Bắc Hàn dọa đánh Mỹ bằng vũ khí hạt nhân

Bắc Hàn đe dọa sẽ tấn công phủ đầu Hoa Kỳ bằng vũ khí hạt nhân

Bắc Hàn vừa tuyên bố sẽ cho tiến hành tấn công phủ đầu Hoa Kỳ bằng hạt nhân như động thái đe dọa trước cuộc bỏ phiếu của các đại sứ Liên Hợp Quốc hôm thứ Năm 07/03 về cấm vận đối với Bình Nhưỡng.

Một phát ngôn viên giấu tên của Bộ Ngoại giao ở Bình Nhưỡng nói rằng Bắc Hàn sẽ thực thi quyền “tấn công phủ đầu bằng hạt nhân vào cơ quan đầu não của những kẻ gây hấn” vì Washington đang vận động thúc đẩy cuộc chiến tranh hạt nhân chống lại Bắc Triều Tiên.

Mặc dù Bắc Hàn vẫn nói khá nhiều về bom nguyên tử và vũ khí hạt nhân, giới quan sát cho rằng quốc gia này chưa thể làm chủ công nghệ sản xuất đầu đạn hạt nhân đủ nhỏ để có thể gắn với hỏa tiễn có thể phóng tới được Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, có thể Bắc Hàn có đủ nguyên liệu hạt nhân để làm ra một số thiết bị nguyên tử thô sơ.

Thời gian gần đây càng có nhiều những lời đe dọa như thế từ Bắc Hàn, có lẽ do nước này giận dữ trước việc có thể bị cấm vận ngặt nghèo hơn, và cuộc tập trận chung sắp tới của Hoa Kỳ và Hàn Quốc.

Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc đang chuẩn bị đợt cấm vận thứ tư đối với Bình Những trong nỗ lực mới nhằm kiểm soát các chương trình phát triển hạt nhân và tên lửa đạn đạo của nước này.

Đạo sứ của Nga tại LHQ, đồng thời là chủ tịch Hội đồng Bảo an, ông Vitaly Churkin nói hội đồng sẽ bỏ phiếu dựa trên bản dự thảo nghị quyết cấm vận.

Bản nghị quyết được soạn bởi Hoa Kỳ và Trung Quốc, cũng là quốc gia đồng minh thân thiết nhất với Bắc Hàn.

Hội đồng Bảo an đồng ý đưa bỏ phiếu đối với bản nghị quyết chỉ 48 giờ sau khi có dấu hiệu cho thấy sẽ được toàn bộ 15 nước thành viên chắc chắn ủng hộ.

‘Hận thù vĩnh viễn’

Ông Vitaly Churkin, chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc trong tháng 3

Phát biểu của người phát ngôn bộ Ngoại giao Bắc Hàn được đăng tải bởi Hãng thông tấn Bắc Triều Tiên (KCNA), đưa ra cáo buộc Hoa Kỳ là nước đầu trò trong các nỗ lực thúc đẩy áp dụng cấm vận lên Bắc Triều Tiên.

Ông này cũng nói lệnh cấm vận mới chỉ khiến cho Bắc Hàn có thêm thời gian để hoàn thành những lời hứa trước đó trong việc đưa ra “các biện pháp trả đũa mạnh mẽ lần hai và lần ba” đối với kẻ thù, và những biện pháp này chưa thực sự được thực hiện kỹ càng trước đó.

“…Chúng tôi cảnh báo nghiêm túc rằng, sẽ tới lúc chúng tôi không thể tránh được cuộc chiến tranh Triều Tiên lần hai, Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, vốn vẫn là con rối trong tay Hoa Kỳ từ năm 1950 và khiến người dân Triều Tiên nuôi mối hận thù vĩnh viễn, không thể thực hiện tội ác đó một lần nữa,” theo bài báo.

Phóng viên của BBC ở Seoul, Lucy Williamson nói phần lớn các nhà phân tích tin rằng Bình Nhưỡng sẽ không khởi chiến với Hoa Kỳ, và thay vào đó có thể sẽ đưa ra phản ứng mới với Washington trước buổi bỏ phiếu của Liên Hợp Quốc.

Nhưng không khí ở vùng bán đảo Triều Tiên căng thẳng hơn bình thường, phóng viên Williamson nói thêm, sau khi Bắc Hàn tuyên bố sẽ phá vỡ thỏa thuận đình chiến vào tuần sau.

Hai quốc gia Triều Tiên thực ra vẫn trong chiến tranh kể từ đợt nội chiến trên bán đảo Triều Tiên 1950-53, kết thúc do thỏa thuận ngừng bắn, không phải dựa trên hiệp ước hòa bình chính thức.

Chỉ huy quân đội Bắc Hàn nói hồi đầu tuần này rằng sẽ kết thúc thỏa thuận trên vào ngày 11/03/2013, dọa sẽ “tấn công mục tiêu” vào láng giềng phía Nam và sử dụng “thiết bị tấn công hạt nhân rất chính xác” để đáp lại lệnh cấm vận và tập trận chung giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn.

Ngoại trưởng Mỹ tặng giải bà Tạ Phong Tần

Bà Tạ Phong TầnBà Tạ Phong Tần là cựu đảng viên Đảng Cộng sản và từng làm việc trong ngành công an

Bà Tạ Phong Tần, bị Việt Nam tuyên án 10 năm tù hồi năm ngoái, được Ngoại trưởng Mỹ tặng giải Phụ nữ Can đảm của Thế giới.

Bấm Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói tân Ngoại trưởng John Kerry cùng Đệ nhất Phu nhân Mỹ Michelle Obama sẽ trao giải cho 10 phụ nữ vào ngày 8/3, đánh dấu Ngày Phụ nữ Quốc tế.

Được thành lập từ năm 2007, giải này được Bộ Ngoại giao Mỹ tặng cho những phụ nữ trên thế giới “chứng tỏ sự dũng cảm đặc biệt và khả năng lãnh đạo để vận động cho quyền và sức mạnh phụ nữ, bất chấp rủi ro cá nhân”.

Thông cáo của chính phủ Mỹ nói bà Tần, với trang blog “ Bấm Công lý và Sự Thật”, lập ra năm 2006, thuộc số những blogger đầu tiên “viết và bình luận về các sự kiện chính trị từ lâu bị giới chức cấm đoán”.

Bà là cựu đảng viên Đảng Cộng sản và từng làm việc trong ngành công an.

Theo phía Mỹ, “sau khi đăng các bài trên mạng phê phán chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, bà bị đuổi khỏi ngành công an và khỏi Đảng”.

Bà bị bắt năm 2011 và bị kết án tù 10 năm trong phiên tòa tháng Chín năm ngoái xử chung với hai người khác, Nguyễn Văn Hải và Phan Thanh Hải.

Tòa phúc thẩm ở TP. HCM tháng 12 năm ngoái y án với ông Nguyễn Văn Hải 12 năm tù và Tạ Phong Tần 10 năm tù sau khi họ không nhận tội “tuyên truyền chống nhà nước”.

Trong phiên xử phúc thẩm, bị cáo thứ ba là ông Phan Thanh Hải được giảm án từ bốn xuống ba năm tù.

Bà Tần từng đăng một số bài báo và trả lời phỏng vấn phê phán Nhà nước Việt Nam và nhiều cán bộ thuộc ngành công an.

Báo Công an Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Bộ Công An, đã từng có bài viết lên án Tạ Phong Tần và gọi trang web của bà là ‘blog độc hại’.

Trong thời gian diễn ra các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc ở Việt Nam, bà Tần than phiền là “bị công an ngăn không cho ra khỏi nhà” khi bà muốn đi dự lễ nhà thờ.

Hồi tháng Sáu năm 2011, bà Tạ Phong Tần Bấm gửi thư đến các đại sứ Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu về việc bị nhà chức trách Việt Nam sách nhiễu.

Nhận giải vắng mặt

10 phụ nữ được Ngoại trưởng Mỹ vinh danh năm nay còn đến từ Afghanistan, Trung Quốc, Ai Cập, Honduras, Ấn Độ, Nigeria, Nga, Somalia, Syria.

Trong đó có nữ sinh 23 tuổi người Ấn Độ, được biết với tên Nirbhaya (Không sợ hãi), đã chết sau vụ cưỡng hiếp tập thể trên xe buýt của Ấn Độ.

Tội ác này đã làm bùng phát các cuộc biểu tình giận dữ trước điều kiện sống nói chung dành cho phụ nữ ở Ấn Độ và trước điều mà công chúng cho là ‘phản ứng yếu kém của cảnh sát’ trước các cáo buộc hãm hiếp.

Giống như bà Tạ Phong Tần, có những người sẽ không thể đến Mỹ nhận giải như bà Tsering Woeser đấu tranh cho nhân quyền của người Tây Tạng.

Một người khác cũng chỉ được ông John Kerry vinh danh vắng mặt là bà Razan Zeitunah, đang tham gia cuộc nổi dậy ở Syria.

Tại Việt Nam, các nhà phê bình tấn công dồn dập Chính phủ trong cuộc tranh luận hiếm thấy

 Chris Brummit (Associated Press)/Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao) luợc dịch

Chris Brummit (Associated Press)/Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao) luợc dịch – Các nhà lãnh đạo Việt Nam tìm cách tăng tính hợp pháp đang bị suy giảm của mình bằng cách yêu cầu công chúng cho các đề xuất về cải cách hiến pháp. Những gì họ nhận được thay vào đó là những chỉ trích công khai hiếm thấy về chế độ độc đảng tại Việt Nam, một nhà báo bị đuổi việc đã trở nên một thanh niên nổi tiếng vì ý kiến bất đồng chính kiến của anh, và một bài học khác về việc Internet đã làm thay đổi các quy tắc của sự điều hành đất nước.

Làn sóng chỉ trích đã đặt ban lãnh đạo Đảng Cộng sản vào thế chống đỡ, dồn áp lực lên họ trong bối cảnh bất mãn lan rộng về sự tham nhũng của các viên chức cao cấp và một nền kinh tế bị trì trệ. Những người đứng sau của những phê phán đó – một nhóm các trí thức và cựu quan chức – nói rằng họ không có ý định ngừng việc làm này của họ.

“Nhiều đồng bào, chiến sĩ của chúng tôi đã hy sinh để xây dựng chế độ hiện nay”, ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch của một tổ chức do Đảng Cộng sản điều khiển tại thành phố Hồ Chí Minh nói. “Đi ngược lại các quyền của người dân là không thể được chấp nhận sau khi máu đã bị đổ để giành lại chúng cho người dân.”

Ông Lê Hiếu Đằng và 71 người khác đã phổ biến một bản dự thảo hiến pháp do họ đề xuất trên Internet để đáp ứng yêu cầu của chính phủ cho phép ​​dân chúng đóng góp ý kiến về dự thảo sữa đổi hiến pháp. Nhóm nhân sĩ và trí thức cũng giao tận tay một bản sao cho Ủy ban chịu trách nhiệm sửa đổi hiến pháp, mà lần đầu tiên trong 20 năm hiến pháp này mới được tu chính lại.

Phiên bản của nhóm này đề nghị loại bỏ Điều 4 – trong đó quy định rằng Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất ở trong nước – và kêu gọi nhiều thay đổi khác mà các quan chức cầm quyền cộng sản thật sự không thích như đề nghi có các cuộc bầu cử tự do và có quyền tự do truyền thông báo chí. Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp (nhóm 72 nhân sĩ trí thức) đã lan tràn nhanh chóng trên các blog trong một quốc gia có 87 triệu dân, hơn một phần ba người sử dụng internet trực tuyến, làm khấy động thêm cho cuộc tranh luận (thay đổi hiến pháp).

Người đứng đầu của Ủy ban sửa đổi hiến pháp nói rằng những vị nhân sĩ và trí thức uy tín này đã đi quá xa.

