai cũng hiểu. Tôi biết rằng tất cả đồng bào dù ra đi với lý do gì cũng hết lòng yêu quê hương mình. Chỉ cần các bạn nghĩ đến quê hương theo cách thật rõ ràng, không tiếp tay cho Trung Cộng xâm lấn, không tiếp tay cho bạo quyền đàn áp thì sẽ tốt hơn cho dân tộc Việt Nam. Yêu quê hương bằng cách lo cho những người còn ở lại chính là một điều đáng làm. Nhưng lo bằng cách nào cho đúng đắn ?.Đó chính là vấn đề cũng cần phải bàn đến.
 
Theo ước tính, năm 2015 sẽ có 15 tỷ USD tiền từ nước ngoài chuyển về Việt Nam. Đó là một nguồn tiếp máu vô giá cho CSVN vì đã từ lâu CSVN dựa vào những đồng ngoại tệ để tiếp tục nuôi dưỡng quân đội và công an đàn áp người dân chúng ta. Nếu chúng ta không tiếp máu bằng những đồng ngoại tệ, những chuyến ăn chơi tốn kém của chính chúng ta thì chắc chắn chế độ độc tài CSVN sẽ phải sụp đổ trong tương lai rất gần bởi vì lý do kinh tế.
 
dongtiengoivevn
Những đồng tiền chuyển về Việt Nam(Ảnh: Reuter)
 
Vì một số bất đắc dĩ vẫn còn cha mẹ già tại Việt Nam, việc gửi tiền là không thể tránh khỏi. Nhưng tất cả bà con hãy giảm xuống tới mức có thể. Hãy thôi những chuyến đi chơi về Việt nam, sang Trung Cộng thì điều đó thật tốt cho công cuộc tự do dân chủ cho Việt Nam.
Trở lại bữa tiệc, hai anh em chúng tôi không còn vui nữa vì chúng tôi cảm giác có những cái gai đâm vào tim chúng tôi. Những trái tim đang đau đáu về quê hương Việt Nam đang rỉ máu. Cái gai đó đến từ chính những người bạn của chúng tôi, họ đã vô tình tiếp máu cho giặc Tàu và cả giặc cộng tiếp tục đàn áp dân tộc của chúng tôi. Biết rằng họ chỉ vô tình, nhưng có lẽ đó là nỗi đau mà tôi thấm thía lý do vì sao hơn 40 năm qua chúng ta chưa lật đổ được chế độ cộng sản tại Việt Nam.
 
Một, chỉ một câu hỏi cứ lan man và bay bổng trong đầu tôi “Vì sao chúng ta ở đây?”. Câu hỏi đó là giành cho tất cả chúng ta, những người mang căn cước tị nạn cộng sản, những người ra đi vì cuộc sống khó khăn tại Việt Nam. Câu hỏi đó không giành cho riêng ai cả. Tất cả chúng ta, những ai có măt “ở đây” đều có chung câu hỏi đó.

Đêm đất Khách ta hướng về đất Mẹ
Lòng nghẹn ngào hai tiếng “Quê Hương”

Ta tự hỏi làm gì cho Dân Tộc ?
Không đắm chìm trong nô lệ ngàn năm.
Xin hãy sống cuộc đời cho Đất Nước
Cho những người xa tận phía trời Nam
Còn nhịp thở, ta xin đừng vô cảm
Đất Mẹ hiền sẽ chẳng thể nào quên.

 
Đặng Chí Hùng
18/09/2015

Vụ án gián điệp cho Trung Quốc và dấu hiệu thay đổi ở Việt Nam*

http://www.danchimviet.info/archives/98520/vu-an-gian-diep-cho-trung-quoc-va-dau-hieu-thay-doi-o-viet-nam/2015/10

Hà Huy Hoàng, nguyên cán bộ Bộ Ngoại giao, nguyên phóng viên tuần báo Việt Nam và Thế Giới trực thuộc Bộ Ngoại giao, bị tuyên phạt sáu năm tù giam vì tội làm gián điệp cho Trung Quốc

Để chuẩn bị cho Đại hội 12, Việt Nam đột nhiên công bố bản dự thảo Báo cáo Chính trị và Kế hoạch Kinh tế – Xã hội cho 2016 – 2020. Nhân dân Việt Nam được gởi mọi góp ý về nội dung hai bản dự thảo trên cho đến ngày cuối tháng Mười.

Thông thường, những điểm mấu chốt của bản báo cáo đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng trước ngày đại hội đảng toàn quốc. Thí dụ, trước Đại hội 11, Báo cáo Chính trị và Kế hoạch Năm năm Phát triển Kinh tế – Xã hội đã công bố chín tháng trước đại hội vào tháng Giêng 2011. Lần này chỉ còn bốn tháng để hoàn tất các công việc trù bị cho đại hội dự kiến vào tháng Giêng 2016.

Trước khi công bố hai tài liệu quan trọng trên, Việt Nam đã chuẩn bị cho Đại hội 12 một cách khá âm thầm kín đáo. Mặc dù việc lựa chọn nhân sự đã được thảo luận tại Hội nghị Trung ương vào tháng Năm vừa qua, nhưng không đưa ra được một thông báo nào.

Những nhà quan sát ở Hà Nội nhận xét rằng Ban Chấp hành Trung ương có lẽ sẽ họp vào tháng 10 để giải quyết những vấn đề về còn tồn đọng về nhân sự. Nếu không đi đến một sự đồng thuận thì hội nghị phải kéo dài sang tháng 11.

Giới truyền thông đưa ra hai ứng cử viên cho chức tổng bí thư: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Trương Tấn Sang. Cả hai đều là người miền Nam. Thông thường chức tổng bí thư được giao cho một ủy viên bộ chính trị gốc người miền Bắc.

Nếu Ban Chấp hành Trung ương không thể đi đến một sự đồng thuận thì có hai khả năng có thể xảy ra:

Khả năng thứ nhất: Cả hai ứng cử viên trên cùng nghỉ hưu để đại hội chọn ra tổng bí thư từ những ủy viên bộ chính trị mới. Điều này đã xảy ra ở Đại hội 6 năm 1986. Cả hai ứng cử viên Tổng Bí thư là Trường Chinh và Lê Đức Thọ đã cùng nghỉ hưu để nhường đường cho Nguyễn Văn Linh.**

Khả năng thứ hai: Tổng Bí thư đương nhiệm Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp tục công việc và chỉ định hoặc tìm ra một tổng bí thư mới thay thế giữa nhiệm kỳ trước khi ông về hưu. Giải pháp này đã xảy ra vào Đại hội 8, 1996, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tái đắc cử, rồi chọn Lê Khả Phiêu thay thế vào cuối năm 1997 trước lúc rút lui.

Mỗi khi vào thời kỳ tiền đại hội đảng toàn quốc, nhân sự là một chủ đề được các nhà quan sát chính trị mang ra mổ xẻ, phân tích để xem cơn gió chính trường sẽ cuốn theo chiều nào. Năm nay cũng như vậy.

Thí dụ, khi Sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội tổ chức tiệc mừng Quốc khánh của họ vào 29/9, Việt Nam gởi Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh tới dự. Ông Vinh không phải là ủy viên bộ chính trị, và sẽ nghỉ hưu sau Đại hội 12. Những phỏng đoán đang lưu truyền tại Hà Nội là tại sao lại đưa một quan chức “cấp thấp” đại diện cho chính phủ Việt Nam vào thời điểm này.

Vào ngày 30/9 – trước Quốc khánh Trung Quốc đúng một ngày – truyền thông Việt Nam đồng loạt đưa tin Hà Huy Hoàng, nguyên cán bộ Bộ Ngoại giao, nguyên phóng viên tuần báo Việt Nam và Thế Giới trực thuộc Bộ Ngoại giao, về tội làm gián điệp cho Trung Quốc, tuyên phạt sáu năm tù giam.

Truyền thông được phép đưa tin về một công dân Việt Nam làm gián điệp cho nước ngoài là cựu kỳ hiếm. Điều này đã dẫn đến một những phỏng đoán về thời gian xảy ra phiên tòa và ai đã cho lệnh truyền thông được đưa tin.

Mối ngờ vực càng tăng lên khi báo Tuổi Trẻ, VnExpress và nhiều trang mạng khác đã phải rút bài ngay khi vừa mới đăng được vài tiếng đồng hồ. Những câu hỏi giờ đây nhằm vào: Ai ra lệnh rút bài và tại sao?

Thời gian xảy ra phiên tòa gián điệp cho Trung Quốc ở vào giữa thời kỳ đang giằng co giữa các nhóm khi Đại hội 12 đang đến gần. Điều này cho thấy nội dung chủ yếu phải giải quyết Việt Nam làm thế nào để duy trì mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Ngay trong dự thảo Báo cáo Chính trị không đưa ra một đường hướng ngoại giao cụ thể để trả lời câu hỏi gai góc này.

Rõ ràng là đã có quan chức cao cấp cho phép truyền thông đưa tin về vụ án công dân Việt Nam làm gián điệp cho Trung Quốc. Ngay sau đó lại có tin Trung Quốc đã được phép mở thêm tổng lãnh sự tại Đà Nẵng.

Được phép đăng tải nội dung về vụ án gián điệp rồi bản tin phải hủy bỏ gấp là dấu hiệu quan trọng cho thấy Việt Nam đang tìm cách duy trì mối quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Đây chính là một chủ đề nóng bỏng trên chính trường Việt Nam hiện tại.

Những người chống lại khuynh hướng thân Mỹ thì nhấn mạnh “Diễn biến hòa bình” là một mối đe dọa đến an ninh quốc gia. Họ tố cáo Mỹ dùng sức ép nhân quyền và tự do tôn giáo như là một công cụ của âm mưu này.

Bằng chứng gián điệp cho Trung Quốc nêu lên mối quan tâm Trung Quốc cũng can thiệp vào những công việc nội bộ của Việt Nam và đang cố gắng làm xoay chuyển kết quả của Đại hội 12 theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Một nhà quan sát tại Hà Nội vừa tiết lộ cho tờ The Diplomat rằng Trung Quốc đã thông báo cho các nhà lãnh đạo Việt Nam: Họ chống đối việc bổ nhiệm nâng cấp cho Bộ truởng Ngoại giao Phạm Bình Minh người theo khuynh hướng thân Mỹ.

Nhiều nguồn tin tiếng Việt cũng cho hay Trung Quốc đã thông báo ngầm cho Việt Nam rằng Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ hoãn chuyến thăm Việt Nam vào tháng này nếu Hà Nội không chịu im miệng tố cáo Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo tại Biển Đông. Nguồn tin này cũng tiết lộ cuộc viếng thăm sẽ được tiến hành đúng kế hoạch bởi vì Trung Quốc rất hài lòng.

Những người có khuynh hướng thân Mỹ đã nhấn mạnh về những tiến bộ kinh tế nếu Việt Nam trở thành thành viên TPP. Nhóm này giờ đây tung ra thông điệp rằng thủ phạm của “Diễn biến hòa bình” chính là những gián điệp Trung Quốc – Đó mới là mối đe dọa chính cho an ninh quốc gia.

Nói cách khác, mối đe dọa của diễn biến hòa bình từ Mỹ chưa hẳn đã quan trọng như mối đe dọa ngầm từ Trung Quốc.

Quyết định của Việt Nam công khai vụ án gián điệp, cùng với việc phóng thích vài nhà bất đồng chứng kiến trong thời gian gần đây là những chỉ dấu nhỏ cho thấy những thay đổi trên chính trường Việt Nam đang nghiên dần về phía Mỹ.

Chủ tịch Trương Tấn Sang gần đây đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn báo chí rằng Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo là vi phạm luật quốc tế và đe dọa an ninh hằng hải.
Ông nói điều này với hãng tin AP của Pháp tại New York trong khi ông tới tham dự cuộc họp các nguyên thủ hàng năm của Liên Hợp Quốc.

Thông điệp này của ông Sang nhằm gởi tới cả cộng đồng quốc tế và quốc nội. Điều này được coi là dấu hiệu đang chuẩn bị cơ sở cho việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ. Cùng lúc, nhận xét của ông Sang có thể được nhìn nhận như là một động thái để nâng uy tín của ông về an ninh quốc gia cho nội bộ Việt Nam.

Cũng nên nhớ lại chuyến thăm Mỹ của ông Sang vào giữa năm 2013 gặp Tổng thống Barack Obama tại Bạch Ốc. Sau cuộc đàm đạo, cả hai nhà lãnh đạo đã tuyên bố có sự đồng thuận về sự hợp tác toàn diện.

Những nhà lãnh đạo Việt Nam mong muốn có mối quan hệ tốt với Mỹ cũng cần đưa ra những bằng chứng để vượt qua những chỉ trích nội bộ. Đó là lý do tại sao ông Sang kêu gọi Mỹ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam và nhắc lại sự khẳng định Việt Nam cam kết sẽ cải tiến nhân quyền.

Công cuộc xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Biển Đông với hạ tầng cơ sở để phục vụ cho hải quân và không quân là nguyên nhân chính đã đẩy Việt Nam gần hơn với Hoa Kỳ.

Việt Nam sẽ đón tiếp chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama vào tháng Mười và Mười một. Giả sử có những cuộc tranh giành quyền lãnh đạo tại Hà Nội thì tại mỗi cuộc viếng thăm này sẽ hé lộ ra diễn viên chính cho định hướng tương lai của Việt Nam.

Carl Thayer
October 2, 2015

Biên tập viên ĐCV lược dịch: “Vietnam is changing… and so is balance of power in Asia”; The Diploma; Oct 2, 2015.

Đô thị có nên theo ‘tư duy lăng mộ’?

BBC, 2 tháng 10 2015 Cập nhật lúc 17:45 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/10/151002_truongduynhat_hangout_view

Truong Duy NHat1

Nhân vụ việc tòa nhà ở 8B Lê Trực, quận Ba Đình, Hà Nội đang làm nóng dư luận ở Việt Nam, một blogger từ Đà Nẵng cho rằng kiến trúc đô thị không nên theo ‘tư duy lăng mộ’.

Trao đổi với BBC ngay sau chương trình tọa đàm trực tuyến thứ năm tuần này, ngày 01/10/2015 với chủ đề ‘Giám đốc trẻ và tòa nhà vượt Lăng’, nhà báo tự do, blogger Trương Duy Nhất nêu quan điểm:

“Câu chuyện một tòa nhà át Lăng Hồ Chí Minh ở Hà Nội mà tự nhiên lại nóng lên như thế, thì tôi cho là khó hiểu mà thậm chí nó hết sức buồn cười. Bây giờ thực sự cũng chẳng có cái lý nào, quy định nào bảo là tòa nhà không được xây cao hơn Lăng Hồ Chí Minh cả, ai quy định? Rõ ràng là không có.

“Mà nếu có đi nữa, thì có nên lấy chiều cao của một lăng mộ để khống chế các công trình khác trong khu vực, khi cái lăng mộ ấy chỉ cao 21,6 mét?

“Cho nên, kiến trúc đô thị không nên theo lối tư duy lăng mộ ấy, đành rằng kiến trúc đô thị không chỉ Hà Nội đâu, bất cứ đô thị nào cũng thế. Kiến trúc đô thị cần những điểm nhấn, ví dụ như một tượng đài, tòa Quốc hội, dinh Toàn quyền, dinh Tổng thống, tòa Thị chính chẳng hạn, chứ không phải là lăng mộ.

“Lăng Hồ Chí Minh được xây trên một khu mặt bằng thấp, mà xây theo lối kiến trúc rất thấp, với kiến trúc mà kiểu chỉ để viếng, chứ không phải kiến trúc làm điểm nhấn, làm trục xoay gì cho cụm kiếm trúc đô thị quanh đó hết.”

Vì sao bị soi?

Và ông Trương Duy Nhất nói thêm:

“Vấn đề ở đây tôi nhìn là vì sao nó lại bị soi, bị gán với cái Lăng trong thời điểm nhạy cảm này. Ngay cả khi các báo, nhất là tờ Năng Lượng Mới… đăng ảnh… cái cách chụp anh, đưa ảnh, cái góc chụp mà hếch lên, nếu nhìn sẽ thấy có một chủ ý làm tòa nhà cao hơn và làm như thể nó đè sát Lăng.

“Nhưng thực ra tòa nhà đó nằm rất xa, hơn 400 mét, và nó lại nằm chếch một bên Lăng, chứ không phải án trực diện Lăng ông Hồ. Cho nên tôi nghĩ cái đó nó có một cái gì, chứ không phải chuyện chiều cao của khu nhà.”

Ở phần còn lại của cuộc trao đổi, blogger Trương Duy Nhất bình luận về các lý do khác được cho là tòa nhà đang gây tranh cãi vì ‘vi phạm quy trình giấy phép’ và các quy định ‘đảm bảo an ninh’ cho khu vực ‘đầu não chính trị’ của cả nước.

Ông cũng dự đoán về kết quả của việc Bộ Nội vụ Việt Nam vừa quyết định kiểm tra lại việc Bổ nhiệm tân giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư ở tỉnh Quảng Nam, theo truyền thông Việt Nam đưa tin.

Việt Nam: Ghế lãnh đạo và cán cân Trung-Mỹ

Image copyrightAFP
Image captionGiáo sư Thayer bàn về “hai khả năng” cho ghế Tổng bí thư Đảng.

Giáo sư Carl Thayer, nhà quan sát chính trị Việt Nam, phân tích về bế tắc chính trị cấp lãnh đạo trước thềm Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12.

Trong bài viết đăng trên tạp chí The Diplomat vào hôm 02/10/2015, ông Thayer cho rằng đấu đá ghế nhân sự cấp lãnh đạo tại Việt Nam và vụ xử nhà báo làm gián điệp cho Trung Quốc đặt ra nhiều câu hỏi về hướng đi tương lai.

Giáo sư Thayer mở đầu bài viết bằng việc nói tới thực trạng công bố dự thảo Báo cáo Chính trị và Kế hoạch Kinh tế Xã hội (2016-2020) chậm.

Dự thảo báo cáo như vậy được đưa ra 9 tháng trước kỳ Đại hội 11 trong khi lần này đưa ra chỉ 4 tháng trước.

Mặc dù việc lựa chọn các ghế lãnh đạo đã được thảo luận tại hội nghị trung ương lần thứ mười một của Ủy ban Trung ương Đảng hồi tháng Năm nhưng không có tuyên bố nào cả.

Giáo sư Thayer cho rằng các nhà quan sát tại Hà Nội cho biết Ủy ban Trung ương có thể được triệu tập lại vào tháng Mười để giải quyết bế tắc việc lựa chọn lãnh đạo với một phiên tiếp theo được lên lịch cho tháng 11 nếu không đạt được đồng thuận.

Nếu Ủy ban Trung ương Đảng không thể đạt được sự đồng thuận về hai ứng viêncho ghế Tổng bí thư Đảng (như báo chí nói có hai người đều từ miền Nam là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong khi ghế này vốn là của người miền bắc) thì sẽ có hai khả năng xảy ra, theo ông Carl Thayer.

“Khả năng thứ nhất là cả hai ứng viên sẽ rời vũ đài chính trị để nghỉ hưu và vị lãnh đạo đảng tiếp theo sẽ được các ủy viên Bộ Chính trị bầu chọn.

“Khả năng thứ hai là nhà lãnh đạo đảng hiện này là ông Nguyễn Phú Trọng sẽ được tái bổ nhiệm với sự nhất trí rằng ông sẽ nhường đường cho một lãnh đạo khác trước khi hết nhiệm kỳ 5 năm của mình.

“Giải pháp này sẽ tương tự như tại Đại hội Đảng lần thứ tám vào năm 1996 khi bầu lại ông Đỗ Mười làm Tổng Bí thư và nhất trí rằng ông sẽ từ chức trước giữa nhiệm kỳ. Ông Lê Khả Phiêu đã thay ông Đỗ Mười vào cuối năm 1997.

‘Người cho đăng, kẻ bắt gỡ’

Image copyrightTuoi Tre Online. Việc cho xét xử công khai cựu nhà báo trực thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam làm gián điệp cho Trung Quốc đang gây bàn luận nhiều.

Theo ông Thayer, trước thềm đại hội đảng nào thì các sự kiện xảy ra đều được các nhà quan sát chính trị nghiên cứu kỹ để xem gió đang thổi về hướng nào và trước kỳ đại hội này cũng vậy.

“Chẳng hạn như khi Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội tổ chức chiêu đãi chào mừng ngày Quốc khánh Trung Quốc (được tổ chức sớm vào ngày 29 tháng 9) tại Hà Nội, Việt Nam đã cử đại diện là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bùi Quang Vinh tới dự.

“Ông Vinh không phải là ủy viên Bộ Chính trị và dự kiến sẽ nghỉ hưu sau Đại hội Đảng 12. Có bàn tán nhiều tại Hà Nội về lý do tại sao một quan chức tương đối “thấp cấp” lại đại diện cho chính phủ Việt Nam.

“Ngày 30 tháng 9, một ngày sau lễ tân tại Đại sứ quán Trung Quốc, truyền thông Việt Nam đưa tin Hà Huy Hoàng, một cựu nhân viên của Bộ Ngoại giao và từng là phóng viên báo Thế giới và Việt Nam, bị xử và bị tuyên án tù 6 năm vì tội làm gián điệp cho Trung Quốc.

“Truyền thông đưa tin về các vụ gián điệp liên quan đến công dân Việt Nam là cực kỳ hiếm. Điều này dẫn đến đồn đoán về thời điểm của phiên toà và người cho phép đăng tin.

“Sau đó người ta càng đồn đoán nhiều hơn khi báo Tuổi Trẻ, VnExpress và các báo khác đã gỡ bài trên trang web của họ. Nay người ta quay sang bàn tán ai là người ra lệch gỡ các bài báo này xuống,” ông Thayer viết.

Theo Giáo sư Carl Thayer thời điểm xảy ra phiên tòa xử nhà báo Việt Nam là gián điệp cho Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh có đấu đá chính trị trong hàng ngũ chính trị chóp bu trước thềm Đại hội Đảng 12.

“Rõ ràng là một vấn đề trọng tâm chưa được giải quyết là Việt Nam xử lý các mối quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ như thế nào.

“Dự thảo Báo cáo Chính trị đại hội 12 không đưa ra gợi ý về định hướng trong chính sách trong tương lai về chủ đề rắm rối này.

Image copyrightGetty. Có tin nói Bắc Kinh nói với Hà Nội về việc không thích Ngoại trưởng Phạm Bình Minh “leo cao” vì “thân Mỹ”.

Ông Thayer cho rằng rõ ràng là một số nhân vật trong hàng ngũ chính trị cao cấp của Việt Nam đã duyệt việc đưa tin phiên xử hoạt động gián điệp của công dân Việt cho Trung Quốc. Động thái này diễn ra ngay sau khi có tin Việt Nam cho phép Trung Quốc mở một Tổng Lãnh sự quán tại Đà Nẵng.

“Việc cho xét xử công khai [vụ gián điệp] này một dấu hiệu quan trọng cho thấy việc Việt Nam xử lý lý mối quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ ra sao là một chủ đề nóng bỏng vào lúc này,” ông Thayer nhận định.

“Những người phản đối việc Việt Nam xích quá gần với Hoa Kỳ nói về “mối đe dọa của biến hòa bình” là đe dọa an ninh quốc gia. Họ chỉ ra áp lực của Mỹ về nhân quyền và tự do tôn giáo như là một phần của mối đe dọa này.

“Các cáo buộc về động gián điệp cho Trung Quốc châm ngòi cho quan ngại gồm các tiếng nói khác nhau đang góp giọng rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và có thể đang cố gây ảnh hưởng đến kết quả của Đại hội Đảng toàn quốc sắp tới.

“Giới quan sát tại Hà Nôi nói với tờ The Diplomat rằng Trung Quốc đã chọn một số nhà lãnh đạo Việt Nam để nhắn gửi rằng họ phản đối việc thăng quan tiến chức cho Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, người được xem là thân Mỹ.

“Các nguồn tại Việt Nam cũng cho Hà Nội biết ở lúc gặp kín rằng Chủ tịch Tập Cận Bình có thể hoãn chuyến thăm dự kiến của mình đến Việt Nam trong tháng này nếu Hà Nội không ngưng việc chỉ trích các hoạt xây dựng đảo nhân tạo ở Biển Đông của Trung Quốc. Cũng những nguồn này tin rằng chuyến thăm sẽ được tiến hành vì đối với Trung Quốc thì đây là chuyến thăm quan trọng,” Giáo sư Thayer viết.

‘Diễn biến hòa bình’ và ‘gián điệp TQ’

Image copyrightAFP. Tác giả nói vè khả năng Tổng thống Obama sẽ thăm Việt Nam trong tháng 11 sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Hà Nội vào tháng 10.

“Những người muốn thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ nhấn mạnh những lợi thế kinh tế của vị thế hội viên trong thỏa thuận TPP. Nhóm này hiện đang chống lại biện luận về “mối đe dọa của biến hòa bình” bằng cách chỉ ra rằng hoạt động gián điệp Trung Quốc là một mối đe dọa lớn đối với an ninh quốc gia.

“Nói cách khác, các mối đe dọa diễn biến hòa bình từ Hoa Kỳ hiện đang được đấu đầu với mối đe dọa lật đổ từ Trung Quốc.

“Việc Việt Nam quyết định công khai phiên xử gián điệp, cùng với việc thả một số người bất đồng chính kiến trong những tháng gần đây, là chỉ dấu cho thấy khả năng thay đổi có thể có trong quan hệ Việt-Mỹ.

“Gần đây Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói trong một cuộc phỏng vấn tại New York với hãng thông tấn AP rằng việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo của là bất hợp pháp theo luật quốc tế và đe dọa an ninh biển.”

Theo Giáo sư Thayer, bình luận của ông Sang là “nhắm cả vào cả công chúng quốc tế và quốc nội.”

“Lời lẽ của ông kể như như đặt nền tảng để làm sâu sắc thêm quan hệ với Hoa Kỳ đồng thời có thể được xem là việc đánh bóng hình ảnh của mình về lập trường an ninh quốc gia đối với trong nước.

“Việt Nam dự kiến sẽ tổ chức đón các chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Tập Cận Bình trong tháng 10 và Tổng thống Barack Obama trong tháng 11.

“Trong bối cảnh giới lãnh đạo còn đang đấu đá như hiện nay thì mỗi chuyến thăm này có thể được xem là những phép thử riêng biệt cho định hướng tương lai của Việt Nam”, Giáo sư Thayer kết luận.

Sự thật về số liệu nợ công 66,4% GDP

Nam Nguyên, phóng viên RFA. 2015-10-03

 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/public-debt-of-vn-exceeded-the-ceiling-nn-10032015075625.html

no-cong-10032015-622.jpg

Đồng hồ nợ công Thế Giới và Việt Nam hôm 03/10/2015.

Screen capture

Bộ Tài chính Việt Nam ngày 2/10/2015 phản bác số liệu nợ công 66,4% của năm 2014 vượt trần cho phép, do Bộ Kế hoạch đầu tư công bố trước đó. Nam Nguyên tìm hiểu vấn đề này qua ghi nhận ý kiến chuyên gia trong ngoài nước.

Nợ công quốc gia đã vượt mức báo động?

Học viện Chính sách và Phát triển thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư vừa gây bất ngờ lớn khi tính toán nợ công bao gồm luôn các khoản nợ  của doanh nghiệp nhà nước và nợ của tổ chức bảo hiểm và an sinh xã hội, trong khi theo qui định của Nhà nước nợ công quốc gia chỉ gồm nợ chính phủ, nợ do chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương.

Được biết Quốc hội Việt Nam qui định trần nợ công là 65% GDP Tổng sản phẩm nội địa, nếu con số 66,4% là khả tín thì nợ công quốc gia đã vượt mức báo động. Cho tới nay Bộ Tài chính áp dụng cách tính nợ công hạn chế theo qui định Nhà nước, cho ra số liệu nợ công năm 2014 chỉ là 59,6% GDP. Trả lời Nam Nguyên sáng 2/10/2015, Tiến Sĩ Vũ Quang Việt nguyên Vụ trưởng tài khoản thống kê Liện Hiệp Quốc, từ New York nhận định:

Nợ công không những phải tính nợ của chính phủ trung ương, nợ của chính quyền địa phương, nợ của doanh nghiệp nhà nước và đúng như bộ Kế hoạch Đầu tư họ nói là phải tính luôn nợ ở trong bảo hiểm xã hội nữa. 
-TS Vũ Quang Việt

“Quốc tế gọi nợ công là nợ của tất cả cơ quan công quyền Việt Nam hoặc doanh nghiệp thuộc về nhà nước. Bởi vì những  doanh nghiệp đó mà thất bại thì nhà nước phải có trách nhiệm. Do đó nợ công không những phải tính nợ của chính phủ trung ương, nợ của chính quyền địa phương, nợ của doanh nghiệp nhà nước và đúng như bộ Kế hoạch Đầu tư họ nói là phải tính luôn nợ ở trong bảo hiểm xã hội nữa. Vì những người về hưu chính phủ nước nào cũng vậy có qui định người ta được hưởng bao nhiêu phần trăm lương của lương cuối cùng, tùy theo người ta làm bao nhiêu năm. Cái đó chính là nợ của nhà nước khi người ta về hưu phải trả. Hiện nay tình trạng của Việt Nam khả năng không trả được phải nói rất là lớn, mà càng ngày nó càng lớn hơn vì số người về hưu nhiều, tiền lương cao lên, số tiền người ta nhận được nhiều hơn; ngoài ra người ta còn sống già hơn trước kia nhiều. Cái đó là một phần lớn của số nợ và theo nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc thì tất cả những cái đó phải được tính vào nợ công hết.”

Theo báo chí Việt Nam hồi tháng 7 vừa qua, Ngân hàng Thế giới công bố nợ công của Việt Nam năm 2014 là 110 tỷ USD tương đương 59% GDP, xấp xỉ số liệu của Bộ Tài chính Việt Nam. Theo TS Vũ Quang Việt, người từng tham gia thiết lập chuẩn mực hệ thống tài khoản quốc gia cho Liên Hiệp Quốc, thì những chuẩn mực được qui định rất rõ ràng. Quĩ tiền tệ quốc tế IMF hay Ngân hàng thế giới World Bank đều hiểu rõ. Tuy nhiên các định chế này chấp nhận những báo cáo của chính phủ nước sở tại để công bố chính thức. Tuy nhiên họ cũng có thể có những tính toán khác dựa vào số liệu tự tìm hiểu, mặc dù không công bố cho công chúng biết. TS Vũ Quang Việt tiếp lời:

toan_canh_hop-bao-400.jpg
Trong cuộc họp báo chiều 1/10/2015 tại Hà Nội, Thứ trưởng Tài chính Vũ Thị Mai khẳng định thẩm quyền công bố số liệu nợ công thuộc về Bộ Tài chính và Bộ này tính toán nợ công quốc gia theo qui định hiện hành. Courtesy mof.gov.vn

“Đối với World Bank và IMF các nước nộp cái gì thì họ nhận cái đó thôi, giống như là khi tính GDP của Việt Nam hay GDP của Trung Quốc. Hệ thống tài khoản quốc gia đưa ra những chuẩn mực rất rõ ràng. Nhưng mà nhiều nước không theo thì Liên Hiệp Quốc, như trong trường hợp tôi có trách nhiệm tôi không được quyền tự sửa lại. Trong Liên Hiệp Quốc có hai phần, một phần tính toán do các nước nộp thì bắt buộc phải in ra; còn phần do nhân viên Liên Hiệp Quốc tự tính toán thì theo nguyên tắc khác. Thí dụ trường hợp Trung Quốc nếu mình tính lại thì có thể tốc độ tăng GDP của họ thấp hơn điều họ nói ra và tại sao chúng tôi có thể giải thích được…Nhưng về chuyên môn về pháp luật mình không được quyền đưa ra cái đó để tính thay thế con số của Trung Quốc. Các cơ quan quốc tế không có quyền làm việc này…. Trong trường hợp này về mặt nợ cũng vậy World Bank và IMF họ cũng in ra số liệu mà Việt Nam đưa cho họ thôi…trừ trường hợp họ thấy rất là sai…thì họ quyết định không in ra và họ có quyền làm việc này.”

Ít nhất đã có một én xuất hiện

Trong cuộc họp báo chiều 1/10/2015 tại Hà Nội, Thứ trưởng Tài chính Vũ Thị Mai khẳng định thẩm quyền công bố số liệu nợ công thuộc về Bộ Tài chính và Bộ này tính toán nợ công quốc gia theo qui định hiện hành. Đó là chỉ gồm nợ chính phủ, nợ do chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Bà Thứ trưởng Tài chính lập đi lập lại cách tính của Bộ Kế hoạch Đầu tư là không đúng qui định.

Như vậy đã rõ ràng nợ công của Việt Nam theo qui định hiện hành là chưa thể hiện thật đầy đủ các món nợ mang tính chất nợ công. Thật ra các chuyên gia cho rằng, xác định nợ công đã vượt trần cho phép cũng chưa phải là điều quan trọng nhất, vì nhiều nước phát triển có mức nợ công quốc gia cao hơn GDP tới vài lần như Nhật 400%, Hoa Kỳ 260%.  Điều hệ trọng là khả năng trả nợ và câu hỏi đặt ra là tình hình của Việt Nam hiện nay ra sao.

Muốn đầu tư thì phải đi vay, trong bối cảnh làm không đủ ăn mà đầu tư lại đi vay thì nợ công là một gánh nặng. Nếu không có các giải pháp kiểm soát một cách chặt chẽ nghiêm túc, không nhìn nhận bản chất vấn đề thì hậu quả khó lường. 
-Ngô Trí Long

TS Vũ Quang Việt phân tích:

“Hiện nay Việt nam chưa gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ, hầu hết các khoản nợ đó là nợ chính phủ, nợ các tổ chức quốc tế với lãi suất thấp. Nhưng nếu tính thêm nợ của doanh nghiệp nhà nước thì vấn đề sẽ gặp khó khăn mà đã từng khó khăn rồi như Vinashin đã không trả nợ được và nếu nợ ngày càng tăng là vấn đề khó. Thứ hai nữa như hiện tại giá trị của đồng tiền Việt và đặc biệt Việt Nam muốn phá giá lớn để có thể xuất khẩu được. Phá giá như vậy khả năng trả nợ sẽ giảm hẳn đi, vì phải trả nhiều hơn bằng đồng VN và như vậy họ có thể không có khả năng trả nợ nữa. Số nợ hàng năm phải trả có thể hơn 20% ngân sách quốc gia, nợ càng tăng lại phá giá đồng bạc nữa thì mất khả năng trả nợ là có.”

Tại Việt Nam, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long từng nhiều lần đề cập tới khả năng trả nợ của Việt Nam mà ông nói là quá nhiều ẩn số. Trong dịp trả lời chúng tôi Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long nhận định:

“Hiện nay thu nhập của Việt Nam phần ngân sách luôn luôn mất cân đối, thực chất làm ăn không có hiệu quả. Ví dụ trong thu ngân sách thì 75% là thu để chi còn lại là để trả nợ, như vậy thực chất không có đầu tư. Muốn đầu tư thì phải đi vay, trong bối cảnh làm không đủ ăn mà đầu tư lại đi vay thì nợ công là một gánh nặng. Nếu không có các giải pháp kiểm soát một cách chặt chẽ nghiêm túc, không nhìn nhận bản chất vấn đề thì hậu quả khó lường.”

Bộ Kế hoạch Đầu tư được cho là đã làm một cuộc cách mạng khi phê phán phạm vi xác định nợ công theo Luật Quản lý nợ công hiện hành tồn tại một số bất cập và chưa tính đầy đủ nhiều khoản có bản chất là nợ công. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh được báo chí mô tả là cấp tiến và thẳng thắn, từng nói thẳng Việt Nam theo đuổi mô hình không có thật là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngạn ngữ Việt Nam có câu ‘một con én không làm nên mùa xuân’, nhưng giới học giả trí thức từng nói rằng, ít nhất đã có một én xuất hiện chờ báo hiệu mùa xuân sắp về.

VN cần đột phá và khôn ngoan thế nào?

BBC, 10-3-2015, 51 phút trước

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/10/151003_tuonglai_vn_policies

???????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????

Tình hình thế giới và khu vực đang có những chuyển biến mau lẹ và sâu sắc, Việt Nam do đó phải có những ‘đột phá’ và ‘khôn ngoan’ về chiến lược, chính sách, theo một cựu thành viên Ban tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải.

Trao đổi với BBC tuần này về chiến lược và sách lược của Việt Nam trong lúc Đảng Cộng sản đang trong quá trình gấp rút chuẩn bị cho Đại hội Toàn quốc lần thứ 12 dự kiến vào đầu năm sau, Giáo sư Tương Lai cho rằng Việt Nam cần phải ‘đột phá ra khỏi tư duy cũ kỹ và đường lối bế tắc’ mà theo ông đã ‘đẩy đất nước lún sâu vào lạc hậu’.

Theo nhà phản biện, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, một ‘đường lối mới’ giúp tạo ra sự đột phá chính là Việt Nam phải ‘gia nhập TPP’, tức Hiệp định hợp tác Đối tác xuyên Thái Bình Dương.

‘Khi giặc đến nhà’

Theo ông, đây là một ‘ngưỡng’ tạo ra sự khác biệt và đem lại sự chuyển đổi có tính bước ngoặt cho Việt Nam trong khi cần phải có ‘một cái nhìn động’ đối với thời cuộc và bối cảnh.

Tuy nhiên, ông cũng đặt câu hỏi ‘ai, thế lực nào’ trong nước và đội ngũ lãnh đạo có thể giúp tận dụng cơ hội này để tạo ra sự chuyển biến mà ông cho là có khác biệt về ‘chất’ so với thời điểm Việt Nam chuẩn bị và gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mấy năm về trước.

Về mặt đối ngoại, nhà xã hội học tin rằng Việt Nam cần phải một mặt đối phó có tính ưu tiên với toan tính và mưu đồ rõ ràng của nhà cầm quyền Trung Quốc trên Biển Đông, được thể hiện qua phát biểu mới đây của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Liên Hợp Quốc, khẳng định các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ‘từ xa xưa đã thuộc về cha ông’ của người Trung Quốc, nhưng mặt khác cũng cần biết khéo léo giữ hòa hiếu với nhân dân Trung Quốc, như những bài học mà ‘ông cha’ đã để lại.

Ông tin rằng về mặt ngoại giao, Việt Nam ‘có lý’ khi nói bề ngoài rằng nước này cần có chính sách ‘không liên kết, liên minh’ với một nước thứ hai để chống lại nước thứ ba, nhưng bên trong thì cần ‘khôn ngoan’ tìm kiếm liên minh giúp cho mình bảo vệ được an ninh, toàn vẹn lãnh thổ, trước các nguy cơ, đe dọa xâm phạm chủ quyền của cường quốc ở khu vực mà có thể hiểu là Trung Quốc.

“Giặc đến nhà rồi, nó vào đến sân rồi, có người láng giềng muốn giúp chúng ta chống giặc, thì bảo ‘không, không, không ông để tôi thu xếp bàn với nó thôi’ thì đó là sự ngu xuẩn,” Giáo sư Tương Lai nhấn mạnh.

Rào cản của dự thảo thành lập Hội

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình trình bày tờ trinh dự án Luật Về hội.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình trình bày tờ trinh dự án Luật Về hội.

 VnEconomy

Bộ trưởng nội vụ Nguyễn Thái Bình vừa trình dự thảo luật về thành lập và điều hành Hội cho Ủy ban thường vụ quốc hội để lấy ý kiến và đồng thời chuẩn bị cho kỳ họp sắp tới.

Mâu thuẫn

Báo chí dẫn ra những điều lệ căn bản thành lập Hội mà Bộ trưởng nội vụ đệ trình cho thấy một số mâu thuẫn dễ dàng dẫn tới vi phạm hiến pháp. Thêm vào đó nội dung lập Hội nghiêng hẳn về quyền cho phép hay không cho phép thuộc phạm vi của cơ quan công an và do đó việc xin phép để lập ra một Hội dân sự không phải là điều dễ dàng cho người dân.

Cuộc sống toàn cầu hóa khiến người dân có nhu cầu hội nhập và tìm hiều rất lớn những gì xảy ra bên ngoài đất nước thông qua các kênh truyền thống và Internet. Thông tin hàng ngày cho họ biết quyền hạn của một người công dân thiết thực đến mức nào trong đó quyền lập Hội giống như sự hẳn nhiên trong một quốc gia dân chủ. Việt Nam luôn tự hào là dân chủ khiến sự khẳng định cái quyền ấy càng vững vàng thêm mặc dù trong hoàn cảnh đất nước có khó khăn và nhạy cảm hơn các quốc gia khác.

Sự nhạy cảm ấy được nhiều cơ quan đem vào nghị quyết của mình và mọi đề nghị cho các văn bản luật đều lấy khái niệm “nhạy cảm” làm cái khung bó hẹp quyền lợi của người dân, trong đó rõ nét nhất là vấn đề nhân quyền.

Quyền thành lập Hội được hiến pháp quy định như một quyền căn bản và bất cứ sự chế tài nào đều dựa theo Bộ luật hình sự nếu cái Hội ấy có biểu hiện phạm pháp hay có bằng chứng về một sự phạm pháp sắp xảy ra.

Trong dự thảo luật thành lập hội của Bộ nội vụ ghi rõ công dân sẽ bị hạn chế trong việc thành lập hội nếu vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Cá nhân bị mất quyền công dân, mắc bệnh tâm thần cùng hàng loạt các lý do khác do Bộ nội vụ đưa ra.

Báo chí dẫn ra những điều lệ căn bản thành lập Hội mà Bộ trưởng nội vụ đệ trình cho thấy một số mâu thuẫn dễ dàng dẫn tới vi phạm hiến pháp. Thêm vào đó nội dung lập Hội nghiêng hẳn về quyền cho phép hay không cho phép thuộc phạm vi của cơ quan công an và do đó việc xin phép để lập ra một Hội dân sự không phải là điều dễ dàng cho người dân

Thật ra tất cả các lý do đó đều phù hợp với pháp luật của bất cứ nước nào, tuy nhiên pháp luật chỉ dành để chế tài một khi sự vi phạm pháp luật xảy ra chứ luật không đặt ra để ngăn cản quyền của người dân khi họ chưa có một sai phạm nào của pháp luật quy định.

Một thí dụ cụ thể như hội “Cứu lấy dân oan”.

Cái tên đầy nhạy cảm này thật ra hoàn toàn không vi phạm bất cứ một điều nào trong Bộ luật hình sự. Nó cũng như “Cứu người nghèo, cứu người khuyết tật hay cứu lấy một nhóm sinh vật sắp tuyệt chủng” chằng hạn.

Nhạy cảm ở đây là hai chữ “dân oan” nó làm cho chính quyền bất an vì khuyết tật của họ trong cách giải quyết đơn thư dẫn đến sự chống đối dai dẳng và người chịu oan khuất nhất vẫn là người dân mất đất. Một Hội mang tên như thế thật khó hiện hữu trong hòan cảnh hiện nay ngay tại đời sống thường nhật huống gì trong văn bản của chính phủ cho phép hay không cho phép sự hoạt động chứa đấy bất an, lo sợ cho nhà nước.

Anh Dũng Mai, người thành lập cái hội “chưa thể hợp pháp” này cho biết:

-Chính quyền sở tại họ vẫn cho rằng như vậy là phản động, rồi thì cho rằng giúp đỡ bà con như vậy để kích động bà con đi biểu tình nhưng trên thực tế thì phải nắm bằng cớ tôi có kích động bà con không, tôi có xúi giục bà con đi biểu tình không, cái đó phải có bằng cớ chứ sao cứ nói khơi khơi như vậy được? Họ cứ nói như thế nhưng tôi cho rằng những điều họ làm đều mang tính vu khống.

Người dân khi người ta khiếu kiện về vần đề đất đai về oan sai của họ họ khiếu kiện nhưng không được giải quyết thì họ tìm cách gây sự chú ý đối với công luận bằng cách đi biểu tình thì tôi nghĩ cũng hợp lý thôi.

Những từ ngữ mơ hồ

Tiến sĩ Nguyễn Quang A trong nhiều năm qua đã bỏ hết thời giờ của mình ra để đi khắp nơi vận động cho sự ra đời của các tập hợp xã hội dân sự. Nói về điều mà Bộ Nội vụ đệ trình trong dự thảo luật về Hội ông cho biết:

Tôi nghĩ rằng phải nêu rất rõ thế nào là vi phạm an ninh quốc gia. Nếu một cái hội đứng ra hô hào vũ trang lật đổ chính quyền thì cấm. Nếu một hội nào đấy đưa ra các khẩu hiệu, các hoạt động nhằm kích động chia rẽ giữa tôn giáo với nhau: cấm. Phải nêu rõ như thế trong mười cái điểm cấm chứ không thể nói chung chung là an ninh quốc gia, là thuần phong mỹ tục bởi vì những câu đấy, những từ ngữ mơ hồ

Tiến sĩ Nguyễn Quang A

-Tôi nghĩ rằng phải nêu rất rõ thế nào là vi phạm an ninh quốc gia. Nếu một cái hội đứng ra hô hào vũ trang lật đổ chính quyền thì cấm. Nếu một hội nào đấy đưa ra các khẩu hiệu, các hoạt động nhằm kích động chia rẽ giữa tôn giáo với nhau: cấm. Phải nêu rõ như thế trong mười cái điểm cấm chứ không thể nói chung chung là an ninh quốc gia, là thuần phong mỹ tục bởi vì những câu đấy, những từ ngữ mơ hồ đấy có thể để cho chính quyền và nhất là bên công an họ có thế lý giải theo kiểu của họ mà như thế là vi phạm rất trắng trợn đối với hiến pháp và các công ước quốc tế.

Bên cạnh việc lập một rào cản dày dặc bởi các luật cấm, dự thảo khẳng định tất cả các hội do nhà nước thành lập không bị áp dụng với dự thảo này. Điều này đồng nghĩa với sự phân biệt đối xử giữa người dân và chính quyền vốn là điều cấm kỵ trong một thể chế dân chủ tam quyền phân lập thật sự. TS Nguyễn Quang A nhận xét:

-Họ tưởng rằng đấy là việc thực hiện hiến pháp, thực hiện nhân quyền nhưng thực sự là không phải như vậy. Một điều rất đơn giản thôi họ bảo rằng nếu đã có một cái hội hoạt động trong một lĩnh vực như thế thì không thể có một cái hội thứ hai! Và đấy là điều cản trở sự cạnh tranh lành mạnh và sự tự nguyện trong hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự. Chưa nói đến khái niệm rất tù mù như là an ninh quốc gia như là thế này thế kia để cấm đoán.

Trong tận cùng của sự bất công người dân oan đang oằn vai gánh tất cả oan khiên trên tấm thân còm cõi của họ. Sự đói kém, thiếu ăn là điều có thật và trước sự chứng kiến của cộng đồng chứ không phải là kịch bản nhằm gây sốc cho xã hội. Làm chứng cho điều này anh Dũng Mai cho biết:

-Tôi biết bà con rất là đói rất là thiếu hụt bởi vì không có đất canh tác lại không đi buôn đi bán gì cả. Họ không có nghề nghiệp họ đói lắm anh! Họ có thể chết đói. Tôi biết như vậy vì tôi đến tận nơi xem thì đúng là nhiều gia đình người ta quá là đói, đói thật sự chứ không phải chỉ làm thiện nguyện suông. Họ đói thật sụ đấy. Đơn giản là ruộng đất không có để canh tác, không trồng cấy gì cả mà người ta chỉ biết làm nghể nông thôi. Bây giờ người ta chỉ có cách ra ruộng bắt cua, hái rau nhưng rau và cua đều bị thuốc sâu chả có con cua nào cả!

Trong hoàn cảnh như vậy người ta có thể hiểu được tại sao những hội mang danh xưng tương tự như “Cứu lấy dân oan” vĩnh viễn không được phép thành lập vì nó sẽ làm cho dư luận căm phẫn và nhất là bộ mặt phát triển của Việt Nam sẽ không còn hoàn hảo.

‘Quảng Nam đi đâu mà vội?’

Image copyrightAFP
Image captionGiáo sư Nguyễn Minh Thuyết cho rằng tỉnh Quảng Nam đã ‘quá vội vàng’ trong vụ bổ nhiệm cán bộ mà theo ông lẽ ra có thể chờ cho đủ điều kiện hơn.

Tỉnh Quảng Nam của Việt Nam đã ‘quá vội vàng’ trong việc bổ nhiệm một cán bộ là con trai một quan chức lãnh đạo tỉnh ủy vào vị trí Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư ở tỉnh này, theo ý kiến của một cựu Đại biểu Quốc hội tạiBàn tròn thứ Năm tuần này của BBC Việt ngữ.

Vị tân giám đốc này đã thiếu đến 3/4 tiêu chuẩn điều kiện để được bổ nhiệm làm quan chức ở vị trí được bổ nhiệm, trong khi có dấu hỏi đặt ra về tính công bằng trong việc ông được cử đi học bằng ngân sách của tỉnh từ vài năm trước khi còn là sinh viên mới tốt nghiệp, theo một ý khác tại Tọa đàm.

Vụ việc bổ nhiệm ở Quảng Nam lẽ ra sẽ không gây ra sự chú ý, kể cả trường hợp ‘con ông cháu cha’, nếu như việc thi tuyển công khai được tiến hành để mọi người thấy rõ năng lực, phẩm chất của người mới được bổ nhiệm, theo ý kiến một blogger từ thành phố Đà Nẵng tham dự Bàn tròn.

Sự việc ở Quảng Nam, tuy vậy, là dịp để xem lại các chuẩn mực, cách thức bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các cấp ở Việt Nam, và có vẻ so với hiện nay, việc bổ nhiệm lãnh đạo nhiều thập niên về trước xem ra lại ‘rõ ràng hơn’, theo ý kiến của các khách mời của Tọa đàm hôm 01/10/2015.

Đi đâu mà vội?

Hôm thứ Năm, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Việt Nam, bình luận với BBC về trường hợp bổ nhiệm Giám đốc Sở của ông Lê Phước Hoài Bảo, là con trai của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam mới từ nhiệm – ông Lê Phước Thanh, kiêm Trưởng đoàn đại biểu tỉnh này tại Quốc hội.

Ông Thuyết nói: “Trong trường hợp này tôi nói thật, nói một cách thật là các anh ở Quảng Nam, các anh vội vàng quá, không thể bổ nhiệm kiểu như thế được. Còn thiếu đi mấy tiêu chuẩn như vậy mà vẫn bổ nhiệm thì quá vội vàng. Đi đâu mà vội?”

Theo Giáo sư Thuyết, ông Lê Phước Hoài Bảo, người đang được Bộ Nội vụ của Việt Nam quyết định điều tra lại quy trình bổ nhiệm với ông vào chức vụ Giám đốc Sở Kế hoạch & Đầu tư của tỉnh Quảng Nam, thì vị lãnh đạo 30 tuổi đời này còn ‘thiếu quá nhiều tiêu chuẩn’ dù là ‘hình thức thôi’.

Image captionNhà báo Trần Tiến Đức nói nhiều quy định bổ nhiệm cán bộ, công chức, lãnh đạo ở chính miền Bắc Việt Nam trước đây ‘rất rõ ràng’, còn vụ bổ nhiệm ở Quảng Nam có nhiều vấn đề.

Cựu Đại biểu Quốc hội nói: “Bởi vì nếu mà so với những tiêu chuẩn bổ nhiệm giám đốc (sở) mà Bộ Nội vụ ban hành năm 2004, thì thiếu quá nhiều tiêu chuẩn, chúng ta biết là những tiêu chuẩn hình thức thôi.

“Tức là thứ nhất phải là chuyên viên chính trở lên, thì ông ấy chưa phải là chuyên viên chính, bởi vì cũng mới ra công tác được một vài năm thôi. Thứ hai là phải tốt nghiệp đại học đúng lĩnh vực công tác, thì cái này đạt được yêu cầu.

“Thứ ba là phải hoàn thành chương trình lý luận chính trị cao cấp ở Học viện Chính trị thì chưa hoàn thành. Thứ tư là phải hoàn thành chương trình quản lý ở Học viện Chính trị Quốc gia thì cũng chưa kịp hoàn thành.

“Như vậy là mới đạt được một trên bốn tiêu chuẩn và mới có 30 tuổi, công tác được vài năm đã bổ nhiệm làm Giám đốc, thì có thể nói là ‘thần đồng’. Nhưng mà chỉ có điều là thần đồng này qua kiểm chứng, mặc dù rất hình thức thôi, thì thấy là chưa đạt tiêu chuẩn mà chính nhà nước Việt Nam đã đề ra.”

Chương trình hành động?

Theo nhà báo tự do Trần Tiến Đức, vụ bổ nhiệm ở tỉnh Quảng Nam cũng đặt ra một dấu hỏi về việc dường như nhiều người được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo trong đảng và chính quyền các cấp ở Việt Nam lâu nay còn thiêu một nội dung quan trọng mà ông nhấn mạnh là ‘chương trình hành động’.

Cựu Vụ trưởng Truyền thông và Giáo dục, Ủy ban Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình Việt Nam (NCPFP), nói:

“Ở Việt Nam muốn bổ nhiệm gì cũng phải có một quy trình. Và lâu nay người ta vẫn đương nói rằng muốn ‘công khai, minh bạch’ và những người mà được bổ nhiệm vào một chức vụ nào đó thì phải có một chương trình hành động.

“Lâu nay, dư luận xã hội cũng muốn là mỗi một vị, dù được bổ nhiệm từ cấp thấp đến cấp cao là phải có một chương trình hành động rõ ràng, thì đấy là một điều qua việc bổ nhiệm này chúng tôi chưa thấy nó được thể hiện qua những văn bản nào đó.

“Cái thứ hai nữa là người ta cũng rất thắc mắc là bởi vì đây là con của một ông lãnh đạo của tỉnh. Ông ấy về, ông ấy xin nghỉ hưu trước thời hạn mấy tháng gì đó, và sau đó, trong quá trình đó, thì con trai ông ấy được bổ nhiệm làm, người ta cảm thấy có gì đó khuất tất.

So sánh với bổ nhiệm cán bộ, công chức, lãnh đạo trước đây ở miền Bắc Việt Nam, trong giai đoạn từ giữa thập niên 1960 trở đi khi cá nhân ông bắt đầu làm việc, cựu Vụ trưởng Trần Tiến Đức cho rằng mặc dù có những ‘nghịch lý’ và hạn chế, song thời kỳ đó lại có những quy định ‘rõ ràng’.

Image captionTiến sỹ Nguyễn Xuân Diện đặt vấn đề về kinh nghiệm quản lý chuyên môn và nguồn gốc học bổng của vị Giám đốc sở ở tỉnh Quảng Nam mới được bổ nhiệm.

Ông nói: “Cái thời đó có những quy định rất rõ ràng là con không được làm trong cùng một cơ quan với bố, do bố trực tiếp quản lý. Tôi nghĩ rằng đấy cũng là ngăn chặn những chuyện mà lũng đoạn về mặt quyền lực. Và trong thực tế, tôi thấy có nhiều vị lãnh đạo rất cao, nhưng con cái không được tham gia một chức vụ lãnh đạo,” ông Đức nói với BBC.

Ai cho học bổng?

Hôm thứ Năm, cũng tại Bàn tròn trực tuyến, Tiến sỹ, blogger Nguyễn Xuân Diện nêu hai điểm mà ông cho là ‘khuất tất’, ‘nghi ngờ’ và đáng đặt dấu hỏi trong trường hợp vị Giám đốc sở 30 tuổi ở tỉnh Quảng Nam.

Ông Diện nói:

“Ngoài những vấn đề về chỉ số mà Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết đã nói, còn có một điểm tôi bổ sung nữa là người ta quy định phải có 5 năm công tác ở trong lĩnh vực này và trong đó có 3 năm phải làm quản lý ở trong lĩnh vực chuyên môn.

“Thế vậy thì không biết là ông Lê Phước Hoài Bảo này thì đã làm được điều đó chưa? Ngoài ra còn có một vấn đề nữa mà tôi được biết trong lịch trình học của ông ấy, là có một sự khuất tất và chưa rõ ràng.

“Đó là vào năm 2010 đến năm 2012, ông đã được đi học ở nước ngoài bằng kinh phí của nhà nước, kinh phí ngân sách của tỉnh, mà học từ năm 2010-2012 mới xong, nhưng mà học được một năm rồi, thì năm 2011 mới có ký giấy là cấp quyết định cho ông ấy đi học bằng ngân sách này.

“Và khi đi học như thế nó có vấn đề như vậy, vậy thì trong quá trình đi học như thế, có phải tất cả các sinh viên, mà lúc bấy giờ ông đi học không phải với tư cách là người công chức trong biên chế, hoặc là hợp đồng của tỉnh đó, mà ông đang là sinh viên.

Image captionNhà báo Trương Duy Nhất đặt câu hỏi liệu nạn ‘con ông cháu cha’ trong tuyển dụng công chức, bổ nhiệm lãnh đạo ở Việt Nam là do ai đó ‘không tin tưởng vào ngoại tộc’.

“Vậy thì các sinh viên giỏi mà lúc bấy giờ ở trong tỉnh đó thì có phải ai cũng được như vậy không và bên cạnh ông ấy, nhiều sinh viên giỏi của tỉnh đó thì như thế nào,” Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện nói với Bàn tròn của BBC.

Không tin ngoại tộc?

Nhà báo tự do, blogger Trương Duy Nhất, từ Đà Nẵng, đặt vấn đề tại Tọa đàm về điều mà ông băn khoăn phải chẳng tình trạng và xu hướng ‘con ông cháu cha’, hay nói cách khác là lẫn lộn giữa quan hệ cá nhân với quan hệ công việc, tổ chức trong tuyển dụng công chức, bổ nhiệm lãnh đạo, có thể có nguyên nhân từ việc mà ông gọi là “người ta không tin vào những người ngoài dòng tộc”.

Trước tiên, ông Nhất nêu khái lược một vài hiện tượng được cho là ‘con ông cháu cha’ được dư luận và truyền thông quan tâm. Ông nói:

“Tôi nói như trường hợp con của Thủ tướng, ví dụ như trường hợp Nguyễn Thanh Nghị, Nguyễn Minh Triết, rồi Nguyễn Xuân Anh, Nguyễn Bá Cảnh, Tô Linh Huơng, Lê Trương Hải Hiếu, rồi Nông Quốc Tuấn, rất nhiều.

“Đó là trường hợp tôi có nói mà có thể ai cũng biết, còn nhiều trường hợp, ví dụ vừa rồi… em của ông Lê Trương Hải Hiếu, con của ông Lê Thanh Hải, chẳng hạn bây giờ cũng làm một cái gì đó chức cũng kha khá ở trong TP. Hồ Chí Minh.

“Tức là cái đó rất nhiều, đó chỉ là ở cấp mà cấp cực cao mà chúng ta có thể nhìn thấy, chứ còn ở cấp tỉnh và cấp bộ, thì cái đó rất nhiều, mà chúng ta không thể kể hết được.

“Cho nên tôi nói rằng cái đấy không chỉ dừng lại ở câu chuyện một ông Giám đốc 30 tuổi ở Quảng Nam, mà câu chuyện nó đến mức gần như mà người ta tưởng có cái gì đó bất ổn.

“Hay là bây giờ người ta không tin vào những người ngoài dòng tộc của họ?”, ông Nhất đặt dấu hỏi tại cuộc Tọa đàm.

Biển Đông: tuyên bố và hành động

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok, 2015-09-30

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/word-n-act-for-east-sea-09302015054625.html

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vạch trần Trung Quốc trên báo Mỹ

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vạch trần Trung Quốc trên báo Mỹ

 Báo Người Lao Động

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vào ngày 28 và 29 tháng 9 vừa qua khi có mặt tại New York để tham dự kỳ họp Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã có những tuyên bố công khai về chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Ông cũng tố cáo hoạt động cải tạo xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc hiện nay tại đó là vi phạm luật pháp quốc tế.

Nhận định của giới chuyên gia về những phát biểu đó của chủ tịch nước Việt Nam ra sao? Và từ lời nói, chính quyền Hà Nội cần có những hành động gì nữa để bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.

Nhận định

Ngay sau khi có tuyên bố của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình được truyền thông Hoa Kỳ loan đi hôm 22 tháng 9 liên quan chủ quyền tại Biển Đông cũng như hoạt động xây dựng đảo nhân tạo và các công trình trên đó, dư luận tại Việt Nam cho rằng lãnh đạo Việt Nam hiện nay phải có phản bác chứ không chỉ để cấp người phát ngôn Bộ Ngoại giao lên tiếng như bấy lâu nay.

Tuyên bố về chủ quyền Biển Đông cũng như lên án việc Trung Quốc cải tạo, xây dựng các bãi đá chiếm của Việt Nam thành những đảo nhân tạo với căn cứ kiên cố trên đó mà chủ tịch nước Trương Tấn Sang đưa ra được cho đáp ứng được yêu cầu vừa nêu.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, cho biết quan điểm của ông sau khi nghe phát biểu của chủ tịch Trương Tấn Sang tại New York:

“ Đúng là lịch sử xưa nay có những bằng chứng chứng nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Thế nhưng Trung Quốc vẻ đường lưỡi bò chiếm cả Biển Đông bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa. Cố nhiên thay mặt nhà nước, chủ tịch nước phải tuyên bố rõ ràng đó là vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Việc vẽ ra đường lưỡi bò thì không có giá trị gì về pháp lý.”

Có một điều rất đáng tiếc là thay vì chủ tịch Trương Tấn Sang trả lời cho các hãng thông tấn, báo chí nước ngoài; tại sao không nhân dịp khi phát biểu tại Liên hiệp quốc- nhân diễn đàn của Liên hiệp quốc trước mặt mấy ngàn quan chức và hằng trăm nguyên thủ các quốc gia trên thế giới, để tái khẳng định Hoàng Sa- Trường Sa là của Việt Nam

Ô.Đinh Kim Phúc

Nguyên lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, ông Dương Danh Dy, cũng có những đánh giá tích cực về phát biểu chủ quyền của chủ tịch Trương Tấn Sang:

“ Theo tôi ông Trương Tấn Sang trả lời như thế là đúng, đúng với tư cách người chủ tịch nước. Trung Quốc toàn nhận bậy của họ thì phải đập lại thôi. Tôi hoan nghênh phát biểu của ông Trương Tấn Sang, bởi vì Tập Cận Bình là chủ tịch nước nói thì chủ tịch nước Việt Nam phải đáp lại. Theo tôi là đúng đắn, đúng mức thôi. Chuyện không có gì lạ cả.

Việc mà Việt Nam được sự đồng tình của các nước trong khu vực, các nước lớn, các nước trên thế giới là vì Việt Nam đại diện cho chính nghĩa, Việt Nam phát ngôn đúng thôi.”

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc là một trong những người có ý kiến cấp lãnh đạo đảng và chính phủ Việt Nam phải lên tiếng đáp trả lại tuyên bố của ông Tập Cận Bình khi nói về chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Và sau khi nghe phát biểu của chủ tịch Trương Tấn Sang, nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc có nhận định:

“ Tôi đánh giá đây là một phản ứng hết sức nhanh nhẹn của Bộ Ngoại giao, cũng như của lãnh đạo với tầm vóc là nguyên thủ của Việt Nam hiện nay. Nhưng tôi thấy có một điều rất đáng tiếc là thay vì chủ tịch Trương Tấn Sang trả lời cho các hãng thông tấn, báo chí nước ngoài; tại sao không nhân dịp khi phát biểu tại Liên hiệp quốc- nhân diễn đàn của Liên hiệp quốc trước mặt mấy ngàn quan chức và hằng trăm nguyên thủ các quốc gia trên thế giới, để tái khẳng định Hoàng Sa- Trường Sa là của Việt Nam. Tôi thấy đó là cách hay nhất nhưng Việt Nam đã bỏ qua một cơ hội. Nhưng dù sao tôi cũng đánh giá phản ứng của Việt Nam như thế là tốt.”

Báo tiếng Trung Quốc xuyên tạc, bôi nhọ phát biểu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại LHQ (theo VTC News)
Báo tiếng Trung Quốc xuyên tạc, bôi nhọ phát biểu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại LHQ (theo VTC News)


Việc cần làm

Thông tin cho biết trong thời gian sắp đến chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ sang thăm Việt Nam. Theo nhiều người thì đây là một dịp để chính quyền Việt Nam nêu vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo ra với ngưới đứng đầu chính phủ và đảng cộng sản Trung Quốc.

Ông Dương Danh Dy tin tưởng các vị lãnh đạo chính quyền Hà Nội sẽ thực hiện điều này:

“ Theo tôi chuyện chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông là điều khẳng định. Có thể nói 99% dân Việt Nam hoàn toàn nhất trí trong vấn đề đó. Thái độ của mọi người đối với Trung Quốc trong vấn đề đó đều nhất trí; chỉ có điều trong việc đối xử với Trung Quốc ( như tôi đã nói nhiều lần rồi) là một nước láng giềng lớn vừa giáp ta ở trên bộ, vừa giáp ta trên biển nên chúng ta đối xử phải khôn khéo như cha ông chúng ta ngày xưa, thế thôi. Kết hợp với tình hình mới hiện nay, chúng ta phải đối xử sao cho phải, vẫn giữ được chủ quyền của mình, vẫn giữ được hòa khí, không để xảy ra chiến tranh.

Theo tôi luật pháp và dư luận quốc tế thì Việt Nam cũng phải dùng nhưng với Trung Quốc thì không ăn thua đâu! Chơi với Trung Quốc, một nước lớn nhưng nhỏ bụng, bầy nhầy, đủ mọi trò nên mình phải linh hoạt. Tôi tin vấn đề này ban lãnh đạo Việt Nam đủ tài, đủ sức để biết xử lý như thế nào. Tôi hoàn toàn tin tưởng những người cầm quyền Việt Nam hiện nay cũng như nối tiếp.”

Chỉ có điều trong việc đối xử với Trung Quốc là một nước láng giềng lớn vừa giáp ta ở trên bộ, vừa giáp ta trên biển nên chúng ta đối xử phải khôn khéo như cha ông chúng ta ngày xưa, thế thôi. Kết hợp với tình hình mới hiện nay, chúng ta phải đối xử sao cho phải, vẫn giữ được chủ quyền của mình, vẫn giữ được hòa khí

Ông Dương Danh Dy

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cho rằng trong vấn đề chủ quyền tại khu vực Biển Đông, Việt Nam có đủ bằng chứng và lý lẽ để đưa ra với phía Trung Quốc nhằm thu hồi lại những đảo đã mất. Ông nói:

“ Tôi chưa biết những người lãnh đạo của tôi nói thế nào; nhưng theo ý riêng cá nhân tôi thì Trung Quốc chẳng có gì pháp lý để bá chiếm Biển Đông, thì trong hội đàm phải nói rõ ra chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa đã có lịch sử từ lâu rồi. Thế còn ‘lưỡi bò’ của Trung Quốc thì nên thu lại thôi, không có giá trị gì về pháp lý.

Chỉ có những biện pháp về lý lẽ, về lịch sử và được thế giới ủng hộ quan điểm của chúng tôi. Chứ còn làm gì nữa rất khó nói vì chẳng lẽ chúng tôi đi gây chiến tranh với Trung Quốc sao! Không nói được đâu. Cả thế giới ủng hộ quan điểm của chúng tôi đúng.”

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc đưa ra ý kiến Hà Nội không thể tiếp tục mơ hồ về vấn đề ý thức hệ cộng sản để rồi bị Trung Quốc chiếm biển đảo của đất nước:

“ Đối với chuyến đi thăm của Tập Cận Bình sắp tới đây, các nhà lãnh đạo Việt Nam nên cứng rắn, bàn bạc thẳng với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền của Việt Nam. Và mặt khác nếu Trung Quốc cứ khăng khăng là chủ quyền của họ thì chúng ta nên đề nghị họ ra tòa. Trung Quốc không bao giờ đồng ý ra tòa. Trước đây trong thời kỳ thuộc Pháp, Pháp cũng đã nhiều lần đề nghị đưa ra tòa án để phân xử về chủ quyền trên Biển Đông, và Trung Quốc từ chối. Vì các hòn đảo này không phải của Trung Quốc, họ rất sợ ra tòa. Do đó họ muốn tranh thủ bằng hợp tác song phương, bằng ngoại giao song phương để dùng thế nước lớn, dùng nền kinh tế mạnh để áp đảo các nước nhỏ trong khu vực Đông Nam Á.

Có một điều tôi cũng muốn phát biểu thật lòng và mong muốn các nhà lãnh đạo Việt Nam phải nhìn vào tương lai của Việt Nam. Ngày nay ý thức hệ không giải quyết được độc lập, tự do. Ý thức hệ không giải quyết được vấn đề phát triển của đất nước. Quyền lợi của quốc gia, dân tộc là tối thượng.”

Giới nghiên cứu quốc tế hầu hết đều chỉ ra âm mưu muốn độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Họ chỉ ra rằng Trung Quốc thiếu chứng cứ lịch sử nên sử dụng sức mạnh quân sự và cố tình làm thay đổi hiện trạng càng nhanh càng tốt. Chính sách được gọi là ‘vết dầu loang/tằm ăn dâu/lát cắt salami’ được Trung Quốc kiên trì áp dụng với ý đồ đặt thế giới trước sự đã rồi.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong phát biểu tại Hội Châu Á ở New York hôm 28 tháng 9 vừa qua rằng Việt Nam muốn giải quyết vấn đề thông qua luật pháp quốc tế và đó là cách duy nhất.

Ông giám đốc trẻ và tòa nhà ‘vượt Lăng’

Image copyrightAFP
Image captionMột tòa nhà cao tầng ở gần khu vực Lăng cố Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam đang gặp rắc rối về xây dựng.

Hai trong số các sự kiện đang nằm ở tâm điểm chú ý của dư luận Việt Nam là vụ một Giám đốc sở 30 tuổi mới nhậm chức ở tỉnh Quảng Nam và tòa cao ốc đang gặp rắc rối ở số 8B Lê Trực, quận Ba Đình, Hà Nội hàm chứa nhiều vấn đề và dấu hỏi phía sau, trong đó có vấn đề ‘quy trình’ và câu hỏi liệu có ‘tranh chấp nội bộ’.

Đó là ý kiến của một số vị khách xoay quanh cuộc Tọa đàm Bàn tròn thứ Năm tuần này của BBC Việt ngữ với chủ đề “Giám đốc trẻ và nhà vượt Lăng” với sự tham gia của các khách mời là Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, các nhà báo, bloggers từ Hà Nội và Đà Nẵng là các ông Nguyễn Xuân Diện, Trần Tiến Đức và Trương Duy Nhất.

Trước hết, từ thành phố Đà Nẵng, blogger, nhà báo tự do Trương Duy Nhất bình luận về việc vì sao sự kiện ông Lê Phước Hoài Bảo, người vừa ngồi vào ghế Giám đốc Sở Kế hoạch & Đầu tư ở tỉnh này ở tuổi 30 lại được dư luận quan tâm chú ý đến như vậy.

Ông Trương Duy Nhất nói: “Nó quan tâm là như thế này, nó hơi ngược, đáng lý đúng xu thế người ta cần, người ta chờ mong ở một đội ngũ quan chức trẻ, được học hành bài bản, lớp lang như thế, thì đó đáng lý là phải mừng, chờ đón chứ.

“Nhưng đây người ta có những phản ứng, thậm chí người ta phản đối, thì cái đó nghe có vẻ ngược, nhưng nó xuất phát bởi cái gì? Bởi đó là những ông quan được xuất thân từ những gia đình mà (là) quan chức cấp cao.

“Nếu họ không phải là những cậu ấm thì sự việc đó rất bình thường, được người ta chờ đón chứ không đến nỗi gì để dư luận phải rung lên, nóng đến như thế cả.”

Khó lật lại?

Image captionÔng Trương Duy Nhất cho rằng việc Bộ Nội vụ VN sắp xem xét lại việc bổ nhiệm tân giám đốc Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Quảng Nam là không hề ‘dễ dàng’.

Tin cho hay, Bộ Nội vụ của nhà nước Việt Nam đã quyết định điều tra vụ bổ nhiệm với vị tân giám đốc sở ở Quảng Nam, mà theo tờ báo mạng VietnamNet cho biết, thì Bộ này đã ‘ thành lập tổ công tác làm việc với Quảng Nam, kiểm tra hồ sơ xem xét việc bổ nhiệm chức danh Giám đốc Sở KH&ĐT Lê Phước Hoài Bảo’.

Bình luận với BBC ngay sau cuộc Tọa đàm bàn tròn cùng ngày 01/10/2015, blogger Trương Duy Nhất cho rằng ‘khó thay đổi’ vị trí của vị quan chức trẻ ở địa phương này.

Ông nói:

“Bây giờ bảo xem lại trường hợp ông (Lê Phước Hoài) Bảo có đúng không để bây giờ cho ông nghỉ, để cho người khác làm, thì tôi không thích giải quyết theo kiểu đó.

“Mà tôi nghĩ cách giải quyết là xem lại cái cơ chế bổ nhiệm sau này của chúng ta (Việt Nam), xem lại cơ chế của Chính phủ, của quốc gia để sau này nó khỏi lặp lại những trường hợp như thế.

“Chứ bây giờ nói xem lại, bổ nhiệm lại những ông này khó lắm, không được đâu, đất nước nào (chứ) đất nước này khó lắm,” ông Trương Duy Nhất nói với BBC.

‘Vô trách nhiệm’

Liên quan vụ việc rắc rối với tòa cao ốc ở 8B Lê Trực, Ba Đình, Hà Nội, một vấn đề nóng khác đang ở trung tâm của dư luận tại Việt Nam, khách mời Tọa đàm, nhà báo tự do Trần Tiến Đức, nguyên Vụ trưởng Giáo dục và Truyền thông của một Ủy ban Dân số thuộc Chính phủ Việt Nam, bình luận:

“Thành phố Hà Nội hôm nay, tôi có đọc trên báo, thì thấy rằng đã có kết luận và nói rằng chủ trương như vậy là đúng, đã được thông qua, và cũng lại nhắc lại ý của Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết (một khách mời tại Tọa đàm), là đã theo đúng tất cả các quy trình, đã trình tất cả các Sở.

“Thậm chí cuối cùng trình lên Bộ Xây dựng và được Chính phủ cho phê duyệt. Và cuối cùng lại thấy ‘tại sao nó sai’?

“Lại nói rằng là bởi vì chủ đầu tư làm không đúng theo bản thiết kế và quy hoạch đã được phê duyệt.

Image captionÔng Trần Tiến Đức cho rằng để xảy ra những sai phạm (nếu có) ở Tòa cao ốc 8B Lê Trực thể hiện sự ‘vô trách nhiệm’ của nhà hữu trách quản lý ở Hà Nội.

“Tôi chỉ muốn nói một câu như thế này. Cái nhà không phải là một cái xe rác, không phải là một đống rác.

“Và tôi biết ở địa bàn, ở mỗi phường, nếu anh xây nhà, anh đổ đống gạch ra trước cửa nhà anh trên vỉa hè, lập tức có đội quản lý trật tự về xây dựng người ta đến và người ta phản ánh ngay.

“Thế còn đây là một tòa nhà (cao) mấy chục mét, xây vi phạm như thế, mà có lẽ nó không phải là nằm sâu ở đâu cả, nằm trên trục đường mới được hoàn thành, thì tại sao không ai để ý đến?

“Hay là tất cả đều bảo rằng: ‘Ừ, đúng quy trình rồi! Chắc làm thế này đúng quy trình rồi. Chắc được duyệt rồi!’

“Tôi thấy đó là tinh thần vô trách nhiệm của những người có trách nhiệm đối với Thủ đô này,” ông Đức, con trai của Thị trưởng đầu tiên của Hà Nội (bác sỹ Trần Duy Hưng), nêu quan điểm.

Thế lực lớn

Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Đại biểu Quốc hội Việt Nam, tiếp tục nêu quan điểm tại Tọa đàm về vụ Cao ốc 8B Trung Trực. Ông nói:

“Tôi chỉ thấy hơi lạ là tại sao lại có một chỗ hình như không đúng quy trình lắm, tức là khi lãnh đạo Chính phủ đã chấp thuận năm 2013, thì có nghĩa là tất cả văn bản chấp thuận ấy phải lưu ở Văn phòng Chính phủ. Thế đến bây giờ thì Thủ tướng Chính phủ lại yêu cầu Hà Nội báo cáo, thực ra nó nằm ngay ở trong hồ sơ của Văn phòng.

“Thứ hai nữa là hôm nay, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội lại ra một thông báo, mà tôi đọc thấy tinh thần là thấy nó khác với điều mà tôi biết hôm qua. Tức là Ủy ban Nhân dân có nói cái nhà này đã được ký giấy phép xây dựng, nhưng mà xây vượt quá 17 mét, tức là tính ra là 5 tầng. Thế thì tôi không làm sao mà hiểu được là ở giữa một Thủ đô, mà ở Trung tâm Chính trị của Thủ đô như thế mà lại có một cái nhà lại xây vượt lên 5 tầng như thế.

Image captionGiáo sư Nguyễn Minh Thuyết cho rằng người chủ đầu tư Tòa nhà 8B Lê Trực phải là người ‘rất có thế lực và thông tin’.

“Tôi không biết tại sao nó lại như thế mà hàng ngày bao nhiêu người đi qua, đi lại, và nói như nhà báo Trần Tiến Đức, ở Hà Nội này, chúng ta chỉ cần xe một xe cát về, xây một cái tường bên trong nhà mình thôi, chẳng ảnh hưởng gì đến mỹ quan thành phố cả, là lập tức có những nhà chức trách người ta đến làm việc ngay.

“Thế thì tại sao cả một tòa nhà to như thế mà lại trôi lọt, tức là con voi nó có thể chui qua lỗ kim như thế?

“Thế thì tôi có một ngờ vực thế này. Cái người mà người ta mua cái đất này, cái người mà người ta làm công trình này, mà danh chính ngôn thuận hiện nay là Công ty may Lê Trực, thì nó phải là một người rất có thế lực, rất là có thông tin.

“Bởi vì có thông tin thì anh mới mua ở chỗ đất ấy, hay mới làm nhà cái chỗ đất ấy, bởi vì chỉ sau khi họ làm nhà, thì lập tức con đường được mở ở ngay sát, ngay trước cửa nhà họ, con đường khá là to, thế thì họ phải có thông tin. Và hai nữa là cũng hiếm khi có một cái nhà nào mà phải xin ý kiến lên tận Chính phủ như thế,” nguyên Phó Chủ nhiệm một Ủy ban của Quốc hội Việt Nam nói với BBC.

Thời điểm nhạy cảm

Trao đổi tại Tọa đàm, blogger, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, nhận xét về vụ Tòa nhà đang gặp rắc rối ở Hà Nội, ông nói:

“Tôi đồng ý với nhà báo Trần Tiến Đức là qua việc này thấy rõ trách nhiệm của những người cầm quyền, nhà cầm quyền của thành phố Hà Nội, mà đặc biệt là một người mà có liên quan rất nhiều đến kiến trúc, đó là Kiến trúc sư Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch của thành phố.

“Khi được biết tin là Trung ương sẽ đưa ông Nguyễn Thế Thảo về làm Chủ tịch Thành phố Hà Nội, lúc đó tôi mừng lắm.

“Tôi nghĩ ông ấy là kiến trúc sư thì thể nào ông cũng đem lại một trật tự cho quản lý và xây dựng đô thị thành một Hà Nội đẹp, vuông vắn, thẳng thớm, ít nhất cũng phải như tỉnh Bắc Ninh mà ông ấy đã làm.

“Nhưng mà từ ngày ông ấy về đây, thì tôi không thấy ông làm được bất cứ một việc gì làm cho Hà Nội đẹp, tốt lên và vuông vắn, thẳng thớm hơn.

Image captionTS. Nguyễn Xuân Diện cho rằng vụ việc Tòa nhà 8B Lê Trực được đưa ra vào một thời điểm ‘nhạy cảm’, được hiểu là vào lúc Đảng CSVN đang chuẩn bị Đại hội 12.

“Thông qua việc này, người ta nhìn thấy trách nhiệm của ông Chủ tịch của Thành phố Hà Nội, Nguyễn Thế Thảo.

“Thế và việc này được đưa ra vào lúc này thì cũng đúng là một thời gian nhạy cảm.

“Hơn nữa nó lại cộng với một sự nhạy cảm nữa là lại liên quan đến một khu trung tâm đầu não, mà ở đấy có Lăng của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà Quốc hội, rồi các cơ quan quan trọng khác nữa.

“Vì vậy, dư luận lại càng quan tâm nhiều hơn,” Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện nói với Tọa đàm.

Chương trình Tọa đàm Bàn tròn được phát vào lúc 19h30-20h00 giờ Việt Nam hôm thứ Năm, 01/10/2015.

Quý vị có thể theo dõi toàn văn cuộc tọa đàm tại đây: http://bit.ly/1RfFlBn

Vở diễn của 8 vụ án quá dở?

29 tháng 9 2015 Cập nhật lúc 18:51 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/09/150929_tuonglai_8_vuan_trongdiem

LE nghi quan cach

Việc Việt Nam sắp đưa tám vụ án ‘trọng điểm’ về tham nhũng ra xét xử trước Đại hội 12 của Đảng CSVN chỉ là một ‘vở diễn’ được cho là ‘kém hào hứng’, theo nhận định của một nhà quan sát chính trị, xã hội Việt Nam từ Sài Gòn.

Hôm 29/9/2015, BBC đã có một cuộc trao đổi với Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, về sự kiện này.

Nhà xã hội học nói: “Khi tình hình Đại hội 12 sắp diễn ra lại thấy rộ lên vấn đề chống tham nhũng.

“Và người ta liệt kê thành tích xử được bao nhiêu vụ, bỏ tù được bao nhiêu anh, rồi kê khai tài sản được bao nhiêu vị v.v… và v.v…

‘Như gà mắc tóc’

Giáo sư Tương Lai nói thêm:

“Nhưng theo tôi, ‘màn kịch này’ cũng chỉ là một trong những pha trước Đại hội mà thôi.

“Đối với người dân như là tôi chẳng hạn, thì tôi suy nghĩ, tôi không thấy có gì là hấp dẫn.

“Bởi vì người ta cần đột phá thì không thấy, chỉ vậy thôi.”

Khi được đề nghị bình luận về tám vụ án cụ thể được đề nghị xét xử, ông nói:

“Tôi không đi vào chi tiết, tôi chỉ nhìn chung màn kịch, thì tôi thấy vở diễn nhạt quá.

“Nó không hấp dẫn gì cả, người ta cũng phải ly kỳ, hồi hộp… đây thấy nó nhạt nhòa quá, cho nên cái ‘miếng võ’ mà ngài Tổng bí thư đưa ra tôi thấy nó chẳng phải là võ tàu, mà cũng chẳng phải là võ tây, mà nó lúng túng ‘như gà mắc tóc’.

“Cho nên theo tôi, nó cũng không có ý nghĩa gì lắm trong chính trường Đại hội 12 cả.

“Đấy là theo tôi nghĩ nếu cứ nhìn trên những ‘con muỗi mắt’, thống kê lên những vụ bắt bớ, với kê khai tài sản… thì tôi thấy vở diễn này kém quá,” nguyên thành viên Ban tư vấn Thủ tướng Chính phủ, thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, nói.

Chống tham nhũng ở Việt Nam ‘đã cạn lời’

BBC, 29 tháng 9 2015 Cập nhật lúc 21:57 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/09/150929_ledangdoanh_vuan_trongdiem

Le Dang Doanh

Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng hết các từ ngữ cao nhất để nêu quyết tâm chống tham nhũng, vấn đề là hiệu quả trên thực tế thế nào, theo một nhà phân tích chính trị – xã hội Việt Nam từ Hà Nội.

Bình luận với BBC hôm 29/9/2015 về sự kiện Việt Nam vừa loan bố sẽ đưa ra xét xử 8 vụ án ‘trọng điểm’ về tham nhũng trước Đại hội đảng lần thứ 12, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), nói:

“Việc chống tham nhũng của Việt Nam thì về mặt lời nói đã dùng những ngôn từ cao nhất rồi, tức là đã cạn ngôn từ rồi: ‘giặc nội xâm’, rồi ‘nguy cơ tồn vong’ của đất nước.

“Thế nhưng hiện nay việc chống tham nhũng, Việt Nam rất kém hiệu quả. Cụ thể là xếp hạng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) về cảm nhận tham nhũng của Việt Nam, thì điểm ba năm: 2013, 2014 và 2015 cứ là 31/100, không có thay đổi gì cả.”

‘Không phải là nhiều’

Theo nhà phân tích, việc đưa ra xét xử tám vụ án ‘không phải là nhiều’, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói thêm:

“Theo tôi hiểu 8 vụ ấy thì không phải là nhiều và so với tham nhũng mà xã hội Việt Nam hiện nay đang đề cập, chắc chắn số vụ tham nhũng rất là nhiều chứ không phải là ít.

“Thế nhưng vấn đề ở đây là chuẩn bị được đến đâu, hồ sơ được đến đâu, điều tra được đến đâu, thì đưa ra đến đấy là một.

“Việc thứ hai nữa là tham nhũng ở Việt Nam không thể nào thực hiện được, nếu như không có ô dù nhất định.

“Nếu mà xử tham nhũng vụ này, hay vụ kia, rất có thể là sẽ đụng đến cái ô dù nào đấy và đấy là một vấn đề cần tiếp tục theo dõi thêm là việc xử nhân vật tham nhũng này có tác động gì đến ông A, ông B nào đấy, ở đâu đấy trên cao hay không.

“Và điều ấy là điều đáng chú ý trong việc xử tham nhũng trước kỳ Đại hội,” Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói với BBC.

‘Thiếu minh bạch về 8 vụ án trọng điểm’

 
Image copyright AFP.
Image caption Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng của Đảng CSVN vừa nói sẽ đưa 8 vụ án trọng điểm ra xét xử trước Đại hội 12 của Đảng.

Trong lúc tám vụ án trọng điểm mà Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng của Việt Nam vừa đề nghị đem ra xét xử trước Đại hội lần thứ 12 của Đảng CSVN được cho là một ‘vở diễn’, ‘ít về số lượng’, thì cách thức các vụ án được đưa tin cho thấy một sự ‘thiếu tường minh’.

Đó là một vài bình luận mà các nhà quan sát, phân tích chính trị, xã hội Việt Nam nói với BBC.

Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nêu quan điểm cho rằng chống ‘tham nhũng’ từ đầu nhiệm kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới nay tỏ ra khá ‘lúng túng’ và tuyên bố này của Đảng chỉ là ‘một màn kịch nhạt nhòa’.

Nhà xã hội học nói: “Khi tình hình Đại hội 12 sắp diễn ra lại thấy rộ lên vấn đề chống tham nhũng. Và người ta liệt kê thành tích xử được bao nhiêu vụ, bỏ tù được bao nhiêu anh, rồi kê khai tài sản được bao nhiêu vị.

“Nhưng theo tôi, ‘màn kịch này’ cũng chỉ là một trong những pha trước Đại hội mà thôi. Đối với người dân như là tôi chẳng hạn, thì tôi suy nghĩ, tôi không thấy có gì là hấp dẫn. Bởi vì người ta cần đột phá thì không thấy, chỉ vậy thôi.”

Khi được đề nghị bình luận về tám vụ án cụ thể được đề nghị xét xử, ông nói:

“Tôi không đi vào chi tiết, tôi chỉ nhìn chung màn kịch, thì tôi thấy vở diễn nhạt quá. Nó không hấp dẫn gì cả, người ta cũng phải ly kỳ, hồi hộp… đây thấy nó nhạt nhòa quá, cho nên cái ‘miếng võ’ mà ngài Tổng bí thư đưa ra tôi thấy nó chẳng phải là võ tàu, mà cũng chẳng phải là võ tây, mà nó lúng túng ‘như gà mắc tóc’.

“Cho nên theo tôi, nó cũng không có ý nghĩa gì lắm trong chính trường Đại hội 12 cả. Đấy là theo tôi nghĩ nếu cứ nhìn trên những ‘con muỗi mắt’, thống kê lên những vụ bắt bớ, với kê khai tài sản… thì tôi thấy vở diễn này kém quá,” từ Sài Gòn, Giáo sư Tương Lai nói.

Đụng chạm ô dù

Từ Hà Nội, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nêu quan điểm cho rằng cần theo dõi thêm diễn biến của các vụ xử, tuy nhiên ông thấy rằng các vụ án này là ‘quá ít’ so với thực tế tình trạng tham nhũng ở Việt Nam mà từ lâu theo ông Đảng và nhà nước ‘đã cạn kiệt’ ngôn từ trong cuộc chiến chống tệ nạn này.

Ông nói: “Việc chống tham nhũng của Việt Nam thì về mặt lời nói đã dùng những ngôn từ cao nhất rồi, tức là đã cạn ngôn từ rồi: ‘giặc nội xâm’, rồi ‘nguy cơ tồn vong’ của đất nước.

“Thế nhưng hiện nay việc chống tham nhũng, Việt Nam rất kém hiệu quả. Cụ thể là xếp hạng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) về cảm nhận tham nhũng của Việt Nam, thì điểm ba năm: 2013, 2014 và 2015 cứ là 31/100, không có thay đổi gì cả.”

Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương bình luận thêm về tính ‘trọng điểm’ và điển hình của các vụ án và một vấn đề khá ‘nhạy cảm’ ở Việt Nam trong chống tham nhũng mà ông gọi là ‘đụng chạm ô dù’.

Tiến sỹ Doanh nói: “Theo tôi hiểu 8 vụ ấy thì không phải là nhiều và so với việc tham nhũng mà xã hội Việt Nam hiện nay đang đề cập, thì chắc chắn số vụ tham nhũng rất là nhiều chứ không phải là ít.

“Thế nhưng vấn đề ở đây là chuẩn bị được đến đâu, hồ sơ được đến đâu, điều tra được đến đâu, thì đưa ra đến đấy là một. Việc thứ hai nữa là các việc xử án tham nhũng này thì thường là tham nhũng ở Việt Nam không thể nào thực hiện được, nếu như không có ô dù nhất định.

“Nếu mà xử tham nhũng vụ này, hay vụ kia, rất có thể là sẽ đụng đến cái ô dù nào đấy và đấy là một vấn đề có lẽ là cần tiếp tục theo dõi thêm xem là việc xử nhân vật tham nhũng này có tác động gì đến ông A, ông B nào đấy, ở đâu đấy trên cao hay không. Và điều ấy là điều đáng chú ý trong việc xử tham nhũng trước kỳ Đại hội,” Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói.

Hời hợt, bưng bít?

Hôm thứ Ba, từ Sài Gòn, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, một nhà quan sát và vận động cho xã hội dân sự ở Việt Nam bình luận về tám vụ án trọng điểm.

Ông nói với BBC: “Cảm nghĩ của tôi là có vẻ như những vụ án trọng điểm đưa vào năm nay hời hợt hơn khá nhiều so với những vụ án trọng điểm đưa vào những năm trước.

“Thí dụ như vào năm 2013, đã đưa ra một số vụ án trọng điểm, trong đó có đưa ra xử vụ Dương Chí Dũng, tức là Vinalines.

“Và cái cách mà bên ngành tư pháp cũng như bên Đảng chỉ đạo đối với các vụ án trọng điểm thường là phải đưa tên tổ chức đầu tiên, rồi sau đó mới là những cá nhân chịu trách nhiệm nằm trong tổ chức đó, kèm theo chức vụ cụ thể.

“Và thậm chí còn đưa luôn cả nội dung của từng vụ án, từng vụ việc và mức độ vi phạm trầm trọng như thế nào. Nhưng tám vụ án được coi là trọng điểm năm nay lại chỉ có tên cá nhân và đồng phạm, đồng bọn, ngoài ra không có gì khác.

“Và việc mà quá vắn tắt như vậy nó làm cho người ta có cảm nhận đầu tiên là thứ nhất dường như những vụ án được coi là trọng điểm lại có một cái gì không minh bạch, hoặc là bị bưng bít.

“Ít nhất về mặt truyền thông, về mặt tuyên giáo, đưa ra chỉ để cho độc giả, cho dư luận xã hội biết một chút thôi, còn lại người ta muốn che dấu một cái gì đó.

“Cảm nhận thứ hai, nếu như những vụ án này nó đơn giản tới mức chỉ có tên cá nhân và những đồng phạm mà không có mức độ nghiêm trọng như là những vụ án đưa vào những năm trước, thì có thể đây chỉ là những vụ án bình thường và đưa ra xét xử cho có.”

“Vấn đề là thời điểm đưa ra vào lúc này nó có ý nghĩa gì,” ông Phạm Chí Dũng đặt dấu hỏi.

‘Có thể 50% quan chức dính tham nhũng’

24 tháng 1 2014 Cập nhật lúc 15:02 ICT

tham nhung

 Image caption TS Phạm Chí Dũng nói các nhóm lợi ích đã câu kết, lũng đoạn gây ra nạn tham nhũng nhà nước trầm trọng.

<span >Tham nhũng nhà nước có thể đẩy tới một cuộc ‘khủng hoảng chính trị, xã hội’ khó tránh khỏi ở Việt Nam mà hệ quả sau cùng có khả năng dẫn tới tới việc thay đổi hoàn toàn bản chất của nhà nước và chế độ, theo ý kiến của nhà bình luận từ trong nước.

Tham nhũng nhà nước liên kết phức tạp, sâu rộng với các nhóm lợi ích có thể làm cho ít nhất 50% quan chức ở Việt Nam dính vào ‘tham nhũng’, mà trong đó, có thể có tới 20% số có ‘đặc quyền đặc lợi’ ở cấp độ trung cao có sự can dự, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nói với BBC hôm 23/01/2014.

Vẫn theo nhà kinh tế, đồng thời là nhà báo tự do này, nếu tính trên tổng số ít nhất 2 triệu công chức ở Việt Nam, tỷ lệ này cho thấy một con số tiềm năng của tham nhũng nhà nước ở mức khá lớn, với khoảng 400 nghìn người có thể ‘dính vào tham nhũng’.

So với Trung Quốc, theo ông Dũng, Việt Nam chưa cho tiến hành các cuộc điều tra được công bố công khai, rộng khắp về tham nhũng nhà nước, trong đó minh bạch hóa các nguồn tài sản và thu nhập thực tế giới chức chính phủ ở các cấp, đặc biệt ở nhóm quyền chức trung, cao.

Nhà quan sát độc lập cũng phân tích các hình thức tham nhũng, các dòng chuyển động đưa tài sản ‘phi pháp’ ra nước ngoài mà không công bố, không khai thuế, không chỉ dừng ở ‘rửa tiền’ đơn giản, mà còn ‘quay vòng vốn’ trở lại trong nước, tạo thêm lợi nhuận, sau khi đã ‘làm sạch’.