“Lợi dụng việc thu thập ý tưởng về sửa đổi hiến pháp để tuyên truyền và vận động nhân dân chống đối đảng và nhà nước … cần phải được kiên quyết ngăn chặn”, Nguyễn Sinh Hùng cho biết trong một cuộc họp được chiếu trên truyền hình nhà nước vào tối thứ Tư.

Chính phủ đã yêu cầu dân chúng đưa ra các đề xuất về sửa đổi hiến pháp, được thông báo sâu rộng trên các cơ quan truyền thộng và báo chí vào tháng Giêng, cho biết rằng dân chúng sẽ có ba tháng để làm việc này và đã mở một trang bình luận riêng trên trang web của chính quyền. Bảy mươi hai vị nhân sĩ và trí thức uy tín đã dùng cơ hội này để thử nghiệm mức độ giới hạn về sự sẵn sàng của chính phủ cho việc tranh luận công khai. Hơn 6.000 người đã ký tên ủng hộ phiên bản hiến pháp mới của nhóm được phồ biến trực tuyến trên các blogs xã hội.

“Chúng ta cần có các cuộc thảo luận công khai. Tại sao các ý tưởng đề nghị của nhà nước thì được công bố rành mạch trên các phương tiện truyền thông nhà nước, nhưng lại không công bố những đề nghị nghiêm chỉnh của chúng tôi”. Ông Lê Hiếu Đằng cho biết qua điện thoại từ thành phố Hồ Chí Minh. “Chúng tôi sử dụng Internet”

Việt Nam đã mở cửa nền kinh tế vào những năm 1990, nhưng vẫn giữ một hệ thống chính trị độc đảng khép kín và hiếm khi cho phép công khai bất đồng chính kiến. Những người bất đồng chính kiến thông thường đều bị nhà nước cộng sản Việt Nam kết án tù nhiều năm. Internet đã mở ra những con đường mới cho những người đối lập với chính phủ, qua đó thảo luận về những phương cách khác để điều hành đất nước. Trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam cũng có những căng thẳng giữa những đảng viên cấp tiến và bảo thủ. Họ cũng tìm ra cách riêng của mình để tham gia đóng góp ý kiến tích cực trên các blog xã hội.

Hôm thứ ba, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên bị sa thải bởi lãnh đạo của tờ báo nhà nước (báo Gia Đình & Xã Hội), sau khi anh viết phổ biến trêm blog của anh bài phê phán gắt gao việc Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam công kích nặng nể những người lên tiếng kêu gọi cải cách hiến pháp sâu rộng hơn. Hành động này của anh Kiên đã đưa anh trở thành một người thanh niên trẻ biểu tượng của những người đối lập với chính phủ.

Trong khi việc bám chặc quyền lực của chính quyền (cộng sản Việt Nam) coi như là vững chắc trong lúc này, sự nở rộ của các cuộc thảo luận chính trị công khai có thể làm tệ hại thêm một cảm giác khủng hoảng trong giới lãnh đạo cộng sản chóp bu.

“Các vị lãnh đạo đảng đã mất kiểm soát đối với cuộc thảo luận công khai (thay đồi hiến pháp). Dù muốn hay không, hiện đang có tại Việt Nam một cuộc tranh luận công khai về hiến pháp, ngay cả nhửng đảng viên cộng sản kỳ cựu cũng tích cực tham gia dóng góp ý kiến”, ông Jonathan D. London, một chuyên gia về Việt Nam tại Đại học Thành phố Hồng Kông nói. “Ngăn cấm, bịt miệng (thảo luận thay đổi hiến pháp) vào thời điểm này là việc làm không dễ dàng đâu.”

Chính phủ đang tiến hành sửa đổi hiến pháp, lần đầu tiên kể từ năm 1992, nêu ra lý do là cần thiết để giúp tăng tốc độ phát triển kinh tế của đất nước.

Thay đổi quan trọng nhất trong bản dự thảo trên trang web của chính phủ là việc loại bỏ các quy định về khu vực hoạt động kinh tế của nhà nước “đóng vai trò dẫn đầu” trong nền kinh tế quốc gia. Điều đó cho thấy rằng chính phủ có thể tháo dỡ những doanh nghiệp nhà nước đầy dẫy tham nhũng và không hiệu quả, nhưng lại ngốn hầu hết nguồn tiền của ngân sách quốc gia, và những tập đoàn này bị tố cáo là kẽ đã gây ra những khó khăn về kinh tế của đất nước hiện nay.

Chris Brummit (Associated Press)
http://abcnews.go.com/m/story?id=18615342

Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam luợc dịch
danlambaovn.blogspot.com

Critics Pile on Vietnam Government in Rare Debate

By CHRIS BRUMMITT Associated Press Mar 1, 2013, 1:51 AM

 Vietnam’s leaders sought to boost their flagging legitimacy by asking the public for suggestions on constitutional reform. What they got instead was rare open criticism of one-party rule, a fired journalist turned poster boy for dissent, and another lesson on how the Internet has changed the rules of governance.

The flurry of criticism has put Communist Party chiefs on the defensive, upping the pressure on them amid widespread discontent over high-level corruption and a stuttering economy. Those behind the outpouring — a grouping of intellectuals and former officials — say they have no intention of shutting up.

“Many of our fellow countrymen and soldiers have sacrificed themselves to build this current regime,” said Le Hieu Dang, former vice chairman of a Communist Party-run organization in Ho Chi Minh City. “Going against the rights of the people can’t be tolerated after the blood that has been shed.”

Dang and 71 others released their own proposed constitution on the Internet in response to the government’s request for public comments on its draft. They also handed a copy to the committee in charge of revising the constitution, which is being amended for the first time in 20 years.

Their version removes Article 4 — which stipulates that the Communist Party is the sole political force in the country — and calls for other things anathema to ruling officials such as free elections and free media. It spread quickly on blogs in a country where more than one-third of the 87 million people are online, sparking more debate.

The head of the committee revising the constitution said they had gone too far.

“Abusing the garnering of ideas on the revised constitution to propagandize and lobby for the people to oppose the party and the government … must be resolutely prevented,” Nguyen Sinh Hung said in a meeting shown on state-owned television Wednesday night.

The government asked for suggestions on the proposed constitution revision in January, saying people would have three months to do so and opening up a comments page on its website. The 72 petitioners used the opportunity to test the limits of the government’s willingness to debate. More than 6,000 people have since stated their support for the group’s version online.

“We need to have open discussions. Why are their ideas published in the state media, but not ours?” Dang said by telephone from Ho Chi Minh City. “We use the Internet.”

Vietnam opened up its economy in the 1990s, but retains a closed political system that rarely allows dissent. Long prison sentences are common for dissidents. The Internet has opened up new avenues for those who oppose the government, or discuss alternative ways of governance. Within the party there are also tensions between the old guard and progressives. They too find their way onto blogs.

On Tuesday, journalist Nguyen Dac Kien was fired by his state-run newspaper after he blogged about an attack by the Communist Party chief on those calling for greater constitutional reforms. It’s made Kien into something of a hero for those who oppose the government.

While the government’s grip on power is secure for now, the flowering of open political discussion could deepen a sense of crisis within the ruling elite.

“The party leadership has lost control over the discussion. Like it or not, there is in Vietnam a debate on the constitution, with even longtime party members weighing,” said Jonathan D. London, a Vietnam expert at the City University of Hong Kong. “Bottling it up at this point will be no easy task.”

The government is revising the constitution for the first time since 1992, citing the need to speed up the country’s development.

The most significant change in the draft on the government’s website is the removal of a stipulation that the state sector “plays the leading” role in the national economy. That suggests that the government may dismantle corruption-riddled and unproductive state-owned enterprises that eat up much of the national budget and have been blamed for the current economic difficulties.

Làm thế nào để sớm giải thể chế độ cộng sản Việt Nam

ĐànChimViệt Online,

csvn-dissolutionTrong số 100 triệu nạn nhân trực tiếp của chế độ cộng sản thì số nạn nhân người Việt Nam là 3.000.000 điều này không có nghĩa là ở Việt Nam chỉ có 3 triệu người là nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam mà thực tế phải có hơn 10.000.000 người Việt Nam của cả hai miền Nam-Bắc đã vong mạng vì tham vọng quyền lực của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản, ấy là con số chỉ tính riêng trong thời gian xãy ra cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Miền Nam Cộng Hòa và Miền Bắc Cộng Sản từ 1954 cho đến 1975 mà thôi.

Ngay cả sau ngày từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tức là sau thời điểm mà cuộc chiến ý thức hệ đó đã kết thúc khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm hoàn toàn miền Nam Việt Nam thì số lượng những nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam cũng không vì thế mà dừng lại. Trong số 1.150.000 sỹ quan, hạ sỹ quan và các viên chức hành chánh, lãnh đạo các đảng phái chánh trị, các chức sắc tôn giáo bị tập trung cải tạo trong 80 trại cải tạo được phân bổ trên khắp các vùng miền của cả nước, thì đã có đến 165.000 người đã chết vì bị tra tấn nhục hình, bị hãm đói trong các xà lim biệt giam, hoặc bị bệnh tật mà không được điều trị. Ngoài ra với hàng trăm ngàn người đã vong mạng ở những vùng kinh tế mới phần do bom mìn còn sót lại, phần phì đói khát hoặc ốm đau do sơnlam chướng khí và hơn 1.000.000 người đã chết mất xác trên đường đi tìm tự do từ sau năm 1975… há họ không phải là nạn nhân của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản chăng?

Ngay cả hiện nay, ngoại trừ Bộ Chính Trị và khoảng 4.500.000 đảng viên cộng sản là những kẻ có những đặc quyền đặc lợi từ chế độ cộng sản, còn lại ngót 90 triệu đồng bào Việt Nam kể cả nhân sỹ trí thức đều bị chế độ cộng sản bưng tai, bịt mắt kìm hãm mọi suy nghĩ và hành động không chỉ bằng chính sách ngu dân để biến cả dân tộc Việt Nam thành thiểu năng trí tuệ như toàn thể dân chúng Bắc kỳ trong giai đoạn 1954-1975 vậy, mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam còn dùng cả chuyên chính vô sản, cả bạo lực cách mạng hòng biến cả dân tộc Việt Nam thành những con người chỉ biết cúi đầu cam chịu thân phận nô lệ, nhược hèn và ngu tối. Chính vì vậy mà không lâu sau khi cộng sản Bắc Việt áp đặt nền thống trị sắt máu lên miền Nam, vốn là một xứ sở tự do và nhân bản, thì đã không ít những thân hào, nhân sỹ, những chức sắc tôn giáo của đã đứng lên, thành lập các tổ chức kháng cộng, phục quốc, với mong ước giải phóng đất nước khỏi ách cai trị của cộng sản, phục hồi nền tự do, dân chủ và quyền sống, quyền làm người cho toàn dân. Tiếc thay, các phong trào phục quốc chỉ như những ánh đuốc mới vừa được nhen nhóm lên chưa đủ lớn mạnh, chưa được đều khắp thì đã bị “bạo lực cách mạng” và chuyên chính vô sản dập tắt. Hàng ngàn sỹ phu đã phải ra pháp trường để đền nợ nước, hàng chục ngàn nghĩa sỹ đã phải lụy vào chốn lao tù và chế độ cộng sản càng ngày càng củng cố quyền lực bằng những phiên toà của những kẻ bán nước xét xử người yêu nước và bằng những bản án phi nhân nhằm để khủng bố tinh thần của bất cứ ai nặng lòng với non sông mà toan dấn thân vào con đường phục quốc…

Thế mà đã 38 năm rồi, dẫu cái gọi là “Hệ Thống Xã Hội Chủ Nghĩa” đã hoàn toàn tan rã, Liên Bang Xô Viết, cái tiền đồn của Xã Hội Chủ Nghĩa, nơi khai sáng ra cái chủ thuyết cộng sản cũng đã phá sản hoàn toàn và những con người một thời lầm lạc để gieo đau thương, tang tóc và đói nghèo, lạc hậu cho dân tộc của họ đã biết sám hối, ăn năn và quay về với thế giới tự do, trong khi đó, các lãnh đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn, đó là tiến lên XHCN, nhằm tiếp tục biến dân tộc Việt Nam thành một sắc tộc di rợ, như Choang, Tạng, Mãn, Hồi… của Trung cộng và từng bước biến Việt Nam thành một tỉnh trực thuộc chính quyền Trung Ương của Trung Cộng ở Bắc Kinh… Để thực hiện việc đó, từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cho đến Nguyễn Mạnh Cầm, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng… đã lần lượt ký các công hàm, các hiệp ước về biên giới và từng bước chuyển giao chủ quyền biển đảo, đất rừng đầu nguồn, đất đai vùng biên giới phía bắc và cả đất Tây Nguyên cho Trung cộng, để đến nỗi ngay cả những ngư dân, những nông dân quanh năm chân lấm tay bùn cũng dễ dàng nhận thấy một đại họa mất nước đang đến thật gần, một nguy cơ cả dân tộc Việt Nam sẽ bị Hán hóa là chuyện không còn xa nữa.