‘Tuồn, tẩu tài sản’

Ông Dũng nêu giả thuyết có thể có từ 25-30% nguồn ‘kiều hối’ được điều chuyển trở lại thị trường trong nước có nguồn gốc không rõ ràng, và có thể đến từ các hoạt động rửa tiền, quay vòng vốn của các quan chức, nhóm lợi ích từ Việt Nam.

Nhà quan sát từ Sài Gòn <span >cũng phân tích những khía cạnh của hiện tượng mà ông gọi là nền kinh tế đen, hiện tượng nhóm lợi ích, các quan chức được cho là ‘tha hóa’ đã tham nhũng ra sao, câu kết như thế nào với các đại gia, các nhóm lợi ích xấu trên các lĩnh vực kinh tế trong nước, từ ngân hàng, tài chính, cho tới khai thác mỏ, quặng, khoáng sản, thâm lạm công quỹ v.v…

Đặc biệt, ông chỉ ra mức độ, cách thức phổ biến trong nhiều năm qua của việc ‘tuồn tài sản tham nhũng’ và ‘cài cắm’ con cháu ra nước ngoài, như những phương án ‘tẩu tán’ và ‘chuẩn bị tháo thân’ khi cần thiết của nhiều đối tượng ‘tham nhũng nhà nước’.

Mở đầu cuộc trao đổi với BBC, ông Dũng lấy làm tiếc về việc chính quyền Việt Nam không công bố chính thức, công khai các số liệu về nạn tham nhũng, rửa tiền, tình trạng các quan chức ‘tuồn tài sản’ ra nước ngoài tinh vi ra sao, hoặc ‘rửa tiền’ rồi đầu tư ngay tại chỗ trong nước thế nào.

Ông nói: “Đáng tiếc là từ trước đến nay, Việt Nam chưa hề công bố một số liệu thống kê, điều tra, hoặc khảo sát liên quan tới vấn đề này, n<span >gay cả vấn đề tài sản cá nhân,

<span >”Mặc dù được Bộ Chính trị yêu cầu, được coi là khá quyết liệt, từ những năm 2002, nhưng cho tới giờ người ta vẫn còn bàn cãi về những tiêu chí phân loại và thống kê, điều tra tài sản với các quan chức và thực ra tới nay, hiệu quả khá là kém cỏi,” Tiến sỹ Dũng nói với BBC.

Xung quanh vụ việc Lương Tâm TV

Xung quanh vụ việc Lương Tâm tivi

LUONG TAM TV

Sáng ngày 23/9 vừa qua, một nhóm người chủ trương thực hiện chương trình Lương Tâm tivi đã bị bắt đưa tới các trụ sở công an phường nơi gần nhất. Trong đó, có người bị bắt tại nhà, có người bị bắt tại ngõ nhà mình, có người bị bắt trên đường đi. Có một chi tiết hài hước là hầu như tất cả những người bị bắt, cưỡng chế đi làm việc đều được nhận một giấy mời từ cơ quan công an ngay lúc bị bắt, với nội dung làm việc về vấn đề xây dựng, tán phát video clip Lương Tâm tivi.

Quá trình câu lưu và thẩm vấn kéo dài từ khoảng 9h30” sáng cho tới 23-24h đêm. Đi kèm với việc bắt giữ người là  việc thu giữ hết đồ đạc, phương tiện làm việc của kênh truyền thông Lương Tâm tivi và thậm chí phương tiện làm việc của cá nhân như laptop, máy tính bảng và điện thoại thông minh. Tại nơi làm việc chính của nhóm, công an đọc lệnh khám nhà và thu toàn bộ phương tiện làm việc của kênh thông tin và một số tài liệu của chủ nhà (anh Nguyễn Vũ Bình).

Xác định mục tiêu của đợt đàn áp nhắm vào Lương Tâm tivi không khó, đầu tiên là thu giữ toàn bộ phương tiện, sau nữa là dùng sức ép để đánh gục ý chí, tinh thần của những người tham gia. Mục tiêu đầu tiên đã thực hiện được đơn giản, vì một cá nhân không thể làm gì được khi một nhóm người (khoảng trên chục người) có mục đích rõ ràng và sẽ thực hiện đến cùng việc thu giữ đồ đạc của người bị bắt. Mục tiêu thứ hai, vẫn đang trong quá trình giằng co với một vài người và kết thúc làm việc với người khác. Mục đích bao trùm trong đợt ra quân, trận đánh đẹp này là dẹp bỏ kênh truyền thông Lương Tâm tivi.

Trước hết, chúng ta cần hiểu về vấn đề pháp luật. Theo các quy định pháp luật, việc làm ra và đăng tải các video clip trên hệ thống Internet toàn cầu khi máy chủ và đường dẫn không nằm trong lãnh thổ Việt nam không thuộc quyền quản lý của nhà nước Việt nam, ví dụ như Youtube, trang web tên miền quốc tế….chính vì vậy mà hiện nay có rất nhiều cá nhân, tổ chức làm các đoạn clip, hoặc quay video đưa lên mạng Internet. Trường hợp các nhóm người đặt tên chương trình như thế nào không thuộc sự điều chỉnh của nhà nước. Và trong thực tế, hàng vạn, chục vạn video clip được đăng tải mỗi ngày trên mạng Internet là một minh chứng.

Vấn đề quan trong thứ hai, nội dung của những vấn đề được Lương Tâm tivi đăng tải. Phải khẳng định rằng, đó là những vấn đề sự thật, đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ ở Việt Nam. Một khi đã là sự thật, không vô văn hóa, không bóp méo, lừa bịp thì tại sao lại trấn áp sự thật?

Đi xa hơn nữa, chúng ta đều biết, nhờ sự đấu tranh kiên trì, bền bỉ của nhân dân nói chung và phong trào dân chủ nói riêng, nhờ hệ thống Internet toàn cầu, xã hội Việt Nam hiện nay đã rất cởi mở về mặt truyền thông. Những bài viết trên Internet bao gồm trang web, blog, facebook, vv…đã rất đa dạng, phong phú. Các video clip của người dân, của phong trào dân chủ đã tràn ngập. Vì xu thế tất yếu, những kênh truyền thông bằng âm thanh, hình ảnh chỉ là tiếp nối đà phát triển của những phương thức truyền thông hiện có, của tình hình đất nước. Chúng ta chỉ cần nhìn lại quãng đường đã qua của sự phát triển truyền thông phi chính thống đều rút ra được kết luận rằng, việc phát triển các kênh truyền thông, trước hết trên hệ thống Internet là tất yếu, thậm chí trong tương lai rất gần. Tại sao còn triệt hạ, ngăn trở một việc chắc chắn sẽ xảy ra trong thời gian tới? đồng thời, những cam kết của Việt nam với quốc tế, nhường lại một phần không gian cho truyền thông phi nhà nước, cũng như việc loại bỏ các điều luật 88, 258 trong bộ luật hình sự cần được chứng tỏ qua những vụ việc như thế này.

Sự phát triển của Việt nam giai đoạn vừa qua không chỉ dừng lại trong lĩnh vực truyền thông, tự do ngôn luận. Các tổ chức xã hội dân sự, các nhóm thiện nguyện, cứu trợ Dân Oan…đã ra đời, tồn tại và hoạt động rất sôi nổi. Việc Việt nam cam kết để công nhân lập công đoàn độc lập ở nhà máy, xí nghiệp, công ty tuy chưa đáp ứng mong mỏi của người dân và sự phát triển của tình hình nhưng cũng đã chứng tỏ nhà cầm quyền Việt nam từng bước chấp nhận những thay đổi, cải cách. Trong xu thế như vậy, việc triệt hạ và ngăn cản một kênh truyền thông non trẻ chắc chắn sẽ bị cộng đồng quốc tế và dư luận phản đối và lên án.

Một vấn đề rất quan trọng nữa, trong việc ứng xử với truyền thông phi nhà nước nói chung và kênh truyền thông Lương Tâm tivi nói riêng đó là nhận định về tình hình sắp tới của đất nước. Nếu những người có trách nhiệm nghĩ rằng, trong tương lai sắp tới đây, nền kinh tế Việt nam vẫn ổn định, phát triển và chế độ vững như bàn thạch thì không còn gì để nói, xin cứ tiếp tục làm những gì, trên cơ sở lòng tin của quý vị. Trường hợp ngược lại, nền kinh tế cần sự hòa nhập, cần cải cách, thậm chí ở bước cao nhất, cải cách chính trị thì việc duy trì hệ thống truyền thông phi nhà nước là một yêu cầu tất yếu trong việc hỗ trợ và thúc đẩy các cải cách về kinh tế và thể chế. Trước đây, việc triệt hạ và cấm cản những tiếng nói tự do hoặc các hình thức kết hợp của người dân và phong trào dân chủ thì phải một thời gian dài mới có tác động ngược trở lại và chấp nhận sự tồn tại của họ. Nhưng hiện nay, những diễn biến có thể diễn ra nhanh hơn rất nhiều, bởi Việt Nam hiện tại, đang trong quá trình thai nghén cho những thay đổi triệt để và toàn diện – một cuộc cách mạng./.

Hà Nội, ngày 27/9/2015

N.V.B

Luật về Hội – phép thử bị trì hoãn?

Image copyright AFP Image caption Đại biểu Quốc hội VN ông Dương Trung Quốc coi dự luật Hội là một bước ‘chuyển đổi căn bản’, nhưng cũng là một ‘bài toán khó’ và ‘phép thử’ với chính quyền.

Dự án luật về Hội được Bộ Nội vụ Việt Nam đệ trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước này, điều được cho là một ‘phép thử’ và ‘bước thay đổi căn bản’ đối với chính quyền, theo ý kiến một Đại biểu Quốc hội, đã một lần nữa bị ‘trì hoãn’ thông qua, ban hành, theo truyền thông Việt Nam.

Dự án luật được đệ trình là ‘một bước thay đổi căn bản’, tuy nhiên đây là một trong số các dự án mà chỉ được trình xin ý kiến và sẽ chỉ được ‘thảo luận’ mà không được thông qua từ nay cho tới hết nhiệm kỳ của Quốc hội khóa mười ba (2011-2016), theo một đương kim Đại biểu Quốc hội với ba nhiệm kỳ liên tục.

Trong khi đó, một nhà vận động cho xã hội dân sự ở Việt Nam cho rằng dự thảo luật lần này ‘còn tồi hơn nhiều’ so với bản dự thảo được đưa ra góp ý lần này và dự thảo luật có tính ‘quản lý, khống chế’ các hội đoàn của nhân dân hơn là giúp thực thi quyền về lập hội của họ.

Còn theo một nhà xã hội học, tuy là một sự kiện ‘vui mừng’, dự án Luật vẫn còn có điểm bất hợp lý khi ‘phân biệt đối xử’ giữa các hội đoàn của nhà nước với hội đoàn của nhân dân.

Phải đợi kỳ sau

Theo truyền thông Việt Nam, hôm 25/9/2015, do còn ‘có nhiều ý kiến khác nhau’ về một số nội dung trong dự luật, trong đó có vấn đề về quy định ‘Hội có tư cách pháp nhân’, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, ông Nguyễn Sinh Hùng đã đặt vấn đề trong phiên bế mạc kỳ họp Thường vụ và cho rằng ‘nên tạm lùi để chuẩn bị kỹ hơn’.

Trao đổi với BBC trước đó, hôm 24/9, Đại biểu Quốc hội Việt Nam, ông Dương Trung Quốc, bình luận về dự thảo luật. Ông nói:

“Theo tôi nhớ, phải đến lần thứ mười, lần thứ mười hai gì đó, soạn thảo đi, soạn thảo lại và đương nhiên cũng phải hiểu rằng đây cũng là luật quan trọng, nhất là trong cơ chế chính trị của Việt Nam, làm thế nào huy động được các lực lượng xã hội tham gia vào trong việc quản lý đời sống của đất nước.

“Về nguyên lý ai cũng thấy rằng đoàn kết toàn dân thì tất cả các lực lượng xã hội đều tham gia vào sự nghiệp chung là một điều tích cực, nhưng khi đi vào cụ thể thì phải nói đây là một bài toán rất khó đối với những nhà lãnh đạo, những nhà chính trị.

“Có lẽ đấy là lý do vì sao mà nó được nâng lên, đặt xuống khá nhiều lần và đến lần này thì đưa ra Quốc hội để thảo luận.

“Tôi muốn lưu ý rằng những kỳ họp cuối cùng khóa 13 này chỉ thảo luận thôi, chứ còn việc quyết định thì theo quy trình của nó, nó phải thêm một kỳ họp nữa, tức là nó có thể phải sang nhiệm kỳ tới của Quốc hội khóa 14,” ông Dương Trung Quốc nói.

Theo Đại biểu Quốc hội này, kể cả khi dự luật đã được thông qua, và trở thành một đạo luật chính thức ban hành, thì chất lượng của nó còn phải chờ ‘thực tế chiêm nghiệm’.

Ông nói: “Đối với luật rất phức tạp như luật Hội này, Quốc hội… đã đặt lên bàn nghị sự đã là một bước thay đổi rất căn bản sau cả chục năm mà nó được chờ đợi, nâng lên đặt xuống, được xếp hàng v.v…”

“Còn kết quả cuối cùng có được thông qua hay không, chúng tôi nghĩ rằng cứ để thực tế nó chiêm nghiệm, và đến lúc ban hành rồi, thì chính là lúc mà thực tế sẽ trả lời xem hiệu quả đến đâu.

“Và trong trường hợp hiệu ứng xã hội nó không phù hợp, thì nó sẽ phải có một quá trình điều chỉnh. Tôi cho điều đó là điều tất nhiên thôi,” ông Dương Trung Quốc nói.

Rất vui mừng

Bình luận với BBC hôm thứ Năm, TS. Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS), thuộc Liên hiệp các Hội khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (Vusta), nói:

“Nếu mà nói với tư cách là một thành viên ở trong xã hội dân sự, tức là thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này, có thể nói là tôi rất vui mừng vì dù sao nó cũng là một bước tiến.”

“Thực ra bản thân tôi cũng tham gia vào quá trình thảo luận về dự thảo thành lập hội này cũng khá là lâu trong vòng mười năm qua, cho nên sự kiện này đối với tôi là một sự kiện vui mừng.”

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng cho rằng dự luật còn có điểm ‘không hợp lý’. Bà Khuất Thu Hồng nói:

“Theo nhận xét của một số người thì nó (dự Luật) quá là chặt chẽ, và nó có một sự phân cấp, hay nói đúng hơn nó có một sự phân biệt ở giữa những hội khác nhau.

“Và tôi cho rằng điều đấy sẽ gây khó cho các tổ chức mà được thành lập hoặc dưới diện được điều chỉnh của luật này. Ví dụ như các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội về nguyên tắc cũng nằm trong phạm vi của luật này, nhưng mà dường như là họ có được một sự ưu ái hơn những hội khác.

“Cái cách phân cấp như vậy tôi nghĩ nó không hợp lý lắm,” TS. Khuất Thu Hồng nói với BBC.

Một sự ngộ nhận

Cũng hôm 24/9, TS. Nguyễn Quang A, nhà quan sát và vận động cho xã hội dân sự từ Hà Nội, cho rằng nếu ai có quan điểm cho rằng bản thân việc ‘dự thảo’ được phép đệ trình lên Ủy ban Thường vụ của Quốc hội đã là ‘tích cực’ và ‘tiến bộ’ thì đó là một sự ‘ngộ nhận’.

Ông nói: “Tôi nghĩ đấy là một sự ngộ nhận, bởi vì mười năm trước có một dự thảo như thế và có một cuộc thảo luận sôi nổi hơn bây giờ rất là nhiều, các tổ chức đã đóng góp, thậm chí đã có những dự thảo thay thế đưa ra rất là đúng đắn.

“Nhưng mà rồi người ta lại gác lại không nói gì đến cả, bây giờ đưa ra một dự thảo mà tôi cho rằng còn tồi hơn cả Dự thảo mười năm trước, mà lại bảo rằng có tiến bộ, thì đấy là một điều mà những người suy nghĩ như thế cần phải suy nghĩ lại.”

ts Ng qung A

Và Tiến sỹ Quang A giải thích thêm về quan điểm của mình:

“Bởi vì một cái luật để kiểm soát các hội, một luật để quản lý các hội không phải là luật cần phải có, theo Hiến pháp của Việt Nam là để đảm bảo quyền của người dân về vấn đề lập Hội,” ông nói với BBC.

Dự án Luật về Hội do Bộ Nội vụ soạn thảo được trình lên Ủy ban Thường vụ của Quốc hội Việt Nam hôm thứ Năm.

Dự luật gồm 8 Chương với 37 điều với các mục lớn gồm các nội dung chính như (i) quy định chung, (ii) thành lập hội, (iii) hội viên, (iv) tổ chức & hoạt động của hội, (v) hợp nhất, sáp nhập, chia, tách đình chỉ, giải thể hội, (vi) tài sản, tài chính của hội, (vii) quản lý nhà nước về hội; và (8) điều khoản thi hành.

Tại phiên bế mạc khóa họp thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam hôm 25/9, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, ông Nguyễn Sinh Hùng đã phát biểu về dự luật và cho rằng “Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục xem xét có nên đưa dự án này ra kỳ họp Quốc hội tới hay tạm lùi lại để chuẩn bị kỹ hơn.”

Xem ra, sau mười năm được ‘nâng lên, đặt xuống’, dự luật về Hội của Việt Nam, điều được Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc coi là một ‘ phép thử‘ và ‘bước thay đổi căn bản’, vẫn có thể tiếp tục bị trì hoãn vô thời hạn.

Sau 40 năm, Việt Nam còn mấy phần cộng sản?

15 tháng 4 2015

http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/04/150415_vietnam_40yrs_not_so_communist

Image caption Việt Nam một thời theo mô hình kinh tế và xã hội Liên Xô

Việt Nam, cùng với Trung Quốc và một vài nước nhỏ hơn được biết đến như những thành trì cuối cùng của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới.

Kể từ sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết, chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam đã phải thay đổi rất nhiều để tồn tại trong hoàn cảnh mới.

Sự quay lưng lại nền kinh tế tập trung bao cấp để hướng tới tư bản thị trường đã đưa một quốc gia nghèo đói lạc hậu chuyển mình thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh bậc nhất thế giới.

Từ nền kinh tế tư bản hóa

Nhiều khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thực sự ngỡ ngàng khi tận mắt chứng kiến một đất nước Cộng sản hoàn toàn khác xa với những gì họ tưởng tượng.

Trên những đường phố tấp nập xe cộ là hình ảnh của đồ ăn nhanh, hàng hiệu và đồ điện tử Apple, nhứng biểu tượng của chủ nghĩa tư bản.

Truyền thông thì ngày càng trở nên thực dụng tranh cãi nhau xem cô người mẫu anh diễn viên nào diện áo quần đắt hơn, hoặc đại gia nào giàu hơn trên sàn chứng khoán.

Chủ nghĩa tiêu dùng như đang cuốn tất cả mọi người vào cơn kích động mạnh chưa từng có, để rồi bất chợt nhiều người tự hỏi, Việt Nam còn mấy phần Cộng sản.

Trong một khảo sát của trung tâm nghiên cứu Pew Research đặt tại Washington DC, có đến tận 95% người Việt được khảo sát đặt niềm tin vào sự dẫn dắt của thị trường tự do, cao hơn hẳn các quốc gia tư bản như Mỹ hay Hàn Quốc, hoặc thậm chí là Trung Quốc, đất nước có nhiều tương đồng về kinh tế và chính trị.

Điều này minh chứng rằng không còn mấy người Việt Nam còn tin tưởng vào định hướng xã hội chủ nghĩa.

Triết học Mác Lê Nin giờ đây không còn được dùng như kim chỉ nam cho các nhà hoạch định chính sách.

Image caption Dân TPHCM đến ăn quán Mỹ McDonald’s

Nếu ai đó còn nhắc đến học thuyết Mác xít thì có lẽ chỉ là trên những giảng đường thiếu sinh viên, hoặc ngoài quán nước như những câu chuyện cười cợt siêu thực về một thời quá đỗi lãng mạn mà không ai còn muốn kể nữa.

Cho đến các Chính sách an sinh xã hội mất cân bằng

Có một sự hiểu lầm rất lớn của nhiều người phương Tây về Việt Nam, một trong những nước xã hội chủ nghĩa cuối cùng, đó là các nước XHCN hướng trọng tâm lớn vào các Chính sách an sinh như giáo dục, y tế, hưu trí và thất nghiệp.

Đây là nền tảng cơ bản của CNXH để giải thích cho tính chính danh của Đảng Cộng sản.

Nhưng cuộc đình công lớn gần đây ở khu công nghiệp ngoại ô Sài Gòn như một cú tát phủ nhận tất cả. Người lao động đứng trước nguy cơ mất trắng tiền trợ cấp khi quỹ Bảo hiểm có nguy cơ tan vỡ.

Cần phải nhấn mạnh là đây là số tiền do các doanh nghiệp có trách nhiệm đóng góp cho người lao động, hay nói cách khác là được trích ra từ lương làm công của chính họ, không phải là từ tiền thuế do Nhà nước trợ cấp.

Bản thân các Tổ chức Công đoàn, với được đặc cấp cho quyền lực lớn trong chế độ XHCN với vai trò bảo vệ người lao động, thì nay gần như trở thành một hình thức vô tích sự mà thực chất là bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp hơn là người lao động.

Có nhiều nghi ngờ rằng Công đoàn trong các Khu chế xuất còn tiếp tay cho lực lượng an ninh trấn áp các cuộc đình công tự phát.

Điều này hoàn toàn trái ngược với vai trò của Công đoàn ở các quốc gia tư bản phát triển.

Cần phải hiểu theo đúng nghĩa, không có đất nước nào là tuyệt đối “tư bản” hay “XHCN”.

Những quốc gia tư bản phát triển Tây Âu thực tế chịu ảnh

hưởng lớn từ phe cánh tả, vốn luôn trọng tâm vào các chính sách ngăn chặn bất bình đẳng để hướng tới xã hội nhân văn hơn.

Ví dụ như ở Đức, tất cả mọi người được đảm bảo được tận hưởng một nền giáo dục miễn phí cho tới tận Đại học.

Nhà nước cũng cung cấp y tế miễn phí cho tất cả người dân với yêu cầu là tất cả mọt người phải có bảo hiểm.

Bảo hiểm y tế được chi trả dựa vào mức thu nhập, nghĩa là người thu nhập thấp đóng ít hơn người có thu nhập cao và phù hợp với khả năng chi trả của mình.

Người già được hưởng lương hưu, người thất nghiệp cũng được hưởng trợ cấp, không nhiều nhưng đủ chi tiêu cho những nhu cầu cơ bản

Trong trường hợp của Việt Nam, chi phí cho giáo dục và y tế là gánh nặng thường trực cho nhiều hộ gia đình.

Cấp tiểu học là cấp học duy nhất Nhà nước chia sẻ một nửa học phí, nửa còn lại phụ huynh phải tự đóng.

Các chi phí phát sinh trên thực tế như phí xây dựng, vệ sinh, thậm chí quà bánh cho giáo viên còn lớn hơn rất nhiều.

Nếu cộng tất cả những chi phí này lại, các hộ gia đình Việt Nam chắc hẳn chi cho giáo dục trên thu nhập đầu người nhiều hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Chi phí y tế cũng thực sự là một gánh nặng vô cùng lớn ở Việt Nam. Theo một thống kê trên báo nhân dân, tỷ lệ chi từ tiền túi bệnh nhân ở Việt Nam là 50%, quá cao so với 13.1% ở Thái Lan, 35% ở Malaysia hay 20% mức trung bình chung của thế giới.

Cũng như giáo dục, khi đến bệnh viện người bệnh ngoài viện phí còn phải chi nhiều khoản khác mà tựu chung là “phong bì”.

Image caption Cuộc biểu tình ở Tân Tạo cho thấy Công đoàn của Đảng Cộng sản không vì công nhân

Song hành với viện phí là giá thuốc cũng cao bậc nhất khu vực.

Các khoản phí này tác động mạnh nhất lên nhóm có thu nhập dưới đáy. Có tới gần 60% số hộ gia đình nghèo mắc nợ do chi phí khám chữa bệnh và 67% phải vay mượn tiền để chi trả điều trị nội trú.

So sánh với Cuba, đất nước còn ở giai đoạn “Cộng sản thuần khiết”, dù thu nhập đầu người thấp hơn nhưng hệ thống y tế ở đây hoàn toàn miễn phí đối với tất cả các thành phần xã hội.

Thành tựu y tế của Cuba đáng nể đến mức nhiều quốc gia phát triển hơn cũng phải ngưỡng mộ.

Chi tiêu Công thiếu minh bạch

Việt Nam sử dụng tới 20% ngân sách cho giáo dục, cao hàng đầu thế giới. Dù chi tiêu nhiều nhưng tiến bộ của ngành giáo dục không mấy khả quan.

Điều này là không đáng ngạc nhiên khi nhìn vào công cuộc cải cách giáo dục càng chi càng trì trệ.

Năm 2014, Bộ GDDT trình lên đề án đổi mới sách giáo khoa sau năm 2015 dự toàn hơn 34000 tỷ đồng. Gần 1.5 tỷ USD chỉ để thay sách khiến dư luận không khỏi kinh ngạc.

Chắc hẳn người được lợi nhiều nhất không phải là học sinh sinh viên, nhân tố trung tâm của ngành giáo dục.

Các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở Việt Nam được dự báo là sẽ vỡ từ nhiều năm trước.

Đây là hệ quả trực tiếp từ việc sử dụng nguồn vốn từ thuế và đóng góp của người lao động để đầu tư thiếu minh bạch.

Những cuộc đình công lớn gần đây cũng là hồi chuông cảnh tỉnh khi nguy cơ các quỹ này mất khả năng chi trả càng lúc càng lớn.

Dù Chính phủ đã có phương án xoa dịu bằng việc đảm bảo người lao động sẽ được nhận đủ tiền, vấn đề là tính khả thi như thế nào khi nợ công càng lúc càng lớn.

Một Việt Nam thị trường chủ nghĩa

Việt Nam có lẽ là nước duy nhất trên thế giới trực tiếp công khai “Xã hội Chủ nghĩa” trên Quốc hiệu, nhưng là quốc gia có rất ít chính sách để đảm bảo bình đẳng xã hội.

Thực tế, ranh giới giàu nghèo và quyền lợi tầng lớp trên và dưới được hưởng đang ngày càng phân cấp dữ dội.

Một trong những di sản lớn nhất mà Chủ nghĩa Cộng sản để lại là các Tổng công ty, Tập đoàn Nhà nước vốn có đặc ân đặc biệt để tiếp cận các nguồn tài nguyên của quốc gia, hoặc ưu tiên về Pháp luật.

 

Image caption Việt Nam là ‘xã hội chủ nghĩa’ trên quốc hiệu và trong lợi ích các tập đoàn đặc quyền

Những Tổng công ty, tập đoàn này về nguyên tắc phải sử dụng những đặc ân này làm động lực cho kinh tế đất nước, nhưng trên thực tế đang tạo lực cản phát triển.

Tôi còn nhớ những năm 90 khi đất nước mới mở của, mọi người còn hỏi nhau “hàng Nhà nước hay gia công”, ý nói hàng hóa do Nhà nước sản xuất luôn được ưu tiên hơn tư nhân.

Bây giờ thì hoàn toàn khác, nhiều tập đoàn nhà nước do quản lý kém và tham nhũng tràn lan làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào nỗ lực dẫn dắt của Chính phủ.

Những vấn đề này thách thức trực tiếp vào tính chính đáng của giới lãnh đạo, cũng như đặt một dấu hỏi lớn lên đường lối XHCN mà Chính phủ Việt Nam vẫn một mực cho là “đúng đắn”.

Việt Nam của ngày hôm nay chắc chắc không còn là một Việt Nam Cộng sản của những năm tháng mới giải phóng.

Thời gian này có trào lưu nhiều quán cà phê mới mở chọn phong cách như thời bao cấp.

Có lẽ đâu đó còn có ít nhiều nuối tiếc về những ngày tháng thiếu thốn nhưng công bằng, nhưng chắc hẳn không ai còn muốn quay lại nữa.

Bài của Thanh Doan được gửi tới BBC sau khi BBC mời độc giả tham gia viết bài vở, đóng góp tư liệu, chia sẻ thông tin, cảm nghĩ về sự kiện 30/04/1975. Cho đến ngày 15/04 riêng bài này đã đến được trên 155 nghìn bạn đọc trên Facebook.

‘Dự thảo luật mới về hội ở VN bị đánh giá quá kém bởi TS Nguyễn Quang A’

‘Dự thảo luật về hội ở VN rất tồi’

BBC, 25-9-2015, 37 phút trước

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/09/150925_nguyen_quang_a_luat_hoi

Nguyen Quang A

Bản Dự thảo Luật về Hội đang được Bộ Nội vụ Việt Nam trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước này để ‘xin ý kiến’ còn ‘tồi hơn’ cả dự thảo mười năm về trước, theo một nhà quan sát và vận động cho xã hội dân sự và dân chủ hóa từ Hà Nội.

Trao đổi với BBC hôm 24/9/2015, ngay sau khi dự thảo trên được đệ trình, TS. Nguyễn Quang A cho rằng nếu ai có quan điểm cho rằng bản thân việc ‘dự thảo’ được phép đệ trình lên Ủy ban Thường vụ của Quốc hội đã là ‘tích cực’ và ‘tiến bộ’ thì đó là một sự ‘ngộ nhận’.

Một sự ngộ nhận

Ông nói: “Tôi nghĩ đấy là một sự ngộ nhận, bởi vì mười năm trước có một dự thảo như thế và có một cuộc thảo luận sôi nổi hơn bây giờ rất là nhiều, các tổ chức đã đóng góp, thậm chí đã có những dự thảo thay thế đưa ra rất là đúng đắn.

“Nhưng mà rồi người ta lại gác lại không nói gì đến cả, bây giờ đưa ra một dự thảo mà tôi cho rằng còn tồi hơn cả Dự thảo mười năm trước, mà lại bảo rằng có tiến bộ, thì đấy là một điều mà những người suy nghĩ như thế cần phải suy nghĩ lại.”

TS. Quang A giải thích thêm quan điểm của mình, ông nói:

“Bởi vì một cái luật để kiểm soát các hội, một luật để quản lý các hội không phải là luật cần phải có, theo Hiến pháp của Việt Nam là để đảm bảo quyền của người dân về vấn đề lập Hội.”

Dự luật về hội – ‘bước thay đổi căn bản’

BBC, 25-9-2015, 3 giờ trước

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/09/150924_duongtrungquoc_luat_hoi

Duong Trung Quoc

Dự luật về Hội đang được Bộ Nội vụ Việt Nam trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội để xin ý kiến là ‘một bước thay đổi căn bản’, theo Đại biểu Quốc hôi Việt Nam, ông Dương Trung Quốc.

Trao đổi với BBC Việt ngữ hôm 24/9/2015, vị dân biểu này nói:

“Đối với luật rất phức tạp như luật Hội này, Quốc hội… đã đặt lên bàn nghị sự đã là một bước thay đổi rất căn bản sau cả chục năm mà nó được chờ đợi, nâng lên đặt xuống, được xếp hàng v.v…”

Thực tế chiêm nghiệm

Ông Dương Trung Quốc nói tiếp:

“Còn kết quả cuối cùng có được thông qua hay không, chúng tôi nghĩ rằng cứ để thực tế nó chiêm nghiệm, và đến lúc ban hành rồi, thì chính là lúc mà thực tế sẽ trả lời xem hiệu quả đến đâu.

“Và trong trường hợp hiệu ứng xã hội nó không phù hợp, thì nó sẽ phải có một quá trình điều chỉnh.

“Tôi cho điều đó là điều tất nhiên thôi,” vị dân biểu hiện diện liên tục trong ba nhiệm kỳ với khoảng thời gian hơn mười năm nói với BBC.

Trong cuộc trao đổi hôm thứ Năm, ngày mà dự án luật được trình lên Thường vụ Quốc hội, ông Dương Trung Quốc cho rằng có thể tất cả các dự luật được trình ra Quốc hội từ nay cho tới cuối nhiệm kỳ, sẽ chỉ được trình để ‘lấy ý kiến’, mà sẽ chưa được ‘thông qua’, ‘ban hành’.

Trong số đó, ngoài dự án luật về Hội, còn một số dự luật khác như ‘Luật tiếp cận thông tin’ và một số dự án luật khác.

Các thành viên của chương trình ‘Lương Tâm TV’ bị sách nhiễu hăm doạ

‘Lương Tâm TV’ là một kênh thông tin độc lập mới ra đời trong thời đại công nghệ kỹ thuật số hiện nay.

‘Lương Tâm TV’ là một kênh thông tin độc lập mới ra đời trong thời đại công nghệ kỹ thuật số hiện nay.

Screenshot

‘Lương Tâm TV’ là một kênh thông tin độc lập mới ra đời trong thời đại công nghệ kỹ thuật số hiện nay. Sau hơn một tháng hoạt động, cơ quan an ninh bắt đầu có hành động sách nhiễu đối với những thành viên tham gia kênh thông tin này.

Tiếng nói độc lập mới

Một nhà hoạt động tại Hà Nội, luật sư Nguyễn Văn Đài trình bày về Lương Tâm TV bắt đầu chương trình đầu tiên từ ngày 19 tháng 8 vừa qua như sau:

“ Lương tâm TV này đã phát được 3 số rồi và trung bình mỗi tuần ra một số. Ngày hôm qua anh em dự tính làm số thứ tư; nhưng có thể cơ quan an ninh họ biết trước nên họ ngăn chặn bằng cách bắt giữ tất cả những thành viên trong nhóm đó.”

Nhà báo Phạm Thành, người từng làm việc trong hệ thống truyền hình nhà nước Việt Nam trước đây cho biết ông đã xem ba chương trình vừa qua của Lương Tâm TV và ông nhận định như sau:

“ Nội dung thì như trong chương trình số 1 họ nói về quá khứ của cộng sản Việt Nam từ giai đoạn cướp chính quyền cho đến giai đoạn cai trị trong 70 năm qua. Tất cả những chương trình trên Lương tâm TV hoàn toàn đúng tình hình Việt Nam, tôi chẳng thấy họ nói sai điều gì cả.”

Sự bắt bớ

Sau hơn một tháng hoạt động, vào ngày 23 tháng 9 sáu thành viên tham gia Lương Tâm TV bị ép đi làm việc tại Công an Phường Hai Bà Trưng. Sang đến ngày 24 tháng 9 xướng ngôn viên và cũng là biên tập viên trẻ Lê Thị Yến của Lương Tâm TV tiếp tục bị mời đi làm việc.

Luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết lại cách thức cũng như nội dung làm việc mà công an và cơ quan an ninh tiến hành đối với sáu thành viên của Lương Tâm TV trong ngày 23 tháng 9:

Nội dung thì như trong chương trình số 1 họ nói về quá khứ của cộng sản Việt Nam từ giai đoạn cướp chính quyền cho đến giai đoạn cai trị trong 70 năm qua. Tất cả những chương trình trên Lương tâm TV hoàn toàn đúng tình hình Việt Nam, tôi chẳng thấy họ nói sai điều gì cả

Nhà báo Phạm Thành

“ Sau khi làm việc với cơ quan an ninh thì một số người có chia sẻ như anh Phạm Đắc Đạt nói rằng trên đường anh đi, an ninh gây ra một vụ tai nạn giao thông. Sau đó những người an ninh giả danh đã tấn công, đánh anh rất đau. Trong khi anh đang bị đánh thì công an mặc quân phục mới đến yêu cầu cả hai bên về trụ sở giải quyết. Khi về đến nơi, những người tấn công anh đã được thả ra ngay lập tức, còn mình anh bị an ninh mời làm việc. Trong suốt buổi làm việc anh chỉ yêu cầu là lập biên bản và điều tra những người gây tai nạn giao thông và đánh anh thôi. Khi họ hỏi đến Lương tâm TV thì anh không nói gì, không đề cập đến chuyện đó. Khi an  ninh không làm gì được thì họ tịch thu máy ảnh của anh, rồi khám người và đã lấy của anh 100 đô la Mỹ.

Còn anh Cường đang trên đường đi cũng bị chặn lại và bị ép vào một công an phường để làm việc. Trong suốt buổi làm việc anh cũng không trà lời bất kỳ câu hỏi nào của công an cả. Cuối cùng họ cũng tịch thu laptop, điện thoại và máy tỉnh bảng của anh.

Anh Nguyễn Vũ Bình thì bị ập vào nhà, khám nhà, tịch thu máy tính bảng, tài liệu, điện thoại, máy laptop. Cô Yến cũng bị tịch thu điện thoại, máy tính bảng và laptop. Chị Hà thì không bị thu giữ gì nhưng phải làm việc từ 9 giờ sáng đến tận 2-3 giờ đêm.”

Một sinh viên trẻ tham gia các hoạt động vì dân chủ- nhân quyền tại Việt Nam hôm qua cô cùng các bạn đến tại trước Công an quận Hai Bà Trưng ở Hà Nội để yêu cầu trả tự do cho các thân hữu bị buộc làm việc tại đó. Trong khi yêu cầu thả người một cách ôn hòa, thì chính bản thân cô sinh viên này, cùng nhà báo độc lập Đoan Trang bị  hành hung. Cô này kể lại:

“ Em và chị Trang bị kéo rách váy ở phía sau. Sau khi chị Trang bị đánh, chị đứng áp sát vào cổng cơ quan. Thứ nhất chắc chị bị đau, thứ hai có hành động phản đối quyết liệt đối với công an quận Hai Bà Trưng. Khi thấy chị bị đau như vậy, tôi và một bạn tên Minh quyết định đứng hai bên của chị tương trợ và tuyên bố sẽ đứng đó cho đến khi mọi người được thả ra. Trong khi đứng đó chúng tôi cũng rỉ rả, nói chuyện một cách nhỏ nhẹ, đối thoại với những viên an ninh yêu cầu thả các bạn của chúng tôi ra.”

Một số bạn trẻ đến trước Công an quận Hai Bà Trưng ở Hà Nội để yêu cầu trả tự do cho các thân hữu bị bắt đến đó sau đó thì họ đám côn đồ hành hung
Một số bạn trẻ đến trước Công an quận Hai Bà Trưng ở Hà Nội để yêu cầu trả tự do cho các thân hữu bị bắt đến đó sau đó thì họ đám côn đồ hành hung (ngày 23/9/2015 Facebook Nguyen Lan Thang)

Cựu tù nhân Nguyễn Vũ Bình cho biết lại một số nội dung cuộc làm việc với cơ quan an ninh vào ngày 23 tháng 9:

Theo luật báo chí Việt Nam, họ chỉ qui định đài truyền hình hay đài phát thanh mà có trụ sở, có phát sóng trên không gian, hay phát sóng qua Internet, phát sóng vệ tinh thì mới phải xin phép chính quyền Việt Nam

Luật sư Nguyễn Văn Đài

“ Họ cứ bảo anh hãy đọc Nghị định 172, Qui định 159… là khi ra báo tư nhân mà không xin phép thì bị phạt 70-100 triệu… Họ đưa ra bảo tôi đọc, tôi đọc vậy thôi chứ không quan tâm. Bởi vì tôi biết tinh thần chung là Việt Nam không cho báo chí tư nhân, còn lại cụ thể thế nào tôi không quan tâm lắm. Họ đưa thì đọc vậy. Tôi không quan tâm vì nếu quan tâm thì không ai làm được gì cả. Còn việc chúng tôi làm là chúng tôi đưa sự thật đến nhân dân. Còn các ông bảo không được đưa sự thật, sự thật phải theo qui định, định hướng, phải thế nọ, phải thế kia thì là việc của các ông. Còn việc của tôi là làm như vậy.”

Nhận định

Cũng theo luật sư Nguyễn Văn Đài thì việc dựng chương trình đưa lên Youtube của Lương Tâm TV là một việc làm mà hiện nay rất nhiều người tại Việt Nam cũng như trên thế giới đang thực hiện. Hoạt động đó không có gì vi phạm qui định mà chính quyền Việt Nam đề ra. Luật sư Nguyễn Văn Đài trình bày:

“ Theo Hiến pháp Việt Nam thì hoàn toàn nằm trong quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí mà người dân được phép làm ra những chương trình và được tiếp cận với Internet. Còn theo luật báo chí Việt Nam, họ chỉ qui định đài truyền hình hay đài phát thanh mà có trụ sở, có phát sóng trên không gian, hay phát sóng qua Internet, phát sóng vệ tinh thì mới phải xin phép chính quyền Việt Nam. Còn đây không phải một chương trình phát sóng qua Internet, phát sóng vệ tinh mà chỉ là chương trình được làm bằng video clip ngắn từ 7-12 phút và được post trên nhà cung cấp dịch vụ Youtube của Hoa Kỳ thôi. Cho nên theo bất kỳ luật lệ của Việt Nam thì không có điều chỉnh hành vi này. Do vậy không phải xin phép và không phải là hành vi cấm. Theo tinh thần Hiến pháp Việt Nam thì công dân được làm bất kỳ những gì mà Hiến pháp không cấm, nên kênh truyền hình Lương tâm TV không phải xin phép ai cả.

Ở Việt Nam người ta đã sử dụng để đưa lên những clips về cuộc sống gia đình của họ hoặc quay những clip phản ánh cuộc sống bên ngoài xã hội như những hiện tượng ngập lụt, tại nạn giao thông hay xô xát trên đường… Đó là chuyện rất bình thường hằng ngày của bất kỳ một công dân hay tổ chức nào ở Việt Nam mà không cần phải xin phép bất kỳ ai.”

Nhà báo Phạm Thành cũng có chung nhận định:

“ Bởi vì Hiến pháp qui định rằng quyền tự do tư tưởng, quyền ngôn luận là quyền của mọi công dân. Có điều cộng sản họ ‘ma bùn’ đưa ra những qui định chống lại Hiến pháp như điều 88… hay những điều luật khác không cho nhân dân bày tỏ chính kiến, tư tưởng mà thôi!”

Nhóm những người tham gia Lương Tâm TV bị buộc đi làm việc trong ngày 23 và 24 tháng 9 vừa qua hầu hết là những người tuổi đời còn rất trẻ. Họ lớn lên và học tập dưới ‘mái trường xã hội chủ nghĩa’. Thế nhưng những điều được giảng dạy trong nhà trường không còn là chân lý bất biến đối với họ nữa. Chính thời đại công nghệ thông tin với Internet và những công cụ mạng hiện nay giúp họ có được những nguồn thông tin đa chiều để đối chứng, và họ dần nhận chân được những điều đúng- sai. Qua đó họ dấn thân vào hoạt động nêu lên sự thật bằng một kênh truyền thông không nằm trong hệ thống chỉ đạo của nhà nước.

B à Tạ Phong Tần ‘vinh dự nhận cờ vàng’

BBC, 24 tháng 9 2015 Cập nhật lúc 18:44 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/09/150924_ta_phong_tan_california

TaPTan-nhan Co Vang

ta phong tan-den LAX

Hôm 23/9, bà Tạ Phong Tần, người vừa được đình chỉ thi hành án ở trại giam Thanh Hóa và được đưa sang Hoa Kỳ trước đó ít hôm, đã có buổi gặp gỡ ông Andrew Đỗ, Giám sát viên Quận Cam, California.

Nhận một lá cờ vàng ba sọc đỏ từ tay ông Andrew Đỗ, bà Tạ Phong Tần nói: “Tôi rất vinh dự được nhận lá cờ này… Lá cờ này ở miền Nam trước đây đã cho người dân quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Có thể nói lá cờ này đại diện cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của người Việt Nam.”

Về dự định sắp tới của mình, bà Tần nói bà muốn ưu tiên đảm bảo sức khỏe, và nhận thấy “công việc trước mắt sẽ có nhiều khó khăn”. Tuy nhiên, bà nói bà “không từ bỏ mục tiêu, lý tưởng… trong việc tham gia đấu tranh đòi quyền tự do, quyền con người cho người dân trong nước”.

Bà Tạ Phong Tần, cựu nhân viên công an, trước khi vào tù là chủ trang blog Công lý và Sự thật, đồng sáng lập viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do cùng ông Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày).

Bà bị bắt vào ngày 5/9/2011 và bị kết án 10 năm tù giam vào năm 2012 vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước theo điều 88 Bộ Luật Hình sự.

Bà tới Hoa Kỳ vào tối 19/9/2015.

Bó tay về ‘con ông cháu cha’

23 tháng 9 2015 Cập nhật lúc 19:53 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/09/150923_hoangngocgiao_nhansu

Hoang Ngoc Giao

Việc ‘ngừng thi tuyển’ công chức ở các ngành và địa phương, trong khi tái xuất xu hướng ‘con ông cháu cha’ được đề cử, cơ cấu trong các hệ thống nhân sự lãnh đạo cả ở ngạch đảng và nhà nước là một hiện tượng ‘đáng buồn’, theo một nhà nghiên cứu từ Việt Nam.

Ý kiến trên được PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách Pháp luật & Phát triển, đưa ra từ Hà Nội trong cuộc phỏng vấn với BBC hôm 23/9/2015.

Theo nhà nghiên cứu này, dư luận Việt Nam thời gian gần đây đã từng tỏ ra ‘hy vọng, phấn khởi’ khi một số cơ quan, bộ ngành như Bộ Giao thông & Vận tải, hay Đại học Luật Hà Nội và một số nơi đã tổ chức ‘thi tuyển công chức’ công khai.

Bó tay

Tuy nhiên, một chủ trương yêu cầu ‘ngừng lại việc thi tuyển này’ theo công bố trên truyền thông đại chúng ở Việt Nam, mới đây đã tạo ra những quan ngại về khả năng nhường chỗ cho các ‘sắp xếp nhân sự nội bộ’ thuộc thẩm quyền ‘lãnh đạo toàn diện’ và tối cao của Đảng Cộng sản.

“Câu chuyện này là câu chuyện hệ thống rồi, ở đây chúng tôi nghĩ rằng khó mà bàn…

“Tôi nghĩ là xã hội bó tay, anh nào vào vị trí nào là phải chịu sự quyết định về nhân sự của đảng.

“Cái đó là khẳng định thực tiễn ở xã hội, hệ thống chính trị Việt Nam là như vậy,” ông Hoàng Ngọc Giao nói với BBC.

Blogger Tạ Phong Tần: Tôi và anh Điếu Cày sẽ kiện Việt Nam ra tòa quốc tế

VOA Tiếng Việt, 22.09.2015

http://www.voatiengviet.com/content/blogger-ta-phong-tan-tuyen-bo-se-kien-vietnam-ra-toa-quoc-te/2973686.html

Cộng đồng người Việt trong đó có blogger Điếu Cày ra đón blogger Tạ Phong Tần tại sân bay Los Angeles.

Cộng đồng người Việt trong đó có blogger Điếu Cày ra đón blogger Tạ Phong Tần tại sân bay Los Angeles.

Tin liên hệ

Nhà bất đồng chính kiến mới được tự do cho biết rằng bà cùng blogger Điếu Cày sẽ đưa Việt Nam ra tòa quốc tế vì đã tống giam bà và ông Điếu Cày trái pháp luật.