Hàng triệu người dân Việt ở quốc nội cùng thừa hiểu rằng chỉ có giải thể hoàn toàn chế độ cộng sản và thành lập một chính phủ dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng cùng cạnh tranh lành mạnh trong công việc lãnh đạo và điều hành đất nước mới có thể là giải pháp duy nhất để ngăn chặn một đại họa mất nước và một nguy cơ cả dân tộc bị Hán hóa. Nhưng làm sao để giải thể chế độ cộng sản là vấn đề cần được bàn thảo và kỷ để có cùng một quyết tâm cao, muôn người như một, đồng sức đồng lòng thì mới mong chúng ta có thể đánh sụp được chế độ cộng sản Việt Nam như các nước Cộng Sản Đông Âu đã làm được từ ngót một phần tư thế kỷ qua, vào cuối thập niên 80s của thế kỷ trước. Dù vậy, nhiều người Việt Nam vẫn tỏ ra bi quan về hiện tình của đất nước Việt Nam cũng như khả năng sụp đổ của chế độ cộng sản Việt Nam.

Hẳn nhiều người vẫn còn nhớ, ngoài Liên Bang Xô Viết từng có tiếng súng, kể cả các cuộc cường kích bằng trọng pháo và thậm chí có đổ cả máu xương nữa khi nhân dân Nga tiến hành cuộc cách mạng giải thể chế độ cộng sản Liên Xô vào “Mùa Thu Cộng Sản” 1991, còn lại các nước Ba Lan, Đông Đức, Hungary, Bungary, Romania… đều âm thầm đào huyệt chôn vùi chế độ cộng sản mà không cần phải có tiếng kèn, tiếng trống chứ đừng nói chi đến tiếng súng. Bởi chính chế độ trung ương tập quyền và nền kinh tế kế hoạch là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và là lý do chính yếu dẫn đến sự sụp đổ của các nước cộng sản đó, vì nếu không tự giải thể chế độ cộng sản và quay lại với thế giới tự do với thể chế chính trị dân chủ, đa nguyên, với nền kinh tế thị trường, mà cộng sản gọi là chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa, thì chắc chắn là không thể tránh khỏi một thảm kịch nhân đạo là cả dân tộc phải chết đói. Tuy nhiên, đối với Việt Nam có một số người dự đoán rằng cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ vào năm 2014 hoặc 2015 thực ra là một lạc quan tếu, vì hoàn toàn không có cơ sở khoa học nào cả. Những dự đoán mang tính lạc quan tếu đó có thể làm thỏa mãn tâm lý của phần đa các cá nhân và tổ chức chống cộng, cho nên người ta không cần suy lý, mà cứ tin như thế để tự “sướng”. Cũng bởi lý do đó mà hễ người nào đưa ra nhận định rằng chế độ cộng sản Việt Nam khó mà sụp đổ trong vài ba năm tới, thì rất dễ bị chụp cho cái nón cối trên đầu và đôi dép râu dưới chân, bởi những thứ đó vốn free, nên muốn chụp cho ai thì cứ chụp, chẳng tốn kém gì. Tuy nhiên “Thuốc đắng đả tật, lời thật mếch lòng”: lời nói thật bao giờ cũng khó nghe hơn những lời ton hót, nịnh nọt và giả dối, “Trung ngôn nghịch nhĩ” mà! Dẫu vậy, nếu chúng ta không dám sống thật, không dám đối diện với sự thật mà chỉ quen lừa dối với chính mình bằng những ảo tưởng, hoang tưởng để tiếp tục đi đến tương lai bằng những mơ mộng hão huyền thì thật khó, vô cùng khó để chúng ta đạt được thành công như mong muốn trong công cuộc đấu tranh giải thể chế độ cộng sản, giành lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân.

Trong tinh thần dám đối diện với sự thật, chúng ta hãy nhìn về quá khứ, trước khi định hướng cho những công việc cần thực hiện trong tương lai, để chúng ta dễ dàng nhìn thấy những thực trạng khó khăn trong cuộc đấu tranh hiện nay với chế độ cộng sản khi chúng ta thấy ra rằng trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1954 cho đến 1975, chính phủ Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa có 26 tỷ Mỹ Kim, tức là xuyên suốt cuộc chiến tranh ý thức hệ tại Việt Nam kéo dài 21 năm đó, bình quân mỗi năm chính phủ Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa 1,3 tỷ Mỹ Kim mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đánh cho Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc Việt phải hồn xiêu phách lạc. Chỉ đến khi Mỹ rút hết quân đội về nước, mức việc trợ bị cắt giảm xuống còn 701 triệu Mỹ Kim vào năm tài khóa 1974-1975 thì Việt Nam Cộng Hòa mới thiếu khí tài, đạn dược, mới thất thủ trước cộng quân Bắc Việt. Trong khi đó, trong những năm gần đây, mức Kiều hối do Kiều Bào Việt Nam ở nước ngoài gởi về nước cứ tăng dần hàng năm theo cấp số nhân mà theo thống kê của ngân hàng nhà nước cộng sản Việt Nam thì tổng mức Kiều hối năm 2012 là 10 tỷ Mỹ Kim, quả là một con số khổng lồ khó tưởng tượng được! Nếu chúng ta thử làm một phép so sánh đơn giản 1,3 tỷ Mỹ Kim/năm và 10 tỷ Mỹ Kim/năm thì chúng ta sẽ hiểu được tiềm năng kinh tế của cộng sản Việt Nam hiện nay để tin rằng dù tham nhũng đến phá sản hàng loạt các công ty để tăng số nợ công lên hàng trăm ngàn tỷ đồng, nhưng Việt Nam vẫn khó bị khủng hoảng kinh tế. Đó là chưa kể đến những nguồn lợi khác do bán biển đảo, bán đất rừng đầu nguồn, bán đất Tây Nguyên, bán các loại tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi từ xuất cảng lúa gạo và các loại nông sản, hải sản thu mua từ nông dân, ngư dân với giá rẽ mạt và cả nguồn lợi khổng lồ từ việc xuất khẩu lao nô hay xuất khẩu cô dâu Việt.

Nói tóm lại, việc Kiều bào từ nước ngoài gửi tiền về để giúp đỡ thân nhân bà con ở quê nhà là một việc làm rất hợp với đạo lý “lá lành đùm lá rách” của người Việt. Tuy nhiên việc mang tiền về nước đầu tư kinh doanh với cộng sản, hay gởi tiền về quá nhiều để thân nhân ở Việt Nam đầu tư kinh doanh và làm giàu cho đất nước, hay thậm chí về Viêt Nam du lịch, hưởng thụ để mang nguồn lợi kinh tế đến cho Việt Nam, thực ra là một hình thức “viện trợ nhân đạo” cho cộng sản Việt Nam, giúp Việt Nam thoát khỏi nạn khủng hoảng kinh tế, để chế độ cộng sản Việt Nam tiếp tục tồn tại, tiếp tục buôn dân bán nước, tiếp tục biến đất nước Việt Nam thành một lãnh thổ của Trung cộng và biến Người Việt Nam thành một sắc tộc Thiểu Số bên cạnh các sắc tộc Choang, Hồi, Tạng, Hán, Mông… của Trung cộng.

Bởi những lẽ đó, chúng tôi nghĩ rằng bao giờ chế độ cộng sản Việt Nam sẽ bị diệt vong, bao giờ đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị giải thể là do chính các cộng đồng người Việt Quốc Gia ở hải ngoại quyết định, là do Kiều bào Việt Nam đang định cư trên toàn thế giới toàn quyền quyết định. Theo đó, với những luận cứ khoa học về thực trạng kinh tế của cộng sản Việt Nam, chúng tôi tin rằng, nếu Kiều Bào Việt Nam cấm vận Kiều hối đối với cộng sản Việt Nam trong vòng một năm, tức là ngưng hoàn toàn việc chuyển tiền về cho thân nhân ở quê nhà, ngưng du lịch về Việt Nam, ngưng về Việt Nam đầu tư… chỉ trong vòng một năm thôi thì chúng ta chúng ta đã kết liễu được chế độ cộng sản Việt Nam mà không cần một tiếng súng: Những tên cộng sản sẽ tự đào mồ chôn chế độ cộng sản khi không còn bất cứ sự “viện trợ nhân đạo” nào đến từ các cộng đồng người Việt Quốc Gia.

Mong lắm thay!

Đầu Năm Quý Tỵ 2013

© Nguyễn Thu Trâm, 8406

Hồng y VN đi Rome bầu Giáo hoàng

Vatican sẽ tổ chức bầu giáo hoàng kế nhiệm Đức Benedict XVI vừa thoái vị

Hồng y Phạm Minh Mẫn sắp lên đường đi Rome tham dự mật viện bầu giáo hoàng kế nhiệm Đức Benedict XVI vừa thoái vị, Tòa Tổng giám mục giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, nơi cha Mẫn cai quản, vừa cho BBC biết.

Đức Cha Mẫn sẽ lên đường từ thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 6h chiều nay, thứ Tư ngày 6/3 giờ địa phương, và sẽ ở lại Vatican đến ngày 21 tháng này, Tòa Tổng giám mục cho biết.

Cũng theo Tòa Tổng giám mục, trong thời gian lưu lại Vatican, Đức Cha Mẫn chỉ tham dự mật viện ngoài ra không tham gia hoạt động nào khác.

Hồng y John Baptist Phạm Minh Mẫn năm nay 79 tuổi (sinh năm 1934 tại Cà Mau). Ông là một trong số 117 vị hồng y chưa đến 80 tuổi trên khắp thế giới có quyền bỏ phiếu bầu Giáo hoàng.

Hai lần bỏ phiếu

Như vậy với lần tham gia mật nghị này, Cha Mẫn là người Việt Nam đầu tiên hai lần bỏ phiếu bầu Giáo hoàng.

Hồi năm 2005, ông cũng từng tham dự mật viện mà sau đó đã đưa Benedict XVI lên thành người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã.

Trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Ý trước giờ lên đường, hôm thứ Ba ngày 5/3, Cha Mẫn nói rằng ‘quốc tịch và địa lý’ không phải là vấn đề trong việc bầu giáo hoàng mà phải bầu ra vị nào đủ khả năng ‘giải quyết những thách thức của Giáo hội’.

“Tôi nghĩ rằng vị Giáo hoàng mới nên quan tâm nhiều hơn đến việc cai quản nội bộ đồng thời phải tìm ra con đường chạm đến trái tim con người trong thời đại biến đổi mau chóng của chúng ta,” ông nói.