Tuyên bố được đưa ra hôm 21/9, hai ngày sau khi bà Tần được Việt Nam phóng thích và lặng lẽ cho đi Mỹ. Nữ blogger này nói với VOA Việt Ngữ:

“Tôi làm còn hoành tráng hơn anh Điếu Cày ấy chứ vì anh Điếu Cày khi sang Mỹ là bị cướp hết các giấy tờ như bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các thứ khác. Anh Điếu Cày còn thiếu hồ sơ để khởi kiện nhưng mà tôi mang đi được đầy đủ hết. Vụ kiện của tôi còn hoành tráng hơn vì tất cả các bài viết của tôi đã đăng công khai với tên Tạ Phong Tần trên mạng Internet. Khi bọn họ đưa những thứ đó ra trước tòa để buộc tội tôi, nhưng họ không dám tranh luận với tôi là cụ thể tôi sai ở chỗ nào. Khi tôi yêu cầu được đối chất với các điều tra viên giám định tài liệu đó thì cũng không được đáp ứng. Đó là việc vi phạm luật pháp Việt Nam một cách hết sức trầm trọng, chưa nói tới việc vi phạm luật pháp quốc tế. Ngay cả căn cứ theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tôi không phạm tội.”

Tôi bị bắt buộc phải ra đi. Một là tôi phải ngồi đủ 10 năm trong tù và 5 năm quản chế. Hai là tôi phải sang Mỹ. Trong những cái tệ thì chúng ta phải chọn cái nào đỡ tệ hơn chứ? Chúng tôi đi ra nước ngoài thì việc đấu tranh sẽ còn khó khăn hơn nhưng vẫn còn hơn là chúng tôi phải ngồi ở trong tù, không thể làm gì được…

Bà Tần, chủ trang blog Công lý và Sự thật, bị bắt vào ngày 5/9/2011 và bị kết án tù 10 năm vào năm 2012 vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước theo điều 88 Bộ Luật Hình sự.

Bà cũng là một trong những thành viên sáng lập Câu lạc bộ Nhà báo tự do cùng với blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) năm 2007.

Những năm qua, nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế cũng như các nước phương Tây đã kêu gọi Hà Nội trả tự do cho blogger từng làm trong ngành công an của Việt Nam.

Bà Tần kể với VOA Việt Ngữ về quyết định đi Mỹ:

“Tôi bị bắt buộc phải ra đi. Một là tôi phải ngồi đủ 10 năm trong tù và 5 năm quản chế. Hai là tôi phải sang Mỹ. Trong những cái tệ thì chúng ta phải chọn cái nào đỡ tệ hơn chứ? Chúng tôi đi ra nước ngoài thì việc đấu tranh sẽ còn khó khăn hơn nhưng vẫn còn hơn là chúng tôi phải ngồi ở trong tù, không thể làm gì được. Tôi đã bỏ phí mất hơn 4 năm ngồi trong tù, và tôi cảm thấy thời gian rất là phí phạm. Khi tình hình xã hội Việt Nam có sự thay đổi, thì tôi cũng sẽ quay lại Việt Nam để giúp đỡ những người dân trong nước.”

Tôi làm còn hoành tráng hơn anh Điếu Cày ấy chứ vì anh Điếu Cày khi sang Mỹ là bị cướp hết các giấy tờ như bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các thứ khác. Anh Điếu Cày còn thiếu hồ sơ để khởi kiện nhưng mà tôi mang đi được đầy đủ hết. Vụ kiện của tôi còn hoành tráng hơn vì tất cả các bài viết của tôi đã đăng công khai với tên Tạ Phong Tần trên mạng Internet…

Cuối năm ngoái, ít lâu sau khi đặt chân tới Mỹ, blogger Điếu Cày cũng tuyên bố sẽ kiện chính quyền Hà Nội ra tòa quốc tế vì đã tống giam trái phép các thành viên của Câu lạc bộ Nhà báo tự do, và bày tỏ tự tin rằng ông sẽ “thắng kiện”.

Nhà bất đồng chính kiến này từng nói:

“Họ không có đủ chứng cứ để buộc tội chúng tôi. Vụ án đã bị vỡ, bị sụp đổ rồi nhưng họ cố tình giam nhốt chúng tôi. Vì vậy mà chúng tôi phải đi ra ngoài này để bắt đầu vụ án đó từ một tòa án khác, tòa án của cộng đồng quốc tế. Chúng tôi từng bước một sẽ tiến hành việc đó. Tôi sẽ tìm kiếm các nguồn lực, các tổ chức quốc tế để giúp đỡ chúng tôi đưa vụ đó ra tòa quốc tế. Tôi tin rằng, về mặt pháp lý, chúng tôi sẽ thắng kiện.”

Việt Nam luôn bác bỏ các cáo buộc cho rằng Hà Nội bóp nghẹt tiếng nói của người dân cũng như bắt giữ những người bất đồng chính kiến.

Tuy nhiên, mới đây, hôm 14/9, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói rằng Việt Nam “không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung, muốn bắt ai thì bắt”.

Người đứng đầu cơ quan lập pháp của Việt Nam cũng đề nghị phải làm rõ tội danh chống phá nhà nước nhằm “đảm bảo công bằng, đảm bảo quyền con người và quyền của công dân”.

http://voatiengviet.share.voanews.eu/flashembed.aspx?t=vid&id=2973433&w=640&h=363&skin=embede

Ông Thức: ‘Tổ quốc từ chối mới đi tị nạn’

Image copyright Internet Image caption Ông Trần Huỳnh Duy Thức bị kết án 16 năm tù

Người cuối cùng trong danh sách Mỹ đòi trả tự do hiện vẫn còn ngồi tù và để ngỏ khả năng ‘tị nạn’ nếu buộc phải ra đi, theo gia đình ông.

Doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức nằm trong danh sách bốn người được Hoa Kỳ nêu đích danh và đòi Việt Nam trả tự do tại phiên kiểm định định kỳ phổ quát về nhân quyền hồi đầu năm 2014 tại Geneva.

Hai người trong danh sách, ông Cù Huy Hà Vũ và Điếu cày Nguyễn Văn Hải, đã từ nhà tù sang thẳng Hoa Kỳ, tương tự như trường hợp cuối tuần qua của bà Tạ Phong Tần.

Người thứ tư, luật sư Lê Quốc Quân, cũng đã mãn hạn tù và đã được tự do.

Nói chuyện với BBC hôm 21/9/2015 qua điện thoại từ Sài Gòn, cha của ông Thức, ông Trần Văn Huỳnh, người từng có mặt tại phiên kiểm định nhân quyền năm 2014 ở Geneva, nói:

“Chúng tôi cũng mong là trong quan hệ ngày càng gần hơn giữa hai nước Mỹ – Việt Nam thì tình hình sẽ cải thiện và việc những tù nhân lương tâm được trả tự do, luật sư Cù Huy Hà Vũ, nhà báo Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và mới nhất là nhà báo Tạ Phong Tần, vừa đến Mỹ cách đây hai ngày, chúng tôi cũng mong rằng việc của Thức cũng sẽ được xem xét và trả tự do.

“Nhưng mà Thức thì cho đến thời điểm chúng tôi gặp hồi 22/8 trong thời gian gặp hàng tháng vừa qua thì Thức nói rằng vẫn giữ kiên định là mong muốn ở lại Việt Nam sau khi được tự do để tiếp tục làm tất cả những gì có thể để xây dựng một tương lai tươi sáng cho đất nước Việt Nam.”

“… Thức nói rằng chỉ khi nào mình bị Tổ quốc từ chối thì mới nghĩ đến việc tị nạn.”

Ông Huỳnh nói thêm trong phỏng vấn với Nguyễn Hùng hôm 21/9:

Tran Van Huynh

“Thức cũng mong rằng về tình hình nhân quyền, với các tin tức vừa đây mà các tù nhân lương tâm như là Cù Huy Hà Vũ, rồi Điếu Cày, Lê Quốc Quân thì trường hợp của Thức cũng được xem xét để giải quyết, trong tinh thần tiến tới kết thúc [Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương] TPP giữa Mỹ và Việt Nam.

“Nhưng mà Thức cho rằng là đối với Thức thì vẫn mong muốn ở lại Việt Nam để sau khi được tự do thì tiếp tục cống hiến cho đất nước với tư cách là công dân có trách nhiệm với đất nước, với quyền con người mà mọi người được mặc định là có, không phải xin và không ai phải cho.

“Đó là quyền phát biểu, đóng góp vào ích lợi chung của cộng đồng dân tộc.”

Trước khi bị bắt và đưa ra xét xử với mức án 16 năm tù giam và năm năm quản chế vì cáo buộc lật đổ, ông Thức là tổng giám đốc công ty dịch vụ điện thoại internet, OCI.

‘Muốn giám đốc thẩm’

Ông Huỳnh cũng nói con trai ông đã có đơn khiếu nại gửi các cơ quan liên quan của Việt Nam về việc đã bị “oan sai” cũng như bị “bức cung, nhục hình” trong giai đoạn bị giam giữ trước khi xử án ở Trại B34 của Bộ Công an tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 24/5/2009 tới ngày có bản án sơ thẩm hôm 20/1/2010.

Image caption Ông Trần Văn Huỳnh (phải – khi ở Geneva hồi tháng 2/2014) hy vọng con ông sớm được tự do

Và con trai ông hy vọng đơn sẽ được xem xét và giải quyết trên cơ sở những thay đổi trong Hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam gần đây, theo ông Huỳnh.

“Thức có nói qua thông tin thì biết rằng có hội đồng thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao họp kỳ đầu tiên để mở ra giai đoạn mới đối với việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và hội đồng này sẽ thực hiện quyền tư pháp độc lập theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức tòa án vừa có hiệu lực,” ông Huỳnh nói.

“Với thông tin này, chúng tôi cũng mong sự việc của Thức sẽ được xem xét lại trong tinh thần hội đồng thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao sẽ thực hiện quyền tư pháp độc lập đó để xem xét tái thẩm, giám đốc thẩm trường hợp của con tôi là Trần Huỳnh Duy Thức.”

Mỗi tháng năm phút

Ông Huỳnh nói ngoài chuyện mỗi tháng được gặp gia đình một lần, ông Thức cũng liên hệ qua thư và điện thoại với người thân từ trại giam Xuân Lộc:

“Thức mỗi tháng được gọi điện thoại năm phút về cho gia đình và đồng thời cũng được viết thư gửi về nhà qua hệ thống bưu điện.

“Thức để thời giờ rất nhiều để viết thư cho gia đình và đồng thời cũng nói những suy nghĩ, trăn trở của mình, về tình hình đất nước về những diễn biến mà Thức cho đó là chuyển biến tích cực.

“Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế qua vấn đề Biển Đông.”

Ông Huỳnh cũng nói thêm ông Thức cho rằng sự gần gũi hơn với Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước khác hiện nay là “cơ hội ngàn năm có một” để Việt Nam thay đổi.

Khi được hỏi về liên hệ của ông Thức với vợ và hai con gái, ông Huỳnh nói con gái thứ hai của ông Thức đang học ở Việt Nam và hàng tháng vẫn cùng mẹ vào thăm ông Thức trong khi con gái lớn đang học ở San Francisco cũng vào thăm ông mỗi khi về Việt Nam.

Ông Huỳnh nói thêm: “Thức đối với gia đình thì rất yêu thương vợ và các con, làm những bài thơ tặng sinh nhật cho vợ, con…

“Những tháng gần đây Thức đều viết thư đều đặn, mỗi tháng hai lần gởi về nhà qua hệ thống bưu điện trong đó Thức kể cho gia đình, cho cha là tôi và cho anh chị em của Thức … Thức đều nói về những suy nghĩ của mình về những diễn biến tích cực đang diễn ra trên đất nước.”

Thái Bình: CA bắt cóc trung tá quân đội Trần Anh Kim

 http://danlambaovn.blogspot.com/2015/09/thai-binh-ca-bat-coc-trung-ta-quan-oi.html

CTV Danlambao – CA cộng sản Việt Nam vừa kéo đến khám xét và bắt giam ông Trần Anh Kim, một trung tá quân đội thường xuyên lên tiếng chỉ trích chế độ độc tài đảng trị.

Trao đổi với Danlambao, vợ ông Kim bà Nguyễn Thị Thơm cho biết vụ bắt cóc xảy ra vào ngày 21/9/2015 tại nhà riêng của ông bà ở Thái Bình. Hiện đã qua 24 tiếng nhưng gia đình vẫn chưa nhận được bất cứ thông báo nào từ phía CA.
Ông Trần Anh Kim năm nay 66 tuổi, từng bị chế độ CSVN kết án 5 năm 6 tháng tù giam với cáo buộc ‘hoạt động lật đổ chính quyền’.
Sau khi ra tù vào đầu năm 2015, dù phải chịu thêm án quản chế 3 năm nhưng ông vẫn tiếp mục mạnh mẽ lên tiếng tố cáo chế độ độc tài cộng sản Việt Nam.
Triệu tập vợ để bắt cóc chồng
Nhiều tháng nay, nhà riêng của ông Kim tại địa chỉ số 502, tổ 10, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình vẫn thường xuyên bị CA đeo bám, túc trực.
Lúc 9:30’ sáng ngày 21/9/2015, bà Nguyễn Thị Thơm (vợ ông Kim) khi đang đi làm thì bị CA sắc phục mang xe ô tô kéo đến cơ quan gửi giấy ‘triệu tập’.
Nhóm CA này sau đó đã giam lỏng bà Thơm tại trụ sở CA phường Trần Hưng Đạo (thành phố Thái Bình) mãi cho đến tận 5 giờ chiều.
Khi về đến nhà, bà phát hiện cửa đã bị khoá. Lúc này, một viên an ninh liền xuất hiện và đưa chìa khoá cho tổ trưởng dân phố mở cửa vào.
Bước vào nhà, bà phát hiện thấy nhiều đồ đạc trong nhà như máy tính, điện thoại, máy ảnh, máy in… bị mất, cửa tủ cũng bị lục tung.

Theo lời một số người dân quanh đó, trong lúc bà không có nhà, CA đã ập vào nhà khám xét và bắt ông Kim đưa đi.

Ông Trần Anh Kim vừa mãn hạn bản án 5 năm 6 tháng tù giam hồi đầu năm 2015.
Dùng tù nhân lương tâm để đổi chác
Khi bà Thơm còn chưa lấy lại bình tĩnh thì hàng chục viên CA tiếp tục tự ý xông vào bên trong nhà để tiến hành khám xét lần 2.
Bà kể lại: “Họ mời tất cả công an vào, đông lắm. Tôi đếm từ trong ra ngoài phải đến năm, sáu chục công an.”
 
“Họ đọc lệnh nói rằng đã bắt quả tang trong máy anh Kim có lời kêu gọi gì đó. Họ nói có tang chứng nên bắt anh Kim và khám nhà”.
Bà Thơm đã lên tiếng phản đối hành vi lộng hành của lực lượng CA, bà cũng từ chối ký vào bất cứ biên bản nào được đưa. Dù vậy, cuộc khám xét vẫn tiếp tục diễn ra và do CA tự ký với nhau.
Sau khi lục lọi khắp nơi trong nhà, phía CA đã lấy đi thêm một vài đồ đạc, đồng thời cướp luôn cả chiếc điện thoại trên người bà Thơm.
Hiện nay, gia đình vẫn không hề hay biết về địa điểm cũng như tình trạng giam giữ của ông Trần Anh Kim.
Vụ bắt cóc xảy ra đúng vào thời điểm blogger Tạ Phong Tần bị chế độ CSVN trục xuất sang Mỹ.

Thả người này nhưng lại bắt người khác, đây chính là thủ đoạn của chế độ CSVN nhằm mang sinh mạng của các tù nhân lương tâm đổi chác với Mỹ.

22.9.2015

Sau Tạ Phong Tần, Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam thả tù nhân chính trị

Ông Terry White, viên chức phụ trách quan hệ công chúng của tòa Đại sứ Mỹ ở Hà nội nói rằng Hoa kỳ kêu gọi chính phủ Việt nam hãy trả tự do không điều kiện cho các tù nhân chính trị, và hãy cho phép mọi người dân Việt nam được quyền bày tỏ chính kiến của mình.

Ông nói thêm là Hoa kỳ hoan nghênh quyết định vừa qua của chính phủ Việt nam trả tự do cho bà Tạ Phong Tần.

Lời kêu gọi của ông được đưa ra 1 ngày sau khi bà Tạ Phong Tần đi thẳng từ trại giam ra sân bay ở Việt nam và đến Hoa kỳ vào tối ngày 19/9 giờ địa phương.

Tổ chức nhân quyền Human Right Watch cũng hoan ngênh việc trả tự do cho bà Tần, và nói thêm rằng không nên bỏ tù một người chỉ vì họ bày tỏ chính kiến của mình một cách ôn hòa.

Ông Phil Robertson, phụ trách vùng châu Á của tổ chức Human Right Watch nói rằng Việt nam vẫn tiếp tục thực hiện một chính sách kỳ thị hoặc là thả tự do cho những tù nhân chính trị và bắt buộc họ sống lưu vong ở nước ngoài.

Nhà cầm quyền Hà nội thì luôn luôn nói rằng họ không bỏ tù những người thể hiện chính kiến mà chỉ trừng trị những kẻ vi phạm luật pháp.

Bà Tạ Phong Tần không phải là người tù chính trị đầu tiên đi thẳng từ sân bay ra phi trường quốc tế, mà trước đó có những trường hợp khác như Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải,…

 Tin, bài liên quan

Tiếng nói bên ngoài và cuộc đấu tranh bên trong

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok.  2015-09-21

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/outside-world-s-response-09212015054802.html

Các nhà đấu tranh Blogger Điếu Cầy, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và Blogger Tạ Phong Tần

Các nhà đấu tranh Blogger Điếu Cầy, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và Blogger Tạ Phong Tần

RFA

<Thêm một tù nhân chính trị tại Việt Nam, cô Tạ Phong Tần, đến Hoa Kỳ do áp lực của chính quyền Mỹ cũng như sự lên tiếng lâu nay về tình hình nhân quyền- dân chủ tại Việt Nam.

Thực tế tiếng nói từ bên ngoài giúp cho phong trào đấu tranh cho quyền con người trong nước đến đâu và vai trò của người dân trong nước thế nào?

Lên tiếng từ bên ngoài

Nhiều người thừa nhận nếu không có sự can thiệp từ phía chính phủ Hoa Kỳ, thì những cựu tù nhân chính trị tại Việt Nam như tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải hay blogger Sự Thật & Công Lý Tạ Phong Tần sẽ không được viên chức ngoại giao của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội cùng đi theo trên chuyến bay từ Việt Nam sang đến Xứ Cờ Hoa.

Ông Trần Văn Huỳnh, cha của tù nhân chính trị Trần Huỳnh Duy Thức, hiện đang thụ án 16 năm tù tại trại giam ở Xuyên Mộc, Bà Rịa- Vũng Tàu cho biết về sự lên tiếng từ bên ngoài và con ông nằm trong danh sách của những tù nhân chính trị tại Việt Nam được nêu ra:

“ Khi Thức tròn 6 năm ở trong tù, danh sách của Thức được chính thức 36 tổ chức xã hội dân sự, trong đó 20 tổ chức ở nước ngoài và 16 tổ chức trong nước, yêu cầu trả tự do cho Thức.

Thứ hai, trong lần 3 nhà báo thế giới được ông Obama tiếp kiến có Nguyễn Văn Hải- Điếu Cày, danh sách đưa ra có Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, rồi một số người nữa.

Và trong những đối thoại nhân quyền của giới chức Mỹ sang Việt Nam ( cách đây chừng vài tháng- tôi không nhớ rõ), ông Tom Malinowski- trợ lý của ngoại trưởng Kerry, cũng đề nghị đến trường hợp của các tù nhân lương tâm được khuyến nghị trả tự do, trong đó có Thức.”

Vào ngày 21 tháng 9, tham tán Terry White, đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội được hãng thông tấn AP trích dẫn phát biểu rằng phía Hoa Kỳ hoan nghênh quyết định của cơ quan chức năng Việt Nam trả tự do cho cô Tạ Phong Tần người quyết định đi Mỹ sau khi ra khỏi tù; tuy nhiên phía Hoa Kỳ vẫn rất quan ngại về trường hợp của những người bị bỏ tù chỉ vì thực thi nhân quyền và các quyền căn bản của họ. Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do vô điều kiện cho tất cả những tù nhân này và cho phép tất cả những người Việt Nam được quyền bày tỏ chính kiến của họ mà không sợ bị trừng phạt.

Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch qua phát biểu của ông Phil Robertson, phó giám đốc khu vực Châu Á, cũng lên tiếng kêu gọi chính quyền Hà Nội trả tự do ngay cho những nhà hoạt động khác và nếu họ muốn ở lại trong nước thì phải đáp ứng nguyện vọng của họ; đồng thời ngưng can thiệp vào các hoạt động chính trị và ngưng vi quyền của những người đó. Danh sách những tù nhân chính trị mà Human Rights Watch nêu lên với yêu cầu trả tự do ngay cho họ gồm Trần Huỳnh Duy Thức, Hồ thị Bích Khương, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Trần Vũ Anh Bình, Võ Minh Trí tức nhạc sĩ Việt Khang, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Ngô Hào và nhiều tù nhân chính trị khác nữa.

Ủy ban Bảo Vệ Ký giả từ New York vào ngày 20 tháng 9 cũng ra thông cáo báo chí hoan nghênh việc trả tự do cho blogger Tạ Phong Tần, đồng thời kêu gọi chính quyền Hà Nội trả tự do cho những nhà báo và bloggers khác đang bị cầm tù.

Phiên tòa sơ thẩm xét xử 3 bị cáo phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, theo Điều 88, Bộ luật Hình sự (gồm bị cáo Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải)
Phiên tòa sơ thẩm xét xử 3 bị cáo phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, theo Điều 88, Bộ luật Hình sự (gồm bị cáo Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải) Ngày 24 tháng 9 năm 2012

Tác động

Nhà hoạt động Trần thị Nga, từ Hà Nam cho biết tác động của sự lên tiếng của người Việt ở nước ngoài, các nước khác và các tổ chức quốc tế đối với phong trào đấu tranh cho quyền con người và dân chủ tại Việt Nam:

“Góp sức của người Việt hải ngoại đối với công cuộc đấu tranh cho dân chủ- nhân quyền tại Việt Nam từ vấn đề truyền thông cho đến liên lạc với quốc tế để đưa ra sự thật tình trạng vi phạm nhân quyền do chính phủ Việt Nam đối với người dân Việt Nam… Đây là công sức của người Việt hải ngoại mà tôi hết sức trân quí. Đó là động lực để cho những người trong nước đấu tranh như tôi có niềm tin mình không đấu tranh đơn độc vì mình còn có đồng bào quốc tế, các tổ chức quốc tế nữa.

Thông qua những lần trao đổi với đại sứ quán của các nước, tôi thấy họ cũng rất quan tâm, cũng hổ trợ chúng tôi. Trong ngoại giao với chính quyền Việt Nam họ cũng nêu lên những vi phạm nhân quyền; trong khi Việt Nam là một thành viên của tổ chức nhân quyền thế giới mà vi phạm, chà đạp lên những điều đã ký. Đó là một điều mà chúng tôi thấy rất tốt.”

Thiết yếu của đấu tranh từ trong nước

Theo chị Trần Thị Nga thì dù có những tác động tích cực từ bên ngoài như thế nhưng người dân trong nước phải vượt qua sợ hãi, ý thức được quyền của bản thân để cùng tham gia đòi hỏi:

“Còn công cuộc chính để có hiệu quả, để người dân Việt Nam thực sự được hưởng quyền con người của mình trước hết phụ thuộc vào người dân trong nước dám đứng lên, dám đấu tranh đòi những quyền của mình.

Sự nổ lực giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, cũng như của đồng bào người Việt hải ngoại có tác dụng thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, còn nếu người trong nước mà thờ ơ về việc quyền căn bản của mình bị chính quyền chà đạp thì những sự hổ trợ từ bên ngoài sẽ không có tác dụng mạnh mẽ được.”

Một cựu tù nhân chính trị khác và cũng là một nhà hoạt động tích cực hiện nay, luật sư Nguyễn Văn Đài, cũng có ý kiến về việc tự thân nổ lực trong công cuộc đấu tranh để thay đổi hiện trạng Việt Nam hiện nay:

“ Bất kỳ cuộc đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở quốc gia nào cũng vậy thôi, khi mình ở thế yếu luôn phải nhờ đến cộng đồng quốc tế. Trong khi đó chính phủ Hoa Kỳ là chính phủ quan tâm nhất đến tình trạng nhân quyền ở các nơi trên thế giới, chúng ta vẫn phải nhờ họ, vận động, kêu gọi họ ủng hộ cho chúng ta; nhưng chúng ta không đặt tất cả niềm tin hay hy vọng ở họ. Chúng ta muốn thay đổi triệt để đất nước của mình phải là chính nổ lực của mỗi người dân, của mỗi nhà hoạt động nhân quyền, mỗi nhà hoạt động xã hội dân sự tại Việt Nam. Chúng ta phải cố gắng giành quyền của mình, cũng như chúng ta xây dựng các tồ chức xã hội dân sự. Điều đó mới thay đổi được đất nước của mình.”

Tình trạng sách nhiễu, hành hung, bắt bớ và bỏ tù những người công khai lên tiếng đấu tranh cho các quyền căn bản của người dân tại Việt Nam cũng như công cuộc dân chủ hóa đất nước được những người trong cuộc cho biết vẫn diễn ra. Bản thân họ sẵn sàng chấp nhận hy sinh, mất mát; tuy nhiên họ luôn kêu gọi sự hỗ trợ thông qua việc lên tiếng từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế yêu cầu chính quyền Hà Nội thực thi những điều đã ký kết với thế giới. Ngoài ra những người công khai đấu tranh cũng mong mỏi ngày càng nhiều dân chúng trong nước ý thức được quyền căn bản của con người và cùng lên tiếng đòi hỏi.

Blogger Tạ Phong Tần đến Mỹ

Ngọc Lan, thông tín viên RFA, California. 2015-09-20
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/ta-phong-tan-land-america-09202015124807.html

Vào khoảng 9 giờ địa phương ngày 19 tháng 9, 2015 nữ tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần đã đến phi trường Los Angeles. (từ trái Blogger Điếu cầy, bà Tạ Phong Tần và nữ Thượng Nghị Sĩ Tiểu Bang Janet Nguyễn)

Vào khoảng 9 giờ địa phương ngày 19 tháng 9, 2015 nữ tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần đã đến phi trường Los Angeles. (từ trái Blogger Điếu cầy, bà Tạ Phong Tần và nữ Thượng Nghị Sĩ Tiểu Bang Janet Nguyễn)

RFA screenshot

Ngọc Lan: Cách đây một năm, anh Điều Cày cũng là người được đưa thẳng từ nhà tù Việt Nam sang đây. Bây giờ, một năm sau, trở lại đây để chuẩn bị đón Tạ Phong Tần, thì cảm nghĩ của anh là gì?

Điếu Cày Nguyễn Văn Hải: Cảm nghĩ của tôi là có hai cảm xúc cùng một lúc. Thứ nhất là cảm xúc tôi là người đi đón Tạ Phong Tần, nôn nóng được gặp lại Tạ Phong Tần. Cảm xúc thứ hai là người cũng từng xuống sân bay, cũng từng được đón tiếp ở đây, tôi cảm thông được những điều mà Tần sẽ trải qua vào thời điểm ban đầu bước chân xuống sân bay. Vì vậy, tôi muốn khi tôi gặp Tần, chúng tôi có thể chia sẻ với nhau một số vấn đề trước khi quý vị có thể gặp Tần ở sân bay này. Những gì tôi chia sẻ cũng là cách làm sao tốt nhất cho Tần gặp gỡ được đồng hương ở hải ngoại một cách hoàn hảo nhất như chúng tôi mong muốn.

Ngọc Lan: Năm ngoái, cũng ở khoảng thời gian này, cô Janet trong cương vị là một Giám Sát Viên đã có mặt tại đây để đón blogger Điếu Cày. Năm nay, trong cương vị là một thượng nghị sĩ California, cũng đến đây để đón một tù nhân lương tâm được trả tự do từ Việt Nam đưa sang đây, vậy suy nghĩ của TNS Janet là gì?

Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn: thưa quý vị và quý đồng hương, hôm nay tôi rất vui mừng, giống như hồi năm ngoái, vì mỗi người được CSVN đưa sang Mỹ, đất nước tự do, đã nói lên sự đoàn kết, nói lên tiếng nói của chúng ta đoàn kết chung nhau, kêu CSVN phải có tự do dân chủ ở Việt Nam rất là mạnh. Thưa quý vị, hôm nay đừng nghĩ là mình đã thắng lớn, nhưng với mỗi chiến thắng nhỏ này thì mong rằng một ngày nào đó mình sẽ tới Việt Nam là một nước tự do và dân chủ. Chúng tôi cũng xin cám ơn quý đồng hương, quý dân cử và quý vị đã lên tiếng nói để giúp cho những người ở Việt Nam được qua đây như Điếu Cày và bà Tạ Phong Tần tới đây hôm nay. Mình muốn tiếp tục sự đoàn kết đó để bắt buộc CSVN phải trả lại tự do, dân chủ cho nước Việt Nam của chúng ta.

Ngọc Lan: Cũng là người có hoàn cảnh được đưa từ Việt Nam sang đây, thì hôm nay có mặt tại đây để đón Tạ Phong Tần thì suy nghĩ của anh Uyên Vũ là gì?

Blogger Uyên Vũ: Hôm nay quả thực là một niềm vui bất ngờ vì hôm nay cũng là kỷ niệm 8 năm ngày thành lập CLB Nhà Báo Tự Do của chúng tôi và một người chị em của chúng tôi đang thụ án hết sức khổ nhọc ở trong một nhà lao nổi tiếng khắc nghiệt ở Thanh Hóa. Khi nghe tin cô Tạ Phong Tần được trả tự do và đang trên đường đến Hoa Kỳ, tôi cảm thấy hết sức xúc động vì bao nhiêu kỷ niệm của ngày tháng chúng tôi cùng hoạt động với nhau trong CLB trở về, đó là những ngày tháng hết sức khắc nghiệt, hết sức gian lao. Nhưng đó cũng là thời gian đáng tự hào của riêng chúng tôi.

Ngọc Lan: Đây là Ngọc Lan của đài RFA, ngay lúc này xin chị Tạ Phong Tần cho biết cảm xúc của chị là gì?

Blogger Tạ Phong Tần: Tôi rất là vui khi tôi đã đến được xứ sở của tự do báo chí, tự do ngôn luận ở một nơi mà chúng tôi không bị cấm đoán việc tự do phát biểu chính kiến của mình. Tôi nghĩ là sau khi ổn định thì tôi sẽ bắt tay vào làm việc ngay.

Tôi không biết chính xác là tôi sẽ được đi Hoa Kỳ vào thời điểm nào, nhưng tôi biết chắc chắn là mọi người sẽ không để tôi ở trong tù lâu.

Tôi có lời nhắn gửi đến những người đấu tranh trong nước là phải kiên trì, bền chí và không bao giờ khuất phục đối với cường quyền bạo lực, phải tin tưởng vào tương lai, tin tưởng vào ngày mai và tin tưởng vào anh em của mình ở bên ngoài.

Việc tôi đi ngày giờ nào được phía công an giữ bí mật hết sức và tôi không được biết trước.

Ngọc Lan: Đến giờ phút này chị đã liên lạc được với gia đình chưa?

Blogger Tạ Phong Tần: Vẫn chưa, tôi vừa mới xuống đến đây thôi.

Ngọc Lan: Thưa chị Tần, khi được gặp lại anh Điếu Cày là một người đồng chí, một người bạn, người anh của chị ngay tại Mỹ, chị cảm thấy như thế nào? Chị có nghĩ đến ngày hôm nay hay không?

Blogger Tạ Phong Tần: Tôi rất vui mừng. Tôi đã nghĩ đến ngày hôm nay khi tôi vừa tham dự xong phiên tòa xét xử, tôi biết tin Đại Sứ Quán Hoa Kỳ, Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ, Đại Sứ Quán của Liên Minh Châu Âu cùng tất cả các tổ chức phi chính phủ, cũng như Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo và Phóng Viên Không Biên Giới đều ra thông cáo phản đối bản án vô lý đó để ủng hộ chúng tôi thì tôi biết trong thời gian tới sẽ có ngày này.

Ngọc Lan: Xin cám ơn chị.

 Tin, bài liên quan

Đồng hương Việt Nam đón tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần đến Mỹ

 NguoiViet, Sunday, September 20, 2015 2:45:23 PM
Bài liên quan

Hình: Dân Huỳnh/Người Việt

Blogger Tạ Phong Tần (giữa), chủ trang blog Công Lý và Sự Thật, đồng sáng lập
viên của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, đến phi trường quốc tế Los Angeles (LAX)
tối 19 Tháng Chín, sau 4 năm bị nhà cầm quyền CSVN cầm tù. Bên trái là blogger
Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, bên phải là Thượng Nghị Sĩ California Janet Nguyễn.

Nhiều cơ truyền thông có mặt tại LAX đón blogger Tạ Phong Tần.

Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, đứng đầu là blogger Điếu Cày (bìa phải),
với biểu ngữ chào đón đồng đội cũng là sáng lập viên Tạ Phong Tần.

Bà Tạ Phong Tần (giữa) đến Hoa Kỳ lúc 8 giờ 30 tối trên chuyến bay
của hãng hàng không China Airlines.

Cộng Đồng Việt Nam Nam California, cùng các cộng đồng khác ở Nam California,
cũng đến LAX đón tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần.

Bà Tạ Phong Tần (thứ tư từ phải) phát biểu rằng sẽ tiếp tục
con đường mà bà đeo đuổi bấy lâu nay.

Bó hoa hồng cho blogger Tạ Phong Tần, một nhà đấu tranh kiên cường.

Blogger Tạ Phong Tần được trả tự do và trên đường tới Mỹ

Tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần được thả trước thời hạn và trên đường tới Mỹ.

Theo nguồn tin đã được kiểm chứng mà chúng tôi có được cho biết bà Tạ Phong Tần đã rời nhà tù và lên phi cơ trên đường đến Hoa Kỳ. Sau khi ghé Taipei tối nay vào lúc 11 giờ 30 bà Tần sẽ tiếp tục bay đến phi trường Los Angeles bằng chuyến bay China Air 8 và sẽ đáp xuống phi trường LAX vào lúc 8 giờ 35 tối giờ California.

Đi cùng với bà Tạ Phong Tần là tham tán chính trị của Hoa Kỳ ông David Muehlke.

Bà Tạ Phong Tần là người thứ ba được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ can thiệp và trả tự do ngay tại nơi giam giữ. Người đầu tiên là TS Luật Cù Huy Hà Vũ được thả vào ngày 7 tháng 4 năm 2014. Sau đó người thứ hai là blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải được thả và tới Mỹ.

Bà Tạ Phong Tần từng là một sĩ quan công an. Bà bị bắt về tội tuyên truyền chống nhà nước với bản án 10 năm tù giam. Bà là thành viên sáng lập Câu Lạc Bộ Nhà báo tự do cùng với blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải.

Sáng ngày 30 tháng Bảy năm 2012, bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của Tạ Phong Tân, đã tự thiêu bên ngoài Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu để phản đối việc bắt giữ con gái bà. Bà Liêng chết vì các vết bỏng quá nặng trên đường đến bệnh viện.

Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và loan tin ngay sau khi bà đặt chân tới Mỹ.

Blogger Tạ Phong Tần: ‘Mỹ ép buộc CSVN phải trả tự do cho tôi’

 Nguoi Viet, Saturday, September 19, 2015 6:49:49 AM


Bài liên quan

Hà Giang – Dân Huỳnh/Người Việt

WESMINSTER, Calif. (NV) – Blogger Tạ Phong Tần, chủ trang blog Công Lý và Sự Thật, đồng sáng lập viên của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, đến phi trường Los Angeles (LAX) tối 19 tháng Chín, 2015,  sau 4 năm bị nhà cầm quyền CSVN cầm tù.

Giây phút đầu tiên đặt chân đến nước Mỹ.

Bà Tạ Phong Tần đến Hoa Kỳ lúc 8 giờ 30 tối trên chuyến bay của hãng hàng không China Airline.

Khi đến phi trường, bà Tần phát biểu rằng sẽ không ngưng con đường mà bà đeo đuổi. ‘Sau cái tang của mẹ thì tôi càng cương quyết trang đấu và bây giờ thì càng không bao giờ bỏ cuộc.’

Blogger Tạ Phong Tần bày tỏ cảm xúc: “Trước khi đến Mỹ, tôi rất hồi hộp không biết bao nhiêu năm anh em mới gặp nhau anh em đối với mình ra sao. Nhưng khi thấy nét mặt xúc động và sự quan tâm đón chào của nhiều người thì cảm thấy an tâm và biết mình đã quyết định đúng.”

“Tôi cảm thấy như là gia đình của mình. Và tôi rất là xúc động khi gặp lại những người bạn của tôi. Đôi khi vui quá mình cũng xúc động chứ. Chưa bao giờ tôi khóc, ngay cả trước mặt bọn Cộng Sản.”

Kể lại hành trình đến Mỹ.

Kể lại giây phút bị áp giải ra phi trường, bà Tần cho biết: Tôi không biết họ đưa anh Điếu Cày đi như thế nào, nhưng riêng tôi có khoảng 50 công an áp giải. Ở trong nhà tù ra đi ba xe ô tô bảy chỗ ngồi. Khi đến sân bay lại thấy lố nhố khoảng 20 công an mặc thường phục nữa. Có người nhìn như có vẻ bàng quan, không có nhiệm vụ gì, nhưng cứ lẩn quẩn ở đó. Có khoảng một chục người cầm máy quay phim quay tứ tung. Họ đưa tôi vào khu vực phía sau sân bay, chỉ có tôi và công an. Đến khi máy bay sắp cất cánh họ mới đưa tôi ra phía ngoài. Và khi lên máy bay tôi mới gặp nhân viên đại sứ quán Hoa Kỳ đón tôi.”

Bà Tần khẳng định mình không phải bị trục xuất: “Tôi nghĩ thân nhân tôi biết tôi đi, nhưng không phải là trục xuất, bởi vì phía Mỹ ép buộc họ phải trả tự do cho tôi. Và họ đã ra một quyết định tạm đình chỉ thi hành án tù, chứ không phải trục xuất.’

TNS Janet Nguyễn, blogger Điếu Cày, Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, cùng nhiều đồng hương Việt Nam chờ đón bà Tạ Phong Tần. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

* Kết quả của sự nỗ lực vận động

Blogger Điếu Cày, người từng bị cầm tù và cũng được đưa thẳng từ nhà tù đến Hoa Kỳ tháng 10 năm ngoái nói rằng: “Tin Tần được trả tự do là món quà lớn nhất cho CLBNBTD trong đúng ngày kỷ niệm sinh nhật 8 năm thành lập của Câu Lạc Bộ. Chúng tôi hết sức vui mừng! Đây cũng là kết quả của bao nỗ lực vận động của nhiều tổ chức đấu tranh khắp nơi. Đặc biệt Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã hết sức tích cực trong việc thúc đẩy đưa Tần ra khỏi nhà tù cộng sản.”

Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn có mặt tại LAX đón blogger Tạ Phong Tần phát biểu: ‘ Đi đón chị Tần tôi có cảm xúc giống như lần đi đón anh Điếu Cày. Có nghĩa là vui mừng giống nhau.’

Trả lời cầu hỏi nhà cầm quyền CSVN cứ thả các tù chính trị ra ngoại quốc như Mỹ chẳng hạn thì ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh dân chủ cho Việt Nam thế nào. Bà Janet Nguyễn nói: ‘Chúng ta, một mặt vui mừng vì những người trong nước ra, qua đó giúp biết rõ phương cách đấu tranh tốt hơn. Tuy nhiên chúng ta đừng quyền họ có thể bắt người này và thả người khác. Nếu có tiến triển thực sự thì phải thả hết tù chính trị và không bắt thêm một người nào nữa.’

Blogger Điếu Cày và các đồng hương mừng đón bà Tạ Phong Tần.

* Trong vòng tay bạn bè

Ngay từ buổi chiều 19 tháng Chín, đông đảo bạn bè là thành viên của CLBNBTD đã tụ họp để cùng nhau đến phi trường LAX đón Blogger Tạ Phong Tần.

Nói về tâm trạng mình, Blogger Điếu Cày bày tỏ: ‘Hơn ai hết tôi hiểu  rõ tâm trạng của Tạ Phong Tần khi ấy đến phi trường, và tôi thấy có bổn phận phải giúp đỡ và hướng dẫn cô ấy trong những bước đầu bỡ ngỡ.’

Anh Võ Thiêm, một thành viên mới của CLBNBTD, lái xe đến từ San Diego chỉ để ra phi trường đón Tạ Phong Tần cho hay: “Tôi là thành viên mới của CLBNBTD nhưng rất cảm phục sự quả cảm của những blogger như chị Tạ Phong Tần, và hôm nay rất vui sẽ gặp được chị.””

‘Hôm nay là một ngày rất vui.’ Anh Hàng Tấn Phát đến từ San Jose so sánh ‘cũng hồi họp như hôm đến đón anh Điếu Cày.’

Anh Phát nói thêm: “ Khi nhà nước CSVN phải thả những tù nhân này, thì chúng ta sẽ gần có ngày về Việt Nam.’

Blogger Uyên Vũ, thành viên CLBNBTD: ‘Không có gì vui bằng chúng tôi lại được gặp nhau tại Hoa Kỳ sau 8 năm thành lập CLB Nhà Báo Tự Do. Gặp chị ấy tôi tất nhiên sẽ ôm lấy chị và nói lên lời ngưỡng mộ lẫn nỗi nhớ xa cách.’

Một đồng hương khác, anh Sĩ Lâm, đến từ San Diego, hôm nay đến chung vui trong ngày sinh nhật thứ 8 của CLBNBTD, và rất vui cũng được dịp đi đón Blogger Tạ Phong Tần đang trên đường đến đất tự do.

Còn anh Thiện Thành ‘nôn nao đón một người cùng chí hướng ra hải ngoại để tiếp tay các anh em trong việc đấu tranh cho dân chủ cho Việt Nam.’

Trên các trang mạng xã hội như facebook đã có hàng ngàn chia sẽ, bình luận về sự kiện blogger Tạ Phong Tần được trả tự do sang Mỹ.

Từ Hà Nội, facebooker Nguyễn Lân Thắng viết trên trang của mình:  ‘Mong cộng đồng người Việt hải ngoại đón nhận chị với sự trân trọng và đừng ép chị như anh Điếu Cày…!’

Blogger nhà báo Song Chi, một trong những người sát cánh cùng blogger Tạ Phong Tần hiện đang tị nạn tại Na Uy viết: ‘Thế là thêm một thành viên của CLBNBTD rời nước và gặp lại nhau trên đất Mỹ. Chúc mừng Tạ Phong Tần. Kiểu này thì “tập hai” của CLBNBTD chuyển từ Sài Gòn sang California rồi.’

Tám năm trước khi mới thành lập và sau đó một thời gian ngồi ở công viên Chi Lăng và những nơi khác của Sài Gòn bàn nhau chuyện biểu tình chống Trung Quốc chắc mọi người cũng không ngờ… 8 năm sau lại đi xa nửa vòng trái đất thế này. Hy vọng 8 năm nữa thì lại gặp lại ở Sài Gòn, một Sài Gòn khác trong một đất nước Việt Nam hoàn toàn thay đổi.’

***

Blogger Tạ Phong Tần bị nhà cầm quyền Hà Nội bắt giam năm 2011, và bị kết án 10 năm tù vì tội “tuyên truyền chống phá nhà nước” theo  điều 88 của bộ luật hình sự, được cho là mơ hồ của Việt Nam. Thân mẫu của blogger Tạ Phong Tần, bà Đặng Thị Kim Liêng, đã vì uất ức thương con mà tự thiêu và qua đời cuối tháng Bảy, năm 2012.

‘Dân chủ đa đảng ở VN là cần thiết’

http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/09/150918_nguyenvandai_nhu-cau-da-dang

Luật sư Lê Công Định (trái) hiện vẫn đang trong diện bị quản thúc tại gia sau khi mãn hạn tù.

Luật sư Nguyễn Văn Đài nói xây dựng chế độ dân chủ đa đảng ở Việt Nam là xu thế tất yếu của quá trình phát triển xã hội và cải cách dân chủ.

Trên facebook cá nhân, luật sư từng ngồi tù vì vận động dân chủ tại Việt Nam đăng ảnh chụp cùng với Luật sư Lê Công Định và nói về điều ông gọi là “Chúng tôi bàn luận về đa đảng”.

Luật sư Đài biện luận rằng “Không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ” và rằng “Đa đảng, đa nguyên là thành tố quan trọng nhất để xây dựng lên một quốc gia dân chủ.”

“Có gần 4 triệu công dân có quyền thành lập và tham gia đảng cộng sản thì 86 triệu công dân khác cũng có quyền thành lập và tham gia các đảng, tổ chức chính trị khác nhau.

“Tức là đa số Nhân dân sẽ có quyền lựa chọn và quyết định đảng cầm quyền thông qua bầu cử tự do và công bằng. Đa đảng sẽ bảo đảm quyền làm chủ đất nước của Nhân dân.”

Image copyright Facebook 
Luật sư Đài thường tiếp xúc với giới chính khách Mỹ khi họ thăm Việt Nam.

Luật sư Nguyễn Văn Đài và Luật sư Lê Thị Công Nhân từng bị xử tù vì điều mà nhà chức trách Việt Nam mô tả là “thực hiện hàng loạt hành vi tuyên truyền, đả kích, phỉ báng chính quyền nhân dân và làm ra, tàng trữ, lưu hành nhiều tài liệu có nội dung xuyên tạc nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.”

Luật sư Đài là một trong hơn 100 nhà đấu tranh dân chủ tại Việt Nam ký tên vào bản “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ 2006” vào ngày 08/04/2006.

Ông từng viết bài gửi BBC về “ Quyền tự do lập đảng” và mô tả việc chính quyền ưa bắt giữ giới luật sư là hy vọng ‘dập tắt tiếng nói’ của những “thành lũy cuối cùng bảo vệ công lý.”

Trong status kể trên, ông biện luận rằng “Đa đảng sẽ tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực, chống lại độc tài độc đoán.”

“Đảng thắng cử sẽ trở thành đảng cầm quyền. Đảng thất cử sẽ trở thành đảng đối lập và cùng với Nhân dân, các cơ quan báo chí kiểm soát đảng cầm quyền.

“Việc xây dựng chế độ dân chủ đa đảng ở Việt Nam là cần thiết, là xu thế tất yếu của quá trình phát triển xã hội và cải cách dân chủ,” Luật sư Đài kết luận trong phần cuối của 5 điểm giải thích về nhu cầu cần đa đảng tại Việt Nam.

‘Thực sự thuộc về dân’

Image copyright Getty 
Tổng Bí thư Trọng sẽ nghỉ hưu vào đầu năm sau khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng bầu ra ban lãnh đạo mới.

Trả lời truyền thông Nhật tại Hà Nội trước chuyến thăm Tokyo mới đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói:

“Tôi cho rằng bản chất cốt lõi nhất của dân chủ là bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; thể chế chính trị nào đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân, của dân tộc thì thể chế đó sẽ có sức sống lâu dài, mãnh liệt, không phụ thuộc vào việc có một đảng hay đa đảng. ”

“Và vấn đề quan trọng quyết định không phải là ở số lượng mà là ở chất lượng của đảng, tức là đảng đó là đảng của ai, được tổ chức, hoạt động như thế nào và vì lợi ích của ai, mối quan hệ với nhân dân như thế nào, phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân ra sao, có được đại đa số nhân dân ủng hộ hay không.

“Chế độ chính trị của Việt Nam là kết quả của tiến trình lịch sử cụ thể của Việt Nam, trong đó có sự tín nhiệm và ủng hộ rộng rãi của nhân dân đối với vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cuộc đấu tranh lâu dài giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đổi mới, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc,” Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng được truyền thông trong nước dẫn lời.

Đảng CS và việc chuẩn bị Đại hội 12

Image copyright Getty 
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng, vừa kết thúc chuyến thăm chính thức Nhật Bản.

Không loại trừ việc thay đổi phút cuối về mặt nhân sự lãnh đạo cao tấp tại Đại hội Đảng lần thứ 12 tới đây của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, theo nhận định của khách mời đưa ra tại Bàn tròn Trực tuyến thứ Năm tuần của BBC.

Trong khi có ít nhất hai chính trị gia xuất thân từ miền Nam ‘ngồi vào’ hai trong bốn chiếc ghế “tứ trụ” lần này, có thể trong đó sẽ lần đầu tiên có một Tổng bí thư ĐCS là ‘người miền Nam’, vẫn theo ý kiến tại cuộc Tọa đàm về các chuyển động trong việc Đảng CSVN chuẩn bị Đại hội Đảng 12, cũng như về chuyến thăm Nhật Bản vừa kết thúc của ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bên cạnh sự kiện dự thảo Báo cáo Chính trị mới được công bố lấy ý kiến.

Trao đổi với BBC hôm 17/9/2015, nhà phân tích chính trị Vũ Cao Phan, từ Đại học Bình Dương nêu quan điểm về việc chuẩn bị cho Đại hội này.

“Như tôi được biết, ngay về mặt nhân sự cũng đã cơ bản xong, nó có thể thay đổi vào phút cuối.

“Ta đều biết trong một số hội nghị từ Hội nghị Trung ương 6, trung ương 7, trung ương 10 của (Ban chấp hành TƯ) Đảng Cộng sản Việt Nam vừa qua, thì nó đều bị thay đổi, khác ý định ban đầu.

“Cho nên cũng không loại trừ Đại hội đảng này có thể thay đổi vào phút cuối cùng về mặt nhân sự.

“Nhưng mà tôi nghĩ những sự sắp xếp, có lẽ, cho đến hiện nay mà tôi cảm nhận được là hợp lý và có thể nó diễn ra như thế.”

Và Tiến sỹ Vũ Cao Phan nói thêm:

“Tôi dự cảm là lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có thể lần đầu tiên sẽ là một người đến từ miền Nam.

“Và một trong tứ trụ sẽ lần đầu tiên là một phụ nữ, điều đó có thể là tương đối rõ ràng.”

Gặt hái vị thế

Nhà báo Đỗ Thông Minh cho rằng việc ông Nguyễn Phú Trọng được Nhật Bản và Hoa Kỳ, Trung Quốc tiếp đón ‘trọng thị’ giúp ông nâng cao được ‘hình ảnh, vị thế’ về mặt hình thức.

Nhà quan sát quan hệ Nhật – Việt, Đỗ Thông Minh chia sẻ với Tọa đàm về điều được cho là những gì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ‘gặt hái’ được cho chính vị thế của mình qua chuyến thăm Nhật Bản, sau hai chuyến thăm tới Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng trong năm 2015.

Từ Washington D.C., nhà báo nói:

“Tất cả việc được đón tiếp (trịnh trọng) như vậy ít nhất về mặt hình thức, ông đã có vị thế cao hơn, thành ra việc ông trụ trì Đại hội 12 thì tôi nghĩ rằng việc sắp xếp nhân sự như chúng ta biết, cách đây vài tháng ông cũng đã đưa ra.

“Không để cho những thành phần xấu lọt vào trong đảng, nhưng thực ra chúng ta cũng biết được rằng, thế nào mà phân biệt được thành phần xấu, thành phần tốt, chuyện đó không dễ dàng. Và vì thế vấn đề nhân sự cho Đại hội 12 vẫn là một dấu hỏi rất lớn,” ông Đỗ Thông Minh nói với tọa đàm.

Tuy nhiên, Tiến sỹ David Koh, nhà nghiên cứu và tư vấn chính trị Đông Nam Á từ Singapore cho rằng ‘rất tiếc’ các chuyến thăm các cường quốc của ông Nguyễn Phú Trọng đã không diễn ra ‘sớm hơn’.

Ông Koh nói: “Thực ra tôi rất lấy làm tiếc là ba chuyến này đã xảy ra trong cuối nhiệm kỳ của ông Trọng, chính ra ba chuyến thăm này đã nên xảy ra ở đầu nhiệm kỳ.

“Các nước ở Đông Nam Á, bất cứ nước nào mà có nguyên thủ mới lên ngôi, thì ngoài nội chính ra, họ hay đặt vấn đề là phải đi thăm các cường quốc và các nước láng giềng để xem xét thái độ của các nước đối với mình và liệu chính sách của mình có nên thay đổi hay không, có nên điều chỉnh hay không.

“Cho nên là ba chuyến thăm này lẽ ra đã nên xảy ra từ lâu rồi, rất tiếc nó xảy ra vào lúc có vẻ như là chẳng hạn ở Việt Nam ở một vị trí phải phản ứng với một cái gì bên ngoài đã xảy ra đối với đất nước Việt Nam.

“Cho nên rất tiếc, nhưng mà muộn còn hơn là không. Việc này, nếu mà đã sang Mỹ rồi và gây được một sự phản ứng, một sự hồi âm rất tích cực của bên Mỹ, đấy không phải là việc xấu.

“Nhưng hai bên (Mỹ, Trung Quốc) giằng co như thế này, liệu Việt Nam có lựa chọn ai hay không, tôi nghĩ rằng là sẽ không, bởi vì chính sách quốc phòng của Việt Nam thực ra cũng khá là rõ, bên này rất nhiều học giả vẫn đang tranh cãi, liệu đây là một chính sách để dựa vào một bên để chống một bên khác.

“Hay là đây là một chính sách tương đối là trung lập, tự chủ mà dựa vào khu vực là chính chứ không phải là dựa vào bất kỳ một cường quốc (nào) để chống cường quốc khác,” TS. David Koh nói.

AFP GETTY 
Các khách mời thảo luận về các khả năng có thay đổi nhân sự và đường lối hay không ở Đại hội 12 trong năm tới đây.

Yếu tố bất ngờ

Nhà báo Nguyễn Giang, Trưởng ban BBC Việt ngữ lưu ý vấn đề được cho là ‘tính bất ngờ’ trong chính trị không chỉ ở Việt Nam mà còn có thể ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có châu Âu, nước Úc, từ vấn đề chính trị đảng phái cho tới khủng hoảng người tị nạn, di cư.

Tiếp lời của Tiến sỹ David Koh, người cho rằng Việt Nam có thể đối diện nhiều yếu tố ‘bất ngờ’ đến từ cả đối ngoại lẫn đối nội, mà không chỉ là ‘sẽ kết thúc trước khi Đại hội’, mà có thể là còn ở ‘tương lai’, nhà báo Nguyễn Giang nêu quan điểm:

“Trong thế giới ngày nay, tôi hiểu là, đây chỉ là một quan sát thôi, hệ thống chính trị Việt Nam họp rất có bài bản, Đại hội đảng, chuẩn bị nhân sự, báo cáo chính trị, tất cả những chuyện đó nó diễn ra theo như một thông lệ có lẽ từ mấy chục năm nay, năm năm, bốn năm một lần, bao nhiêu lần họp Trung ương trong một năm…

“Thế nhưng không thể nào lường trước được những yếu tố bất ngờ, không nói cái gì xấu xa, hay cái gì cả, nhưng có thể những yếu tố bất ngờ khác, ví dụ thiên tai chẳng hạn, hay là những yếu tố (khác) nó có thể có những tác động khá là cơ bản đến một quốc gia bây giờ.

“Thời gian vừa qua Trung Quốc, ai cũng nghĩ rằng sau một thời gian ông Tập Cận Bình cầm quyền là có quyền lực tối cao, mọi thứ đều diễn ra gần như không có vấn đề gì cả, nhưng đột nhiên lại có những vụ như vụ nổ ở Thiên Tân, do sơ suất thôi, chưa nói là phá hoại, sơ suất trong bảo quản hóa chất.

“Sau đó lại đến thị trường chứng khoán ở Thượng Hải, tất cả những cái đó làm cho nghề làm chính trị bây giờ là một nghề khá là bất an. Chúng ta không nên nghĩ rằng nó đơn giản và mọi việc có thể thuận tiến.

“Thì tôi muốn đặt một câu hỏi chung cho tất cả các quý vị ở đây là trong tất cả những sự chuẩn bị Đại hội Đảng ở Việt Nam sang năm tới, thì người ta có nghĩ đến những phương án A, B, C, D, E nào không?

“Cho 2016, 2017, 2018, những biến chuyển khác xảy ra trên thế giới mà có thể có tác động đến Việt Nam, hoặc biến chuyển ngay tại Việt Nam chẳng hạn?”, Trưởng ban BBC Việt ngữ nêu vấn đề với Tọa đàm.

Đáp lời câu hỏi này, Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp, nhà phân tích chính trị tham gia Bàn tròn từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Singapore, nói:

Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp cho rằng xác suất xảy ra ‘bất ngờ’ trong chính trị Việt Nam thấp hơn ở các nước dân chủ như Úc, Anh v.v…

“Tôi cũng chia sẻ ý kiến của ông Nguyễn Giang rằng là mọi việc có thể vẫn xảy ra một cách bất ngờ, không chỉ ở các nước mà còn ở Việt Nam…

“Tuy nhiên trong một hệ thống như ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng, trừ những cái như anh nói là những sự cố ngoài tầm kiểm soát, thí dụ như anh nói thiên tai hay các tai nạn, hay điều gì bất ngờ.

“Riêng hệ thống chính trị, tôi nghĩ hệ thống chính trị Việt Nam, một khi mà đã có các quyết định rồi thì xác suất xảy ra các diễn biến bất ngờ thì nó sẽ thấp hơn. Bây giờ trong quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng, chúng ta vẫn chưa biết rõ là các dàn xếp nhân sự sẽ có kết cục như thế nào.

“Nhưng tôi nghĩ rằng một khi nó đã có được quyết định, thì việc xảy ra các tình huống lật ngược thế cờ hay có những thay đổi bất ngờ, thì nó sẽ thấp hơn rất nhiều so với những quốc gia dân chủ như là Úc hay là ở Anh, như ông Giang vừa nói tới.”

Khách mời, câu hỏi

Tham gia Tọa đàm có các khách mời là Tiến sỹ Vũ Cao Phan, Đại học Bình Dương, Tiến sỹ David Koh, Giám đốc Công ty Tư vấn đầu tư và tri thức về Đông Nam Á, Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên khách mời, thỉnh giảng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á đương đại tại Singapore, nhà báo Đỗ Thông Minh đang có mặt ở Washington D.C (Mỹ), nhà báo Nguyễn Giang, Trưởng ban BBC Tiếng Việt; và điều hợp tọa đàm, nhà báo Quốc Phương, BBC.

Một số câu hỏi được thảo luận tại Bàn tròn đề cập ý nghĩa chính của chuyến thăm Nhật Bản, cũng như chuyến thăm ba cường quốc cùng trong năm nay của ông Tổng Bí thư đối với vị thế của nhà lãnh đạo này của đảng cộng sản.

Có những chuyển biến, chuyển động gì đang diễn ra trong nội bộ của đảng chuẩn bị nhân sự, tổ chức, đường lối cho kỳ đại hội tới đây và đặc biệt là dàn nhân sự mới có khả năng xuất hiện sau đại hội 12.

Getty.  
Tin cho hay các nhà lãnh đạo Mỹ, Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể tới thăm Việt Nam riêng rẽ trong tháng 11/2015.

Tin cho hay, có thể trong cuối năm nay, hai lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc là các ông Barack Obama, Tổng thống Hoa Kỳ và Tập Cận Bình, Chủ tịch, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ tới thăm Việt Nam, các sự kiện này nếu diễn ra, có tác động gì với việc Đảng chuẩn bị cho Đại hội 12 hay không?

Hôm 15/9, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vừa cho công bố lấy ý kiến dư luận về bản dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội 12, thời gian thu thập ý kiến sẽ từ ngày này cho tới 31/10/2015.

Bản dự thảo qua cung cách, lề lối xây dựng và nội dung của nó, có hứa hẹn gì không về một đại hội có các yếu tố mới như đột phá, cải tổ, hay sẽ không có những chuyển biến đáng kể gì về từ đường lối, chiến lược, chính sách chính?

Trên lộ trình dẫn tới các ghế nhân sự lãnh đạo cao cấp, các chuyển động mới nhất tới nay có cho thấy những chỉ báo gì về các cá nhân, nhóm nhân sự có thể ngồi vào các vị trí và cơ cấu quyền lực cao cấp nhất?

Mời quý vị theo dõi toàn bộ cuộc Tọa đàm của chúng tôi được phát trực tuyến trên kênh Youtube của BBC Việt ngữ vào lúc 19h30-20h00 giờ Việt Nam, ngày 17/9/2015 tại đây: http://bit.ly/1OY5jIc.

Đảng CS và các chuyển động chuẩn bị cho Đại hội XII

Đã phát trực tuyến vào 17-09-2015

BBC và các khách mời thảo luận về một số diễn biến, động thái và chuyển động đáng chú ý chuẩn bị cho Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ chuyến thăm Nhật Bản của ông TBT Nguyễn Phú Trọng, tới việc công bố dự thảo Báo cáo Chính trị, cùng các diễn biến đối nội, đối ngoại khác của Đảng.

Các khách mời tham gia Tọa đàm gồm có TS. David Koh, nhà phân tích chính trị từ Singapore, TS. Vũ Cao Phan, nhà nghiên cứu chính trị và bang giao quốc tế từ Đại học Bình Dương, TS. Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên khách mời của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore), nhà báo Đỗ Thông Minh nhà quan sát quan hệ Nhật – Việt, tham gia từ Washington D.C., nhà báo Nguyễn Giang, Trưởng ban BBC Việt ngữ và nhà báo Quốc Phương – điều hợp Tọa đàm.

‘Đổi mới cán bộ là lĩnh vực rất khó’

BBC, 17 tháng 9 2015 Cập nhật lúc 18:20 ICT

http://www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2015/09/150917_vietnam_bui_quang_vinh_on_cadre_reform

Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh

Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, ông Bùi Quang Vinh, cho rằng đổi mới cán bộ là một lĩnh vực rất khó và là “nguyên nhân của mọi nguyên nhân, bới vì con người làm nên tất cả, những rào cản cũng do con người đẻ ra và những đổi mới cũng do con người gây dựng”.

Trong một cuộc phỏng vấn với BBC Việt Ngữ nhân chuyến thăm London dự Diễn đàn kinh tế, Bộ trưởng Vinh cũng cho biết “Việt Nam đang nghiên cứu đế có một chọn lựa cơ chế nào để người dân có thể tham gia vào việc chọn ra người lãnh đạo cao nhất cho đất nước và cũng có thể hạ bệ họ khi họ không làm được lời hứa cam kết trước nhân dân, trước dân tộc.”

“Nếu một cơ chế dựng lên được mà không cho xuống được là một cơ chế không giúp cho sự phát triển của đất nước,” ông Vinh nói.

Trước hết ông nói về việc cần thiết phải cải cách thể chế để tăng trưởng kinh tế, trong bối cảnh chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường.

Diễn đàn Kinh tế là một trong những nỗ lực nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam do Đại sứ quán Việt Nam tại Anh Quốc, kết hợp với Mạng lưới Việt Nam – Anh Quốc và Nhóm Harvey Nash tổ chức.

Ước Mơ Của Thuỷ: MỘT THÁCH THỨC Đối Với CHẾ-ĐỘ

Một cô gái trẻ ở trong nước vừa tung ra một thách thức đối với chế-độ bằng một quyển sách nhỏ, Ước mơ của Thủy. Mới khoảng 30 tuổi, tác-giả Lê Việt Kỳnhi trong nhóm bcLH (“Bước chân Lạc Hồng”) đã viết nên một cuốn sách vừa sâu sắc vừa trong sáng, giàu trí tưởng-tượng nhưng không phải là loại tưởng-tượng hoang-đường mà là một thứ tưởng-tượng rất khoa-học, có căn-cứ rõ ràng. Rõ ràng đây là một cuốn sách mà như người Pháp đã có cách mô tả “rất Pháp”: “Ce qui se conçoit bien sénonce clairement.” (“Cái gì đã được suy tư cẩn mật thì sẽ được diễn-tả ra một cách trong sáng”).

Ba chương rõ ràng: Nguồn cội, Giáo-dục, Nhân-bản-luận

Cuốn sách không dầy, chỉ hơn 100 trang nếu kể cả ba Phụ lục ngắn (“Hãy là con sư tử mang chính khí Việt Nam,” “Theo trào lưu thế giới,” “Quốc kỳ và Quốc dân”) nhưng gần như từng dòng một là mang một nội-dung chất chứa suy nghĩ độc-đáo, đáng để cho người đọc thẩm-định. Đúng như Nguyễn Phương Uyên, một người trẻ khác, viết trong “Lời giới thiệu”: Đây là sách viết theo kiểu “ung dung ta nói điều ta nghĩ” nên “tôi nghĩ các bạn phải đọc cuốn sách này bằng cách nói chuyện với nó.” Vấn-đề không phải là “cùng tác giả đi tới trang sách cuối cùng, mà phải nói chuyện nhiều lần với tác giả, nghĩa là phải đọc nó nhiều hơn một” lần. Chính cá-nhân tôi, người điểm sách, đã đọc đi đọc lại cuốn sách ba lần trong vòng một tháng qua.

Đâu phải vì cuốn sách viết chữ nghĩa khó khăn hay mang những thông-điệp gì bí ẩn! Như tôi đã thưa ở trên, cuốn sách viết sáng như ban ngày, không có tới một câu rắc rối hay cầu kỳ–nhưng sâu sắc thì có những đoạn dị-kỳ, làm ta sửng sốt!

Tôi xin tạm lấy một thí-dụ. Trong chương “Nguồn cội” tác-giả đã dựa một phần vào những người đi trước để nói về những nét văn-hóa rất đặc-trưng của ta như một nền văn-hóa Đông-Nam-Á, tìm ra nghề canh nông lúa nước trước rất nhiều nước. Điều này đã được những học-giả lừng danh thế-giới như Wilhelm Solheim đã tìm ra từ thập niên 70 của thế-kỷ trước, nền văn-minh trống đồng của Việt-nam cũng đã được các học-giả người Pháp, người Đức (như Heger), người Thụy-điển (như Olov Janse) chứng minh qua những khai quật của họ từ thập niên 20-30 của thế-kỷ XX, song đi vào tìm ra những ý nghĩa sâu xa của trống đồng, chẳng hạn, thì ta lại phải đợi đến Linh-mục Kim Định với những sách như Sứ điệp trống đồng của ông—khác hẳn những lối khai quật khoa-học được các khảo-cổ-gia miền Bắc học theo các thầy Tây-phương nhưng không đi sâu được vào ý nghĩa của những vật mình tìm ra. (Mãi gần cuối đời, sử-gia Trần Quốc Vượng ở Hà-nội mới đi vào ngành folklore-học để theo khảo-hướng này.)

Sở dĩ phải tìm về nguồn cội thì ta mới biết được ta từ đâu đến để định ra con đường trước mặt. Sử-học Cộng-sản vì tất cả những gian dối của nó nên một ngày kia, chúng ta sẽ phải viết lại hết cả (cũng tựa như kinh-nghiệm của nước Nga sau thời CS, họ đã phải viết lại hết cả sách giáo-khoa về sử của nước họ). Cũng vì những lý-do như thế mà tác-giả Lê Việt Kỳ nhi tỏ ra rất ăn ý với những nỗ lực “tìm về nguồn” của các tác-giả hải-ngoại như Phạm Trần Anh với cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt hay Du Miên với quyển Suối nguồn văn minh phương Đông. Cô không kỳ-thị người ngoại-quốc bởi cô trích với sự thích thú nhận-định của G.S. sử-học Keith Taylor và G.S. người Hàn-quốc Han Do Hyun khi hai ông này cho rằng Việt-nam thời cổ không kỳ-thị đối với phụ nữ và còn có chế-độ “lưỡng hệ (phụ hệ và mẫu hệ).” Đi từ nguồn cội như thế là để bác bỏ ảnh-hưởng Nho-giáo trọng nam khinh nữ mà đòi hỏi trở về nguồn, tìm lại sự bình-đẳng cho nữ-giới để hơn một nửa dân-số có thể đóng góp ngang hàng với nam-giới (nếu không muốn nói là hơn, vì đông hơn). Đó là những loại tư-duy rất độc-lập của tác-giả Ước mơ của Thủy.

blank

Bìa sách “Ước Mơ Của Thủy.”

Nhưng cô còn đi xa hơn thế. Cô dẫn một cách tâm đắc nhận-định của triết-gia Kim Định:

“Sứ điệp trống đồng nằm ngay trong chữ Trống…”

Lê Quý Đôn đã tóm ý đó vào mấy câu sau:

“Trời lấy trống không làm đạo,
Đất lấy im lặng làm đạo,
Người có trống không và im lặng mới hợp với đạo trời đất.
Vì trống không/khắc được tự sáng sủa.
Yên lặng khắc được tự yên định.”

Chưa hết, cô cho là còn phải thêm: Sứ-điệp trống đồng còn nằm ở chữ “Đồng” nữa! Không chỉ có ý nghĩa là một kim-loại, chữ “Đồng” còn có nghĩa là “đồng thuận, đồng tâm” tựa như trong câu “Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn.” Từ đó, cô cho rằng chúng ta chưa đi hết con đường ông bà tổ tiên chúng ta đã vạch ra: chúng ta chưa đi hết chữ “Đồng.” Thật là một ý-tưởng vô cùng độc-đáo!

Thách thức đối với quê hương, đối với nhà cầm quyền

Những suy tư khác của tác-giả Lê Việt Kỳnhi cũng tương-tự, đầy tư-duy độc-lập và sáng-tạo. Nhưng không vô lý. Có thể là vì cô đã nghiên cứu nhiều năm sấm Trạng Trình và được biết trong cộng-đồng mạng ở Việt-nam như là “người giải sấm” (tiết-lộ của Huỳnh Lê Nam trong “Lời bạt”). Và cũng vì cô cũng đã từng trăn trở với nhiều người con dân đất nước về một “lối ra cho một xã hội bế tắc” (tên một bài viết của cô trên Facebook của cô).

Đọc cuốn sách của Lê Việt Kỳnhi, chúng ta thấy như được đồng-hành và trao đổi với một bộ óc tế nhị, thách thức những suy nghĩ đã vào khuôn vào khép của chúng ta—nhất là những bậc có tuổi, “bề trên,” dễ nghĩ là người già có độc-quyền về trí-tuệ, khôn ngoan hơn người. Đây là một trường-hợp mà không những ta có thể nói, “Hậu-sinh khả úy,” mà còn có thể nói thêm “Nữ-hậu-sinh diệc đại khả úy.”

Vì dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám viết nên Lê Việt Kỳnhi rất tự tin, không mảy may mặc-cảm… trước người lớn!

Tôi không muốn đi vào những chi-tiết của hai chương còn lại trong sách, về Giáo-dục và về Nhân-bản-luận. Tôi muốn dành sự thích thú đó cho người đọc, nhất là “người lớn đọc” để chúng ta hết khinh thường tuổi trẻ VN hôm nay, đặc-biệt là các phụ nữ trẻ như Lê Việt Kỳnhi, Nguyễn Phương Uyên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy v.v. Đã đến lúc chúng ta cần xét lại hết cả những định-kiến cổ-hủ, hủ-nho bại hoại của chúng ta để tháo gỡ cho tư tưởng Việt-nam được bay bổng, bắt kịp với thế-giới, bắt kịp với đời.

Tác-giả gọi sách mình là “Ước mơ của Thủy”: “Tên tôi là Thủy… Tôi thật sự mơ được thấy một dân tộc Việt mạnh mẽ với hào khí ngút trời… Vì giáo dục là nền tảng xã hội, muốn đất nước hồi sinh không thể không chỉnh đốn lại nền giáo dục. Và cuối cùng là chương Nhân bản luận, là suy nghĩ to gan của tôi về một Việt Nam có thể tạo một bước tiến mới trong sự phát triển của nhân loại.”

Thì ra thông-điệp của cô, mạnh là thế, lại được nói ra một cách rất đàn bà con gái, một cách thật nhỏ nhẹ. “Thủy” xem cho cùng là “nước,” không phải chỉ là một chất lỏng, mà còn là “nước, là quốc gia, là Việt Nam” với tất cả yếu-tính linh-hoạt của nó. Nước chảy, đá mòn, ước mơ của Thủy, đưa ra trước ngày Quốc-khánh mồng 2 tháng 9 của Hà-nội, chắc sẽ có ngày làm cho khối đá CSVN phải mòn đi thôi.

* Sách Ước mơ của Thủy của tác-giả Lê Việt Kỳnhi có thể mua trên Amazon Books hoặc độc-giả có thể gởi $15 (Mỹ-kim, gồm $12 ấn-phí và $3 bưu-cước) về: 6433 Northanna Drive, Springfield, VA 22150-1335. ĐT: (703) 971-9178.

Đảng CSVN lấy ý kiến về báo cáo chính trị cho Đại Hội Đảng XII

 Image copyright AP Đại hội Đảng CSVN lần thứ XII sẽ lựa chọn dàn lãnh đạo mới

Đảng CSVN vừa công bố Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng XII cho nhân dân đóng góp ý kiến.

Thời gian lấy ý kiến nhân dân bắt đầu từ ngày 15/9/2015 đến hết ngày 31/10/2015.

Bản dự thảo nhìn lại những thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế-xã hội 5 năm qua, được gọi cách khác là “kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI”.

Dự thảo nhận xét kinh tế Việt Nam vượt qua được nhiều khó khăn, thách thức; kinh tế vĩ mô dần ổn định và tốc độ tăng trưởng tuy giảm đi nhưng vẫn thuộc loại khá và “có chiều hướng phục hồi”.

Các mặt khác đều được đánh giá là có tiến bộ.

“Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, hòa bình, ổn định được giữ vững để phát triển đất nước. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.”

Dự thảo báo cáo chính trị nêu rõ: “Những thành quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, giải quyết kịp thời, có kết quả nhiều vấn đề mới phát sinh…”

Tuy nhiên bên cạnh đó, bản dự thảo cũng nói còn tồn tại nhiều yếu kém, khuyết điểm, mà nguyên nhân có cả khách quan lẫn chủ quan.

Lý do chủ quan được cho là các “hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục…”

Bản dự thảo do vậy rút ra một số kinh nghiệm, mà trước nhất là “hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh…”

Những cụm từ lâu nay sử dụng trong văn kiện Đảng như “phòng, chống ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hoá’ trong nội bộ; đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”… tiếp tục được sử dụng.

Mục tiêu kinh tế

Image copyright Getty.
Đại hội XI tổ chức năm 2011

Tuy nhiên, trong mục tiêu phương hướng phát triển 5 năm tới (2016-2020), phát triển kinh tế được đặt lên vị trí hàng đầu.

Các chỉ tiêu kinh tế chính:

  • Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 – 7%/năm.
  • Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 – 3.500 đôla
  • Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%
  • Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP
  • Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP.

Trong thời kỳ 5 năm 2010-2015, tăng trưởng kinh tế bình quân là 5,82%. Tuy nhiên, trong sáu tháng đầu năm nay, tỷ lệ tăng trưởng đã đạt 6,28%, khá cao trong khu vực.

Nhiệm vụ về kinh tế mà dự thảo báo cáo chính trị đề ra có một số điểm được cho là mới.

“Thể chế hoá quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013”.

“Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế”.

Dự thảo cũng nhấn mạnh: “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.

Việt Nam cần đẩy mạnh cổ phần hóa, theo hướng “doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”.

“Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích.”

Bản dự thảo đề xuất: “Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xoá bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, Uỷ ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp”.

Quốc phòng-an ninh

Các mục tiêu phương hướng trong lĩnh vực này ghi trong dự thảo báo cáo chính trị chưa có gì khác biệt so với những năm trước.

Mục tiêu trọng yếu được nêu là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

“Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm…”

Báo cáo khẳng định quyết tâm “Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế – xã hội trong mọi tình huống”.

Tuy nhiên, lần này dự thảo báo cáo chính trị đề cập tới nguy cơ tiềm tàng trong một thế giới nhiều bất ổn và kêu gọi có “kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”.

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
00:16 | 15/09/2015

(ĐHXII)  Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Công văn số 11421 – CV/VPTW, Hướng dẫn số 160/HD-BTGTW ngày 7/9/2015 của Ban Tuyên giáo Trung ương về lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến nhân dân đóng góp Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng:

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA; ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI; BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC, GIỮ VỮNG MÔI TRƯỜNG HOÀ BÌNH, ỔN ĐỊNH; XÂY DỰNG NỀN TẢNG ĐỂ SỚM ĐƯA NƯỚC TA CƠ BẢN TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI

(Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI

tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng)

(Dự thảo)

_________

Đại hội XII của Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trải qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (2011 – 2015); nhìn lại 30 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2016 – 2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XI; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (nhiệm kỳ 2016 – 2020).

Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững. Vì vậy, Đại hội XII có ý nghĩa rất quan trọng, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5 năm tới: tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

I- ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI (2011 – 2015) VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 – 2016)

1- Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; nguyên nhân và kinh nghiệm

Năm năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm, khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên Biển Đông,… đã tác động bất lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta cũng phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước trước những động thái mới của tình hình khu vực và quốc tế.
Trong bối cảnh đó, nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng.
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô dần ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế tuy thấp hơn 5 năm trước, nhưng vẫn đạt tốc độ khá và có chiều hướng phục hồi. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện, đạt kết quả tích cực bước đầu; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích cực. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, hoà bình, ổn định được giữ vững để phát triển đất nước. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả quan trọng. Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên. Đã thể chế hoá kịp thời Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013. Những thành quả nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn mới.

Những thành quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, giải quyết kịp thời, có kết quả nhiều vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; sự quản lý, điều hành năng động trên nhiều lĩnh vực của Chính phủ, chính quyền các cấp; sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; hội nhập quốc tế sâu rộng đã đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, tiếp tục là những yếu tố cản trở sự phát triển. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội chậm được khắc phục. Quản lý tài nguyên, môi trường còn bất cập. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,… chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, phép nước chưa nghiêm. Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội chuyển biến chậm. Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập. Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những diễn biến mới phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, tình hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch.

Song trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan: Cuối nhiệm kỳ khoá X, kinh tế vẫn trên đà tăng trưởng, song một số khó khăn, hạn chế và những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã bộc lộ, nhưng do chưa đánh giá và dự báo đầy đủ, nên Đại hội XI đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ khá cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa giải đáp được kịp thời một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới. Nhiều hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục; chưa chú trọng đúng mức tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp khi tập trung thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; chưa quyết liệt trong việc chỉ đạo thực hiện một số chủ trương, quan điểm phát triển đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và các đột phá chiến lược, chưa tạo được cơ chế, chính sách có tính đột phá để huy động mọi nguồn lực cho phát triển. Năng lực dự báo còn hạn chế, cho nên một số chủ trương, chính sách, giải pháp đề ra chưa phù hợp.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo sự nhất trí trong Đảng và đồng thuận xã hội; có quyết tâm chính trị cao với những biện pháp thiết thực, mạnh mẽ, đồng bộ, kiên quyết phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; chú trọng đổi mới công tác tổ chức – cán bộ, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Hai, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp. Phải chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, sáng tạo để tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Ba, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá – nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

Bốn, kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ phát triển; chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia – dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

2- Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 – 2016)

Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hoá – xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm.

Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, rút ra một số bài học sau:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

II- MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM 2016 – 2020

1- Dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới

Trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.

Tình hình chính trị – an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ,… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.

Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thoả hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa phương đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội và khó khăn, thách thức lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn ra phức tạp.

Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.

Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ để phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới.

Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế – chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập.

Kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.

Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hoà bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu – nghèo, phân hoá xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị – xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.

Tình hình thế giới và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn.

2- Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới

Kế thừa và phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, nhất là 10 năm gần đây, tiếp tục thực hiện có kết quả các phương hướng, nhiệm vụ đúng đắn đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng, đồng thời đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển. Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực: hài hoà lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học – công nghệ…, tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập.

Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới :

Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm tới :

(1) Tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh, bền vững, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

(2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, tính công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp.

(3) Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học – công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước.

(4) Xây dựng nền văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

(5) Phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân; bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập, chính sách với người có công; xây dựng môi trường sống lành mạnh, an ninh, an toàn, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, quản lý tốt sự phát triển xã hội.

(6) Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

(7) Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

(8) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

(9) Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

(10) Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm.

(11) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, công tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

(12) Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Các chỉ tiêu quan trọng phấn đấu đạt được 5 năm tới :

a) Về kinh tế

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 – 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 – 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP. Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 – 30%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng 4 – 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 – 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 – 40%.

b) Về xã hội

Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 35 – 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25 – 26%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,3 – 1,5%/năm.

c) Về môi trường

Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 80 – 85% chất thải nguy hại, 95 – 100% chất thải y tế được xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 44 – 45%.

III- ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ; ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC

1- Tình hình

Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; đã hình thành những mô hình mới và cách làm mới, sáng tạo. Với việc cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải thiện; bảo đảm hài hoà hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện, tình trạng đầu tư dàn trải bước đầu được hạn chế. Hệ thống các tổ chức tài chính – tín dụng được cơ cấu lại một bước, không để xảy ra tình trạng đổ vỡ, mất an toàn hệ thống. Doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo hướng tập trung vào ngành chính, đẩy mạnh cổ phần hoá, triển khai thực hiện mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả hoạt động.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số thành quả. Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỉ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng trưởng khá; cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến, mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp tăng; nông nghiệp phát triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực; chất lượng nguồn nhân lực bước đầu cải thiện. Đội ngũ doanh nhân tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội có bước phát triển; quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.

Những kết quả đạt được nêu trên chủ yếu là do Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân ta đã có nhiều cố gắng trong triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; ban hành nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp để thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết của Trung ương phù hợp với tình hình mới.

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Chưa phát huy được lợi thế so sánh và tận dụng các cam kết hội nhập quốc tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững.

Nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, nợ công tăng nhanh. Tình trạng đầu tư công dàn trải, thất thoát, lãng phí chậm được khắc phục. Việc xây dựng và thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ chưa có định hướng chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu tính kết nối. Phát triển đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn chậm, chưa đạt yêu cầu. Các ngành dịch vụ chất lượng cao chậm phát triển. Kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng còn thiếu liên kết và phối hợp; không gian kinh tế còn bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhận thức, nhất là nhận thức về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa đầy đủ; thể chế hoá và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ. Chưa có đột phá về thể chế để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Chưa xác định rõ những ngành, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên trong chính sách công nghiệp quốc gia cho từng giai đoạn; thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với đô thị hoá, giữa phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với xây dựng nông thôn mới. Chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Chưa chuẩn bị thật tốt các điều kiện cần thiết và tận dụng thời cơ để hội nhập quốc tế có hiệu quả; có lúc, có việc chưa gắn chặt với đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế

Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững; giải quyết hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp.

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ mới; thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi người để chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đột phá về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.

Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại

Xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú trọng những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỉ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỉ trọng nông nghiệp, tỉ lệ đô thị hoá, điện bình quân đầu người,…); những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ trên 1 vạn dân, tỉ lệ lao động qua đào tạo,…); và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỉ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính,…).

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và đời sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiến hành qua ba bước: tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; và nâng cao chất lượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Phát triển công nghiệp

Xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn phát triển.

Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học – công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.

Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh. Chú trọng phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp môi trường và công nghiệp văn hoá. Tiếp tục phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.

Phân bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ; nâng cao hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp; sớm đưa một số khu công nghiệp công nghệ cao vào hoạt động.

Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới

Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.

Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện cả về nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, nâng cao giá trị gia tăng. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hoá một cách hợp lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, thu hẹp khoảng cách về phát triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn – đô thị, phối hợp các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Xác định vai trò hạt nhân của doanh nghiệp trong nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp nhà nước; phát triển hợp tác xã kiểu mới; hình thành các vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ.

Phát triển khu vực dịch vụ

Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như : du lịch, hàng hải, dịch vụ kỹ  thuật dầu khí, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin. Hiện đại hoá và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh khác. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế; phát triển dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế chất lượng cao, dịch vụ khoa học và công nghệ, văn hoá, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế. Chủ động phát triển mạnh hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong nước, tham gia vào mạng phân phối toàn cầu.

Phát triển kinh tế biển

Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Có cơ chế tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển, thu hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền vững. Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển.

Phát triển kinh tế vùng, liên vùng

Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo sức lôi cuốn, lan toả phát triển đến các địa phương trong vùng và đến các vùng khác. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo; phát triển kinh tế rừng. Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, gắn với phân định và nâng cao trách nhiệm của trung ương và địa phương. Thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xây dựng và thể chế hoá cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng. Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp. Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá.

Phát triển đô thị

Đổi mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, gồm một số đô thị lớn, nhiều đô thị vừa và nhỏ liên kết và phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển. Nâng cao chất lượng, tính đồng bộ và năng lực cạnh tranh của các đô thị; chú trọng phát huy vai trò, giá trị đặc trưng của các đô thị động lực phát triển kinh tế cấp quốc gia và cấp vùng, đô thị di sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học.

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội

Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại. Ưu tiên và đa dạng hoá hình thức đầu tư cho các lĩnh vực trọng tâm là: hạ tầng giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối; hạ tầng ngành điện bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; hạ tầng thuỷ lợi đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; hạ tầng đô thị lớn hiện đại, đồng bộ, từng bước đáp ứng chuẩn mực đô thị xanh của một nước công nghiệp.

IV- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1- Tình hình

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn.

Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết các loại giá được xác lập theo nguyên tắc thị trường; thực hiện cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với một số loại hàng hoá – dịch vụ thiết yếu.

Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế – xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.

Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO; đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.

Tuy nhiên, hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược.

Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.

Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên và còn hạn chế trong chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.

Trình độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt, trong đó, thị trường lao động và thị trường dịch vụ công cơ cấu chưa hợp lý; thị trường tài chính – tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học – công nghệ phát triển chậm.

Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin – cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Sự tham gia giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế.

Hội nhập kinh tế quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phát triển. Các nỗ lực đổi mới kinh tế trong nước chưa thật sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhiều bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp thiếu chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện, cụ thể, chuẩn bị các điều kiện và năng lực về mọi mặt để khắc phục khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội do hội nhập đem lại.

Việc tự do hoá thương mại, đầu tư trong một số thị trường, lĩnh vực chưa sát hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế. Chậm xây dựng hàng rào kỹ thuật cần thiết và hệ thống quản lý thị trường đủ năng lực và hiệu quả để bảo vệ thị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, ngăn chặn gian lận thương mại, hàng giả, hàng lậu và hàng độc hại.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, nhất là về kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, cơ chế phân bổ nguồn lực, sở hữu đất đai, cơ chế giá một số hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu. Chưa thật sự phát huy đầy đủ quyền tự do kinh doanh của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Cơ chế thực thi và phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý vi phạm còn yếu; năng lực phân tích, dự báo và điều chỉnh chủ trương, cơ chế, chính sách còn hạn chế. Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đất nước chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong khi đó, trình độ, năng lực nội tại của nền kinh tế và năng lực xây dựng, thực thi thể chế kinh tế còn nhiều bất cập.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Phương hướng, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội.

Những nhận thức trên đây có giá trị định hướng lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ, cần tiếp tục cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển.

Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp

Thể chế hoá quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.

Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.

Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Đẩy mạnh cổ phần hoá, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,…) trong cổ phần hoá theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xoá bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, Uỷ ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị, quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính; xã hội hoá lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.

Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.

Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.

Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường

Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách và người nghèo. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế.

Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hoá thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hoá và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm nguyên tắc thị trường đối với thị trường tài chính gắn với tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội; phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản vận hành thông suốt, phù hợp quy luật cung – cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học – công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất kinh doanh.

Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế

Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,… Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế – xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội

Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế – xã hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế – xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế – xã hội ở các cấp, các ngành.

Nhà nước thể chế hoá nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn thiện và vận hành thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.

Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế – xã hội.

V- ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO; PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1- Tình hình

Các nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đạt được những thành quả nhất định. Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước. Quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo (bằng 20% tổng chi ngân sách nhà nước). Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có bước hiện đại hoá. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng. Xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người đã được các cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện và nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội.

Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo có mặt còn yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất – kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực.

Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đa dạng hoá nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan .

Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Tăng tỉ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo.

Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục – đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hoá, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hoá trường, lớp học; từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất – kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học công lập.

Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh.

VI- PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

1- Tình hình

Trong thời gian qua, khoa học, công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hoá Việt Nam. Khoa học tự nhiên tiếp tục phát triển các ngành khoa học cơ bản, cũng như những lĩnh vực khoa học và công nghệ liên ngành, khoa học mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã có đóng góp tích cực cho công tác quản lý, điều hành của Nhà nước, cho phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh của đất nước. Hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ có chuyển biến; tiềm lực khoa học, công nghệ được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học, công nghệ đã hình thành và bước đầu phát huy tác dụng.

Tuy nhiên, khoa học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng. Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.

Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế – xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc, xác định rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.

Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ.

Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ.

Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp.

Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.

Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hoá theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ.

Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới.

VII- PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ, XÂY DỰNG CON NGƯỜI

1- Tình hình

Sự nghiệp phát triển văn hoá và xây dựng con người đã được Đảng, Nhà nước quan tâm trong các chính sách kinh tế – xã hội từ trung ương đến các địa phương. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng : Gắn nhiệm vụ xây dựng con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hoá từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hoá được bảo tồn, tôn tạo. Xã hội hoá hoạt động văn hoá ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện kỹ thuật và ảnh hưởng xã hội. Đời sống văn hoá của nhân dân được cải thiện. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng. Việc xây dựng môi trường văn hoá đã được chú trọng hơn. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá được tăng cường. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá có nhiều khởi sắc.

Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cùng với sự đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của nhân dân là những nhân tố quyết định tạo ra những chuyển biến của sự nghiệp phát triển văn hoá, xây dựng con người.

Tuy nhiên, so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hoá lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đời sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hoá còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá đạt hiệu quả chưa cao. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích. Hệ thống thiết chế văn hoá và cơ sở vật chất – kỹ thuật cho hoạt động văn hoá còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hoá nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp uỷ, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hoá, thể chế hoá nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng và còn dàn trải.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu : Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hoá và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hoá dân tộc. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hoá, làm tha hoá con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.

Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hoá, đời sống văn hoá lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hoá giáo dục, rèn luyện con người. Xây dựng đời sống văn hoá ở địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hoá, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng.

Xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá trong kinh tế. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân với ý thức thượng tôn pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá. Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hoá mới, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu văn hoá dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hoà giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hoá với phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chủ yếu, nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng văn hoá và con người Việt Nam.

Phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá. Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hoá; tăng cường quảng bá văn hoá Việt Nam. Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã hội.

Chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Chủ động mở rộng hợp tác văn hoá với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hoá đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hoá đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, làm phong phú thêm văn hoá dân tộc. Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hoá dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hoá về văn hoá.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hoá. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hoá, văn học – nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.

Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đẩy nhanh việc thể chế hoá, cụ thể hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hoá. Hoàn thiện các thiết chế văn hoá và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hoá, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.

Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hoá. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hoá, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.

Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hoá phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hoá, xây dựng con người.

VIII- QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI; THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI

1- Tình hình

Trong những năm qua, đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng lên. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên. Hệ thống luật pháp và chính sách được bổ sung nhằm điều tiết các quan hệ xã hội. Ngân sách nhà nước dành cho các chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội tăng. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các chỉ tiêu Thiên niên kỷ. Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Đã thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách đối với người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, giảm nghèo bền vững, chăm sóc sức khoẻ cho người dân đồng thời tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro trong đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường. Quan tâm thực hiện chính sách chăm sóc người có công.

Mặc dù vậy, quản lý phát triển, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hoà giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu – nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hoà, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hoá giàu – nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người.

Nhiều lĩnh vực của phát triển bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ. Quản lý phát triển xã hội chưa xác định rõ định hướng và những nhiệm vụ mang tính tổng thể, đồng bộ, liên vùng, liên ngành, liên lĩnh vực, còn bị chia cắt theo vùng, lĩnh vực quản lý. Hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ. Chưa thể chế hoá và chưa có sự quản lý thống nhất ở cấp vĩ mô về phát triển xã hội bền vững. Hệ thống văn bản pháp lý về phát triển của từng ngành, địa phương chưa đồng bộ, thiếu nhất quán; nhiều kế hoạch phát triển của từng lĩnh vực, địa phương chưa chú ý đúng mức đến phát triển xã hội bền vững của vùng, liên vùng và quốc gia.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội. Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu – nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.

Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hoà cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý. Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội. Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông. Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên.

Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động

Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt nhất nguồn lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động.

Bảo đảm an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,… Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân. Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên,… Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế.

Coi trọng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số – kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân số – kế hoạch hoá gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng, khám chữa bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược dân số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em…, đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm cân bằng tỉ lệ giới tính khi sinh và quyền trẻ em. Huy động các nguồn lực, tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống bệnh viện, trạm y tế, phòng khám bệnh. Phát triển hệ thống y tế dự phòng và các dịch vụ y tế hiện đại. Phát triển y học dân tộc; có chính sách khuyến khích thích đáng sản xuất và chữa bệnh bằng thuốc nam. Tiếp tục bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng. Ngân sách nhà nước dành cho y tế phải được điều chỉnh theo hướng đầu tư tập trung cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế, nhân lực, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khoẻ cho người dân. Có lộ trình khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế cho toàn dân và từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.

Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ y tế. Tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển con người, chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Phát triển thể dục, thể thao toàn dân để góp phần nâng cao sức khoẻ cho nhân dân, đồng thời làm cơ sở để phát triển thể thao thành tích cao.

IX- TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN; BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG; CHỦ ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI, ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

1- Tình hình

Nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên, khai thác và quản lý tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được nâng lên và đã thu được một số kết quả bước đầu quan trọng. Nhà nước và các cơ quan quản lý đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách quản lý và tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực này. Đã thành lập được các cơ quan nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro. Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai được đẩy mạnh; đã tham gia nhiều tổ chức của thế giới về các lĩnh vực này.

Tuy nhiên, tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm. Đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội, sức khoẻ và đời sống nhân dân. Chất lượng công tác dự báo và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển, tính tổng thể, liên ngành, liên vùng; chưa rõ trọng tâm, trọng điểm và nguồn lực thực hiện. Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn. Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh. Chú trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu mới. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Bảo vệ môi trường tự nhiên vừa là nội dung, vừa là mục tiêu phát triển bền vững. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng huỷ hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản. Đảm bảo sự hài hoà giữa môi trường tự nhiên với môi trường sống ở các khu công nghiệp, đô thị, dân cư. Phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên. Tăng cường phổ biến pháp luật và tuyên truyền trong xã hội về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu. Tích cực hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đến năm 2020, có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính.