“Tôi nghĩ vị Giáo hoàng của thập niên thứ hai thế kỷ 21 phải là người thấu hiểu tình hình và văn hóa Đông Tây, nắm bắt những thách đố của xã hội Âu-Á.”

Hồng y Phạm Minh Mẫn

Những thách thức của Giáo hội ở châu Á mà vị giáo hoàng sắp tới phải giải quyết, theo Cha Mẫn, là ‘toàn cầu hóa và thế tục hóa’.

“Các vị giám mục ở Á châu đã chỉ ra rằng để đối phó với những thách thức này, chúng ta cần có những người truyền bá Phúc âm nhạy cảm với những nguyện vọng của con người và những vấn nạn xã hội trong thời đại chúng ta,” ông nói với hãng thông tấn Ý.

Ông cho biết bản thân ông bất ngờ trước quyết định thoái vị của Đức Benedict XVI nhưng ‘với Đức tin, chúng tôi đã nhìn nhận những bài học mà Giáo hoàng Benedict XVI đã để lại, nhất là đức tính khiêm nhường và vô ngã của Ngài’.

Trước đó, hôm 22/2, khi trả lời cho tạp chí Công giáo và Dân tộc ở trong nước, Hồng y Phạm Minh Mẫn nói rằng ông ‘cảm thấy dư chấn (của việc Giáo hoàng Benedict XVI từ nhiệm) kéo dài liên tục trong hơn 10 ngày qua khắp nơi mà tôi đến thăm trong dịp Tết, trong thành phố cũng như khắp đồng bằng sông Cửu Long’.

Cũng trong bài phỏng vấn này, ông nói ông mong giáo hoàng tương lai ‘là người bước đi trong đường lối đối thoại và hợp tác mà Công Đồng Vatican II đã mở ra’.

“Tôi nghĩ vị Giáo hoàng của thập niên thứ hai thế kỷ 21 phải là người thấu hiểu tình hình và văn hóa Đông Tây, nắm bắt những thách đố của xã hội Âu-Á,” ông nói.

Công khai kết luận thanh tra Đà Nẵng

bbc, 5 tháng 3, 2013

TP Đà NẵngTP Đà Nẵng là đô thị thuộc Trung ương quản lý

Thanh tra Chính phủ vừa tổ chức công bố công khai kết luận thanh tra đất đai ở Đà Nẵng cũng như trách nhiệm của lãnh đạo thành phố vào hôm thứ Ba 5/3, theo báo Tuổi Trẻ.

Trước đó, hồi tháng 1, Thanh tra Chính phủ đã công khai nhiều sai phạm của lãnh đạo Đà Nẵng trogn quản lý đất đai giai đoạn 2003-2011, gây thiệt hại cho ngân sách ước tính hơn 3.400 tỷ đồng.

Kết quả thanh tra gây chấn động này được bình luận là có liên quan tới uy tín của ông Nguyễn Bá Thanh, người vừa được bổ nhiệm vào vị trí Trưởng ban Nội chính Trung ương Đảng, phụ trách chính sách chống tham nhũng, vì trong thời gian bị thanh tra ông Thanh đã nắm vị trí Bí thư thành ủy.

Tuy nhiên, biên bản thanh tra không nhắc tới tên ông Nguyễn Bá Thanh, mà chỉ có ông Trần Văn Minh, người giữ chức chủ tịch từ năm 2004-2011 và hiện là Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương.

Chủ tịch hiện nay, ông Văn Hữu Chiến, trong thời kỳ thanh tra là phó chủ tịch.

Trong cuộc công bố công khai trực tiếp kết quả thanh tra tới đối tượng thanh tra là TP Đà Nẵng, Phó tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Đức Hạnh được dẫn lời nói trong quá trình thanh tra, TP Đà Nẵng “có văn bản giải trình nhưng cơ quan thanh tra không chấp nhận những giải trình này”.

Đà Nẵng chưa nói gì

Theo Thanh tra Chính phủ, đối tượng thanh tra đã có dấu hiệu “cố ý làm trái, vi phạm các quy định của pháp luật đất đai và đầu tư xây dựng; hành vi chuyển nhượng đất trái pháp luật thu lợi số tiền lớn, gây thất thu ngân sách nhà nước”.

Sau khi nhận kết quả thanh tra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý với các kiến nghị của Thanh tra Chính phủ gồm: kiểm điểm chủ tịch, các phó chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, các tổ chức, cá nhân có liên quan (thời kỳ 2003-2011) đã vi phạm quy định về quản lý sử dụng đất đai liên quan đến việc xác định giá thu tiền sử dụng đất, giảm tiền sử dụng đất phải nộp, gây thất thu ngân sách hơn 3.434 tỉ đồng.

Ông Nguyễn Bá ThanhKết quả thanh tra đất đai ở Đà Nẵng có thể ảnh hưởng uy tín ông Nguyễn Bá Thanh

Ông Dũng cũng chỉ đạo phải thu hồi triệt để về ngân sách số tiền phải nộp.

Cho tới nay, được biết lãnh đạo Đà Nẵng chưa có văn bản ý kiến nào về cuộc thanh tra này. Cổng thông tin điện tử của thành phố ngoài bài phản bác kết quả thanh tra, cũng chưa tường thuật gì thêm.

Trong khi đó ông Nguyễn Bá Thanh đã chính thức ra hẳn trung ương, để vị trí bí thư Thành ủy cho ông Trần Thọ, Phó Bí thư Thường trực.

Tuy nhiên ông Thanh vẫn còn kiêm nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng do chưa tìm được người thay thế.

Nhân sự Ban Nội chính

Trong diễn biến có liên quan, Thông tấn xã Việt Nam cho hay một buổi lễ công bố, trao quyết định các Phó trưởng ban Ban Nội chính Trung ương đã được tổ chức tại Hà Nội sáng 5/3.

Tại đây, ngoài ông trưởng ban Nguyễn Bá Thanh còn có mặt ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.

Ban Nội chính chính thức có ba phó ban, là các ông Phan Đình Trạc, Nguyễn Doãn Khánh và Phạm Anh Tuấn.

Ông Phan Đình Trạc mới đây làm Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XIII tỉnh Nghệ An.

Ông Nguyễn Doãn Khánh vừa rời cương vị Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Phú Thọ và ông Phạm Anh Tuấn từng là Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.

Phải thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam!

Đỗ Nam Hải (Danlambao) – Chúng ta không đoàn kết, dân tộc đã bị phân hóa sâu sắc và toàn diện! Chúng ta không thắng lợi, đất nước đã bị thất bại cả trong xây dựng và cải tạo, với hàng loạt các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội nối tiếp nhau phá sản! Chúng ta không tiến lên, chúng ta đã bị tụt hậu toàn diện và quá xa so với các nước trong khu vực và thế giới! Mà vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là: cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là một Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước!…

I – Những cảm xúc về ngày 30/4/1975: 

Đường giải phóng mới đi một nửa

Nửa mình còn trong lửa nước sôi 

Một thân không thể chia đôi 

Lửa gươm không thể cắt rời núi sông 

(trích: Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu – 1960) 

Tố Hữu là nhà thơ cộng sản, ông có nhiều bài thơ mà nội dung của chúng gắn chặt với các Nghị quyết, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Miền Nam chính là phần Nửa mình còn trong lửa nước sôi mà ông muốn thể hiện trong 4 câu thơ trên. Bài thơ này được ông sáng tác sau khi Nghị quyết 15 của Đại hội II – Đảng lao động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt Nam) ra đời gần 1 năm. Trong Nghị quyết có đoạn:

“Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Miền Nam là giải phóng Miền Nam; nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ; phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang…” 

Ngay sau đó là sự thành lập Đường 559, tháng 5/1959, tiền thân của Đường mòn Hồ Chí Minh sau này để đưa người và vũ khí vào miền Nam; là cuộc đồng khởi ở Bến Tre, cuối năm 1959 đầu 1960; là sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, 20/12/1960; thành lập Quân Giải phóng miền Nam, 15/2/1961, thành lập Đường Hồ Chí Minh trên biển, 23/10/1961,… Tất cả là để thực hiện đến cùng những nhiệm vụ mà Nghị quyết 15 trên đã chỉ ra.

Rồi ngày 30/4/1975 đến. Nhớ lại buổi trưa hôm đó ở Hà Nội, cả lớp 9 chúng tôi đang học tiết cuối thì thầy giáo dạy sử chạy dọc hành lang hét lớn: “Sài Gòn giải phóng rồi, miền Nam giải phóng rồi, các em ơi!”. Cả lớp, rồi cả trường tôi bỗng chốc như vỡ òa. Mọi người cùng đổ xuống sân trường reo hò ầm ĩ trong không khí rộn ràng của ngày hội lớn. Ai nấy đều vui mừng khôn xiết, nhiều người rưng rưng nước mắt. Tất cả đều hướng về Sài Gòn, về miền Nam thân yêu. Trong khung cảnh đó, tự nhiên tôi nghĩ đến những lời của bài hát Em đi thăm miền Nam mà lũ trẻ chúng tôi ở miền Bắc thời đó rất thích:

Em chỉ mong một ngày thống nhất

Khi ấy không còn nhịp cầu cách ngăn

Đoàn em múa cười xúm quanh Bác Hồ

Thiếu niên hai miền chung sống ngày tự do.

Nhiều ông bố, bà mẹ cũng đã dùng bài hát này để làm điệu hát ru con. Cuối năm 1975, tôi theo gia đình vào miền Nam. Qua thực tế, tôi và những người bạn cũng mới từ miền Bắc vào như tôi đều rất ngỡ ngàng khi nhận ra rằng: đa số người dân miền Nam mà chúng tôi có dịp gặp gỡ, tiếp xúc lại không hề có nhu cầu về cuộc “giải phóng” này! Nhớ là hồi đó, tôi đã tự hỏi mình: vậy thì cái phần Nửa mình còn trong lửa nước sôi là “nửa” nào?

II – Sự nguy hiểm của chế độ chính trị độc đảng toàn trị đối với dân tộc Việt Nam: 

Hơn 1 năm sau ngày 30/4/1975, Nghị quyết Đại hội IV Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), tháng 12/1976 có đoạn: “Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã toàn thắng… Thắng lợi ấy làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn nhất và dài ngày nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của tên đế quốc đầu sỏ, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, thu hẹp và làm suy yếu hơn nữa hệ thống đế quốc chủ nghĩa, củng cố tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam châu Á, mở rộng và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các lực lượng cách mạng trên thế giới.”

Đối với những người lãnh đạo trong ĐCSVN, họ coi như đã đi trọn vẹn con “đường giải phóng” mà Tố Hữu đã đề cập trong đoạn thơ trên. Và kể từ đây thì Đường lên chủ nghĩa xã hội thênh thênh rộng mở. Chúng ta đoàn kết, chúng ta xây dựng, chúng ta cải tạo, chúng ta tiến lên! Thế nhưng, hơn 37 năm đã trôi qua, nếu đối chiếu với hiện tình Việt Nam hôm nay với những “quyết tâm chính trị” kia của ĐCSVN thì ai cũng thấy là kết quả đã lộn ngược: Chúng ta không đoàn kết, dân tộc đã bị phân hóa sâu sắc và toàn diện! 

Chúng ta không thắng lợi, đất nước đã bị thất bại cả trong xây dựng và cải tạo, với hàng loạt các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội nối tiếp nhau phá sản! 

 Chúng ta không tiến lên, chúng ta đã bị tụt hậu toàn diện và quá xa so với các nước trong khu vực và thế giới! 

Mà vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là: cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là một Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước! 