Về quản lý tài nguyên

Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển. Từng bước xác định, đánh giá các giá trị, thiết lập tài khoản, hạch toán trong nền kinh tế đối với các loại tài nguyên quốc gia. Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Hạn chế tối đa, từng bước tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ, thúc đẩy chế biến sâu. Đối với loại khoáng sản chiến lược đặc thù như than, dầu khí,… cần có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả; kết hợp bảo vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông nghiệp. Quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo lưu vực sông; chủ động hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ nguồn nước xuyên quốc gia. Kiểm soát các hoạt động khai thác; đấu tranh, ngăn chặn tình trạng đánh bắt mang tính huỷ diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là vùng gần bờ. Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống.

Về bảo vệ môi trường

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đẩy mạnh xã hội hoá cùng với việc bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trọng điểm phục hồi môi trường dân sinh.

Về phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu

Chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ. Đầu tư thích đáng cho các công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng, duyên hải miền Trung, trước hết là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau và các thành phố ven biển khác. Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính.

X- TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

1- Tình hình

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, quân sự, chiến lược an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng; sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe doạ an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm.

Tuy nhiên, nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Kết hợp giữa phát triển kinh tế – xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp uỷ, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là : Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm; sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.

Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng; tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng công tác dự báo tình hình. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế – xã hội trong mọi tình huống. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hoà bình, hữu nghị; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

XI- NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1- Tình hình

Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Môi trường hoà bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng. Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước. Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân được triển khai đồng bộ, có bước phát triển mới.

Nhận thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia – dân tộc. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề Biển Đông, đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.

Tuy nhiên, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động và hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu chặt chẽ. Công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu. Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước. Tiếp tục hoàn thành việc phân định biên giới trên bộ, thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và quy tắc ứng xử của khu vực. Chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các đối tác lớn, đối tác quan trọng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh. Mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân.

Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu.

Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại song phương, đa phương mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập chung và các hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo và các lĩnh vực khác.

Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.

Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

XII- PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

1- Tình hình

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Đạt được kết quả trên là do Đảng và Nhà nước luôn chủ trương nhất quán, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hoá, hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có lúc, có nơi chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, còn có biểu hiện hành chính hoá, chưa thiết thực, hiệu quả. Những hạn chế, khuyết điểm đó là do : Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến để giải quyết kịp thời, có hiệu quả những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thể chế hoá đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam, tăng cường quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tiếp tục thể chế hoá và cụ thể hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.

Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân.

Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở cho công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.

Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin…, cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp.

Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.

Xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao. Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực, sáng tạo của đội ngũ doanh nhân. Có cơ chế, chính sách bảo đảm quyền lợi của đội ngũ doanh nhân. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh cho thế hệ trẻ. Có cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, thể lực cho thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.

Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ.

Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, đồng thời động viên cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Quan tâm chăm sóc sức khoẻ, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hoá, tiếp cận thông tin, sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội và gia đình. Tiếp tục xây dựng gia đình “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hoà thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”; giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.

Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.

Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động ngoại giao nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

XIII- PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN

1- Tình hình

Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ.

Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau.

Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.

Đạt được kết quả trên là do Đảng và Nhà nước coi trọng việc đề ra và tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, quy chế, quy định mới nhằm phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ : Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Tuy nhiên, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương pháp luật trong xây dựng và thực hiện dân chủ còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân : Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ. Không ít cấp uỷ đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong xã hội.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân.

Cụ thể hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân.

Thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.

Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hoá xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy chế khác.

Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.

XIV- HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1- Tình hình

Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có bước phát triển. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến nhất định.

Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện. Hoạt động giám sát của Quốc hội đã tập trung vào những vấn đề bức thiết, quan trọng nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp công tác; trách nhiệm các đại biểu Quốc hội được nâng cao hơn.

Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ tập trung hơn vào quản lý vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả tích cực bước đầu. Tổ chức thí điểm đổi mới về tổ chức chính quyền địa phương (không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường, chính quyền đô thị) được tập trung chỉ đạo và tổng kết, rút kinh nghiệm.

Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả quan trọng. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng oan, sai.

Tuy nhiên, chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả ở nhiều nơi chưa cao. Tính dân chủ và pháp quyền, trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng. Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, tồn đọng án, bỏ lọt tội phạm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các cơ quan nhà nước, trong đội ngũ cán bộ, công chức chưa đạt yêu cầu đề ra. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là : Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới đối với nước ta. Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Tiếp tục xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị

Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế.

Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

Lãnh đạo việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước.

Tổ chức thực hiện tốt Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bảo đảm cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu, tăng số lượng đại biểu chuyên trách một cách hợp lý.

Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và giám sát của nhân dân.

Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ – pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh và bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Đề cao trách nhiệm và đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử.

Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Tổ chức toà án theo cấp thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự.

Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án; tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra.

Kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của luật sư và các tổ chức bổ trợ tư pháp.

Về chính quyền địa phương : Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương. Việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương gắn kết hữu cơ với đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp. Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt theo luật định.

Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức

Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách cụ thể. Đẩy mạnh dân chủ hoá công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc phục chế độ đãi ngộ theo kiểu “bình quân”.

Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.

XV- XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG

1- Tình hình

Cụ thể hoá thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã thảo luận và thống nhất rất cao việc ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (sẽ có báo cáo chuyên đề việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI gửi đại biểu Đại hội XII).

Nhìn chung, các cấp uỷ, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4. Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương, có tác dụng cảnh báo, răn đe, cảnh tỉnh và ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tạo tiền đề đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, đưa tự phê bình và phê bình trở thành công việc thường xuyên trong Đảng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới lề lối làm việc; nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống; bước đầu tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác và trong cuộc sống của mình, của gia đình, vợ con và người thân.

Đã nhận dạng rõ hơn, sâu sắc hơn, cảnh báo và bước đầu ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Bước đầu kiềm chế, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí. Một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được tập trung chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ được đẩy mạnh hơn. Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân.

Đạt được kết quả nói trên là do Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI là chủ trương đúng đắn và kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; đã được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp tập trung chỉ đạo thực hiện với quyết tâm chính trị cao, chặt chẽ, cán bộ, đảng viên đồng tình, thống nhất cao và thực hiện nghiêm túc.

Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 chưa đạt kết quả như mong đợi. Trong quá trình chuẩn bị kiểm điểm, nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị góp ý cho cấp trên (nhất là cho cá nhân), chất lượng còn hạn chế. Một số đồng chí chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh vực được giao phụ trách. Nhìn chung, khuyết điểm khá phổ biến là tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm, như : tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy tội, lợi ích nhóm,… Một số quy định, quy chế để triển khai thực hiện Nghị quyết chậm được ban hành, một số vụ việc phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân chậm được xem xét, xử lý. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bước đầu được ngăn chặn, nhưng chưa bị đẩy lùi. Công tác thông tin, tuyên truyền về thực hiện Nghị quyết có lúc, có nơi chưa đầy đủ, kịp thời, chưa định hướng được dư luận.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là do các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là những vấn đề quan trọng, khó và đã kéo dài nhiều nhiệm kỳ, chưa có những giải pháp đủ mạnh phù hợp để khắc phục, giải quyết.

Đánh giá chung, công tác xây dựng Đảng 5 năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng:

Công tác xây dựng Đảng về chính trị trước tình hình mới tiếp tục được coi trọng. Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội. Coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động của Đảng. Năng lực hoạch định đường lối, chính sách có bước tiến bộ.

Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên. Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh với hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh hơn. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992; tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới và tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá VII về công tác lý luận,…

Coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả bước đầu quan trọng.

Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn. Chỉ đạo việc thực hiện thí điểm một số mô hình đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, việc phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thực hiện, nhất là đối với những tổ chức cơ sở đảng yếu kém, có nhiều khó khăn, những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; thu hẹp đáng kể tình trạng chi bộ sinh hoạt ghép hoặc chưa có chi bộ ở các thôn, ấp, bản, làng. Số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khoá trước. Tuổi bình quân kết nạp Đảng trong nhiệm kỳ này trẻ hơn so với trước.

Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hoá bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ hơn. Thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, được dư luận đồng tình, có tác dụng, hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ về cơ bản đã thực hiện theo quy hoạch. Tiến hành xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định và thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt. Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo đảm an ninh chính trị.

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được tăng cường, có hiệu lực, hiệu quả hơn, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng; tham mưu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản của Đảng đồng bộ, phù hợp. Tiếp tục quan tâm củng cố, kiện toàn uỷ ban kiểm tra, cơ quan uỷ ban kiểm tra và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp.

Đảng và Nhà nước đã thể hiện quyết tâm chính trị trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhận thức về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được nâng lên trong các cấp uỷ, các ngành, các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Tiếp tục ban hành các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo và các đơn vị chuyên trách phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh, được dư luận đồng tình, ủng hộ, tạo sức mạnh răn đe, phòng ngừa tham nhũng.

Công tác dân vận được quan tâm và có bước đổi mới cùng với việc ban hành, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Áp dụng nhiều hình thức vận động, tập hợp nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động ngoại giao nhân dân và công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; nói đi đôi với làm. Có những đổi mới trong việc ra nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong Đảng theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp.

Với những kết quả quan trọng nêu trên, Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Đạt được những kết quả đó là do Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt; đa số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; thu hút sự tham gia của hệ thống chính trị và nhân dân vào việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng trong 5 năm qua còn nhiều hạn chế, khuyết điểm :

Dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước còn nhiều hạn chế. Việc thể chế hoá, xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ, cụ thể và hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu; công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên, sinh hoạt đảng chất lượng chưa cao, tự phê bình và phê bình yếu.

Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” còn bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý. Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu.

Việc triển khai thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ, đảng viên chưa thực sự tích cực, đồng bộ, thường xuyên, một số nơi thực hiện chưa nghiêm túc. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi vào chiều sâu ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức.

Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu chưa rõ. Mô hình tổ chức đảng ở một số lĩnh vực chưa thật hợp lý, nhất là ở các tập đoàn, tổng công ty,…

Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà lại tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập và công chức, cán bộ chuyên trách, không chuyên trách xã, phường, thị trấn. Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo đảm sự liên thông, gắn kết. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp uỷ là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu. Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong những điểm yếu, cản trở sự phát triển.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên.

Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử lý kéo dài, nên kỷ cương, kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát.

Công tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế. Việc xây dựng, nhất là triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận còn chưa kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,… để có chủ trương, chính sách và biện pháp phù hợp.

Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của chế độ.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011); phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền. Chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu trước nhân dân. Chưa khắc phục được tình trạng ban hành nhiều nghị quyết; có một số nội dung thiếu tính khả thi, chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện thực hiện. Chưa thật tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết; một số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống. Còn có biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít chậm được khắc phục.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm là do xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện. Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương. Chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham gia của nhân dân vào công tác xây dựng Đảng. Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều cấp uỷ đảng và bí thư cấp uỷ chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu đồng bộ, kiên quyết, hiệu quả thấp.

2- Phương hướng, nhiệm vụ

Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm.

Xây dựng Đảng về chính trị

Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên.

Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.

Hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng.

Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả.

Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.

Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới.

Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.

Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng

Đưa việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức thành một nội dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng Đảng: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”.

Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm.

Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị

Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.

Thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị. Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị. Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp. Sớm tổng kết mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trên cơ sở đó, tinh giản số cán bộ được hưởng lương và phụ cấp ở cơ sở.

Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên

Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển, sàng lọc đảng viên, bảo đảm chất lượng; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết việc thực hiện Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đảng viên làm kinh tế tư nhân và việc thí điểm kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng.

Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thể chế hoá, cụ thể hoá các nguyên tắc về: quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và hệ thống chính trị. Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… Tăng tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, cấp uỷ là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ. Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,… để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài.

Tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ, nhất là cấp uỷ cơ sở trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ cán bộ, đảng viên về mặt chính trị. Gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng

Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát, để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và chi bộ; xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, phương pháp, quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại trong Đảng; hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng giữa uỷ ban kiểm tra với các tổ chức đảng và cơ quan liên quan.

Nghiên cứu việc tăng thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng cho uỷ ban kiểm tra các cấp. Kiện toàn uỷ ban kiểm tra, tổ chức bộ máy và cán bộ cơ quan uỷ ban kiểm tra tương xứng, ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra các cấp. Có chế độ, chính sách hợp lý đối với cán bộ kiểm tra.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân

Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân.

Kịp thời thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.

Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.

Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, và của toàn bộ hệ thống chính trị. Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.

Đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như: quản lý và sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, khoáng sản; thu, chi ngân sách, mua sắm công, tài chính, ngân hàng, thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản; công tác cán bộ; quản lý doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giáo dục, đào tạo và y tế. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Kiên quyết xử lý và kịp thời thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm minh trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình trực tiếp quản lý, các cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm về kê khai và minh bạch tài sản, thu nhập; kiên quyết thu hồi tiền, tài sản bị tham nhũng. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng. Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục “tư duy nhiệm kỳ”; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng

Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền.

Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội, xây dựng hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả.

Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của người đứng đầu và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm. Quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ và ban thường vụ cấp uỷ các cấp. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung ương.

Coi trọng xây dựng văn hoá trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị mà nội dung quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Nghị quyết phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân, thời hạn hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị quyết. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể hoá, thể chế hoá, tổ chức thực hiện nghị quyết; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc; đổi mới cách thức quán triệt, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, khắc phục những thủ tục rườm rà, bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp.

SÁU NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm sau:

1- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

2- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

3- Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.

4- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

5- Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

6- Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội; bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội.

*

*       *

Trong nhiệm kỳ qua, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành quả quan trọng. Tình hình thế giới đang thay đổi nhanh chóng, tạo ra cho nước ta thời cơ lớn, đồng thời cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

Vì sao Hoa Kỳ và Việt Nam cần phải gấp rút thắt chặt mối quan hệ?

Đôi lời: Một bài viết hay với nhiều thông tin bổ ích, nhưng có một nhận định khá chủ quan của tác giả về cái gọi là phe thân Mỹ với phe thân Trung Quốc. Có lẽ chẳng hề có phe cải cách thân Mỹ hay phe bảo thủ thân Tàu nào hiện diện trong giới lãnh đạo VN như một số nhà phân tích tình hình chính trị VN đã từng nhận định, cũng như ý kiến của 2 tác giả trong bài viết này, mà chỉ có phe tham nhũng bị Trung Quốc “nắm thóp” mà thôi.

Có lẽ do nhiều người quá kỳ vọng vào sự thay đổi sắp tới nên đã tin rằng có 2 phe như vậy hiện diện trong giới lãnh đạo cao cấp ở VN. Họ tin rằng “đồng chí X” là người đứng đầu phe cải cách thân Mỹ, nhưng nếu xâu chuỗi tất cả các diễn biến trong vài  năm qua, có thể thấy chính anh X là người thân Tàu. Anh X là người đã đưa Tàu vào VN nhiều nhất từ trước tới nay, và cũng chính anh X đã tạo ra nền kinh tế VN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Để che đậy bộ mặt thật của mình, anh X đã sử dụng bộ máy truyền thông bán chính thống, tạo dư luận rằng anh ta thuộc phe cải cách thân Mỹ, rằng anh ta sẽ thay đổi chính thể và lên làm tổng thống. Anh X đã sử dụng những dư luận viên cao cấp làm cò mồi, viết những bài nói về khả năng anh ta sẽ lên làm tổng thống, rồi anh ta sẽ thay đổi thể chế, sẽ giải tán ĐCS.

Có vẻ như một số trí thức do quá nôn nóng muốn nhìn thấy đất nước thay đổi, đã mắc bẫy của anh X khi ngấm ngầm ủng hộ anh ta lên làm tổng thống, mà không nghĩ tới khả năng sau khi X thu tóm quyền lực xong, với sự giúp đỡ của Trung Quốc, X sẽ lộ bộ mặt thật là anh ta sẽ bám theo Tàu để giữ vững quyền lực.

Lời bình của https://anhbasam.wordpress.com/2015/09/13/5071-vi-sao-hoa-ky-va-viet-nam-can-phai-gap-rut-that-chat-moi-quan-he/

____

National Interest

Tác giả: Alexander Benard Paul J. Leaf

Người dịch: Trần Văn Minh. 11-09-2015
​“Bắc Kinh đang ngày càng chứng minh cho Hà Nội rằng họ thèm muốn quyền bá chủ trong khu vực và sẽ giẫm đạp lên quyền của bất kỳ quốc gia nào chắn lối họ...”

Quan hệ Mỹ-Việt gia tăng trong vài năm qua, phần lớn là do mối quan tâm chung đối với sự gây hấn ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng một phần của mối quan hệ chỉ tiến triển từ từ, làm cho Trung Quốc tin rằng họ có thể tiếp tục bắt nạt Việt Nam như trong quá trình tiến tới kiểm soát khu vực mà không làm dấy lên sự phản đối nghiêm trọng nào. Thật vậy, Trung Quốc gần đây đã đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam, và chỉ mới tuần trước, họ kéo dài hoạt động của giàn khoan thêm vài tháng. Nhưng hành động khiêu khích mới nhất này, cùng với thông báo của Trung Quốc vào tuần trước rằng họ sẽ chuyển nhiều nguồn lực hơn cho năng lực hải quân và không quân, có thể thúc đẩy Hoa Kỳ và Việt Nam phát triển một số yếu tố quan trọng trong quan hệ đối tác đang lên của họ.

Bối cảnh

Vào tháng 5 năm 2014, chỉ ba ngày sau khi Tổng thống Obama kết thúc chuyến công du châu Á với mục đích trấn an các đồng minh ở đó, Bắc Kinh gần như gây ra một cuộc khủng hoảng gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp, nằm trong khu vực Biển Đông và đang do Bắc Kinh chiếm đóng, nhưng Hà Nội tuyên bố chủ quyền. Với sự hỗ trợ của “một số lượng lớn các tàu”, Trung Quốc đặt một giàn khoan dầu, do nhà nước sở hữu, khoảng 80 dặm bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam được quốc tế công nhận, là vùng kéo dài 200 dặm từ bờ biển. Bắc Kinh lập luận rằng họ kiểm soát vùng biển này bởi vì họ nằm trong EEZ tạo ra bởi quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam đã mang khoảng 30 tàu của họ ra cản trở. Một cuộc đối đầu 75 ngày xảy ra sau đó và leo thang, khi Trung Quốc phái lực lượng quân sự ra để bảo vệ giàn khoan và hai nước liên tục đâm tàu và phun nước vào nhau. Trung Quốc đã đánh chìm một tàu Việt Nam và các cuộc nổi dậy chống Trung Quốc nổ ra ở Việt Nam. Trung Quốc cuối cùng đã rút lui sau khi hoàn tất khảo sát, nhưng cảnh báo rằng họ có thể quay trở lại.

Hoa Kỳ gọi những hành động của Trung Quốc là “khiêu khích”, nhưng đã không xử phạt, tiếp tục cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, từ chối làm trung gian hòa giải cuộc xung đột và đã không gửi lực lượng quân sự đến khu vực. Nhận thấy Hoa Kỳ xa lánh và nhận ra ưu thế hải quân của Trung Quốc, Việt Nam đã hạ thấp cuộc tranh chấp với chủ đầu tư và đối tác thương mại lớn nhất của mình, gọi cuộc xung đột là sự bất đồng giữa “anh em một nhà” và nối lại quan hệ quân sự với Trung Quốc. Với một cường quốc khu vực mạnh mẽ không thể ngăn cản được và Washington thì né tránh, Trung Quốc ra dấu rằng các đối thủ nên chấp nhận sự trỗi dậy không thể ngăn cản của họ.

Để nhấn mạnh thông điệp này, tháng 6 vừa qua, chỉ vài tuần trước khi nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam đến thăm Hoa Kỳ, Trung Quốc đã đưa giàn khoan nói trên tới một phần khác trong vùng EEZ của Việt Nam (vùng chồng lấn với EEZ tạo ra bởi đảo Hải Nam của Trung Quốc) để thăm dò tài nguyên thiên nhiên ở đó. Bắc Kinh cảnh cáo các tàu nước ngoài cách giàn khoan 2.000 m. Cuộc thăm dò được dự kiến kết thúc vào ngày 20 tháng 8, năm 2015. Nhưng tuần trước, Trung Quốc đã chuyển giàn khoan gần Việt Nam hơn (cách bờ biển Việt Nam 110 dặm) và đơn phương kéo dài công việc khoan dầu thêm hai tháng nữa.

Vì sao các hành động của Trung Quốc có vấn đề?

Hành động của Trung Quốc đặc biệt đáng báo động khi nhìn dưới góc cạnh như là một phần của mô hình xâm lấn liên tục từ cuộc đối đầu giàn khoan đầu tiên. Bắc Kinh công bố vào mùa hè này hoàn thành việc bồi đắp đất chưa từng có trong khu vực tranh chấp ở Biển Đông và kế hoạch tiếp tục xây dựng các cơ sở quân sự ở đó. Trong tháng 7, Trung Quốc đã diễn tập một cuộc tấn chiếm đảo ở Biển Đông và hàng loạt các tàu chiến (bao gồm cả lực lượng hạt nhân) và máy bay bắn đạn thật trong vùng biển này. Tuần trước, tại vùng biển Nhật Bản, Trung Quốc đã hoàn tất cuộc tập trận hải quân lớn nhất với Nga. Bắc Kinh diễu hành phô trương vũ khí quân sự mới nhất của họ trong tuần này để đánh dấu sự đánh bại Tokyo thời Thế chiến Thứ Hai, và thông báo rằng họ sẽ giảm bớt lực lượng quân sự để tập trung nhiều nguồn lực hơn vào lực lượng hải quân và không quân, mà cả hai lực lượng sẽ tốt hơn để phô trương sức mạnh ra ngoại quốc. Và lần đầu tiên, Trung Quốc điều động tàu hải quân ngoài khơi bờ biển Alaska (trong vòng 12 hải lý), trùng lắp với chuyến đi của Tổng thống Obama ở đó.

Nhận thức được sự bành trướng của Trung Quốc, Hoa Kỳ và Việt Nam đã có những bước khiêm tốn để tăng cường quan hệ. Ví dụ, hai nước đã gia tăng tần suất các cuộc tập trận chung và các chuyến thăm chính phủ cao cấp; Hoa Kỳ trợ cấp 18 triệu USD để nâng cấp lực lượng tuần duyên của Việt Nam, và Washington nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương trên cơ sở từng trường hợp đối với Hà Nội.

Cả hai nước đều muốn làm nhiều hơn, nhưng cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều không đi tới với tình trạng cấp bách. Chính quyền Obama không muốn khiêu khích Bắc Kinh, như đã chứng minh trong phản ứng im lặng trước cuộc đối đầu vụ giàn khoan đầu tiên và đã không đi ngang qua vùng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc kéo dài từ hòn đảo nhân tạo của họ ở Biển Đông. Washington cũng lo ngại gần gũi với Hà Nội trong tình hình thành tích nhân quyền kém cỏi. Trong khi đó, Hà Nội đang có hai phe thân Mỹ và thân Tàu. Nhóm thứ hai tin rằng Trung Quốc quyết tâm kiểm soát sân sau của họ nhiều hơn so với Hoa Kỳ kiểm soát một khu vực xa xôi. Vì thế, họ đặt câu hỏi về ý muốn và khả năng của Washington chống lại Bắc Kinh, nhất là trong lúc Hoa Kỳ đang bị sa lầy tại các vùng khác của thế giới và cắt giảm chi tiêu quân sự của mình.

Nhưng hành động khiêu khích mới nhất của Trung Quốc là một cơ hội để khắc phục những khó khăn này. Bắc Kinh đang ngày càng chứng minh cho Hà Nội thấy rằng họ khao khát quyền bá chủ khu vực và sẽ giẫm đạp lên quyền của bất kỳ quốc gia nào chắn lối họ, qua đó cho thấy một lập luận vững chãi cho những ai tìm kiếm mối quan hệ Mỹ-Việt chặt chẽ hơn.

Phe thân Mỹ ở Việt Nam nên lập tức đẩy mạnh việc cho phép Mỹ tiếp cận các cơ sở quân sự của Việt Nam nhiều hơn. Việt Nam có thể vẫn duy trì sự kiểm soát, nhưng họ nên để cho lực lượng Mỹ luân phiên tiếp cận và xây dựng cơ sở hạ tầng mới và trang thiết bị sơ khởi. Washington sẽ có thể triển khai sức mạnh vào vùng Biển Đông dễ dàng hơn và Bắc Kinh sẽ chùn bước trước việc quấy phá Hà Nội. Việt Nam cũng nên cho phép Hải quân Mỹ thăm cảng nhiều hơn (hiện tại giới hạn một lần trong một năm) và tiếp cận cảng nước sâu chiến lược quan trọng nhất là vịnh Cam Ranh.

Trên bình diện kinh tế, Hà Nội cần tiếp tục thực hiện cải cách theo yêu cầu của hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thỏa thuận tự do thương mại hiện đang được đàm phán giữa 12 quốc gia thuộc vành đai Thái Bình Dương. Bằng cách tham gia TPP, Việt Nam có thể giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, từ đó có thể được tự do hơn để theo đuổi lợi ích quốc gia ngay cả khi có xung đột với Trung Quốc. Cuối cùng, Việt Nam phải cải thiện nhân quyền để tiến tới quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ.

Trong khi đó, Washington phải hành động tương ứng. Đầu tiên, ngay cả sau khi nới lỏng một ít lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, Hoa Kỳ vẫn chậm chạp trong việc vực dậy khả năng quân sự của nước này do quan ngại về nhân quyền. Hoa Kỳ cần tiếp tục hối thúc Việt Nam cải thiện thành tích nhân quyền, trong khi sẵn sàng giúp cho Hà Nội hệ thống giám sát hàng hải và những kỹ thuật hải quân khác, những thứ không đe dọa người dân Việt Nam. Thứ hai, Tổng thống Obama nên đặt vấn đề Biển Đông và sự ngược đãi Việt Nam của Trung Quốc làm đề tài chính trong chuyến thăm Washington sắp tới của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, do đó báo hiệu cho Việt Nam rằng Hoa Kỳ đưa các cuộc xâm lấn Việt Nam lên tầm quan trọng và không ngần ngại đối đầu với Trung Quốc. Thứ ba, Hoa Kỳ cần phải lôi kéo Việt Nam sâu hơn vào mối quan hệ an ninh khu vực khác, kể cả bằng cách khuyến khích cùng phát triển vũ khí, mời tham gia vào các cuộc tập trận quân sự đa phương và tiến hành tuần tra hải quân chung, khuyến khích họ mua vũ khí của Mỹ, Âu Châu và Nhật Bản. Lôi kéo Việt Nam khỏi công nghệ quân sự của Nga (Moscow hiện đang là nhà cung cấp vũ khí chính của Hà Nội) cũng sẽ tăng cường khả năng tương tác của Việt Nam với Hoa Kỳ và các đồng minh, gia tăng sự liên lạc quân sự của các nước. thứ tư, Hoa Kỳ phải kết thúc TPP sớm, là điều sẽ có lợi cho Hoa Kỳ và Việt Nam, cả chiến lược lẫn kinh tế.

Hà Nội có thể trở thành một trong những đối tác quan trọng nhất của Washington để chống lại sự trỗi dậy của Bắc Kinh. Việt Nam tiếp giáp Biển Đông và tiếp giáp với Trung Quốc. Việt Nam có dân số lớn đứng hàng thứ 14 trên thế giới, lực lượng quân sự tại ngũ hiện đứng thứ 13, và tính theo tổng sản lượng nội địa, Việt Nam là nước chi tiêu quốc phòng lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Nền kinh tế của nước này được dự báo sẽ lớn thứ 17 trên thế giới trong 10 năm. Và Việt Nam sẽ là một đối tác quân sự mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đã từng đối đầu thành công với kẻ thù lớn hơn và vũ trang mạnh hơn.

Hoa Kỳ và Việt Nam phải nâng cao mối quan hệ. Làm như vậy sẽ báo hiệu rằng Washington vẫn cam kết chống lại một Trung Quốc đang trỗi dậy tại thời điểm khi các nước trong khu vực đang tự thủ, không chắc chắn là liệu Hoa Kỳ có đủ can đảm đối đầu với sự gây hấn của Bắc Kinh hay không. Một quan hệ đối tác Mỹ-Việt chặt chẽ cũng có thể giúp làm chậm lại sự bành trướng của Trung Quốc bằng cách chứng minh cho thấy hành vi của họ phản tác dụng thế nào – thậm chí còn có thể lôi kéo kẻ cựu thù cùng đồng hành chống lại Trung Quốc.

Alexander Benard là Giám đốc điều hành của công ty đầu tư Schulze Global Investments, một công ty cổ phần tư nhân tập trung vào thị trường mới trỗi dậy. Paul J. Leaf là một luật sư tại một công ty luật quốc tế.

Cuộc đấu đá ngầm đằng sau vụ nhà báo Đỗ Hùng bị tước thẻ

http://danlambaovn.blogspot.com/2015/09/cuoc-au-ngam-ang-sau-vu-nha-bao-o-hung.html

Thứ trưởng Bộ TT&TT Trương Minh Tuấn
Bích Minh (viet-studies) – Việc nhà báo Đỗ Hùng của báo Thanh Niên đột ngột bị cách chức, tước thẻ gây ồn ào những ngày qua thực tế là chỉ là bề nổi của cuộc chạy đua quyền lực nhắm tới kỳ Đại hội Đảng XII đang đến rất gần…

1. Tai hoạ từ facebook
Ngày 4/9/2015 một loạt các tờ báo trong nước đồng loạt đăng tải thông tin về việc Bộ Thông tin và Truyền thông (dưới đây gọi tắt là TTTT) có quyết định thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ (Văn) Hùng, Phó Tổng Thư ký toà soạn Báo điện tử Thanh Niên.
Quyết định của Bộ TTTT được công khai cũng cho biết việc thu hồi thẻ một phần căn cứ vào quyết được đưa ra một ngày trước đó (3/9) của Tổng Biên Tập báo Thanh Niên về việc miễn nhiệm chức vụ của ông Đỗ Hùng.
Do quyết định xử lý ông Đỗ Hùng của Báo Thanh Niên không được tờ báo này công khai nên đến nay chưa rõ lý do chính thức cũng như các căn cứ đưa ra trong việc miễn nhiệm ông Đỗ Hùng là gì.
Tuy nhiên các thông tin rò rỉ trên mạng xã hội cũng như các nguồn tin từ giới báo chí đều cho rằng việc ông Đỗ Hùng bị mất chức và bị tước thẻ là do liên quan đến một status “toàn dấu sắc”, mang tính chất trào phúng được Đỗ Hùng cho đăng tải trên tài khoản facebook cá nhân đúng vào dịp Quốc khánh 2/9/2015.
Hộp 1 – Nguyên văn status đăng tải trên tài khoản facebook của nhà báo Đỗ Hùng ngày 2/9/2015

 

“Lúc ấy. Thế chiến (thứ mấy tớ đéo nhớ), Đế quốc đánh với Phát xít. Phía Phát xít, Thống chế chết. Đám tướng tá, lính lác đánh đấm kém, chết hết đéo sót mấy mống. Phía đế quốc thắng lớn. Thế chiến kết thúc.
Chớp lấy cái thế ấy, bác Ái Quốc, tướng Giáp với mấy chú, mấy mế xứ Pác Bó vác cuốc, vác giáo mác, vác súng ống xuống đánh Phát xít, đánh Pháp, cướp lấy khí giới, cướp thóc, chiếm bót, cứ thế đánh tới bến. 
 
Đánh tới cuối tháng 8, bác Ái quốc thắng lớn. Bác ấy với các chú kéo xuống Giáp Bát, chiếm phố, chiếm lấy bót phát xít, chiếm hết. Hết đánh đấm, bác ấy nói: “Các chú thắng phát xít, thắng Pháp, quá xuất sắc”. Tới tháng 9, bác ấy xuống phố bố cáo quốc khánh. Bác ấy nói: “Đất nước hết chiến đấu, hết đói kém. Phát xít cút. Đế quốc Pháp cút. Các mế, các chú, các cháu bé hết khóc lóc. Thế giới bác ái…”. 
 
Nói tới đó, bác Ái Quốc thắc mắc: “Bác nói thế các chú, các mế, các cháu có thấy quá lí nhí?” Bá tánh phía dưới đáp: “Chúng cháu thấy bác nói rất lớn. Nói thế quá tốt!”. Tướng Giáp đứng kế đó thét lớn: “Quyết chiến quyết thắng!”. 
 
Bá tánh đáp: “Quyết thắng! Quyết thắng !” Hết! 
(Chúc các bác Quốc khánh sướng nhé) 
 
Nguồn : facebook Đỗ Hùng
*
Sau khi vụ việc này được công bố, trên nhiều diễn đàn mạng đã nổ ra các cuộc tranh luận với nhiều quan điểm khác nhau. Các tranh luận này chủ yếu liên quan đến những vấn đề có tính chuyên môn như trách nhiệm của nhà báo khi tham gia mạng xã hội, các nguyên tắc làm báo; một số ý kiến đặt ra vấn đề ở cấp độ lớn hơn như quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam, tính hợp pháp trong quyết định của Bộ TTTT…
Lý giải cho cho việc Đỗ Hùng bị xử lý cũng có người cho rằng là do nhà báo này đã động chạm, xúc phạm đến chuyện quá “nhạy cảm” như Đảng, Bác Hồ vốn là những điều cấm kị trong hoàn cảnh một quốc gia độc đảng như Việt Nam …
Trong bản tin có tiêu đề “Nhà báo mất chức vì bài về 2/9” BBC Việt ngữ cho rằng “quyết định nhanh chóng của báo Thanh Niên và của Bộ TTTT dường như cho thấy giới chức xem đây là vấn đề nghiêm trọng”. . .
2. Cuộc chơi của thứ trưởng Bộ “Tuyên giáo”
Bản chất của vụ việc, từ những các nguồn am hiểm nội tình cho biết, có nguyên nhân hoàn toàn khác xa với những phân tích, nhận định mà dư luận nêu lên trong những ngày qua.
Lý do, hoá ra tầm thường và giản dị hơn những gì được đồn thổi rất nhiều. Hoàn toàn không phải vì chuyện “phạm huý”, chuyện “lập trường, tư tưởng” hay việc status trào lộng của Đỗ Hùng bị các cơ quan quản lý báo chí “xem là vấn đề nghiêm trọng”…
Đằng sau việc dùng “lệnh miệng” ép báo Thanh Niên xử lý, sau đó để Bộ TTTT có cớ ban hành quyết định thu hồi thẻ nhà báo của Đỗ Hùng là những toan tính cá nhân của chính người đã ký quyết định đó.
Không ai khác đó chính là nhân vật đang nổi đình đám: Thứ trưởng Bộ TTTT Trương Minh Tuấn. 
Có thể nhận thấy rằng vụ xử lý Đỗ Hùng chỉ là một ví dụ nhỏ trong chuỗi một loạt các bước đi của Thứ trưởng Trương Minh Tuấn trong suốt gần 2 năm qua nhằm ghi điểm trong cuộc đua vào chiếc Bộ trưởng Bộ TTTT tại kỳ Đại hội Đảng XII sắp tới khi Bộ trưởng đương nhiệm Nguyễn Bắc Son (sinh năm 1953) chắc chắn sẽ về hưu và không tái cử do đã quá tuổi quy định.
Phó tổng biên tập một báo điện tử tại Hà Nội nhận định, trong vụ cách chức, tước thẻ này Đỗ Hùng đơn giản chỉ là một quân tốt thí trong cuộc chơi nhiều tham vọng của ông thứ trưởng Trương Minh Tuấn.
“Sự không may mắn của Đỗ Hùng ở chỗ là status tếu táo kia sau khi được đội ngũ dư luận viên và đám “âm binh” bơm thổi, bẩm báo đã trở thành một món quà “từ trên trời rơi xuống” để Thứ trưởng Trương Minh Tuấn phục vụ cho mục đích riêng của mình”, nhà báo này nhận định.
Một nguồn tin thân cận với báo Thanh Niên cho biết các lãnh đạo của báo này cũng khá bất ngờ sau khi Bộ TTTT có quyết định thu hồi thẻ nhà báo của Đỗ Hùng. “Ban lãnh đạo tờ báo “ngoan, hiền, dễ bảo” này ban đầu đã tưởng rằng với việc “tự xử” khá nặng tay như vậy Bộ TTTT sẽ cho qua vụ việc này nhưng hoá ra lại không phải”, nguồn tin cho biết.
Nguồn tin cũng tiết lộ rằng Thứ trưởng Tuấn cũng có hứa hẹn với lãnh đạo Báo Thanh Niên rằng Đỗ Hùng sẽ được cấp lại thẻ trong thời gian sớm nhất. Điều này càng cho thấy quyết định xử lý thực ra không nhắm vào nhà báo Đỗ Hùng hay báo Thanh Niên mà chỉ nhằm “làm màu” cho người đã ban hành quyết định đó.
3. Tiến thân bằng bàn tay sắt
Ông Trương Minh Tuấn (sinh năm 1960) đột nhiên nổi lên từ khoảng giữa năm 2014 như một hiện tượng “kinh hoàng” của báo giới Việt Nam sau một loạt các động thái khá mạnh tay nhắm vào báo chí ngay sau khi được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng Bộ TTTT (1/2004) phụ trách lĩnh vực báo chí.
Hộp 2 – “Thành tích” xử lý báo chí năm 2014 của Thứ trưởng Trương Minh Tuấn
Theo báo cáo của Bộ TTTT, trong năm 2014, Bộ này đã xử phạt vi phạm hành chính một số cơ quan báo chí, xuất bản, thông tin điện tử với tổng số tiền 2,522 tỷ đồng. 
 
Riêng trong lĩnh vực báo chí có tổng số 68 trường hợp bị xử phạt với tổng số tiền hơn 1,5 tỷ đồng; xuất bản có 9 trường hợp với 166 triệu đồng; thông tin điện tử là 31 trường hợp với hơn 850 triệu đồng.
 
Thống kê của Bộ TTTT cũng cho biết số lượt vi phạm hành chính của cơ quan báo chí trong năm 2014 bị xử lý tăng hơn gấp đôi so năm 2013 (năm 2013 có 27 lượt vi phạm, năm 2014 là 57 lượt vi phạm)…
 
Trong “báo cáo thành tích” xử lý báo chí của Bộ TTTT còn cho biết ngoài việc phạt nặng, đã có một mạng xã hội bị thu hồi giấy phép vĩnh viễn, một tờ báo và một trang thông tin điện tử bị đình bản ba tháng, tịch thu bảy tên miền…
 
Nguồn: 
*
Những động thái khá quyết đoán và cứng rắn của Thứ trưởng Trương Minh Tuấn trong việc xử lý báo chí thể hiện một cách tiếp cận khác hẳn những “quan báo” trước đó. Nhiều lãnh đạo các cơ quan báo chí đã thể hiện sự ngạc nhiên trước những động thái “khác thường” của Thứ trưởng Trương Minh Tuấn.
Nguyên nhân thứ nhất của sự ngạc nhiên ấy là do, việc xử lý báo chí trong một thời gian dài vốn là “đặc quyền” của ngành tuyên giáo trong đó chủ chốt là vai trò của Ban Tuyên giáo TW chứ không phải Bộ TTTT. Tuy vậy, việc xử lý sai phạm của Ban Tuyên giáo TW cũng chủ yếu nhắm đến chuyện “xa rời tôn chỉ mục đích, thiên về mặt trái của xã hội, thông tin giật gân, câu khách” hay đưa tin “gây tâm lý hoang mang trong dư luận”…
Thứ hai, về mặt quản lý nhà nước, Bộ TTTT là cơ quan chịu trách nhiệm chính nhưng do những khoảng trống cũng như sự thiếu rõ ràng trong phân chia quyền lực giữa Đảng (Ban Tuyên giáo TW) và chính quyền (Bộ TTTT) nên trong một thời gian khá dài việc xử lý những sai phạm của báo chí hầu như khá nhẹ nhàng.
Tất nhiên cũng còn một lý do khác là cả Ban Tuyên giáo TW lẫn Bộ TTTT đều không muốn mạnh tay với báo chí vừa do tính chất nhạy cảm của việc này lẫn tâm lý ngại sự phản ứng của báo giới, đặc biệt trong bối cảnh quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam được internet thúc đẩy ngày càng mạnh mẽ.
Điều đáng nói nữa là cách thức của ông Trương Minh Tuấn cũng không như những người tiền nhiệm của mình. Thay vì “xử kín” như “truyền thống” được duy trì trong một thời gian dài thì bắt đầu từ năm 2014, cũng là năm ông Tuấn nhậm chức, Bộ TTTT đã lần đầu tiên công khai việc xử lý vi phạm của các cơ quan báo chí với thái độ quyết liệt.
Sự nổi tiếng và “toả sáng” của ông Trương Minh Tuấn thậm chí cũng là điều gây ngạc nhiên với nhiều đồng nghiệp thuộc cơ quan cũ của ông là Ban Tuyên giáo TW.
Trước đó ông Trương Minh Tuấn hầu như là một nhân vật không được ai biết đến, kể cả trong giai đoạn ông Tuấn đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng ban Tuyên giáo TW từ 8/2011 đến 1/2014.
Theo tiết lộ của một cán bộ cấp vụ của Ban Tuyên giáo TW, trong thời gian làm việc tại Ban Tuyên giáo TW ông Tuấn cũng không được đánh giá cao về mặt năng lực, chuyên môn. Lĩnh vực ông Tuấn được phân công theo dõi thời gian đó (2011-2014) hầu như không quan trọng lắm… ”, một cán bộ cấp vụ của Ban Tuyên giáo TW tiết lộ.
“Lĩnh vực không quan trọng” mà ông Tuấn được phân công chủ yếu liên quan đến vấn đề giáo dục, đào tạo, dạy nghề. Trước khi ông Tuấn chuyển sang Bộ TTTT thì ông cũng được giao thêm một phần công việc liên quan đến vấn đề chủ quyền biển đảo.
Trước đó ông Tuấn là Vụ trưởng, Trưởng cơ quan thường trực Ban Tuyên giáo TW tại Đà Nẵng và sau đó là Giám đốc Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo thuộc Ban Tuyên giáo TW.
4. “Đòn hiểm” hay bí mật hậu trường những cú đánh vào VTV
Như đã phân tích ở trên, vụ nhà báo Đỗ Hùng gặp nạn chỉ là một sự không may ngẫu nhiên của nhà báo này. Đỗ Hùng như một “xác chết” được Thứ trưởng Trương Minh Tuấn đạp xuống để tiến lên cao hơn trên bậc thang quyền lực.
Việc ông Trương Minh Tuấn kỳ vọng mình sẽ được ngồi vào chiếc ghế Bộ trưởng Bộ TTTT không phải là không có cơ sở. Trên thực tế, hai đời Bộ trưởng gần đây của ngành TTTT đều là những nhân vật xuất thân từ ngành tuyên giáo.
Năm 2007 sau sáp nhập Bộ Bưu chính – Viễn thông với mảng báo chí, xuất bản của Bộ Văn hóa – Thông tin thành Bộ TTTT, ông Lê Doãn Hợp, nguyên Bộ trưởng Bộ VH – TT được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.
Ông Lê Doãn Hợp trước đó từng là người đứng đầu cơ quan Tuyên giáo của tỉnh Nghệ An và sau đó là Phó trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng Văn hóa TW, cơ quan tiền thân của Ban Tuyên giáo TW.
Người kế nhiệm ông Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, cựu thư ký của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, cũng nguyên là Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TW.
Theo nhiều nhà quan sát, bất chấp chức năng quản lý chính của Bộ TTTT là lĩnh vực viễn thông, công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia…người đứng đầu Bộ này trong 2 nhiệm kỳ liền đều là những người của ngành tuyên giáo cho thấy sự coi trọng của Đảng trong việc quản lý về mặt tư tưởng trong lĩnh vực báo chí, truyền thông.
Những gì diễn ra đã chứng minh những nỗ lực của ông Trương Minh Tuấn đã đem lại những kết quả nhất định.
Tại Hội nghị giới thiệu nhân sự tham gia Ban Chấp hành TW Đảng khóa XII của Ban Cán sự Đảng Bộ TTTT hồi 6/2015 ông Trương Minh Tuấn và Tổng Giám đốc Viettel Nguyễn Mạnh Hùng đã được lọt qua vòng đầu tiên.
Tuy nhiên để chạm tới chiếc ghế Bộ trưởng ông Trương Minh Tuấn còn rất nhiều việc phải làm. Đơn giản, các đối thủ của ông Tuấn đều là những nhân vật nổi trội.
Các nguồn tin thân cận với Bộ TTTT cho biết chiếc ghế Bộ trưởng Bộ TTTT sẽ là cuộc cạnh tranh khốc liệt của 3 ứng cử viên gồm: Thứ trưởng Bộ TTTT Trương Minh Tuấn; Tổng giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) Nguyễn Mạnh Hùng và Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) Trần Bình Minh.
Trong số các ứng viên này rõ ràng ông Trương Minh Tuấn là người “lép vế” nhất về mọi mặt.
Ông Tuấn rõ ràng không thể so sánh về tầm vóc với ông Nguyễn Mạnh Hùng (sinh năm 1962), Tổng Giám đốc Viettel, người đã có công sức rất lớn trong việc đưa Viettel trở thành công ty viễn thông số 1 tại Việt Nam cũng như đạt tầm cỡ quốc tế với giá trị hàng tỷ đô-la Mỹ.
Trong khi đó, “đối thủ” còn lại là ông Trần Bình Minh (sinh năm 1958) “hơn đứt” ông Tuấn ở khoản hiện ông Minh đã là Uỷ viên TW. Hơn thế nữa ông Minh đã từng có thời gian ở cơ sở với vị trí Phó Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An…
Xét về mặt “điều kiện vận động tranh cử” ông Trương Minh Tuấn được cho là cũng còn một khoảng cách xa với hai ứng viên trên. Con đường tiến thân trong ngành tuyên giáo không cho phép ông Tuấn có được sự tích luỹ tư bản được to lớn như Tống giám đốc Viettel Nguyễn Mạnh Hùng hay Tổng giám đốc VTV Trần Bình Minh.
Tuy vậy, đối thủ chính được xác định có khả năng cạnh tranh chiếc ghế Bộ trưởng với ông Tuấn chính là ông Trần Bình Minh chứ không phải ông Nguyễn Mạnh Hùng.
Điểm yếu lớn nhất khiến ông Nguyễn Mạnh Hùng được cho là sẽ “không có cửa” ở Bộ TTTT có nguyên nhân xuất phát từ chuyện ông Hùng người từ Bộ Quốc phòng nên sẽ khó nhận được sự ủng hộ từ ngành TTTT.
Để triệt hạ uy tín đối thủ cạnh tranh trực tiếp là giám đốc VTV Trần Bình Minh, ngay từ sau khi nhậm chức, Thứ trưởng Tuấn đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ TTTT đưa VTV vào diện “chăm sóc đặc biệt”. Tất cả các chương trình của VTV đều được theo dõi chặt chẽ và sít sao nhằm phát hiện sai phạm. Ngoài đội ngũ chuyên viên của Bộ TTTT được sử dụng cho việc bắt lỗi VTV ông Tuấn còn huy động các đàn em ở Ban Tuyên giáo TW tiếp sức cho công việc này.
Kết quả của những “nỗ lực” này đã khiến VTV trong năm 2014 trở thành cơ quan đứng đầu bảng trong nhóm các cơ quan truyền hình bị xử lý với 5 lần nhận quyết định phạt, trong đó có 1 lần bị cảnh cáo, 4 lần bị phạt tổng số tiền là 155 triệu đồng. . .
Trong năm 2015, Thứ trưởng Tuấn tiếp tục tấn công VTV nhằm hạ bệ uy tín của Trần Bình Minh trong đó đặc biệt là vụ đánh vào hoạt động liên kết sản xuất chương trình của VTV.
Thực tế những sai phạm của VTV là có thật và đã diễn ra trong một thời gian dài. Tuy nhiên các đời lãnh đạo trước đây của Ban Tuyên giáo hay Bộ TTTT cũng đều ngắm mắt làm ngơ hoặc xử lý không đến đầu đũa do không muốn dây dưa với nhà đài đầy uy quyền.
Một lý do khác là do thế lực của VTV thực sự cũng không phải “dạng vừa”.
Hộp 3 – VTV “không phải dạng vừa đâu” 
Ngoài vai trò, tiếng nói là Đài truyền hình quốc gia đầy quyền lực, việc các cơ quan quản lý ngại đụng vào VTV còn có lý do là ông Trần Bình Minh, Tổng Giám đốc VTV được cho là có quan hệ thân thiết với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. 
 