Cũng trong khoảng thời gian trên, Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đứng đầu là Liên Xô đã sụp đổ tan tành. Bốn nước còn sót lại là Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba đều có điểm xuất phát thấp hơn hẳn những nước kia, và nay thì hết thảy đều trong cảnh chợ chiều, rã đám. Nó đang lụi tàn hàng ngày hàng giờ, xét cả về 2 mặt quan hệ sản xuất cũng như tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất “xã hội chủ nghĩa”. Những luận điểm đại loại như: Dưới chủ nghĩa xã hội, Quy luật năng suất lao động không ngừng tăng lên, để từ đó: Của cải xã hội tuôn ra rào rạt mà các nhà lý luận Mác xít vẫn thường rao rảng không biết nhàm chán thì nay, nó chỉ còn là trò cười ra nước mắt đối với những người dân sống trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa.

Trên chính trường Việt Nam, những người lãnh đạo trong ĐCSVN qua nhiều thế hệ, trước sau như một đều cương quyết không chấp nhận sự ra đời và không chấp nhận sự cạnh tranh với các đảng phái khác. Điều này chính là nguyên nhân gốc nảy sinh ra một hệ thống chính trị từ trung ương xuống địa phương và cơ sở cực kỳ tàn ác, chuyên quyền, hư hỏng, tham nhũng và lãng phí.

Ngay cả ông Trương Tấn Sang, hiện là Ủy viên Bộ chính trị ĐCSVN, Chủ tịch nước CHXHCNVN trong tháng 5/2012 vừa qua cũng đã phải thừa nhận một phần về hiện tình đất nước: So với mục tiêu ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, chúng ta làm chưa tới, chưa thành công… Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm… 

Ở Việt Nam hôm nay không phải như Lê Nin từng nói: Cách mạng là sự nghiệp, là ngày hội của quần chúng mà chính tham nhũng mới thật sự “là ngày hội, là sự nghiệp” của nhiều người! Chỉ có điều là khi mà “sự nghiệp” của họ càng “đại thành công” bao nhiêu thì sự nghiệp của cả dân tộc lại càng đại thất bại bấy nhiêu!

Đỗ Nam Hải và Nguyễn Hộ

Như trong bài Việt Nam Đất Nước Tôi, viết vào tháng 6/2000 tôi cũng đã có dịp trình bày: Khi nồi canh có một con sâu đã là “rầu” rồi, nhưng nếu nồi canh ấy đầy sâu thì vấn đề là phải xét lại chính “người nhặt rau”, hay nói chính xác hơn là phải xét xem tại sao lại có cái “cơ chế nhặt rau” tai hại ấy! Theo tôi, nếu không có sự thay đổi sớm thì một nền kinh tế Việt Nam với nợ nần lút đầu, mất khả năng chi trả; đất nước bị xé lẻ ra để bán; vốn trong các xí nghiệp quốc doanh hoặc các liên doanh có một bên góp vốn thuộc sở hữu nhà nước chuyển dần sang tư nhân bằng nhiều cách khác nhau là sẽ ngày càng trầm trọng, dẫn tới nguy cơ mất nước kiểu mới.

… Cũng từ sự bất lực trước quốc nạn tham nhũng, cộng với sự bất lực trước quốc nạn buôn lậu và sự cực kỳ lãng phí của công đã làm cho nạn hàng giả, hàng nhập lậu trốn thuế tràn vào bóp nghẹt hàng nội địa. Hậu quả là sản xuất đi xuống và nạn thất nghiệp đi lên. Nó đẩy hàng triệu nông dân Việt Nam – thành phần chiếm gần 80% dân số từ các vùng thôn quê đổ về những thành phố để kiếm sống lây lất qua ngày; đẩy hàng trăm ngàn trẻ em Việt Nam phải bỏ học để vào đời sớm và cũng đẩy hàng trăm ngàn những cô gái Việt Nam phải bước vào cuộc sống dưới ánh đèn đêm,…

Trong chế độ độc đảng toàn trị, với bộ máy “chuyên chính vô sản” đồ sộ nắm trong tay đã cho phép nó có khả năng thủ tiêu mọi ý kiến phản biện xuất phát từ lòng dân tộc. Đặc biệt là những ý kiến phản biện đến tận cùng, liên quan đến chế độ chính trị lỗi thời, phản dân chủ và phản dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Đó là nguyên nhân gốc dẫn tới mọi mối quốc nạn và quốc nhục mà dân tộc ta đã và đang phải trải qua. Vì vậy, cái xấu cái ác đã ngày càng lộng hành ngang ngược mà không có một bộ phanh, một lực lượng dân tộc nào làm đối trọng, khả dĩ có thể kìm hãm được.

Nhìn vào những tổ chức chính trị, xã hội lớn ở Việt Nam hiện nay như: Quốc Hội nước CHXHCNVN, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hay Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN,… chúng ta càng thấy rõ hơn cho nhận định này. Thực chất, đó cũng chỉ là những cụm cây cảnh không hơn, không kém nhằm tô vẽ thêm cho cái gọi là “Vườn hoa dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà thôi. Sự kiện có quyết định kỷ luật hay không kỷ luật “một đồng chí Ủy viên Bộ chính trị” tại Hội nghị Trung ương 6, diễn ra vào đầu tháng 10/2012 vừa qua là một ví dụ khá điển hình: nhân dân tẽn tò, đảng viên tẽn tò, làm gì nhau nào!

Ở Việt Nam, nếu ai phản biện và muốn có sự thay đổi về chất chế độ chính trị thì ngay lập tức, toàn bộ cái hệ thống chính trị kia sẽ vội lu loa lên rằng: Đó là bọn phản động cực đoan trong nước, ham danh hám lợi bị các thế lực thù địch bên ngoài mua chuộc, lôi kéo, giật dây để thực hiện diễn biến hòa bình. Ý đồ của chúng là lợi dụng các quyền tự do dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa tươi đẹp để phá hoại Khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại cuộc sống yên lành của nhân dân. Mục tiêu cuối cùng của chúng là lật đổ chế độ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam. 

Tất nhiên, “bọn phản động” sẽ bị “cỗ máy nghiền” vào cuộc để “bề hội đồng”, với vô số những chiêu trò độc ác, tiểu nhân. Trong khi những người bị đàn áp không hề có một tấc sắt, một gam thuốc nổ trong tay thì bên kia là một lực lượng hùng hậu, với súng đạn, nhà tù và “một nền pháp trị xã hội chủ nghĩa tam quyền… nhập một”! Ai là người trong cuộc, ắt là hiểu rất rõ điều này!

Đúng như Milovan Djilas (1911 – 1995), nguyên là Phó tổng thống Nam Tư dưới thời Tổng thống Josept Tito đã viết trong cuốn sách Giai Cấp Mới của ông như sau: Các nhà cách mạng và các cuộc cách mạng không bao giờ từ chối sử dụng các biện pháp vũ lực và đàn áp. Nhưng chưa có cuộc cách mạng nào, chưa có nhà cách mạng nào lại sử dụng bạo lực một cách có ý thức, đưa bạo lực thành hoàn thiện, thành công việc thường ngày như những người cộng sản. 

Xét trong toàn Hệ thống xã hội chủ nghĩa, sự tập trung quyền lực ở mức độ cao chưa từng có trong lịch sử loài người vào trong tay duy nhất một Đảng cộng sản cầm quyền. Sau đó lại dồn tiếp cho một nhóm người chính là mảnh đất thuận lợi dẫn tới tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Nó đã sản sinh ra những nhà lãnh đạo độc đoán chuyên quyền, sẵn sàng đem cả dân tộc ra để đánh những canh bạc xả láng. Ở Việt Nam cũng vậy, kể từ ngày 2/9/1945 đến nay thì “nhân dân anh hùng” xét cho cùng chỉ là công cụ đáng thương để cho các thế hệ lãnh đạo trong ĐCSVN nối tiếp nhau lừa mỵ, bóc lột và sẵn sàng hy sinh họ. Trước đây trong chiến tranh là vậy và nay, khi các cuộc chiến tranh đã lùi xa nhiều năm rồi cũng vẫn là như vậy!

III – Những lời thay cho kết luận: 

Cách đây khoảng 40 năm, có một người lính ra đi từ mái tranh nghèo từ vùng quê Thái Bình. Ngày 29/4/1975, anh đã ngã xuống tại vùng đất Củ Chi – Cửa ngõ Sài Gòn. Người mẹ già của anh hơn 30 năm khóc con Nước mắt tưởng khô, mấy chục năm không khô nổi. Những đồng đội của anh sau những cố gắng đã giúp đưa được hài cốt của anh về quê. Mẹ anh và gia đình muốn để anh ở nhà trống kèn một ngày một đêm rồi mới đưa anh ra nghĩa trang huyện. Lúc ra đi, con mẹ là một thanh niên cường tráng; nay trở về, con mẹ là một hình hài bé thơ. Một bài thơ do đồng đội của anh làm, có tên Đêm cuối cùng mẹ ru con đã ra đời trong dịp ấy:

... Tám mươi tuổi mẹ lại bồng con, vườn nhà nức nở 

Mẹ bồng con à ơi 

Hài cốt quấn vuông vải mới 

Có tã lót nào đau xé lòng đến thế? 

Mẹ ru con quằn quại tiếng trống kèn 

Ngủ đi con 

Đêm nay mẹ ru con lần cuối…

Có lẽ không ai trong chúng ta khi đọc những vần thơ trên lại không khỏi xúc động đến rơi nước mắt, cho dù trong chiến tranh họ từng ở phía bên này hay phía bên kia. Thời gian như một phép mầu đã giúp cho tình tự dân tộc và tính nhân bản của người Việt Nam dần được phục hồi và chiến thắng tất cả. Nó có khả năng hàn gắn được tốt những vết thương của một thời đã bị cuộc chiến tranh lâu dài gây ra. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống.

Nhưng một điều cũng rất hợp với quy luật là: khi những vết thương ngày càng được hàn gắn tốt bao nhiêu thì lại càng bộc lộ sâu sắc hơn mâu thuẫn cơ bản trong lòng dân tộc ta hôm nay bấy nhiêu. Đó là mâu thuẫn giữa đại bộ phận dân tộc với một thiểu số nắm thực quyền đang cố duy trì cái thể chế chính trị độc đảng toàn trị ở Việt Nam. Mâu thuẫn này là đối kháng, không có cơ sở dung hòa, khi mà nguyên nhân sinh ra nó vẫn còn nguyên!

Theo tôi, con đường đúng đắn duy nhất của dân tộc ta hôm nay là phải dân chủ hóa được thực sự đất nước bằng con đường hòa bình, bất bạo động. Cụ thể là phải thay thế được một cách triệt để chế độ chính trị ở Việt Nam. Rằng: Muốn chống áp bức, bất công, đói nghèo, tụt hậu; muốn hoàn thành những mục tiêu của một nước Việt Nam mới nhằm hòa nhập được tốt vào thế giới hiện đại; ngoài con đường dân chủ, đa nguyên, đa đảng và pháp trị, nhân dân Việt Nam không còn con đường nào khác!

Việt Nam, tháng 11/2012.

Kéo dài thời gian góp ý Hiến pháp

Hình minh họaĐảng Cộng sản nói việc góp ý Hiến pháp phải ‘đúng đường lối’

Thời gian góp ý sửa đổi Hiến pháp vừa được kéo dài từ hạn 31/3 sang cột mốc mới là 30/9, theo văn bản được Chủ tịch Quốc hội Việt Nam ký hôm 6/3.

Ông Nguyễn Sinh Hùng nói trong Công thư rằng các địa phương sẽ tiếp tục “tổng hợp đầy đủ các ý kiến góp ý của nhân dân và gửi về Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp”.

Dự kiến Quốc hội sẽ xem xét để thông qua Hiến pháp mới tại kỳ họp tháng 10 năm nay.

Trong Công thư, ông Hùng nói “theo báo cáo của các địa phương, nhân dân tin tưởng, phấn khởi, cơ bản đồng tình với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp”.

Ông nhắc lại “cần kịp thời đấu tranh, ngăn chặn việc lợi dụng góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để truyền bá những quan điểm sai trái, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta”.

Cùng ngày, trong một cuộc họp, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói “phải phản bác” những nội dung góp ý Hiến pháp trái với đường lối của Đảng Cộng sản.

Người là Trưởng Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 phát biểu ở Hội nghị trực tuyến về việc lấy ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hôm 6/3.

Theo trang web Chính phủ, ông Phúc nhận định “những nội dung góp ý trái với đường lối của Đảng cần phải phản bác lại trên cơ sở lý luận khoa học”.

Còn báo điện tử VnExpress dẫn thêm lời Phó Thủ tướng nói: “Đa nguyên chính trị, đa đảng, xóa bỏ điều 4, đòi phi chính trị hóa quân đội, tư nhân hóa đất đai. Những vấn đề đó rất nhạy cảm nên cần bày tỏ rõ quan điểm.”

Ông Phúc “yêu cầu các cơ quan tổng hợp phải có cơ sở lý luận để phản bác lại các ý kiến sai lệch với đường lối lãnh đạo của Đảng,” theo tờ báo.

Cảnh cáo

Trước đó, các lãnh đạo chóp bu, gồm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, đều lên tiếng kêu gọi ngăn chặn “lợi dụng” để “phá hoại” trong vấn đề Hiến pháp.

Trên mạng internet thời gian qua xuất hiện không ít‎ ý kiến cho rằng cần xem lại dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

Đáng chú ý, một nhóm nhân sĩ, trí thức, gồm cả nhiều đảng viên và cựu quan chức, gần đây công bố Kiến nghị 72, nói dự thảo Hiến pháp “chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ”.

Kiến nghị này cũng nói: “Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. “Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy.”

Báo Quân đội Nhân dân hôm 6/3 có bài phê phán lập luận này, ám chỉ đây là “phần tử cơ hội chính trị, được các thế lực thù địch phản động tiếp sức”.

Tờ báo kêu gọi “xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành động tán phát tài liệu xấu, mạo danh, nặc danh, lợi dụng việc lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta”.

Tại hội nghị hôm 6/3, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường thừa nhận hạn chót góp ý 31/3 là gây “hạn chế không nhỏ tới quá trình lấy ý kiến”.

Bộ trưởng Tư pháp được dẫn lời nói “đồng ý với kiến nghị tăng thời gian và đề nghị thu thập ý kiến một cách có tổ chức sau mốc 31/3”.

Ý kiến về thư góp ý sửa đổi hiến pháp của HĐGM

Gia Minh, biên tập viên RFA. 2013-03-05

HDGM_gop_y_sua_hien_phap_GM.mp3  Phần âm thanhTải xuống âm thanh
hp-305c.jpg

Bìa sách Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992.

Courtesy chinhphu.vn

Hội đồng Giám Mục Việt Nam, lãnh đạo tinh thần của chừng 6 triệu tín hữu Công giáo tại Việt Nam, hồi đầu tháng 3 vừa qua gửi đến Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 một thư với những đề nghị của hội đồng này.

Phản ứng của nguời Công Giáo tại Việt Nam ra sao trước thư góp ý đó? Gia Minh trình bày với ý kiến của phía thành phần dân Chúa và tu sĩ Công giáo.

Đồng thuận với lãnh đạo tinh thần

Thư góp ý sửa đổi hiến pháp năm 1992 do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nêu ra có ba mục chính và những đề nghị cụ thể cho những mục đó. Trước hết, các vị chủ chăn của Giáo hội Công giáo Việt Nam đề cập đến vấn đề quyền con người. Nhận định về quyền con người Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nêu rõ ‘quyền con người là những quyền gắn với phẩm giá con nguời, do đó là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhuợng’. ‘Quyền bính chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp lý và môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người, chứ không phải để ban phát cách tùy tiện’ Hội đồng giám mục Việt Nam đề nghị ‘Hiến pháp cần phải xác định rõ mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền’. ‘Mọi nguời đều có quyền sống. Không ai được phép tước đọat sự sống của người khác từ khi thành thai đến khi chết’. Hiến pháp phải nêu rõ quyền tự do ngôn luận và quyền tự do tôn giáo. ‘Không tôn giáo nào hoặc chủ thuyết nào được coi là bó buộc đối với người dân Việt Nam’

Nhận định của Hội đồng Giám Mục Việt Nam hết sức chính xác và súc tích, và có lẽ đây là văn bản mà tôi cho rất có giá trị và rất đúng trong thời điểm hiện nay.               Nguyễn Hữu Vinh

Về vấn đề quyền làm chủ của nhân dân, các vị lãnh đạo tinh thần giáo hội Công giáo Việt Nam, nhận định rằng ‘…chủ thể của quyền bính chính trị phải chính nhân dân xét như một tòan thể trong đất nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào’. Theo đó, Hội đồng Giám mục Việt Nam đề nghị ‘để tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái chính trị nào (x. điều 4), vì chủ thể của quyền bính chính trị là chính nhân dân, và nhân dân trao quyền bính đó cho những người mà họ tín nhiệm qua việc bầu chọn’.

Điểm thứ ba trong thư của Hội Đồng Giám mục Việt Nam là việc thi hành quyền bính chính trị. ‘Quyền bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để những quyền bính này được thi hành một cách đúng đắn và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mỗi bên và vì công ích của tòan xã hội’. Hội đồng Giám mục Việt Nam đề nghị ‘Phải vượt qua sự bất hợp lý từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phái nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là ‘cơ quan quyền lực Nhà Nước cao nhất do dân bầu ra, và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào’.

Những nhận định và đề nghị của Hội đồng Giám mục Việt Nam cho việc sửa đổi dự thảo hiến pháp năm 1992 được những thành phần dân Chúa đồng thuận.

Cụ thể như trình bày của ông Gioan Baotixita Nguyễn Hữu Vinh, một giáo dân Công giáo tại Hà Nội:

hdgm1-250.jpg

Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp. Courtesy HĐGMVN.

“Theo tôi nhận định thì Bản Nhận định và Góp ý của Hội Đồng Giám mục Việt Nam lần này đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là một bản văn đã đúc kết được nguyện vọng của những người giáo dân như chúng tôi. Và không chỉ của những giáo dân mà còn của các công dân Việt Nam, đã nói lên được tâm tư, nguyện vọng của họ và nhận định của Hội đồng Giám Mục Việt Nam hết sức chính xác và súc tích, và có lẽ đây là văn bản mà tôi cho rất có giá trị và rất đúng trong thời điểm hiện nay.”

Linh Mục Antôn Lê Ngọc Thanh, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế, cũng có ý kiến hoan nghênh những nhận định và kiến nghị của Hội Đồng Giám mục Việt Nam như sau:

“Những điểm góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam thay mặt cộng đồng dân Chúa Công giáo tại Việt Nam là những góp ý rất sắc bén và rất cần thiết. Có thể tóm tắt góp ý đó bằng 5 điểm. Điểm thứ nhất đề cập đến vấn đề quyền con người và sự sống của con người là bất khoan nhượng, phải bảo vệ đến cùng, và sự sống con người được các ngài xác định lại từ khi thụ thai là sự sống con người.

Điểm thứ hai các ngài nêu ra mà tôi cho là quan trọng và không những được người Công giáo đồng tình mà cả xã hội đồng tình: đó là vấn đề Nhà Nước nói có tự do ngôn luận – điều 26 trong dự thảo, có quyền sáng tạo văn học nghệ thuật – điều 43, và có tự do tín ngưỡng ở điều 25; trong khi đó dự thảo ghi rằng Đảng Cộng sản lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ thuyết Mác-Lênin và chủ thuyết Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Điều đó trở nên phi lý và làm cho ba điều, 26, 25 và 43 không thể thực hiện được, bởi vì chỉ cần một người nào đó phát biểu hoặc sáng tạo nghệ thuật đi ngược hay đi ra khỏi phạm vi nền tảng tư tưởng Mác- Lênin thì có thể bị coi là phản động.

Rồi quan điểm học thuyết Mác-Lênin coi tôn giáo là thuốc phiện, không phải là một nhu cầu có thực của con người là nhu cầu của giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo dùng để khuyến dụ giai cấp công nhân, nông dân mà thôi. Nên với điều 4 như vậy thì chắc chắn ba điều kia không thể thực hiện được Nhận xét của các ngài, tuy không nói ra ‘bỏ điều 4’, nhưng điều đó có nghĩa nếu muốn một đất nước duy trì được quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do sáng tạo nghệ thuật thì điều 4 phải được xem xét lại một cách nghiêm túc.

Nhận xét của các ngài, tuy không nói ra ‘bỏ điều 4’, nhưng điều đó có nghĩa nếu muốn một đất nước duy trì được quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo.

LM Antôn Lê Ngọc Thanh

Và điểm mà các ngài đưa ra trong văn bản năm 2008 về ba nhận định của Hội đồng Giám mục mà các ngài nhắc lại là vấn đề tư hữu đất đai phải được xác định rõ ràng, và đó là quyền của người dân và nó được diễn tả như cuộc sống vậy. Rồi điểm được đề nghị là việc bầu cử: các ngài nói rất rõ mỗi người dân có quyền chính trị của họ và họ có thể trao cho ai mà họ tin tưởng dù người đó thuộc đảng phái nào hay không thuộc đảng phái nào. Tức một cách gián tiếp các ngài cũng nói đến một tình trạng phải có đa đảng trong một quốc gia thì mới có thể phát triển được.

Tôi nghĩ với tư cách một giáo dân, một công dân và một linh mục, đó là những điểm có tính định hướng không chỉ như là góp ý cho một bản dự thảo hiến pháp của Nhà nước đang đề xuất cho nhân dân góp ý mà là định hướng cho giáo dân biết rằng sống trong một xã hội hiện nay thì phải hướng đến điều đó mới có thể sống được Phúc Âm.”

Dù những vị lãnh đạo thuộc Đảng Cộng sản và quốc hội Việt Nam có những đánh giá khiến nhiều người dân bất bình, ông Nguyễn Hữu Vinh và LM Lê Ngọc Thanh vừa rồi, hai người này đều cho rằng đợt góp ý sửa đổi dự thảo hiến pháp hiện nay với những nhận định và đề nghị như của Hội đồng Giám mục Việt Nam, kiến nghị của 72 nhân sĩ trí thức…  là tín hiệu tốt cho tình hình đất nước.

Vì sao TBT Nguyễn Phú Trọng phải lên tiếng răn đe trong việc sửa Hiến pháp

Tue, 03/05/2013 – 10:07 — Kami

Kami

Việc góp ý Sửa đổi Hiến pháp 1992 do đảng CSVN khởi xướng còn khoảng 2/3 thời gian mới chính thức kết thúc. Nhưng một điều đáng chú ý là hiện tượng lên đồng tập thể chưa từng có của truyền thông nhà nước với các thành phần bảo vệ đảng. Với các lý do nhằm bao biện cho vị trí lãnh đạo độc tôn của đảng CSVN, theo quan điểm “Đảng không có quyền lực và lợi ích nào khác ngoài quyền lực và lợi ích của nhân dân”.