Trong vụ Đại biểu Quốc hội Châu Thị Thu Nga bị bắt giữ, khởi tố hồi 1/2015 đích thân ông Trần Bình Minh đã chỉ đạo các thuộc cấp của mình làm đậm vụ này một cách bất thường. 
 
Theo những người am hiểu đó thực chất là một cách ông Minh tấn công gián tiếp Bí thư thành uỷ Phạm Quang Nghị, người bảo kê cho bà Châu Thị Thu Nga. Ông Phạm Quang Nghị được coi là ứng viên nặng ký cạnh tranh chiếc ghế Tổng Bí thư nhiệm kỳ tới với đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. 
 
Bản thân ông Trần Bình Minh cũng lo ngại rằng nếu ông Phạm Quang Nghị trở thành Tổng Bí thư thì con rể của ông Phạm Quang Nghị là Bạch Ngọc Chiến (sinh năm 1971), nguyên Trưởng Ban Truyền hình Đối ngoại của VTV trước khi được luân chuyển về giữ chức Phó Chủ tịch tỉnh Nam Định (6/2014) sẽ có khả năng quay lại làm TGĐ VTV. 
 
Việc ông Chiến quay lại VTV được cho là có khả năng gây khó khăn cho ông Minh cũng như bộ sậu mà ông Minh đã gầy dựng tại VTV.
*
Đỉnh điểm của những đòn đánh do Thứ trưởng Trương Minh Tuấn đạo diễn nhắm vào VTV là việc Bộ TTTT đưa ra quyết định yêu cầu VTV dừng một loạt các chương trình liên kết hồi giữa 3/2015.
Đây là một chiêu khá hiểm đánh thẳng vào nồi cơm của VTV vì các chương trình đều đang là những con gà đẻ trứng vàng của nhà đài. Các chương trình liên kết bị ngừng đồng nghĩa với việc VTV sẽ thiệt hại hàng trăm tỷ đồng, chưa kể vô vàn hệ luỵ khác kèm theo.
Chính vì lý do ấy VTV không dễ dàng chấp nhận chuyện bị Bộ TTTT, trên thực tế là Thứ trưởng Trương Minh Tuấn “bắt nạt”.
Ngay sau khi Bộ TTTT có công văn, VTV đã khiếu nại lên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chưa cần có ý kiến từ Thủ tướng VTV vẫn đồng thời vẫn tiếp tục phát sóng các chương trình liên kết bất chấp lệnh cấm của Bộ TTTT.
Gặp phải sự kháng cự quyết liệt của VTV và ông Trần Bình Minh, Thứ trưởng Trương Minh Tuấn ngay lập tức cho thảo công văn số 811 ngày 25/3/2015 để báo cáo Thủ tướng Chính phủ về hoạt động liên kết sản xuất chương trình VTV.
Thông qua các tờ báo dưới trướng của Bộ TTTT như Bưu điện, Infonet…và một số cơ quan báo chí thân cận, nội dung công văn được phát tán nhanh chóng.
Công văn này dẫn ra một cách tỷ mỷ hàng loạt sai phạm nhằm chứng minh việc kiểm soát các chương trình liên kết của VTV đã không được kiểm soát tốt.
Quan điểm của Bộ TTTT được đưa ra trong văn bản này đó là nguyên nhân chính của việc VTV để xảy ra quá nhiều sai phạm trong nội dung thông tin, trong các chương trình liên kết là do năng lực quản lý của VTV thực tế đang không theo kịp sự phát triển của hoạt động sản xuất chương trình, trong đó có hoạt động liên kết, phối hợp sản xuất với các đối tác bên ngoài. Điều nguy hiểm, theo quan điểm của Bộ TTTT là các chương trình liên kết, hợp tác lại đang chiếm tỷ lệ lớn.
Theo quan điểm của Bộ TTTT, với vị thế là Đài Truyền hình Quốc gia, VTV cần phải gương mẫu trong việc tuân thủ nghiêm các quy định của văn bản pháp luật…Bộ TTTT cho rằng, cần phải nghiêm khắc hơn trong việc quản lý cũng như xử lý các sai phạm của VTV để làm gương cho các cơ quan báo chí khác. . .
Một nguồn tin từ Bộ TTTT cho biết những ngôn từ đanh thép nhất được sử dụng để “buộc tội” VTV trong công văn đã được đích thân Thứ trưởng Trương Minh Tuấn chắp bút.
Trên thực tế Thứ trưởng Trương Minh Tuấn hoàn toàn biết sức ép từ Bộ TTTT sẽ không tác động được gì đến VTV do đã có sự chống lưng từ phía Thủ tướng.
Tuy nhiên các đòn đánh vẫn được ông Tuấn liên tiếp tung ra nhằm mục tiêu duy nhất là triệt hạ uy tín của ông Trần Bình Minh với tư cách người đứng đầu VTV.
Hộp 4 – VTV đã chống lại Bộ TTTT như thế nào?
 
Thể hiện sự chống đối công khai, tối 5/4/2015 VTV vẫn cho phát sóng tập đầu tiên chương trình Vietnam Idol – Thần tượng Việt Nam mặc dù chương trình này trong danh mục bị Bộ TTTT ngừng cấp phép.
 
Mặc dù ủng hộ VTV nhưng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng ở vào một ví trí nhạy cảm để thể hiện ý chí của mình, đặc biệt trong bối cảnh các thông tin đã được Bộ TTTT, dưới sự chỉ đạo của Thứ trưởng Trương Minh Tuấn tung hê nhằm gây áp lực. 
Giải pháp khả dĩ nhất là Thủ tướng để Bộ TTTT và VTV tự đóng cửa bảo nhau. 
 
Để giữ thể diện cho cả đôi bên thông qua báo Infonet đại diện Bộ TTTT công khai cho báo giới biết trước đó Bộ này đã có văn bản chấp thuận cho VTV phát sóng chương trình Vietnam Idol. 
 
Theo lý giải của Bộ TTTT, trước đó vào 2/4, “VTV đã gửi công văn tới Bộ TTTT cho biết đã tiếp thu ý kiến, chỉ đạo từ Bộ TTTT và cam kết sẽ chấn chỉnh hoạt động, tổ chức trong các chương trình liên kết”. 
 
Trả lời báo Infonet đại diện Bộ TTTT cho biết thêm “trong công văn, VTV cũng cho hay đã kỷ luật những cá nhân, đơn vị vi phạm trong các chương trình liên kết để ra sai phạm gần đây. Đồng thời, VTV đề nghị được phát và được cấp phép các chương trình liên kết”.
 
Tuy nhiên cũng trong ngày 6/4/2015, Bộ TTTT đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 50 triệu đồng đối với VTV vì đã phát sóng chương trình liên kết trong các ngày 22, 23/3/2015 khi chưa được cho phép.
 
Nguồn : 
 
5. Hậu quả vụ rút thẻ nhà báo Đỗ Hùng
Chỉ đơn giản với mục tiêu ghi điểm trong cuộc đua vào chiếc ghế Bộ trưởng, ông Trương Minh Tuấn và bộ sậu đã cậy thế cơ quan quản lý báo chí, bất chấp luật pháp cho ra đời một quyết định không thể vô lý hơn khi tước thẻ một nhà báo vì những “sai phạm” trên…mạng xã hội.
Đến thời điểm này, có lẽ Thứ trưởng Trương Minh Tuấn cũng không hề lường trước hậu quả tai hại của quyết định được đưa ra trong lúc bốc đồng của mình. Trong mắt Thứ trưởng Tuấn, vụ “trảm” Đỗ Hùng cũng đơn giản nhưng các vụ xử lý khác mà Bộ TTTT đã ra tay thời gian trước đó.
Theo một chuyên gia về truyền thông đề nghị không nêu tên, điều mà các mưu sĩ của ông Trương Minh Tuấn chưa phân tích hết được hoặc bản thân họ chưa đủ tầm nhận thức để hiểu rằng, việc trấn áp vô lối, theo kiểu “luật rừng” với nhà báo Đỗ Hùng, người đồng thời là một nhân vật nổi tiếng trên facebook đã tạo ra những hiệu ứng truyền thông rất bất lợi cho Đảng cũng như Nhà nước Việt Nam trong thời điểm đầy nhạy cảm này.
“Hành động này của ông Trương Minh Tuấn không khác nào một xô nước lạnh dội thẳng xuống đốm lửa hy vọng mong manh về những bước tiến trong vấn đề tự do báo chí, tự do ngôn luận vừa được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cố gắng nhen lên với dư luận quốc tế sau chuyến thăm lịch sử tới Hoa Kỳ vừa qua”, chuyên gia này nhận xét.
Có lẽ với tư duy tuyên giáo lỗi thời, ông Trương Minh Tuấn đã không hề ý thức được rằng trong thời điểm này bất cứ một hành động trấn áp báo chí nào cũng có thể được coi là một dấu hiệu tiêu cực, thiếu thiện chí và đi ngược lại những cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Các quan báo Việt Nam không hề biết rằng mỗi hành động của họ đều được các đối tác quốc tế tận dụng triệt để để ép buộc Việt Nam phải nhượng bộ, thoả hiệp nhiều hơn, tốn kém hơn trong đàm phán mang tính chất “ông mất bánh quy, bà xuỳ bánh xốp”.
Nhiều người sẽ đặt câu hỏi liệu ông Trương Minh Tuấn có thể trở thành Bộ trưởng Bộ TTTT khoá tới hay không? Câu trả lời là hoàn toàn có thể. Việc các cán bộ ngẩn ngơ, thiếu hiểu biết, quen tác phong gia đình trị như ông Trương Minh Tuấn được thăng tiến và giao trọng trách vốn là điều quá đỗi bình thường trong môi trường chính trị Việt Nam từ nhiều năm qua.
Tuy nhiên điều đó cũng có mặt tích cực của nó. Càng có nhiều cán bộ như vậy trong hệ thống, những điều tốt đẹp càng có cơ hội đến với Việt Nam với tốc độ nhanh hơn.
Tất nhiên, với một cái giá đáng kể.
Bích Minh
Hộp 5 – Ông Thứ trưởng thích làm dáng
 
Tại Bộ TTTT Thứ trưởng Trương Minh Tuấn nổi tiếng là người giỏi trong việc tự lăng xê cho hình ảnh của mình. 
 
Từ sau khi xảy ra vụ giàn khoan Hải Dương 981 (hồi tháng 5/2014), cũng như tình hình Biển Đông căng thẳng hơn trong suốt 2 năm qua, trong một số bài trả lời phỏng vấn/bài viết Thứ trưởng Trương Minh Tuấn nhiều lần tế nhị cho biết niềm tự hào về việc ông từng là một người lính chiến đấu ở biên giới phía Bắc.
 
Mặc dù đã giải ngũ từ lâu nhưng Thứ trưởng Tuấn luôn thích thể hiện mình là một người lính, đặc biệt trong các chuyến công tác. Trong các chuyến đi ra Trường Sa gần đây, ông Tuấn đều mặc quân phục với quân hàm đại uý, cấp bậc cao nhất mà ông từng giữ trước khi phục viên. Thậm chí trong một số sự kiện tổ chức tại Bộ TTTT ông Tuấn cũng mặc quân phục (?!) không rõ nhằm mục đích gì. 
 
Biết được tâm lý này của ông Tuấn, phía Hải quân đã tặng cho ông Tuấn một số bộ quân phục của lính biển để Thứ trưởng Tuấn “diện” trong các chuyến đi. Ông Trương Minh Tuấn thậm chí còn được đúc tặng một tấm biển tên vốn chỉ dành riêng cho các sĩ quan quân đội tại ngũ. 
 
Nguồn : 
* Tác giả gửi cho viet-studies ngày 8-9-15

Hội Nhà báo độc lập VN công bố và gửi Dự luật biểu tình đến Quốc hội

VNTB – Hội Nhà báo độc lập VN công bố và gửi Dự luật biểu tình đến Quốc hội

Hội Nhà báo độc lập Việt Nam – một tổ chức xã hội dân sự  ra đời vào tháng 7/2014 – đã khởi thảo Dự luật biểu tình từ tháng 2/2015 và tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trên mạng đến tháng 5/2015.

Dự luật biểu tình hoàn toàn không nằm ngoài hiến định: Hiến pháp Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2013 đã quy định biểu tình là một quyền của công dân. Cũng theo Hiến pháp, chính quyền không thể sử dụng các văn bản dưới luật để điều chỉnh quyền biểu tình của người dân.

Nhưng thực tế từ hiến pháp 1992 đến nay đã không có bất kỳ văn bản luật nào được ban hành dành cho quyền biểu tình của công dân. Nhà nước cũng thể hiện thái độ hoàn toàn thiếu thiện chí khi nhiều lần hoãn lại việc xây dựng và đưa luật biểu tình ra Quốc hội. Năm 2015 cũng có nhiều khả năng luật Biểu tình sẽ bị hoãn thêm một lần nữa.

Trong bối cảnh ấy, nhiều biểu thị chính đáng của các giai tầng chịu thiệt thòi như công nhân, nông dân, tiểu thương, nạn nhân môi trường… đã bị cô lập đến mức tối thiểu. Nhân quyền xuống dốc trầm trọng.

Trong bối cảnh ấy, Chính phủ không thể có cải cách thể chế nếu không bắt đầu bằng việc tôn trọng quyền tự do biểu tình của công dân.

Nhằm góp phần giải quyết tình hình đặc biệt bức xúc trên, trong thời gian qua Hội Nhà báo độc lập VN đã cùng một nhóm luật sư, luật gia, chuyên gia tổ chức nghiên cứu và xây dựng dự thảo luật biểu tình, trên cơ sở tham khảo thông lệ, văn bản quốc tế và những điều kiện đặc thù của VN về biểu tình.

Quyền biểu tình rất đáng được xem là một trong những tiêu chí đầu tiên cho sự nghiệp dân chủ hóa ở VN, căn cứ vào Quyền tự do biểu đạt (Điều 19, Điều 20); Quyền tự do hội họp và lập hội (Điều 21, Điều 22) của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR, 1966); Nghị Quyết 24 của Hội đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc 24 về Cổ xúy và Bảo vệ Nhân quyền trong bối cảnh biểu tình ôn hòa ngày ngày 21 tháng 3 năm 2013.

Dự luật biểu tình sau khi lấy ý kiến rộng rãi trên mạng Internet được công bố vào thời điểm diễn ra kỳ họp thứ 9 của Quốc hội Việt Nam khóa VIII – tháng 5/2015. Dự luật này cũng được Hội Nhà báo độc lập VN gửi đến các cơ quan liên quan: Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Đoàn đại biểu quốc hội TP.HCM.

DỰ THẢO LUẬT BIỂU TÌNH

Lời nói đầu:

Theo Hiến pháp năm 2013, biểu tình là một quyền của công dân (Điều 25). Cũng theo hiến pháp, quyền công dân và quyền con người chỉ có thể bị hạn chế bằng luật (Điều 14).

Như vậy, theo Hiến pháp, không thể sử dụng các văn bản dưới luật để điều chỉnh quyền biểu tình của người dân. Ngoài ra, các văn bản dưới luật, được áp dụng để điều chỉnh hành vi biểu tình từ trước đến nay, đã hết hiệu lực vào ngày 1-1-2014, ngày Hiến pháp năm 2013 chính thức có hiệu lực.

Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam đang phải đối mặt với một tình trạng pháp lý khá đặc biệt: Do các đạo luật tương ứng chưa kịp ban hành, nên quyền biểu tình và một số quyền khác được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, đang đương nhiên là những quyền không bị hạn chế.

Luật Biểu tình cần không chỉ cho người dân, mà còn cả cho chính quyền. Đối với người dân, luật là sự bảo đảm, sự chỉ dẫn cho việc thực thi quyền biểu tình.

Đối với chính quyền, luật cung cấp các quyền năng, các công cụ pháp lý cần thiết cho việc điều chỉnh hành vi biểu tình. Với một đạo luật như vậy, vừa bảo đảm được quyền của người dân, vừa bảo đảm được nền tảng pháp lý cho cách hành xử của chính quyền.

A – Quan điểm soạn thảo

Cơ sở pháp lý để đánh giá về tính hợp pháp của hoạt động biểu tình là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Điều 25 của Hiến pháp hiện hành quy định:

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Mệnh đề “các quyền này do pháp luật quy định” khiến người dân lúng túng, do dự khi thực hiện quyền biểu tình, và bộ máy chính quyền dựa vào đó để phủ nhận quyền biểu tình của công dân trên thực tế.

Cần hiểu “do pháp luật quy định” là tuân theo những quy định thuộc về pháp luật – nếu đã có. Chưa có luật tương ứng, thì có nghĩa là chưa có hạn chế, bởi không thể dùng cái chưa có để hạn chế thực tại.

Như vậy, khi không (hoặc chưa) có luật nào quy định cụ thể hơn về việc biểu tình, thì có nghĩa là pháp luật không (hoặc chưa) có hạn chế nào cả, và công dân hoàn toàn có quyền tự do biểu tình, như đã hiến định.

Hiến pháp 2013 không có bất cứ khoản nào cho phép Chính phủ, hay Thủ tướng Chính phủ, ban hành văn bản pháp quy để hạn chế hay can thiệp vào quyền tự do của công dân được Hiến pháp đảm bảo.

B – Nội dung nguyên tắc của dự thảo Luật Biểu tình (lần 2)

+ Từ quy định của Hiến pháp 2013, các Điều 6, 25, 28, có thể rút ra những nguyên tắc cho soạn thảo dự Luật Biểu tình như sau:

1. Biểu tình là quyền của công dân, đồng thời khẳng định nghĩa vụ của nhà nước phải tạo điều kiện để người dân được thực hiện quyền biểu tình.

2. Phạm vi bảo vệ của quyền này là tất cả người Việt Nam, được hiểu là những người có quốc tịch Việt Nam, không phụ thuộc vào độ tuổi.

3. Ôn hòa và không sử dụng vũ khí là điều kiện bắt buộc đối với một cuộc biểu tình.

4. Người biểu tình chỉ cần đăng ký theo thủ tục, trình tự pháp luật quy định.

5. Trách nhiệm của cơ quan công quyền là tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện quyền biểu tình.

+ Nội dung của dự Luật Biểu tình sẽ đề cập đến bốn nội dung chính: những quy định chung; quyền nghĩa vụ của những người tham gia biểu tình; quyền và nghĩa vụ của cảnh sát và xử lý vi phạm.

1. Nội dung biểu tình về nguyên tắc là không bị giới hạn. Người biểu tình có thể biểu tình về bất cứ vấn đề gì thuộc phạm vi của quyền tự do ngôn luận.

Các trường hợp cấm biểu tình:

– Chống lại trật tự dân chủ tự do;

– Nhằm mục đích kêu gọi Tòa án Hiến pháp tuyên bố giải tán một đảng chính trị nào đó (ở Việt Nam chưa có Tòa án Hiến pháp).

– Ủng hộ một đảng phái đã được Tòa án Hiến pháp tuyên bố là đảng vi hiến và cấm hoạt động;

– Tụ họp những hội mà theo Luật về Hội (hiện nay Việt Nam chưa có Luật về Hội) đã cấm hoạt động.

– Miệt thị, công kích cá nhân, vi phạm quyền nhân thân, cản trợ quyền ngôn luận, cản trợ tự do đi lại, tự do cư trú.

Ngoài ra, người tham gia biểu tình không được sử dụng vũ khí, hay công cụ có tính bạo lực nào nhằm mục đích gây tổn thương, hoặc làm thiệt hại tài sản của người khác hay tài sản công;không được mặc những trang phục, hoặc sử dụng những biểu tượng có tính chất thù địch về mặt chính trị.

Những người tham gia biểu tình cần có chung ít nhất một mục đích. “Một cuộc biểu tình có mục đích chung”, được hiểu là nhiều người cùng tham gia thể hiện chính kiến của mình trong quan hệ với trật tự dân chủ của nhà nước. Những sự kiện do tư nhân tổ chức mang tính giải trí, văn hóa không được gọi là biểu tình.

Về số lượng người tham gia biểu tình sẽ không quy định rõ số lượng tối thiểu người tham gia biểu tình là bao nhiêu.

2. Quyền và nghĩa vụ của đoàn biểu tình.

Bất cứ ai biểu tình ở ngoài trời, cần tiến hành thông báo cho cơ quan có thẩm quyền chậm nhất trước 48 giờ (tương tự như thủ tục hành chính về tổ chức họp báo), trong đó phải nêu rõ: ai là trưởng đoàn, các thông tin về biểu tình và chịu trách nhiệm về cuộc biểu tình. Việc sử dụng các biểu ngữ nội dung gì phải được thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền về việc biểu tình.

Như vậy, biểu tình không có nghĩa vụ phải xin phép, mà chỉ cần thông báo.

Đoàn biểu tình chỉ cần công bố rõ thời gian, địa điểm tổ chức biểu tình, còn việc đảm bảo trật tự an toàn giao thông ra sao là thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước.

Vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của “người trưởng đoàn”, theo đó, cuộc biểu tình nào cũng phải có một người trưởng đoàn, đây sẽ là người tổ chức tiến hành và chịu trách nhiệm về cuộc biểu tình. Người trưởng đoàn sẽ chịu trách nhiệm theo dõi diễn tiến của việc biểu tình, chịu trách nhiệm về việc biểu tình phải diễn ra một cách ôn hòa, không vũ khí.

Trong quá trình biểu tình, trưởng đoàn có quyền dừng hoặc chấm dứt biểu tình bất cứ lúc nào, có thể tước quyền biểu tình của bất cứ ai có hành động gây rối, hoặc không tuân theo chỉ đạo của trưởng đoàn.

Người bị trưởng đoàn mời rời khỏi đoàn biểu tình, phải có nghĩa vụ rời khỏi đoàn biểu tình ngay lập tức, cảnh sát sẽ hỗ trợ trưởng đoàn thực hiện đúng nhiệm vụ trong trường hợp người bị mời rời khỏi không tuân theo yêu cầu của trưởng đoàn biểu tình.

Người trưởng đoàn có thể cử ra một số người trợ giúp biểu tình từ thành viên của đoàn biểu tình đó. Trưởng đoàn phải chịu trách nhiệm thông báo cho cảnh sát về những người trợ giúp biểu tình này.

3. Quyền và nghĩa vụ của cảnh sát.

Cơ quan có thẩm quyền có thể cấm biểu tình, hoặc đồng ý biểu tình có điều kiện khi tại thời điểm chuẩn bị tiến hành biểu tình, hoặc đang biểu tình có những căn cứ rõ ràng cho thấy việc biểu tình là gây nguy hiểm trực tiếp cho “trật tự chung”.

Thuật ngữ “trật tự chung”, về vấn đề này, khi áp dụng vào trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào những tiêu chuẩn định lượng, như: phải có đủ cơ sở pháp lý, có đủ bằng chứng thực tế xác minh, các biện pháp áp dụng phải tương xứng với hành vi vi phạm…

Ngay khi tuyên bố giải tán biểu tình, tất cả các thành viên lập tức phải rời khỏi nơi biểu tình. Trong quá trình biểu tình, không chỉ trưởng đoàn biểu tình, mà cảnh sát cũng có thể yêu cầu người không tuân thủ các quy định về Luật Biểu tình ra khỏi đoàn biểu tình.

4. Xử lý vi phạm.
Nhằm đảm bảo trật tự và an toàn cho hoạt động biểu tình, phải quy định rõ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật biểu tình.

Yêu cầu xác định rõ chế tài đối với bất kỳ ai, kể cả người thi hành công vụ xâm phạm quyền tự do biểu tình hiến định của người dân.

C – Dự thảo Luật Biểu tình (lần 2)

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 6, thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013; Quốc hội ban hành Luật Biểu tình;

Luật này quy định về tổ chức và hoạt động của quyền tự do biểu tình.

Chương I: Những quy định chung

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật Biểu tình quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người biểu tình. Luật Biểu tình tương đồng với các Hiệp ước, Công ước quốc tế về quyền con người, quyền dân sự chính trị mà Việt Nam đã ký kết.

Điều 2. Quyền biểu tình   

1. Công dân có quyền biểu tình ôn hòa và không vũ khí, hung khí; không lợi dụng cuộc biểu tình để gây rối an ninh công cộng; tuân thủ những quy định của địa phương về âm thanh, ánh sáng, và môi sinh công cộng.

2. Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân được thực hiện quyền biểu tình.

3. Quyền biểu tình của công dân chỉ có thể bị giới hạn bởi một đạo luật của Quốc hội. Việc giới hạn cũng không làm mất đi bản chất của quyền này.

4. Việc đình công của các doanh nghiệp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.

Điều 3. Đối tượng áp dụng

Luật này áp dụng đối với tổ chức công đoàn các cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức dân sự – xã hội, tổ chức tôn giáo, công dân Việt Nam.

Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Biểu tình: là hành vi mang tính tự nguyện để biểu thị sự đồng tình, hoặc không đồng tình, hoặc phản đối về một sự kiện, một vấn đề cụ thể nào đó.

2. Quyền biểu tình: gắn với quyền con người, quyền tự do ngôn luận, quyền hội họp, quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú, quyền thân thể.

3. Quyền tự do ngôn luận: là sự tự do phát biểu mà không bị kiểm duyệt hoặc hạn chế. Tự do ngôn luận phải tuân thủ nguyên tắc không được xúc phạm, miệt thị nhằm hạ thấp một cá nhân hay nhóm người vì chủng tộc, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, định hướng tình dục, tật nguyền, khả năng ngôn ngữ, hệ tư tưởng, địa vị xã hội, nghề nghiệp, ngoại hình, khả năng tư duy hay bất cứ dị biệt nào…

4. Vũ khí: là những vật dụng được chế tạo nhằm để sát thương.

5. Hung khí: là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt), hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm, hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người bị tấn công.

6. Nghĩa vụ thông báo: Trước khi diễn ra cuộc biểu tình, người giữ vai trò trưởng đoàn có trách nhiệm thông báo tất cả nội dung của cuộc biểu tình sẽ diễn ra đến cơ quan công quyền.

7. Ôn hòa: Không cố tình xâm phạm trái phép vào các tuyến giao thông, các tòa nhà hành chính, không phỉ báng, không có những kích động bạo lực, không có hành vi tự hủy hoại sức khỏe tập thể thông qua tuyệt thực trong quá trình biểu tình.

8. Kiểm soát biểu tình: là vẫn giữ được các cam kết như ban đầu giữa đoàn biểu tình và phía nhân viên công quyền từ lúc bắt đầu, đến khi kết thúc.

9. Giá trị tự do cơ bản: Những giá trị phổ quát về nhân quyền, dân chủ như: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền ứng cử, bầu cử,…

10. Công trình công ích nhà nước: là các công trình công cộng liên quan trực tiếp đến lợi ích chung của quốc gia như: nhà máy thủy điện, nhà máy nước, nhà máy nguyên tử.

11. Các biện pháp giải tán biểu tình khác: là những biện pháp không mang tính bạo lực, ở đây có thể sử dụng đối thoại, đàm phán qua trung gian nhằm ngăn ngừa sự leo thang xung đột và dẫn đến bạo lực, ngay cả khi áp dụng biện pháp cứng rắn trong trường hợp cần thiết thì cũng không sử dụng các công cụ hỗ trợ có khả năng làm tổn thương thân thể, sức khỏe, tính mạng của người tham gia biểu tình.

Chương II: Tổ chức hoạt động biểu tình

Điều 5. Các trường hợp cấm biểu tình

1. Chống lại trật tự dân chủ tự do.

2. Nhằm mục đích kêu gọi Tòa án Hiến pháp tuyên bố giải tán một đảng chính trị nào đó (khi Việt Nam có Tòa án Hiến pháp).

3. Ủng hộ một đảng phái đã được Tòa án Hiến pháp tuyên bố là đảng vi hiến và cấm hoạt động (khi Việt Nam có Tòa án Hiến pháp).

4. Tụ họp những hội mà theo Luật về Hội (hiện nay Việt Nam chưa có Luật về Hội) đã cấm hoạt động.

5. Nhằm gây rối trật tự công cộng, an ninh xã hội, gây cản trở giao thông, làm ảnh hưởng đến các dịch vụ công; tiến hành tấn công lực lượng an ninh, hoặc gây những nguy hiểm cho các cá nhân, cộng đồng.

6. Tiến hành biểu tình đồng thời với địa điểm đang diễn ra cuộc đình công của người lao động.

7. Tiến hành biểu tình với vũ khí, hung khí, vật liệu nổ, các loại phương tiện khác gây nguy hiểm đến cá nhân, tài sản cá nhân, tài sản của các tổ chức dân sự, doanh nghiệp, tài sản công.

8. Miệt thị, công kích cá nhân, vi phạm quyền nhân thân, cản trợ quyền ngôn luận, cản trợ tự do đi lại, tự do cư trú.

Điều 6. Quyền và nghĩa vụ của đoàn biểu tình

1. Quyền của đoàn biểu tình

a) Yêu cầu cảnh sát đảm bảo an ninh, trật tự trong quá trình tiến hành biểu tình. Trong đó, có đảm bảo tài sản công và tài sản cá nhân.

b) Chụp ảnh, quay video, nhằm thông tin hoặc tìm kiếm sự ủng hộ cho đoàn biểu tình.

c) Được giám sát bởi các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền, truyền thông, báo chí độc lập trong nước và quốc tế.

d) Phối hợp với cơ quan công quyền dừng hoạt động biểu tình bất kỳ lúc nào, hoặc tiến hành tước quyền biểu tình với mọi đối tượng có hành vi gây rối trong đoàn.

2. Nghĩa vụ của đoàn biểu tình

a) Tùy vào yêu cầu mục đích nội dung biểu tình, thời gian thông báo gửi ủy ban nhân dân tại địa phương – nơi sẽ diễn ra cuộc biểu tình, về nội dung biểu tình, từ 12 giờ đến tối đa là 48 giờ trước khi cuộc biểu tình diễn ra.

Nội dung văn bản bao gồm: thời gian bắt đầu và kết thúc, địa điểm bắt đầu và kết thúc (bao gồm tuyến đường tuần hành nếu có), số lượng người tham gia, mục đích của việc biểu tình, nội dung âm thanh và biểu ngữ, cường độ âm thanh.

b) Những người tổ chức biểu tình có trách nhiệm hợp tác với lực lượng cảnh sát nhằm đảm bảo diễn biến biểu tình theo hướng ôn hòa.

c) Những người tổ chức biểu tình có trách nhiệm theo dõi diễn tiến của việc biểu tình, chịu trách nhiệm về việc biểu tình phải diễn ra một cách ôn hòa.

d) Không sử dụng những hình ảnh, biểu tượng gây hiểu lầm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi người, có tính chất thù địch về mặt chính trị trên trang phục, băng-rôn, khẩu hiệu.

e) Không mặc những trang phục, hoặc sử dụng những biểu tượng có tính chất kích động bạo lực hoặc kỳ thị.

f) Ban tổ chức cuộc biểu tình có nghĩa vụ tổ chức biểu tình đúng thời gian thông báo, số lượng người tham gia.

Điều 7. Quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền

1. Quyền của cơ quan công quyền

a) Có thể cấm biểu tình khi có những căn cứ rõ ràng cho thấy biểu tình không tuân thủ đầy đủ các quy định theo luật biểu tình. Thông báo điều này cho đoàn biểu tình tối thiểu 6 giờ trước khi biểu tình dự kiến diễn ra.

b) Có thể giải tán biểu tình khi có những căn cứ rõ ràng cho thấy quá trình biểu tình đã bị mất kiểm soát từ phía người tổ chức biểu tình. Thông báo điều này cho những người tổ chức biểu tình và yêu cầu được hợp tác.

c) Ngay khi tuyên bố giải tán biểu tình, tất cả các thành viên lập tức phải rời khỏi nơi biểu tình. Trong quá trình biểu tình, không chỉ những người tổ chức biểu tình mà cảnh sát cũng có thể yêu cầu người không tuân thủ các quy định về Luật Biểu tình ra khỏi đoàn biểu tình.

d) Tiến hành tạm giữ hành chính một cá nhân hay một vài cá nhân được cho là gây nguy hiểm trực tiếp cho “trật tự biểu tình”, và được phép yêu cầu cung cấp giấy tờ chứng minh nhân thân, thông qua sự đồng ý các quan điểm chung với những người tổ chức biểu tình.

e) Được phép sử dụng các biện pháp khác ngoài lời kêu gọi nhằm giải tán biểu tình, trong trường hợp lệnh giải tán được ban ra. Các biện pháp này phải nằm trong khuôn khổ pháp luật.

2. Nghĩa vụ của cơ quan công quyền

a) Thực hiện mọi biện pháp để tạo môi trường thuận lợi nhất cho đoàn biểu tình. Trong đó đảm bảo sự an toàn cho trẻ em, trẻ vị thành niên được bày tỏ quan điểm của mình. Đảm bảo tài sản cá nhân, tài sản công trong tiến trình giám sát biểu tình.

b) Loại bỏ hoặc tìm cách loại bỏ sự phân biệt đối xử trong quá trình biểu tình (sắc tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giới tính, thể trạng).

c) Bảo vệ đoàn biểu tình khỏi sự đe dọa hoặc quấy rối vật lý, các hành vi khiêu khích, bạo lực từ bên ngoài. Tạo điều kiện cho những tổ chức nhân quyền, báo chí giám sát, báo cáo về cuộc biểu tình ôn hòa.

d) Giải trình trách nhiệm và buộc đối mặt với trách nhiệm dân sự, hình sự nếu quá trình can thiệp vào cuộc biểu tình có sử dụng biện pháp vũ lực quá mức hoặc bị cáo buộc sử dụng vũ lực quá mức quy định.

Điều 8. Những hành vi bị nghiêm cấm

1. Cản trở, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.

2. Phân biệt đối xử hoặc có hành vi gây bất lợi đối với công dân vì lý do tham gia các cuộc biểu tình.

3. Sử dụng biện pháp kinh tế hoặc các biện pháp khác gây bất lợi đối với tổ chức và hoạt động của người tham gia biểu tình.

4. Trường hợp đã có tuyên bố cấm biểu tình, hoặc có lệnh giải tán biểu tình đã được công bố, người nào tiếp tục tiến hành cuộc biểu tình, tùy thuộc vào mức độ và hậu quả gây ra mà sẽ bị xử lý tương ứng với các quy định pháp luật liên quan.

Chương III. Xử lý vi phạm

Điều 9. Xử lý vi phạm

Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về quyền biểu tình, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Chương IV. Điều khoản thi hành

Điều 10. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực từ…,

2. Việc thực hiện Luật này không chờ đợi vào văn bản hướng dẫn dưới luật, nếu như các văn bản này được ban hành không đồng thời với hiệu lực thi hành của Luật Biểu tình.

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa …, kỳ họp thứ … thông qua ngày … tháng … năm 201…
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI

‘Đổi mới con người để tăng trưởng kinh tế’

11 tháng 9 2015

Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư, ông Bùi Quang Vinh

Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư, ông Bùi Quang Vinh, nói về những cải cách thể chế và con người tại Việt Nam

Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Việt Nam Bùi Quang Vinh vừa trả lời BBC Việt Ngữ về những ưu đãi dành cho doanh nghiệp nước ngoài cũng như những sửa đổi luật pháp, cải cách thể chế và đổi mới con người mà Việt Nam đang làm.

Phỏng vấn diễn ra tại Diễn đàn kinh tế do Đại sứ quán Việt Nam tại Anh Quốc, kết hợp với Mạng lưới Việt Nam Anh Quốc và Nhóm Harvey Nash, tổ chức tại thủ đô London, Anh, hôm 10/9.

Ông cho biết những hội thảo như thế này có tác dụng rất lớn để thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Anh Quốc và chính sách đầu tư của Việt Nam hiện nay muốn thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc hơn so với trước đây.

Bộ trưởng Vinh cho biết một số ưu đãi cho doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, bao gồm

  • Tạo ra sự minh bạch hơn trong hệ thống pháp luật để các DN nước ngoài hiểu luật pháp VN
  • Các ưu đãi sẽ dành cho lĩnh vực công nghệ cao với luật Công nghệ cao, các DN thuộc diện này được hưởng mức ưu đãi thuế cao nhất ở VN, như 4 năm miễn hoàn toàn thuế, 9 năm tiếp theo chỉ đóng 50% mức quy định và 15 năm còn lại đóng bình quân 10% thay vì mức thuế thu nhập DN hiện nay là 20%
  • Những DN đến từ các quốc gia phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển hay đầu tư về chuyên giao công nghệ.

Sửa đổi pháp luật để tạo môi trường đầu tư minh bạch

Phần thảo luận tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam Anh Quốc hôm 10/9 tại London

Bộ trưởng Vinh cho biết Việt Nam cũng nhận thấy những hạn chế trong hệ thống pháp luật của mình vì thế chọn cải cách thể chế như một đột phá trong ba đột phá về kinh tế của VN, đảm bảo minh bạch và phù hợp với quốc tế.

“Việt Nam hiện nay đã tham gia rất nhiều hiệp định song phương và đa phương, do vậy buộc phải thực hiện các cam kết của mình. Chính vì thế phải sửa đối luật pháp để đáp ứng được các cam kết quốc tế.

“Việt Nam cũng đã nhận ra rằng muốn thu hút đầu tư nước ngoài thì phải tạo ra môi trường minh bạch và tiên lượng được.”

Ông cũng nhắc tới Luật đầu tư sửa đổi và Luật Doanh nghiệp sửa đổi, mà theo ông đã có cách tiếp cận rất rõ ràng.

“Trước đây luật được xây dựng theo phương pháp tiếp cận chọn Cho, tức cho cái gì thì ghi trong luật còn cái gì không ghi trong luật thì phải đi xin phép, và đó là một rào càn. Nay sửa đổi theo cách tiếp cận hiện đại, tức là chọn Bỏ, tức là không cho cái gì, cấm cái gì thì ghi trong luật, còn không ghi thì có nghĩa công dân và DN được tự do đầu tư kinh doanh những lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Nó thể hiện Hiến pháp Việt Nam sửa đổi năm 2013.

“Tính minh bạch này đang là một trong những việc mà Việt Nam đang làm rất quyết liệt,” ông Vinh nói thêm.

Cải cách thể chế để thúc đẩy tăng trưởng

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam Anh Quốc hôm 10/9 tại London
Image caption Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam-Anh Quốc, Bộ trưởng Vinh nói tới chủ trương tiếp tục cổ phần hóa DNNN tại Việt Nam

Theo Bộ trưởng Vinh, Việt Nam đã nhận ra rằng đặc biệt khi Việt Nam đang gia nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới, nếu Việt Nam không thay đổi luật pháp, thể chế của mình thì không thể hội nhập kinh tế quốc tế được.

Ông nói Việt Nam tự thấy những lợi thế như tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư, lao động giá rẻ, dần dần đã hết dư địa, hay tăng trưởng nhờ khai thác tài nguyên, dầu khí, than đá, sắt thép để bán thô thì tăng trưởng như vậy không bền vững.

“Nếu chỉ dựa vào những thứ đó để tăng trưởng thì bị lạc hậu. Việt Nam sẽ thua kém, không cạnh tranh được trong môi trường hội nhập.

“Một trong những ưu việt chính là thể chế. Quốc gia này hơn quốc gia kia chính là ở thể chế. Thể chế và môi trường thu hút được người tài, thu hút được đầu tư cho nên Việt Nam phải cải tổ. Đó là việc Việt Nam đang làm. Tuy nhiên cũng phải nói rằng đổi mới thì không dễ và ở đâu cũng vậy,” ông nói.

Bộ trưởng Vinh cũng trích lời cựu Thủ tướng Anh ông Tony Blair, nhân một lần đồng chủ trì đã nói rằng đổi mới luôn đi kèm sự chống đối vì đổi mới mà không có sự phản đối thì đấy không phải là đổi mới.

“Đổi mới bao giờ cũng tạo ra những cái khác với thông lệ và nó ảnh hưởng tới các nhóm lợi ích cho nên người ta chống đối rất quyết liệt.”

Đổi mới cán bộ – nguyên nhân của mọi nguyên nhân

Là người đã từng nói “Không đổi mới cán bộ thì không đổi mới được nền kinh tế”, Bộ trưởng Vinh cho biết đây là một lĩnh vực rất khó:

“Nguyên nhân của mọi nguyên nhân vì con người làm nên tất cả. Những rào cản cũng đều do con người đẻ ra những đổi mới cũng đều do con người gây dựng. Tuy nhiên ở đâu có người cán bộ tốt thì đương nhiên ở đó có sự phát triển tốt.”

Ông cho biết hiện nay Việt Nam đang tập trung đổi mới công tác cán bộ.

“Tôi đã từng nói muốn cổ phần hóa DNNN thì đầu tiên phải thay mấy ông cán bộ từng gây dựng DN lên vì đó là con đẻ của họ và họ tự hào về nó, nên giờ giờ không thể tự chặt chân mình để thay đổi toàn bộ. Cho nên rất khó, phải đổi mới từ công tác cán bộ.

“Ở tầm quốc gia cũng vậy thôi. Việt Nam đang nghiên cứu để có một chọn lựa cơ chế nào để người dân có thể tham gia chọn ra người lãnh đạo cao nhất của đất nước và cũng có thể hạ bệ họ nếu họ không làm được lời hứa trước nhân dân, trước dân tộc. Đây là điều quan trọng.

“Nếu cơ chế dựng lên được mà không cho xuống được thì đó là một cơ chế không giúp cho đất nước phát triển được. Chính vì thế đây là vấn đề then chốt của mọi quốc gia không phải riêng Việt Nam.

Ông cũng nói thêm trước đây bộ máy nhà nước Việt Nam phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong suốt một thời kỳ rất dài, nhưng trong 30 năm đổi mới thì thành công nhất của Việt Nam là chuyển sang nền kinh tế thị trường.

“Vì thế hệ thống, bộ máy của Việt Nam cần chuyển đổi để phù hợp với một mô hình mới và để có được điều đó thì đầu tiên phải là con người, là lãnh đạo. Và Việt Nam đang làm điều này.”

Y án ông Nguyễn Mạnh Tường 19 năm tù

 

Image copyright TuoiTre 
Phiên tòa phúc thẩm kéo dài 4 tiếng đồng hồ

Chủ thẩm mỹ viện Cát Tường bị y án phạt 19 năm tù về tội ném xác bệnh nhân sau cuộc phẫu thuật thẩm mỹ khiến bệnh nhân tử vong năm 2013.

Hôm 11/9, sau phiên tòa phúc thẩm dài bốn giờ, Tòa án Nhân dân tối cao Hà Nội tuyên bác kháng cáo của chủ thẩm mỹ viện Cát Tường, y án phạt ông Nguyễn Mạnh Tường 19 năm tù.

VnExpress tường thuật, “tòa phúc thẩm nhận định không có thêm căn cứ xét giảm án”.

“Tại bản án ngày 5/12/2014, Tòa án Nhân dân Hà Nội cho rằng đủ căn cứ kết luận ông Nguyễn Mạnh Tường phẫu thuật cho bà Lê Thị Thanh Huyền khi thẩm mỹ viện Cát Tường chưa có giấy phép thực hiện việc này. Khi khách hàng tử vong, bị cáo cố tình phi tang bằng cách ném xác xuống sông”, báo này viết.

Tòa tuyên phạt bị cáo Tường 14 năm về tội Vi phạm quy định về khám chữa bệnh, 5 năm tội xâm phạm thi thể. Tổng hợp hình phạt là 19 năm.

Bị cáo Tường phải bồi thường 585 triệu đồng, cấp dưỡng cho con chị Huyền mỗi cháu 1 triệu đồng/tháng đến khi đủ 18 tuổi và bị cấm hành nghề 5 năm sau khi mãn hạn tù.

‘Mong đây là phiên tòa cuối cùng’

Hôm 11/9, báo Tuổi Trẻ viết: “Phiên tòa phúc thẩm diễn ra vì có kháng cáo của bị cáo Tường. Ông kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm vì cho rằng cáo trạng có nhiều nội dung không đúng, việc xét xử ông là chưa đúng tội danh làm cho tội chồng thêm tội và bản án đối với ông quá nặng.

Tuy vậy, khi nói lời sau cùng tại tòa, bị cáo Tường đã khóc, xin tòa giảm nhẹ hình phạt”.

Cùng ngày, trong bài về phiên tòa, báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh đề cập:

“Ông Lê Văn Viễn, cha nạn nhân Huyền cho rằng tòa sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm khi không truy cứu trách nhiệm của bà Lê Thị Thúy Mai, nhân viên thẩm mỹ viện Cát Tường”.

VnExpress dẫn lời bà Nguyễn Thị Hiền, mẹ nạn nhân Huyền trình bày tại phiên phúc thẩm: “Nếu ông Tường có lương tâm, con tôi đã không chết thảm như vậy. Dù không thoải mái với bản án nhưng chúng tôi không kháng án do nghĩ ông ấy còn mẹ già, con nhỏ. Chỉ mong phiên tòa này là phiên cuối cùng để chúng tôi không phải chịu những đau đớn nữa”.

Vụ án chấn động dư luận trong nước vì tính chất tàn nhẫn của nó.

Gần 10 tháng sau ngày tử vong tại thẩm mỹ viện Cát Tường, thi thể chị Huyền mới được tìm thấy trên sông trong tình trạng không còn nguyên vẹn.

Thời điểm phạm tội, ông Tường cũng là bác sỹ Khoa ngoại của Bệnh viện Bạch Mai.

Phẫu thuật thẩm mỹ

Hồ sơ vụ án thuật lại rằng trưa ngày 19/10/2013, bà Lê Thị Thanh Huyền tới thẩm mỹ viện Cát Tường để hút mỡ bụng và nâng ngực.

Lúc 16:00, ông Tường cùng các nhân viên đã hút mỡ từ bụng và bơm vào ngực bà Huyền.

16:30 khi bà Huyền có biểu hiện co giật, sùi bọt mép, ông Tường đã tiêm cho bà Huyền một số thuốc.

Bà Huyền sau đó tiếp tục có các biểu hiện khác thường như tím tái, mạch khó bắt, huyết áp không đo được. Ông Tường yêu cầu các nhân viên truyền dịch, tiêm thuốc chống sốc, cho thở ô xy rồi quay về trung tâm, thực hiện cấp cứu nhưng nạn nhân đã tử vong.

Ông Tường đã cho một số nhân viên ra về, yêu cầu một số nhân viên khác thu dọn đồ đạc, chở sổ sách, máy tính, các dụng cụ khám chữa bệnh đi nơi khác cất giấu để nhằm xóa dấu vết.