Những lập luận ngây ngô trong các bài viết khiến cho người đọc (xem) phát ngượng, với cảm giác vừa bực mình, vừa buồn cười và cộng thêm chút thương hại đối với các tác giả. Đáng ngạc nhiên là xuyên suốt cuộc hầu đồng tập thể được chuẩn bị kỹ lưỡng là một toan tính nhằm đe dọa đối với những người tham gia góp ý không đúng ý của đảng. Về thành phần tham gia trong cuộc lên đồng tập thể này có thể thấy đủ mặt ban bệ và các nhân vật quan trọng. Kể từ lãnh đạo đảng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, đến đám văn bút nô với các học hàm học vị các Giáo sư, phó Giáo sư, Tiến sĩ… các loại và cả các dư luận viên. Như thế tưởng chừng như chưa đủ, người ta còn thấy toàn bộ hệ thống chính trị còn lợi dụng để đưa các tầng lớp nhân dân cùng tham gia với tư cách của những tám bình phong. Đây có thể nói là một thái độ của đảng gây bất ngờ cho dư luận xã hội. Có thể nói đây là lần đâu tiên đảng CSVN có những phản ứng nhanh nhạy và thô bạo như vậy.

Trong bối cảnh sự tín nhiệm của nhân dân đối với đảng CSVN đã xuống tới mức thấp nhất trong lịch sử 83 năm hoạt động và 68 năm ở vai trò đảng cầm quyền thì những hành động đáp trả mang tính cố thủ như trên là những dấu hiệu đáng lo ngại. Lý do chính có lẽ là do việc một tập thể các trí thức, nhân sĩ yêu nước – những nguyên, cựu cán bộ lãnh đạo là đảng viên đảng CSVN đã nghỉ hưu trong nhóm Kiến nghị 72 bỗng công khai thể hiện quan điểm khác với chủ trương của đảng CSVN,. Mà theo cách nói răn đe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi đó là sự suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức cần phải được xử lý.

Về hành động của các vị nhân sĩ trí thức trong nhóm 72 nếu xét ở góc độ phản kháng chính trị thì đây là điều đáng hoan nghênh và điều đó đã khiến cho đảng và chính quyền hết sức lúng túng và lo sợ. Bởi điều quan trọng là một tập thể không nhỏ các nhân sĩ trí thức, đa phần là những nguyên cán bộ lãnh đạo là đảng viên của đảng đã dám công khai đi ngược lại các chủ trương của đảng và chính quyền. Đây là một trong những hành động mang tính nhạy cảm, ít thấy ở Việt nam nhưng cũng đã khiến các vị lãnh đạo đảng CSVN nổi giận. Điều gì đã khiến cho các nhân sĩ trí thức dám làm việc này một cách công khai, mang tính thách thức như vậy? Vì thẳng thắn lên tiếng bày tỏ quan điểm của mình trái ý đảng, có nghĩa là họ tự đập vỡ nồi cơm của gia đình mình. Trường hợp như nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên dám lên tiếng thẳng thắn với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đã nổi tiếng trong mấy ngày này cũng vì lý do như thế. Dũng cảm dám đập vỡ nồi cơm của mình và gia đình, điều tưởng chừng dễ và đơn giản, nhưng đã có mấy ai dám làm? Có cái đó là do họ không còn sợ và còn thể hiện thái độ coi thường những người lãnh đạo đảng CSVN và chính quyền.Một câu hỏi được đặt ra là nguyên nhân và lý do gì đã dẫn tới động thái phản ứng lạ lùng từ phía đảng, chính quyền. Câu trả lời này rất quan trọng đối với người dân trong nước. Nếu bảo họ Karl Marx đã nói là không có giai cấp thống trị nào tự nguyện từ bỏ quyền lực thì người dân thường sẽ khó hiểu, vì họ đâu có biết ông Karl Marx là ai, ở đâu. Do vậy, nếu có câu trả lời đơn giản, hợp lý, dễ hiểu mà vẫn thể hiện đủ bản chất của vấn đề việc níu kéo quyền lực của đảng CSVN hiện nay được ví như “Khư khư như ông từ giữ oản” thì lập tức người dân sẽ tự động biết họ phải làm gì? Câu trả lời là nó không khác gì chuyện khi giữ chùa, thờ Phật mà không chăm sóc, cung kính thì tín đồ ai còn tin tưởng mà đem oản lại dâng cho ăn? Như trong câu chuyện xảy ra các đây mấy trăm năm về cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên Trịnh Kiểm “Giữ chùa, thờ Phật thì ăn oản”, khi Trịnh Kiểm đã lưỡng lự muốn tự xưng làm vua, nhưng còn chưa dám định hẳn bề nào, các quan cũng không ai biết làm thế nào cho phải.

Để phản bác quan điểm “Đảng không có quyền lực và lợi ích nào khác ngoài quyền lực và lợi ích của nhân dân” thì không khó. Nếu nói như ai đó nói “Đảng không có quyền lực và lợi ích nào khác ngoài quyền lực và lợi ích của nhân dân” thì xin hỏi tại sao đảng lại muốn quân đội trung thành với đảng trước, rồi mới đến tổ quốc và nhân dân? Điều đó cho thấy vì sao đã có hàng loạt các bài viết, các phát biểu của các vị lãnh đạo nhà nước, các Giáo sư, phó Giáo sư, Tiến sĩ… trên truyền thông của nhà nước ra sức tung hô cho sự lãnh đạo của đảng CSVN, khẳng định việc phi chính trị hóa quân đội là lập luận phản động, tung hô cho điều 4 hiến pháp để khẳng định sự lãnh đạo độc tôn của đảng CSVN. Tất cả đều không ngoài có mục đích nói một cách nôm na là “Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản”, việc độc tôn chính trị để độc tôn quyền lực cũng thế, nó chỉ là sự độc quyền thủ lợi và tham nhũng. Đảng CSVN và các nhà lãnh đạo Việt nam bây giờ cũng thế, họ cố gắng duy trì thần tượng Hồ Chí Minh và cái lý thuyết Chủ nghĩa Xã hội, không phải là họ không biết cái chủ thuyết này mà ông Hồ Chí Minh theo đuổi là hoàn toàn sai lầm. Họ thừa biết cái đó, họ biết nó là sự cản trở sự tiến bộ và phát triển của đất nước trong suốt mấy chục năm qua mà ai ai cũng biết. Việc lâu lâu đảng và chính quyền lại phát động phong trào sống, học tập theo gước bác Hồ cũng thế. Chỉ đơn giản là vì đối với họ mục đích cao nhất cũng chỉ là “Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản”. Vì vậy chúng ta đừng quan trọng hóa, mà nên xem việc đảng CSVN ra sức bảo vệ quyền độc tôn lãnh đạo nhà nước và xã hội cũng chỉ vì “Khư khư như ông từ giữ oản”. Vì thế chuyện ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lên tiếng răn đe tại Vĩnh phúc vừa rồi cũng chỉ vì có những đứa muốn cướp không oản của ông và đồng bọn.

Ngẫm lại mới thấy việc một số người kỳ vọng rằng sẽ có những chuyển biến đáng kể trong việc Sửa đổi Hiến Pháp 1992 theo một hướng tích cực mạnh mẽ là một trong những sai lầm chết người. Cho dù ai cũng biết rằng nếu Sửa Hiến pháp một cách đúng đắn, khoa học để phù hợp với ý nguyện của nhân dân, hay nhân cơ hội này để đảng CSVN có các quyết định dũng cảm để thay đổi thể chế chính trị. Điều đó sẽ tạo bước ngoặt cho sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa của đất nước, của dân tộc. Đó là điều kiện nhanh chóng nhất để đưa Việt nam thành một quốc gia thịnh vượng, tiến bộ có thể sánh vai với các cường quốc năm châu khác. Nhưng những điều đó đối với đảng CSVN chắc là dứt khoát không thể được. Vì các chính sách, chủ trương và đường lối của họ hiện nay hoàn toàn không vì tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Mà vì quyền lợi của một nhóm nhỏ những người lãnh đạo đảng CSVN, và đã được đặt trên tất cả, đó là một điều tệ hại chưa từng có của một đảng cách mạng tự xưng là đại diện cho nhân dân Việt nam.Nói thế để cho thấy, chúng ta không thể mãi ngồi để lên tiếng yếu ớt đòi đảng CSVN nhượng bộ trả lại quyền dân như đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều đó là hết sức khó, vì như thế khác gì ta đòi họ chia bớt cho chúng ta phần “oản” của họ bằng các thứ kiến nghị, tâm thư… được.Vì không và không bao giờ có những kẻ bất lương tự cho mình cái quyền ngồi trên cả hiến pháp và pháp luật, hành xử như lũ lục lâm thảo khấu đối với đồng bào mình lại chịu từ bỏ cái đặc quyền thả sức vơ vét cho cá nhân và nhóm lợi ích của mình. Đó là một điều chắc chắn.

Mà cần phải bằng mọi cách mà giành lấy bằng được!

 

Ngày 05 tháng 3 năm 2013© Kami

————————
* Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA

Người Việt không thể hoà hợp hoà giải mà cần một khẩu hiệu khác

© 2012 Lê Diễn Đức – RFA Blog

Tôi thường dị ứng với câu “Hãy quên đi quá khứ, nhìn về tương lai”.

Làm sao một con người có thể quên được quá khứ của mình.

Khi về già ai cũng nghĩ đến những ký ức của thời tuổi trẻ.

Khi sống đầy đủ, hạnh phúc con người có thiên hướng nhớ lại những thời điểm khó khăn, đau khổ, hiểm nguy và bất hạnh đã trải qua.

Quá khứ luôn hiện hữu ở trong ta, là kho lưu trữ tư liệu đời sống phong phú nhất và tốt nhất cho những quyết định trong lộ tình kế tiếp của mỗi nhân sinh.

Victor Hugo (1802-1885), nhà văn Pháp nổi tiếng, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ 19, đã nhận định:

Lịch sử là gì? Là tiếng vọng của quá khứ phản ánh tương lai. Là sự phản ánh của tương lai ném vào quá khứ“.

Leszek Kolakowski (1927-2009), triết gia Ba Lan, một trong số ít các triết gia của Đông Âu giành được sự thừa nhận ở đỉnh cao tri thức ở châu Âu và thế giới, nói:

Có vẻ như quá khứ là sở hữu của chúng ta. Nhưng trái lại – chúng ta mới là sở hữu của nó, bởi vì chúng ta không có khả năng thay đổi nó, ngược lại nó chứa đầy toàn bộ sự tồn tại của chúng ta“.

Vì thế, có thể đừng để sức nặng của quá khứ đè lên vai, hoặc làm chúng ta mất khôn ngoan, sáng suốt khi bước vào tương lai, nhưng quên thì nhất định không.

Tôi tin có nhiều người giống tôi. Rằng, nếu một kẻ nào đó đã cướp đoạt tài sản của tôi, giết hại người trong gia đình tôi, đẩy tôi vào sự khốn cùng, phải đối diện  hiểm nguy để đi tìm kế mưu sinh ở xứ khác, thì tôi sẽ thù hận kẻ đó suốt đời, và khi có cơ hội tôi sẽ trả thù.

Sự trả thù không đồng nghĩa với việc lấy ác trả ác, nợ máu phải trả bằng máu, mà có rất nhiều cách có tình, có lý khác nhau.

Có thể tôi sẽ tạo điều kiện cho kẻ đó sám hối trong day dứt khốn khổ của lương tâm để hoàn lương, trở về với xã hội trong một con người lương thiện, tử tế.

Có thể tôi sẽ đưa kẻ đó ra trước công lý để xác định rõ tội ác mà y gây ra và một nền pháp lý công bằng, dân chủ sẽ trừng phạt y theo đúng theo các tiêu chuẩn nhân đạo.

Khi quá khứ chưa được thanh toán sòng phẳng thì luơng tâm con người rất khó thanh thản.

Tôi quan niệm rằng, không thể tha thứ cho tội phạm và tội ác giết người không bao giờ hết thời hiệu.

Tôi có thể cư xử với kẻ gây tội ác bằng thái độ hiểu biết, bao dung và văn minh,  nhưng tha thứ thì tuyệt đối không.