Tối 19/10/2013, ông Tường đã sử dụng xe ô tô cá nhân, cùng nhân viên bảo vệ là Đào Quang Khánh mang xác chị Huyền xuống ô tô. Xe chạy về cầu Thanh Trì. Đến giữa cầu, cả hai dừng lại, cùng khiêng xác bà Huyền ném xuống sông Hồng.

Đêm 19/10/2013, chồng bà Huyền nhận được tin của người đi đường tìm thấy xe của bà nhưng bản thân bà bị mất tích.

Tối 21/10/2013, cảnh sát điều tra xác định được bà bị biến chứng tử vong khi phẫu thuật thẩm mỹ và sau đó ngày 22/10 tiến hành bắt ông Tường.

Ý kiến: Vụ Cát Tường và sáu thi thể khác

Bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường
Image caption Vụ bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường đang gián đoạn vì chưa tìm thấy thi thể nạn nhân

Đã hơn 10 ngày trôi qua kể từ khi chị Lê Thị Thanh Huyền (Hà Nội) bị tử vong sau khi tiến hành phẫu thuật thẩm mỹ tại Thẩm mỹ viện Cát Tường.

Theo lời khai của bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường, xác chị Huyền bị ném xuống sông Hồng với mục đích phi tang, sự việc đã gây rúng động dư luận về y đức của vị bác sĩ này.

Trong khi các cơ quan chức năng Việt Nam đang lúng túng trong việc điều tra và xác định rõ trách nhiệm thuộc về ai, đơn vị nào, thì người thân và hàng trăm người dân vẫn mòn mỏi chờ đợi hàng ngày bên bờ sông Hồng, mong tìm được thi thể của người xấu số.

Ngoại cảm

Xung quanh sự việc đau lòng này, đã xuất hiện nhiều vấn đề khiến chúng ta cũng phải nghiêm túc nhìn lại.

Đơn cử như việc xuất hiện liên tục các “nhà ngoại cảm” chẳng hạn, mỗi người một ý, họ vừa gieo hy họng vừa gieo thất vọng cho người nhà nạn nhân và dư luận quan tâm, họ vừa làm đa sắc thêm tình hình khi cách đây chưa lâu, đài truyền hình Việt Nam (VTV) lần lượt có những chương trình “bóc mẽ” cái gọi là “ngoại cảm”, một lĩnh vực đang làm mưa làm gió trong những năm gần đây.

Đáng chú ý hơn, trong suốt quá trình tìm thi thể chị Huyền, người ta đã lần lượt phát hiện ra 6 thi thể khác trôi dạt trên sông Hồng và các khu vực lân cận.

Đáng buồn thay khi 6 thi thể này ngay lập tức bị quên lãng, gần như tất thảy đều lắc đầu ngao ngán vì …đó không phải là chị Huyền.

Rõ ràng, đây là một sự thật đau lòng!

Những ngôn ngữ về đạo đức, lương tâm vẫn đang hàng ngày, hàng giờ được lan truyền khủng khiếp trên mạng internet, người ta căm phẫn trước hành động vô nhân tính của bác sĩ Tường, người ta xót xa cho sự bất hạnh của chị Huyền.

Nhưng chẳng thấy bất cứ một ai, bất cứ một tổ chức hay cơ quan nào lên tiếng về 6 thi thể bạc mệnh trôi sông kia cả. Ai dám chắc rằng, những cái chết kia là không dã man, và không bất hạnh như chị Huyền!?

Tự vấn

Bác sỹ Nguyễn Mạnh Tường

Image caption Bác sỹ Tường chỉ chỗ ném xác nạn nhân

Tôi tự hỏi rằng, phải chăng “dư luận” đang quan tâm đến vụ việc “thẩm mỹ viện Cát Tường” phần nhiều là do sự tò mò, hơn là những bản năng về đạo đức?

Sáu thi thể trôi dạt được tìm thấy trong 10 ngày (và tính cả chị Huyền nữa là 7), liệu những người có trách nhiệm đã giật mình về các vấn đề an ninh hay chưa?

Và cách ứng xử của các cơ quan nhà nước, phải chăng đang đơn thuần chỉ là “đối phó” với dư luận? nhằm sớm nhất có thể xoa dịu nỗi đau và những sự căm phẫn?

Đến lúc này, người ta mới cuống cuồng cho kiểm tra hàng loạt các cơ sở y tế, thẩm mỹ, khẩn trương quy và làm rõ trách nhiệm… Chả nhẽ họ chấp nhận “chữa cháy” theo kiểu “chạy theo dập lửa” mãi như thế được sao?

Chưa có câu trả lời, chỉ có những tiếng thở dài ngán ngẩm. Và đương nhiên, một chút nhíu mày cho 6 thi thể bạc mệnh kia, hình như vẫn đang là điều xa ngái?!!

Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả.

Đàm phán song phương TPP: Việt Nam đã chấp nhận công đoàn độc lập *

C, , , , , , ,

Đến thời điểm này chúng ta đã hiểu rõ hơn quyền tự do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc, và quyền sống của một con người. Và chúng ta tin là chúng ta đã hiểu hội nhập, và chúng ta chấp nhận cuộc chơi ấy.

LTS: Nhân Diễn đàn Kinh tế Mùa Thu tổ chức ngày 27-8 tại Thanh Hóa bàn về chủ đề hội nhập và phát triển bền vững, nhà báo Tư Giang trao đổi với Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên về những vấn đề lao động khi tham gia các FTA.

Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên
Không còn cửa nào phát triển, nếu…Việt Nam đã và sẽ ký 15-16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trở thành quốc gia “nhất thế giới” trong việc tham gia các thỏa thuận thương mại. Vì sao chúng ta lại tham gia quá nhiều các FTA thế, trong khi phần lớn các nước khác đâu dám làm vậy?
Chúng ta không tham gia các FTA không được. Tình thế buộc chúng ta làm vậy. Các quốc gia khác họ tự cân đối được; còn nền kinh tế của Việt Nam có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bằng 1,8 GDP, chúng ta không còn cửa nào phát triển, nếu không mở ra bên ngoài. Sức mua của thị trường nội địa quá thấp. Ngay cả so với Lào thì sức mua của ta cũng rất kém. Chẳng hạn, một hộ gia đình của Lào ở thành phố có ít nhất 1 xe ô tô, nhà ở ít nhất 500 m2; còn Việt Nam chúng ta một hộ gia đình ít nhất có 1 xe máy, và 50 m2. Chỉ tính sơ bộ đã thấy sự khác biệt.
Tức là, tình thế hiện nay chỉ có hai lựa chọn, một là mở cửa, hai là chết.
Nhưng, các FTA, nhất là Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng mang lại những trò chơi khốc liệt, không chỉ trong kinh tế, thưa ông?
Thực tế thì nó sẽ còn khốc liệt hơn chúng ta nghĩ vì các FTA sẽ còn tác động đến các tổ chức chính trị, xã hội mà lâu nay chúng ta nghĩ nó là duy nhất của Việt Nam. Ví dụ như như quyền tự do lập hội và quyền thương lượng thỏa ước lao động. Chúng ta nghĩ rằng, chỉ có Đảng là người chăm lo mọi lợi ích của người lao động.
Nhưng nếu Đảng và các tổ chức chính trị xã hội đi cùng không tự vươn lên, không trở thành thỏi nam châm để thu hút người lao động, thì người lao động họ sẽ tách ra và đi theo guồng máy của lực hút khác. Những thách thức đó còn khốc liệt hơn nhiều, thách thức toàn diện, không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà sang cả chính trị,…
Việt Nam tuyên bố là kết thúc đàm phán song phương với các quốc gia TPP. Theo ông, chúng ta có quá dễ dàng không, chẳng hạn như với các điều khoản về lao động?
Các yêu cầu trong TPP đều là mục tiêu mà Việt Nam phấn đấu xây dựng. Ví dụ, điều kiện lao động yêu cầu người lao động không làm việc quá 48 tiếng trong tuần; hay chỗ làm việc cũng quy định điều kiện vệ sinh, ánh sáng thế này; hay không có lao động trẻ em. Những yêu cầu đấy hiện nay chúng ta đang phấn đấu. Đảng còn đấu tranh yêu cầu các chủ lao động cải thiều điều kiện làm việc cho người công nhân, cải thiện điều kiện ăn ở trong khu ở của người lao động. Đến mức nào đó, chúng ta thấy mục tiêu chúng ta đang phấn đấu trùng với tiêu chí, giới hạn kỹ thuật mà tổ chức chúng ta định gia nhập đặt ra. Đấy chính là quyền mưu cầu hạnh phúc của con người.Thưa ông, những cam kết về lao động và công đoàn trong TPP cũng chỉ là lặp lại những cam kết của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) mà Việt Nam là thành viên. Ông có thể vắn tắt những cam kết này?
Việt Nam trở thành thành viên của ILO năm 1998 sau khi đạt được thỏa thuận lùi thời gian thực hiện lại, tức có lộ trình. Có 13 công ước của ILO, trong đó, chúng ta đã và đang thực hiện 8, và 5 chưa thực hiện.
Có hai công ước quan trọng nhất. Thứ nhất là Công ước 87 về quyền tự do lập hội của người lao động ở cơ sở, hay nói nôm na là quyền lập công đoàn cơ sở. Một nhà máy có thể có nhiều công đoàn, như công đoàn công chức, công đoàn công nghiệp, công đoàn hóa chất, hay thậm chí là hội thợ may quê Nghệ An,… Người lao động được tự do gia nhập các tổ chức ấy, hoặc là họ tự lập ra một tổ chức và chính quyền phải chấp nhận. Họ có quy chế, có đăng ký, và các tổ chức ấy được đối xử bình đẳng.
Thứ hai là Công ước 107, khi công đoàn tập hợp được trên 50% người lao động thì họ có quyền liên kết lại để ký với chủ thỏa ước lao động; và nếu cần, họ có thể đình công, hay kêu gọi đình công hợp pháp. Công đoàn này có thể hỗ trợ công đoàn khác. Họ liên kết ngang, liên kết dọc.
Trong các công ước của ILO, thì hai công ước trên là đáng lưu tâm nhất…
Theo thông tin của ông, Việt Nam có được hưởng ân hạn trong cam kết về công đoàn và lao động hay không?
Chúng ta cam kết thế, phải luật hóa các cam kết đó, và phải thực hiện 24 tiếng sau khi phê chuẩn TPP. Điều đó cũng giống như đến ngày 1-1-2018 thì tất cả các ân hạn trong WTO sẽ hết hiệu lực với Việt Nam. Lúc ấy thì nghiễm nhiên họ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Việc công nhận hay không công nhận lúc ấy không còn quan trọng nữa bằng việc phải tôn trọng quy định của WTO. Chúng ta phái đối mặt với tình trạng, Chính phủ bị doanh nghiệp kiện, và phải hầu tòa.
Điều lo ngại nhất
Vậy vì sao là thành viên của ILO mà những cam kết đó lại không được chúng ta thực hiện, theo ông?
Đến thời điểm này thì thế và lực trong nước của chúng ta mới cho phép làm. Nó phải có căn cứ. Đến nay, chúng ta có Hiến pháp 2013, đưa quyền con người lên chương đầu tiên; Hiến pháp 1992 thì quyền con người đứng ở phía cuối. Đến thời điểm này chúng ta đã hiểu rõ hơn quyền tự do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc, và quyền sống của một con người. Và chúng ta tin là chúng ta đã hiểu hội nhập, và chúng ta chấp nhận cuộc chơi ấy.
Nhưng tiến trình dân chủ hóa có thể đến ngay lập tức vì TPP có hiệu lực ngay lập tức. Ông có lo ngại điều gì không?
Thực ra là (tôi) sợ tổ chức của chúng ta không thay đổi ngay được. Cái chúng ta lo ngại nhất là tổ chức công đoàn trong việc tập hợp người lao động. Trong suốt thời gian dài, chúng ta đã hành chính hóa bộ máy công đoàn. Họp cái gì cũng phải có bộ tứ đảng, chính, công, thanh, và quyết thay mọi mong muốn của công nhân. Chúng ta đã quen cái nếp là một người nghĩ cho cả nghìn người. Bây giờ không thể thế được nữa, một người phải xin ý kiến của 1.000 người.
Chúng ta vẫn thực hiện chế độ đại diện, nhưng phương thức thực hiện chế độ đại diện đó phải khác. Trước là tôi (công đoàn) nghĩ cho ông, tôi nói cho ông, vì ông bầu tôi và đại diện; nhưng giờ thì khác, tôi chỉ bầu ông làm đại diện khi ông thỏa thuận với tôi những vấn đề ông đại diện. Nó khác trước. Đến bây giờ, trình độ xã hội, nhận thức của chúng ta lên hẳn bậc như thế.
Ông có vẻ lạc quan. Nhìn vào xã hội hiện nay, ông thấy nó đã đủ chín để chấp nhận những điều kiện đó chưa?
Nói thật là chưa. Phải nói, ở đây người lao động chưa được chuẩn bị. Chúng ta thiếu một kiến thức công nghiệp. Nhiều lần, tôi đi thực địa, hỏi các bạn công nhân tuổi con, cháu, vì sao không vào sống trong khu tập thể của các nhà máy của các hãng đầu tư lớn, mà lại đi ra ngoài chui rúc trong các khu nhà trọ? Lý do cực kỳ lãng xẹt. Họ bảo vào đó gò bó lắm chú ạ, về sau 11h đêm là bảo vệ không cho vào. Rồi họ không cho chúng cháu đun nấu, rồi lại bắt chúng cháu ra ăn ngoài đầu hành lang. Chú bảo đang uống rượu, mà lại phải ra đầu hành lang thì uống cái gì. Ngồi nhậu ở sàn đây mới vui chứ. Tôi mới hỏi, họ bắt về ngủ trước 11 giờ là tốt hay xấu, sáng mai 6 giờ đã vào ca rồi, mà 1-2 giờ sáng cậu chưa ngủ, rượu chè, nhậu nhẹt thì mai làm hỏng đồ của họ thì sao? Các cháu không trả lời được.
Khi không có nếp sống công nghiệp, thì anh hoàn toàn sống bằng bản năng. Hỏi, tại sao cháu không đi làm? Đáp: không thích! Thế thì chết rồi.
Hơn nữa, mạng xã hội cũng đang bôi mỡ cho kiến đốt.
Ông từng chứng kiến biểu tình vì điều 60 Luật Bảo hiểm Xã hội. Trước thực tế trong TPP, liệu có biểu tình liên miên gây đình đốn sản xuất?
Hình dung của bạn với tư cách phóng viên phong phú quá. Đừng nghĩ người dân sẽ biểu tình tràn lan; mà còn chính quyền nữa chứ. Chính quyền để làm gì? Tôi ăn lương như thế, thì làm gì trong tình huống đó? Không nên lo lắng quá chuyện này.
Liên quan đến Điều 60, tôi muốn nói thêm, đây là thỏa hiệp quá mức của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, dựa trên năng lực giải quyết điểm nóng quá yếu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nên mới dẫn đến chuyện này. Điều 60 là xu hướng tất yếu của nhà nước pháp quyền vì dân. Không có quốc gia nào mà Nhà nước dám nói với dân, thôi, kệ, sau này sau 60 tuổi các ông muốn sống thế nào là chuyện của các ông. Không một nhà nước nào ăn tiền thuế của dân mà dám nói với dân như thế. Vấn đề là công tác tuyên truyền chưa đúng …
Ông có bất ngờ khi Việt Nam đã tuyên bố kết thúc đàm phán song phương với các quốc gia, nhất là Hoa Kỳ, nhất là trong chuyện vượt qua chương về công đoàn và lao động?
Cố vấn pháp luật của một đoàn đàm phán ngồi riêng nói với chúng tôi, tại sao các ngài cứ lo về cái điều mà chúng tôi có bắt các ngài làm ngay sáng hôm sau đâu. Cam kết ở đây là để các ngài xây dựng luật, phù hợp với các hệ thống luật khác của các ngài. Các ngài có thể đồng ý cho công nhân thành lập công đoàn, nhưng các ngài quy định, người đứng ra thành lập công đoàn cơ sở đó phải 25 tuổi trở lên; phải làm việc trong doanh nghiệp đó ít nhất 3 năm; không có tiền án, tiền sự; có gia sản ít nhất bằng này, vì có gia sản mới lấy tiền đó đi hoạt động được, mà không phải lấy đóng góp từ người lao động. Xong 4 điều kỹ thuật đó, lại quy định tiếp là người đó phải lấy được ít nhất 10% ý kiến của người lao động ở doanh nghiệp, họ ký vào đây đồng ý, thì Nhà nước mới cho ông lập.
Nói thực ra là nhiều người Việt Nam cũng nghĩ đến điều này…
Theo Tư Giang (Vietnamnet)
 
* VNTB đặt lại tiêu đề
* Tiêu đề gốc: ‘Chúng ta chỉ còn hai lựa chọn, mở cửa hay là chết’

Việt Nam sửa đổi các luật cho phù hợp với cam kết trong TPP

RFA. 2015-09-09

http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/vn-reform-laws-to-suit-tpp-09092015134244.html

Trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, tại Thủ đô Washington DC hôm 9/9/2015  Chủ tịch Quốc hội Việt Nam tái khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt nam. Ông Hùng đã phát biểu như vậy khi gặp gỡ Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman.Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh rằng, Quốc hội Việt Nam nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc xem xét sửa đổi các luật cho phù hợp với những cam kết trong TPP Hiệp định Đối tác XuyênThái Bình Dương.

Theo giới quan sát, phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam tái xác định sự kiện Việt Nam chấp nhận cải tổ chính trị, trong đó có việc công nhận hình thức công đoàn độc lập và người lao động có quyền chọn lựa tham gia.

Cùng ngày hôm qua 9/9, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã có cuộc gặp thân mật với Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry. Theo tin Thống Tấn xã Việt Nam, trao đổi về vấn đề Biển Đông, hai bên nhất trí tăng cường hợp tác nhằm duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông vì lợi ích chung của khu vực và thế giới. Phía Hoa Kỳ nhất trí với lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp, bằng biện pháp thương lượng hòa bình, dựa trên nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Ngoài ra Ngoại trưởng John Kerry cho biết sẽ tăng cường hợp tác với Việt nam và các nước trong khu vực trong việc bảo vệ, gìn giữ và khai thác có hiệu quả tài nguyên sông Mekong. Hoa kỳ cũng giúp đỡ Việt Nam trong việc đối phó với những nguy cơ của biến đổi khí hậu, nhất là vấn đề nước biển dâng cao hiện nay.

Ngoại trưởng John Kerry cho biết sẵn sàng  giúp đỡ Quốc hội Việt Nam trong quá trình xây dựng, sửa đổi các bộ luật phù hợp với Hiến pháp mới 2013; tăng cường hợp tác với Việt Nam trong các vấn đề nhân đạo và khắc phục hậu quả chiến tranh như chất da cam Dioxin và rà phá bom mìn còn sót lại.

Muộn Đại hội Đảng ở VN vì còn bất đồng?

Image copyright Hoang Dinh Nam AFP GETTY 
Các lãnh đạo và chính khách Việt Nam trong một dịp đánh dấu 40 năm sự kiện ngày 30-4.

Một chuyên gia nước ngoài vừa cho rằng Đại hội Đảng toàn quốc tại Việt Nam có thể tổ chức muộn hơn vì Đảng Cộng sản chưa đạt được đồng thuận về một số vấn đề.

Trong bài viết mới trên Policy Forum, Giáo sư Carl Thayer, người Úc nghiên cứu lâu năm về chính trị Việt Nam, nêu quan điểm:

“Có những dấu hiệu cho thấy Đảng chưa đạt được đồng thuận về một số vấn đề, trong đó có vấn đề Biển Đông, quan hệ với Trung Quốc và việc lựa chọn lãnh đạo tương lai của Việt Nam. Điều này có thể dẫn đến việc hoãn tổ chức Đại hội sang một thời điểm muộn hơn.”

Bài viết, được trang Nghiên cứu Quốc tế dịch sang tiếng Việt, cho rằng:

“Theo Điều lệ Đảng, Ban chấp hành Trung ương phải họp ít nhất hai lần một năm, nhưng đôi khi Ban chấp hành họp thường xuyên hơn. Tuy nhiên, trong năm 2014, Ban chấp hành Trung ương chỉ họp một lần. Đây có thể là dấu hiệu cho thấy sự chia rẽ sâu sắc về chính sách Biển Đông và quan hệ với Trung Quốc theo sau cuộc khủng hoảng xuất phát từ việc Bắc Kinh triển khai một giàn khoan khổng lồ tại vùng biển tranh chấp từ tháng 5 tới tháng 7.”

Diễn ra lặng lẽ

Giáo sư Thayer nhận xét thêm về cách thức nhà nước và đảng cộng sản chuẩn bị cho đại hội đảng lần thứ 12 dự kiến được nhóm vào đầu năm 2016 từ nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.

“Việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 12 cũng diễn ra rất lặng lẽ so với 8 đại hội trước được tổ chức kể từ khi thống nhất đất nước. Các phương tiện truyền thông Việt Nam đã vô cùng yên lặng, và chỉ xuất hiện các báo cáo xác nhận rằng các khâu chuẩn bị cho Đại hội đang được tiến hành. Đảng cũng chưa công bố chính thức ngày tổ chức Đại hội.

“Thông thường các tài liệu dự thảo chính sách như Báo cáo Chính trị và Báo cáo Phát triển Kinh tế-xã hội sẽ được lặng lẽ chuyển cho các nhóm thảo luận tập trung để bàn thảo và cho ý kiến.

“Sau khi được chỉnh sửa, các văn bản dự thảo chính sách sau đó sẽ được công khai cho công chúng nhận xét. Ví dụ, dự thảo Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế-xã hội mười năm cho Đại hội Đảng lần thứ 11 tổ chức vào tháng Giêng năm 2011 đã được công bố vào ngày 20 tháng 4 năm 2010, tức chín tháng trước khi diễn ra đại hội. Nếu Đại hội lần thứ 12 sẽ họp vào đầu năm tới thì Việt Nam chỉ còn bốn tháng để hoàn tất quá trình này.”

Cho rằng việc ‘chậm trễ’ và ‘lặng lẽ’ trong chuẩn bị đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam cùng việc đưa ra các chính sách có mối ‘quan hệ’ với nhân tố được gọi là ‘Trung Quốc’ của Việt Nam, bài báo viết tiếp:

Image copyright Getty
Image caption Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Phó Thủ tướng, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCS Trung Quốc, ông Trương Cao Lệ, hôm 16/7/2015.

“Điều gì giải thích cho những diễn tiến này – như sự chuẩn bị lặng lẽ một cách bất thường cho Đại hội Đảng, chậm trễ trong việc tổ chức hội nghị tiếp theo của Ban chấp hành Trung ương, và hoãn công bố Sách trắng Quốc phòng?

“Lời giải thích khả dĩ nhất là sự trùng hợp của hai vấn đề gây tranh cãi – yếu tố Trung Quốc (Chủ tịch/ Tổng Bí thư Tập Cận Bình được cho là sẽ thăm Hà Nội vào tháng 10 hoặc tháng 11) và việc lựa chọn ban lãnh đạo mới của Việt Nam.”

Có một ngoại lệ

Bài viết của Giáo sư Thayer cũng đặt vấn đề với nhấn mạnh về người mà nhà quan sát này cho là một ứng cử viên vào chức vụ Tổng Bí thư trong Đại hội lần thứ 12 vào sang năm, ông Nguyễn Tấn Dũng, đương kim Thủ tướng Việt Nam, cũng như đưa ra nhận định về một số điều được cho là ‘lợi thế’ của ứng viên này.

“Quy tắc hiện tại của Đảng không cho phép một người nắm quyền quá hai nhiệm kỳ. Quy tắc của Đảng cũng yêu cầu các quan chức nghỉ hưu ở tuổi 65. Nếu tính tới cả hai quy định thì 9 trong số 16 thành viên Bộ Chính trị hiện nay sẽ nghỉ hưu ở đại hội năm tới.

“Điều này có nghĩa là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nằm trong số những người sẽ phải nghỉ hưu,” tác giả nhận định.

“Tuy nhiên, có một ngoại lệ về tuổi hưu bắt buộc trong những trường hợp đặc biệt.

“Hiện có nhiều tin đồn cho rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang tìm cách trở thành Tổng Bí thư tiếp theo và xin được miễn trừ quy định tuổi tác. Điều này là chưa từng có tiền lệ trong nền chính trị Việt Nam.

“Ông Dũng sẽ mang lại các kinh nghiệm kinh tế và quốc tế chưa từng có cho vị trí Tổng Bí thư Đảng nhờ vào hai nhiệm kỳ thủ tướng của mình.

“Ông Dũng cũng ít khả năng sẽ để cho ý thức hệ ràng buộc tay chân của mình trong việc đối phó với Trung Quốc.

“Ông đã thẳng thắn bảo vệ chủ quyền Việt Nam trong cuộc khủng hoảng giàn khoan năm ngoái và nêu lên khả năng sẽ thực hiện các hành động pháp lý quốc tế chống lại Trung Quốc.

“Ông Dũng nhận được sự hỗ trợ rộng rãi của các Ủy viên Trung ương nhưng Bộ Chính trị hiện nay lại đang chia rẽ sâu sắc. Không chỉ có sự ganh đua cá nhân mà còn có sự khác biệt về việc làm thế nào để quản lý mối quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.”

Chuyển đổi lãnh đạo

Image copyright AFP 
Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Nhà trắng tại Hoa Kỳ hôm 7/7/2015.

Hồi tháng 8/2015, một nhà nghiên cứu chính trị và quan hệ quốc tế của Việt Nam, Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp, đang là nghiên cứu viên khách mời tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, nêu quan điểm ở một bài viết trên trang Nghiên cứu Quốc tế do ông chủ biên.

Bài viết với tựa đề “Tam giác Chiến lược Việt – Mỹ – Trung” của Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp phần liên quan tới chính trị nội bộ của Việt Nam, có đoạn:

“Về vấn đề chuyển đổi lãnh đạo, nếu Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng được bầu làm Tổng Bí thư mới của Đảng thì mối quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ có thể trải qua một bước tiến mới. Ông Dũng, người thường xuyên thể hiện mình như một nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa, đã nhiều lần công khai lên tiếng phản đối sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó có tuyên bố nổi tiếng rằng Việt Nam sẽ không đánh đổi chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước để lấy “hữu nghị viển vông” [với Trung Quốc].

“Chương trình nghị sự tương đối tự do trong nước dưới sự lãnh đạo của ông Dũng cũng gần gũi với Washington hơn là Bắc Kinh. Hơn nữa, mối quan hệ cá nhân của các thành viên trong gia đình ông với phương Tây nói chung và với Mỹ nói riêng cũng có thể có ảnh hưởng tích cực lên cách nhìn của ông về Mỹ cũng như về mối quan hệ giữa Hà Nội với Washington.

“Trong trường hợp một người khác lên lãnh đạo Đảng Cộng sản thì các yếu tố đã được phân tích ở trên cũng có thể khiến vị Tổng Bí thư mới có một thái độ ít nhiều nghiêng về phía Mỹ hơn.”

Còn về liên hệ giữa tam giác quan hệ kể trên, trong đó có nhân tố Trung Quốc bên cạnh Hoa Kỳ, TS. Lê Hồng Hiệp bình luận:

“Một diễn biến trong nước khác có thể có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ tương lai của Việt Nam với cả Trung Quốc và Mỹ là Đại hội toàn quốc lần thứ 12 của Đảng Cộng sản và cuộc bầu cử thế hệ lãnh đạo mới của Đảng diễn ra vào năm sau.

“Trong các tài liệu chuẩn bị cho đại hội được lưu hành cho các đảng viên đọc và nhận xét, các tranh chấp trên Biển Đông được mô tả cụ thể là “phức tạp, gay gắt và rất khó lường,” bài viết của nhà phân tích này nhận định.

Tuần tra biển được phép sử dụng vũ khí khi truy đuổi tàu nước ngoài

Lực lượng tuần tra biển VN được phép sử dụng vũ khí khi truy đuổi tàu nước ngoài theo Nghị định Chính phủ vừa ban hành có hiệu lực từ ngày 20 tháng 10 năm 2015.

Nghị định 71/2015 do Chính phủ ban hành quy định 10 hành vi bị nghiêm cấm trong khu vực biên giới biển. Trong đó nổi bật bao gồm các hoạt động như xây dựng, lắp đặt các công trình, khảo sát, thăm dò, khai thác trái phép; luyện tập, diễn tập có vũ khí mà chưa được VN cho phép; bay vào vùng cấm bay cũng như như có hành vi gây hại cho quốc phòng…

Một khi các tàu thuyền và phương tiện đường thủy nào vi phạm các quy định trong Nghị định 71/2015 thì lực lượng tuần tra biển VN có quyền truy đuổi ra đến hải phận quốc tế. Trong trường hợp, tàu thuyền nào được yêu cần dừng lại để kiểm tra mà không chấp hành thì lực lượng tuần tra biển VN có quyền sử dụng vũ khí và các công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật.

Nghị định này còn quy định lực lượng tuần tra biển VN có nhiệm vụ câp cứu cho người bị thương và hỗ trợ khi có người bị thiệt mạng.

 Tin, bài liên quan

Thực tế về công đoàn độc lập tại Việt Nam

Ảnh chụp tháng 11 năm 2013 cho thấy những công nhân bị sa thải mất việc nay thất nghiệp ngồi chờ hàng ngày ở các ngã ba ngã tư đường xem có ai mướn làm bất cứ công việc gì theo giờ theo ngày...

Ảnh chụp tháng 11 năm 2013 cho thấy những công nhân bị sa thải mất việc nay thất nghiệp ngồi chờ hàng ngày ở các ngã ba ngã tư đường xem có ai mướn làm bất cứ công việc gì theo giờ theo ngày… AFP
 Công đoàn độc lập là vấn đề được nhấn mạnh khi Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương- TPP, do Hoa Kỳ khởi xướng. Tiến triển của việc hình thành công đoàn độc lập tại Việt Nam ra sao?

Quan tâm từ Hoa Kỳ

Nhóm xã hội dân sự độc lập- Lao Động Việt, vừa qua có đợt làm việc với ông James Greene, chuyên viên cấp cao Ủy ban Tài chính- Kinh tế Quốc tế Thượng Viện Hoa Kỳ.

Luật sư Lê thị Công Nhân, một thành viên của Lao động Việt, trình bày lại một số nội dung chính của cuộc gặp diễn ra tại Hà Nội hôm 26 tháng 8:

“ Nội dung quan trọng nhất mà chúng tôi nói chuyện với nhau là vấn đề lao động Việt với việc Việt Nam đang đàm phán để gia nhập TPP. Với một cuộc gặp theo hình thức không chính thức như thế thì tôi có nhiều thời giờ để trình bày về người lao động tại Việt Nam hiện nay: hiện trạng cũng như vấn đề mà chúng tôi quan tâm. Tôi cũng khẳng định với ông ấy một điều là dứt khoát chỉ khi nào người công nhân Việt Nam có quyền thành lập và tham gia vào những công đoàn độc lập bằng việc tự lựa chọn và tự đóng góp kinh phí, giám sát việc sử dụng nguồn kinh phí đó cũng như những nhân sự hoạt động trong công đoàn độc lập đó thì may ra câu chuyện về đời sống của người công nhân cũng như năng lực sản xuất của người công nhân Việt Nam mới có thể tiến bộ. Và chỉ khi đó một nước như nước Mỹ mới có thể yên tâm để coi Việt Nam như một đối tác bình đẳng ở một mức độ tối thiểu trong những yêu cầu rất cơ bản để có thể gọi là đối tác kinh tế với nhau được.”

Ước nguyện của công nhân

Có thể nói nhiều công nhân tại Việt Nam hiện nay phải lo toan cho cuộc sống và ý thức của họ về một công đoàn hoàn toàn độc lập nhằm có thể đấu tranh hiệu quả cho quyền lợi công nhân vẫn chưa cao.

Điều này được cô Đỗ thị Minh Hạnh, người bị kết án tù vì từng giúp công nhân biểu tình đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, thừa nhận như sau:

Họ vẫn còn mơ hồ giữa một công đoàn do nhà nước đặt ra và công đoàn độc lập. Họ cũng nghĩ những công đoàn này thuộc phe cánh giới chủ nhiều hơn là bảo vệ công nhân. Cho nên đây là vấn đề mình phải làm thế nào cho họ hiểu công đoàn độc lập và ý nghĩa của nó

cô Đỗ thị Minh Hạnh

“ Về ý thức của người công nhân thì theo từng giai đoạn cũng phát triển hơn, cho đến lúc này người công nhân cũng hiểu biết nhiều hơn; tuy nhiên người công nhân còn hạn hẹp họ chưa hiểu họ phải làm như thế nào để có công đoàn độc lập và công đoàn độc lập vận hành như thế nào. Vì từ xưa đến nay chưa hề có một công đoàn độc lập để họ có thể hình dung được công đoàn độc lập thực sự như thế nào. Họ vẫn còn mơ hồ giữa một công đoàn do nhà nước đặt ra và công đoàn độc lập. Họ cũng nghĩ những công đoàn này thuộc phe cánh giới chủ nhiều hơn là bảo vệ công nhân. Cho nên đây là vấn đề mình phải làm thế nào cho họ hiểu công đoàn độc lập và ý nghĩa của nó.

Ngoài quyền của người lao động còn quyền và lợi ích của người làm về công đoàn nữa. Bởi vì một số người làm công đoàn ở một số công ty, thực chất họ chưa hiểu gì về luật công đoàn và những quyền hạn cho công việc của họ.”

Tuy nhiên đối với những công nhân có ý thức thì đối với họ việc hình thành nên công đoàn độc lập là một yêu cầu bức thiết:

“ Tôi nghĩ nên tạo điều kiện để công nhân có công đoàn độc lập để khi có việc gì, có bất công gì thì nghiệp đoàn đó sẽ đứng về phía họ.”

Thực tế

Theo ông Trương Minh Đức, một thành viên khác của Lao Động Việt, đây là lần thứ ba nhóm của ông có cơ hội làm việc với phía Hoa Kỳ về vấn đề công đoàn độc lập tại Việt Nam.

Công nhân dọn sàn của một công trình xây cất
Công nhân dọn sàn của một công trình xây cất

Và trong lần làm việc vừa qua ở Sài Gòn, ông Trương Minh Đức nêu ra những thực tế về tình trạng công đoàn ở Việt Nam, dù rằng theo yêu cầu của TPP cơ quan chức năng của chính phủ Hà Nội sẽ cho hình thành những công đoàn được gọi là độc lập.

Chúng tôi cũng trả lời rằng việc thành lập công đoàn trong công ty thì chính quyền VN đã có từ lâu rồi chứ không phải mới đây. Thế nhưng công đoàn đó không độc lập và dưới sự quản lý của Liên đoàn Lao động VN, mà Liên đoàn Lao động Việt Nam lại dưới sự chỉ đạo của đảng thì theo tôi đây không phải là công đoàn độc lập

ông Trương Minh Đức

“ Chúng tôi cũng trả lời rằng việc thành lập công đoàn trong công ty thì chính quyền Việt Nam đã có từ lâu rồi chứ không phải mới đây. Thế nhưng công đoàn đó không độc lập và dưới sự quản lý của Liên đoàn Lao động Việt Nam, mà Liên đoàn Lao động Việt Nam lại dưới sự chỉ đạo của đảng thì theo tôi đây không phải là công đoàn độc lập. Bây giờ họ đồng ý theo điều kiện của TPP thì chẳng khác nào họ chỉ đổi tên thôi; chứ còn nếu điều kiện họ cho thành lập trong phạm vi công ty thì không được liên kết với công đoàn độc lập khác ở bên ngoài hoặc liên hệ với các tổ chức bảo vệ quyền lợi của người lao động quốc tế. Đó cũng là hình thức cô lập các công đoàn độc lập mà sắp tới đây Việt Nam đưa ra. Theo tôi đó là những công đoàn độc lập giả hiệu và tôi không đồng ý với quan điểm của chính phủ Việt Nam đưa ra như thế.

Hiện nay điều kiện đặt ra rất khó khăn cho công nhân tại Việt Nam. Kể từ khi ‘có’ TPP thì họ thắt chặt an ninh trong các công ty, xí nghiệp; cũng như cho côn đồ giả dạng vào làm công nhân, tạo ra những cuộc đình công, lãn công giả để qui chụp có hình thức chống đối hay có ý tưởng thành lập công đoàn độc lập nhằm loại dần.

Khi họ hứa hẹn với thế giới, với các tổ chức lao động thế giới và khi được rồi thì quyền lợi của công nhân cũng trở lại như xưa ”

Cô Đỗ thị Minh Hạnh cũng cho biết về thực tế hiện nay ở Việt Nam:

“ Ở Việt Nam hiện nay họ cũng cho những công đoàn cơ sở nhưng phải thuộc công ty mà không có sự liên kết với những công đoàn trong ngành với nhau. Đó là một khó khăn để có thể bảo vệ quyền lợi cho người công nhân; bởi vì công đoàn thuộc công ty và nằm trong hệ thống công ty đó thì vẫn bị sự chi phối của giới chủ cũng như của chính quyền nên không thể bảo đảm được quyền lợi chính đáng cho người công nhân.

Bên cạnh đó theo một số điều tra của Lao động Việt đã thấy hoạt động công đoàn giả để che mắt thế giới. Chẳng hạn như cũng lập ra công đoàn nhưng không tổ chức bầu cử mà chỉ đưa ra danh sách mang đến từng phòng yêu cầu công nhân ký tên ủng hộ cho người vào công đoàn. Khi công đoàn đó được hình thành cũng không có nhiệm vụ, quyền nào cao để thực hiện đúng nghĩa vụ của người hoạt động công đoàn. Họ chỉ đi vòng ngoài như ‘con chốt’ của một công đoàn lớn hơn; họ chỉ như là người ‘tạp vụ’ ở ngoài thôi. Đây là hành động đánh lừa phía bên ngoài.”

Một yêu cầu được những nhà hoạt động công đoàn tham gia đợt làm việc với ông James Greene vừa qua nêu ra là Washington cần yêu cầu Hà Nội trả tự do cho hai tù nhân Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương.

Hai người này cùng bị bắt đưa ra tòa cùng với cô Đỗ Thị Minh Hạnh do giúp đỡ công nhân đòi hỏi quyền lợi của họ. Anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị kết án 9 năm tù giam và anh Đoàn Huy Chương 7 năm tù.

Có phải côn đồ đập phá tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ở Tây Ninh?

cao-dai-622.jpg

Các nghệ nhân đang đấp vá lại tượng Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc ở Tòa Thánh Tây Ninh.

Hình do Ban đại diện cung cấp

Tín đồ Cao Đài trong nước đang xôn xao trước tin tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc trong Tòa Thánh Tây Ninh bị hai người lạ mặt dùng dao chém vỡ một mảng trên mặt.

Đập phá đức tin của tín đồ Cao Đài

Sự kiện tương Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc trong Tòa Thánh Tây Ninh, mà hôm hôm 27 tháng trước bị hai thanh niên dùng dao chém, được Ban Đại Diện Khối Nhơn Sanh đạo Cao Đài thông báo trong bản tường trình số 06/31 tháng Tám 2015 vừa qua.

Một trong những người ký tên vào bản tường trình, nữ Chánh Trị Sự Nguyễn Bạch Phụng thuộc Châu Đạo Vĩnh Long, cũng là thành viên trong Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam, cho đài Á Châu Tự Do biết:

Họ đi thẳng lên lầu, nơi có tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, một người dùng búa đập lên trán của pho tượng Đức Hộ Pháp còn một người thì quay phim chụp hình. Khi đập xong thì họ nhanh nhẹn thót lên xe chạy mất.
-Nguyễn Bạch Phụng

“Sáng ngày 27 tháng Tám 2015, tại Hộ Pháp Đường nội ô Tòa Thánh Tây Ninh có 2 người đi trên một chiếc xe Honda đến đậu trước cửa Hộ Pháp Đường. Họ ngang nhiên và tự tiện mang giày đi vào. Đồng đạo thấy vật bèn yêu cầu họ cởi giày để bên ngoài thì họ không thực hiện mà còn rút dao ra để hăm dọa.

Sau đó họ đi thẳng lên lầu, nơi có tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, một người dùng búa đập lên trán của pho tượng Đức Hộ Pháp còn một người thì quay phim chụp hình. Khi đập xong thì họ nhanh nhẹn thót lên xe chạy mất.”

Với câu hỏi bà nghĩ hai người này là thành phần nào, nữ Chánh Trị Sự Nguyễn Bạch Phụng cho rằng họ là côn đồ:

“Tại sao tôi gọi những người này là côn đồ? Vì nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn sử dụng những thành phần bất hảo này để đánh đập những người đạo trung kiên, đấu tranh để bảo vệ tôn giáo của họ. Không riêng gì Cao Đài mà cả Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo cũng vậy.

Phía Công Giáo thì họ đập tượng Đức Mẹ Maria, đập cây thánh giá ở Đồng Chiên. Đối với đạo Hòa Hảo thì họ dùng tác phẩm Dòng Sông Thơ Ấu để lăng mạ Đức Huỳnh Giáo Chủ. Đối với đạo Tin Lành thì họ đập phá nhà thờ và đáng đập các mục sư. Nay thì họ tiếp tục đập phá tượng Đức Hộ Pháp nơi Tòa Thánh Tây Ninh.

Trước đây, năm 1978 nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cũng đã kết tội Đức Hộ Pháp là phản quốc, hại dân, chống phá cách mạng. Việc họ đập tượng Đức Hộ Pháp, đấng giáo chủ khai sáng nền đạo, tức là đập phá đức tin của người tín đồ Cao Đài.”

cao-dai-2-400.jpg
Bửu tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Chủ hữu hình Đạo Cao Đài lúc chưa bị đập phá.

Cần nhắc năm 1979 nhà cầm quyền Việt Nam tạo áp lực để tiếp quản Tòa Thánh Tây Ninh, kế đó cho thành lập Hội Đồng Chưởng Quản rồi giao quyền điều hành cho một chức sắc trong đạo là ông Nguyễn Thành Tám.

Vì chuyện này mà một số chức sắc và tín đồ tách ra để sinh hoạt và thờ phương trong Cao Đài Chơn Truyền không nằm dưới quyền kiểm soát của Hội Đồng Chưởng Quản và nhà nước Việt Nam. Và đó cũng là lý do khiến một số thánh thất địa phương của Cao Đài Chơn Truyền thỉnh thoảng lại bị cấm hoạt động và vì không theo Hội Đồng Chưởng Quản ở Tòa Thánh tây Ninh.

Trên đường dây viễn liên gọi về Tòa Thánh Tây Ninh, ông Côn, một chức sắc cao cấp trong Hội Đồng Chưởng Quản, xác nhận với đài Á Châu Tự Do là có xảy ra chuyện tượng Đức Hộ Pháp bị đập phá:

“Đúng, có như vậy. Lúc 10 giờ sáng mấy vị đi chưng bông để chuẩn bị ngày lễ thì có 2 thanh niên nương theo mấy người đi chưng bông đó lên trên tầng lầu, chỗ có pho tượng Đức Hộ Pháp đang ban phép lành, thì nó lấy búa nó đánh trên phía trán bên trái. Vì tượng bằng thạch cao thành nó rả thạch cao ở phần đầu xuống. Mấy người chưng bông người ta mới hô hoán lên thì nó bỏ nó chạy ra ngoài cửa, lên xe cùng với đồng bọn chạy mất. Tôi không có mặt nhưng nghe báo tin thì tôi tới và chính tôi là người đứng ra điều động anh em thợ để mà đắp lại, sửa chữa lại. Chỉ trong mấy tiếng là xong vì trên thực tế cũng chẳng hư hao gì nhiều. Nhiều người lên đó họ đứng họ khóc nhưng mà biết làm sao… tôn giáo mà…”

Không từ bỏ hành động bạo lực

Tại sao tôi gọi những người này là côn đồ? Vì nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn sử dụng những thành phần bất hảo này để đánh đập những người đạo trung kiên, đấu tranh để bảo vệ tôn giáo của họ. Không riêng gì Cao Đài mà cả Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo cũng vậy.
-Nguyễn Bạch Phụng

Về câu hỏi ông nghĩ những người đập phá có phải là côn đồ hay không, tại sao họ dám hành xử mạnh bạo và ngang nhiên tại nơi tôn nghiêm như vậy, ông Côn thuộc Hội Đồng Chưởng Quản trả lời:

“Nếu là tín đồ Cao Đài, dù cho là những phe chống báng đi nữa, không đồng thuận với Hội Đồng Chưởng Quản giờ là “Hội Thánh Nguyễn Thành Tám” đi nữa, thì cũng không ai dám làm vậy. Tôi nghĩ có lẽ bọn này bị kích bác bởi người nào đó, có lẽ là để kiếm một vài ba liều ma túy thôi nên mới dám làm chuyện đó chứ người bình thường không ai dám làm vậy.”

Đó là giải thích của một chức sắc trong Hội Đồng Chưởng Quản do nhà nước lập ra ở Tòa Thánh Tây Ninh kiểm soát. Về phản ứng từ các hàng chức sắc và tín đồ Cao Đài khắp nơi sau khi tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ở Tòa Thánh Tây Ninh bị xâm phạm, ông Chánh Trị Sự Hứa Phi, Trưởng Ban Đại Diện Khối Nhơn Sanh, đồng chủ tịch Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam:

cao-dai-1-400.jpg
Các nghệ nhân đang đấp vá lại tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ở Tòa Thánh Tây Ninh.

“Chúng tôi rất bức xúc chuyện Hội Đồng Chưởng Quản đã chiếm giữ toàn bộ Tòa Thánh Tây Ninh theo sự bảo hộ của nhà cầm quyền, nhưng khi tượng bị đập phá thì người ta không lên tiếng, không cho dư luận và truyền thông bên ngoài biết.

Người ta đã xúc phạm đến tín ngưỡng của trên 5 triệu tín đồ Cao Đài cho nên đồng đạo rất bức xúc, chúng tôi sẽ làm rõ công việc này. Chúng tôi sẽ kêu gọi đồng đạo về ngay Tòa Thánh Tây Ninh với mục đích cầu nguyện, biểu lộ tấm lòng tôn kính đối với Đức Hộ Pháp, tranh đấu một cách ôn hòa và rất quang minh chính đại.

Chương trình đã ấn định rồi, chúng tôi cũng nói rõ đúng 9 giờ ngày 7 tháng Chín năm 2015, nhằm ngày 25 tháng Bảy Âm Lịch, là một cuộc bày tỏ chính kiến bất bạo động, thể hiện niềm tin tôn giáo, chúng tôi không có bạo động.”

Được biết bản tường trình số 06/31-08-2015 liên quan đến việc côn đồ đập phá tượng Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc, giáo chủ đạo Cao Đài, tại Tòa Thánh Tây Ninh, được gởi đến báo cáo viên đặc biệt Liên Hiệp Quốc về tự do tôn giáo Heiner Bielefelt, đến lập pháp Hoa Kỳ, EU cùng các tổ chức nhân quyền và tự do tôn giáo quốc tế khác.

Nội dung bản tường trình cho thấy chuyện đập phá tượng Đức Hộ Pháp xảy ra trong thời điểm có phái đoàn Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Mỹ USCIRF đến viếng thăm Tòa Thánh Tây Ninh, chứng tỏ nhà cầm quyền Việt Nam không từ bỏ hành động bạo lực và đã xâm phạm trầm trọng quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng của người dân trong nước.