Chính vì lẽ đó những khẩu hiệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) và của nhiều tổ chức chính trị, phong trào xã hội của người Việt rằng, chiến tranh đã trôi qua mấy chục năm, hãy quên đi quá khứ, nhìn về tương lai, hoà hợp hoà giải dân tộc, đoàn kết xây dựng đất nước, là sáo rỗng, không thực tế.

ĐCSVN đã gây nhiều tội ác, hành xử tàn nhẫn với quy mô và mức độ lớn đối với hàng trăm ngàn quân dân cán chính của thể chế Việt Nam Cộng Hoà và dân chúng miền Nam sau 1975, làm tan nát lòng người, tạo ra hận thù, chia rẽ chồng chất, và hiện vẫn tiếp tục gây tội ác với nhân dân trong nước.

Ở đây khoan đề cập và bàn luận về những tội ác khác trong các hồ sơ Cải Cách Ruộng đất, Nhân văn – Giai Phẩm, Thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế, và chiến dịch đàn áp thô bạo những người bất đồng chính kiến và yêu nước chống Trung Quốc trong giai đoạn gần đây.

Gần 40 năm chiến tranh trôi qua. Đúng thế. Nhưng kẻ cướp kia vẫn ngông nghênh, hãnh tiến. Truớc tội ác y vẫn khẳng định mình “làm đúng” và “bình tĩnh” – giống như lời của tên trung tá công an Hà Nội Nguyễn Văn Ninh, kẻ đã dã man đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng, trong phiên toà ngày 17/7/2012  vừa qua.

Gần 40 năm chiến tranh trôi qua, đã chưa hề có một chút ăn ăn, một lời xin lỗi nào từ phía ĐCSVN, chí ít vì sai lầm lịch sử không thể nào chấp nhận trong đối nhân xử thế với đồng bào ruột thịt của mình!

Vậy hỏi nạn nhân làm sao có thể quên đi quá khứ?

Những ai khuyên nạn nhân quên đi lúc này nên nhanh chóng được đưa vào nhà thương điên!

Và càng trớ trêu, trơ tráo hơn khi chính tên kẻ cướp ấy kêu gọi nạn nhân quên đi quá khứ!

Phiên toà ngày 17/7/2012 không gì khác hơn là hình ảnh sắc nét thu nhỏ của một nhà nước bất nhân, một hệ thống chính trị độc quyền đang lũng đoạn mọi kỷ cương xã hội, mục rữa vì tham nhũng, làm kiệt quệ đất nước từ tiềm lực đến các giá trị đạo đức, nhân văn.

Những tên quan toà không gì khác hơn là hình ảnh sắc nét thu nhỏ của một tập đoàn cai trị ngồi xổm lên công lý và bình đẳng xã hội. Là những đại diện tiêu biểu của hệ thống mà trong đó đám quân vô chính phủ mặc sức tung tác, tiếp tay cho các Ác lộng hành, cái Thiện bị vùi dập.

Hãy tưởng tượng những tên quan toà này gặp cô Trịnh Kim Tiến và gia đình của nạn nhân, vỗ vai nói thôi nhé, hãy quên đi quá khứ đau thương để nhìn về tương lai, cùng đoàn kết xung quanh ĐCSVN xây dựng đất nước!!!!

Làm sao có thể quên quá khứ và hoà hợp, hoà giải trong bối cảnh đầy ắp nghịch chướng và phi lý như thế!

Gần ba triệu người Việt dù buộc phải bỏ đất nước ra đi, không có bất kỳ thù hận nhỏ nào với gần 90 triệu đồng bào trong nước. Nếu còn, nếu có, thì phải xác định thật rõ ràng, cụ thể: họ chỉ thù hận bộ máy cai trị của ĐCSVN.

Bởi vì hàng năm vẫn có hàng trăm ngàn người Việt từ nước ngoài trở về thăm quê hương, hoà mình vào cuộc sống bình thường với tất cả mọi người từ Bắc chí Nam.

Suốt mấy chục năm nay, hàng năm họ vẫn gửi về nhiều tỷ đôla giúp đỡ thân nhân, gia đình và đầu tư làm ăn tại Việt Nam.

Ngoài ra, cần nhấn mạnh thêm rằng, khẩu hiệu “hoà hợp hoà giải dân tộc” không những bất khả thi với Việt Nam, mà với mọi dân tộc.

Trong xã hội loài người, ở đâu trên hành tinh này cũng tồn tại sự chia rẽ, đố kị, và những đối tượng quá khích, cực đoan trong cách sống và tư tưởng riêng của mình. Ở môi trường nào xã hội loài người cũng có những mâu thuẫn xung khắc không thể hoà hợp hoà giải, nhưng có thể chấp nhận tồn tại song song với nhau bằng thoả hiệp trên cơ sở của tiêu chuẩn và nguyên tắc nào đó.

Chúng ta hay lấy người Hoa như là tấm gương để nói về sự tương trợ, đoàn kết. Nhưng nếu đọc tác phẩm “Người Trung Quốc xấu xí” của Bá Dương (đã được dịch giả Nguyễn Hồi Thủ chuyển sang Việt ngữ), thì người Hoa đâu có khá gì hơn người Việt. Họ có đủ mọi tính xấu xa mà chúng ta vẫn nói về bản thân.

Các dân tộc nhỏ trên Trung Hoa lục địa mênh mông vẫn mặc cảm bị coi thường, phân biệt đối xử bởi thái độ ngạo mạn, kẻ cả của người Hán và chính sách Hán hoá của nhà cầm quyền Bắc Kinh.

Người Đài Loan khi được hỏi “Are you Chinese?” thường trả lời  ”I’m from Taiwan“. Hay ở Houston (Texas, Hoa Kỳ) có hiện tượng người Đài Loan và Hongkong không mua sắm hàng ở các siêu thị do di dân Trung Hoa lục địa làm chủ.

Mẫu hình thứ hai mà chúng ta ngộ nhận là dân tộc Do Thái. Tôi có người bạn thân, cựu giám đốc Cơ quan Thương mại Mỹ – Ba Lan tại Warsaw. Khi tôi khen người Do Thái đoàn kết nên nhà nước Israel mới tồn tại, phát triển và đứng vững trong một khu vực bị bao bọc toàn các quốc gia thù địch, đã bị ông bạn cười và nói tôi nhầm to. Ông ta giải thích người Do Thái có rất nhiều đạo phái, chia rẽ và đố kị nhau sâu sắc. Họ chỉ chung tay khi đất nước lâm nguy hoặc cần đến sự hỗ trợ vì lợi ích chung của dân tộc Do Thái.

Tương tự như người Ba Lan. Czesław Miłosz (30/6/1911 – 14/8/2004), nhà văn Ba Lan, Giải thưởng Nobel Văn học năm 1980, trong một số tác phẩm ông đã chế nhạo người Ba Lan, lòng yêu nước và tính anh hùng dân tộc của họ. Tuy nhiên ông vẫn được Quốc hội Ba Lan dân chủ tôn vinh (lấy năm 2011 làm “Năm Czesław Miłosz” nhân dịp 100 năm ngày sinh của ông).

Stefan Żeromski (1864-1925), một nhà văn lớn khác của Ba Lan đã viết: “Khu nhà tự thân nô lệ là Ba Lan, nơi các đảng phái sừng sộ với nhau và nền báo chí vu khống đưa ra các bản án”.

Người Ba Lan đã đoàn kết tranh đấu xoá bỏ chế độ cộng sản, nhưng ngay sau khi Ba Lan giành được tự do đã có hơn 1000 đảng ra tranh cử vào quốc hội dân chủ đầu tiên trong năm 1991, đến nay còn hơn 80 đảng phái và tổ chức chính trị hoạt động, cạnh tranh gay gắt, chỉ còn thiếu đánh nhau vỡ đầu. Nhưng đất nước Ba Lan suốt 23 năm qua ổn định, phát triển và cuộc sống ngày mỗi thịnh vượng hơn.

Vì thế, chúng ta nên dẹp bỏ tư duy “quên đi quá khứ, nhìn về tương lai”, “hoà hợp hoà giải dân tộc” mà hướng về một mục tiêu khác:  tạm (chỉ tạm thôi) gác lại khác biệt và quá khứ, cùng xắn tay áo tạo ra một sân chơi dân chủ, bình đẳng cho tất cả mọi người. Sân chơi này có luật nghiêm minh và trọng tài độc lập. Mỗi phần tử trong xã hội có thể vào sân tranh tài bình đẳng, quyết giành chiến thắng không khoan nhượng, nhưng “fair play” trong khuôn khổ các quy tắc được mọi bên đồng thuận.

Sân chơi này chính là hệ thống chính trị dân chủ pháp trị, là xã hội dân sự trong đó ai có nhu cầu đều có thể tham gia vào quá trình quản lý và điều hành đất nước với điều kiện tôn trọng luật chơi của các định chế dân chủ – là những phương tiện bền vững kiểm soát mọi hoạt động của nhà nước, được hiến pháp bảo hộ.

Như vậy chìa khoá của toàn bộ vấn đề, cội rễ của mọi vấn đề dân tộc, nguyên nhân của mọi bế tắc có thể giải quyết, đó là phải thay đổi hệ thống chính trị độc quyền, đặc quyền và đặc lợi, một cơ cấu maphia gắn với chủ nghĩa tư bản thân hữu lạc hậu và vong bản hiện nay tại Việt Nam.

Để đạt được mục tiêu này cần hai yếu tố mang tính quyết định.

Thứ nhất, nhân dân trong nuớc phải nâng khát vọng tự do và tinh thần tranh đấu lên cấp độ quyết liệt, chấp nhận thiệt thòi, hy sinh, tạo áp lực bão táp lên tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN.

Thứ hai, tự thân các đảng viên ĐCSVN còn có lòng yêu nước, biết đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Những đảng viên này thức thời nắm bắt cơ hội, thúc đẩy và quyết định đứng chung vào con đường xây dựng Việt Nam theo trào lưu tiến bộ không thể đảo ngược và tránh được nguy cơ xảy ra sự hỗn loạn và đổ máu thêm cho dân tộc vốn đã bị quá nhiều tổn thất sinh mạng qua các cuộc chiến tranh.  Từ đây tạo ra một cuộc chuyển hoá, nhưng phải lột xác thực sự để thay đổi ý thức hệ tư tưởng, đoạn tuyệt dứt khoát với y thức hệ cộng sản và trang bị cho lực lượng của mình một vũ khí tư tưởng dân chủ văn minh, cạnh tranh lành mạnh với lực lượng khác trong cộng đồng dân tộc.

Thông qua bầu cử tự do, thậm chí ĐCSVN lúc ấy với bộ mặt mới, giành được đa số phiếu ủng hộ của nhân dân thì vẫn tiếp tục cầm quyền. Luật chơi dân chủ là vậy. Điều này đã và đang diễn ra bình thường tại các nước cựu cộng sản Đông Âu.

Lộ trình này cũng đã được lịch sử trải nghiệm và chứng minh tính khả thi và thực tiễn ở nhiều quốc gia. Miến Điện là bài học nhãn tiền.

Sự ủng hộ cuộc tranh đấu dân chủ trong nước của cộng đồng người Việt ở nước ngoài hay sự hỗ trợ, thậm chí can thiệp của cộng đồng các quốc gia dân chủ trên thế giới cũng quan trọng, nhưng không mang tính quyết định như hai yếu tố đã nêu.

Chưa có hai yếu tố quyết định trên đây, chúng ta sẽ tiếp tục sống trong tình trạng của một “xã hội mà cái ác, cái xấu đang hoành hoành và chưa có biểu hiện dừng lại, bởi vì những người trong bộ máy công quyền dường như không cố gắng để làm người mà quyết sống trọn đời, trọn kiếp làm dã thú”nhà văn Phạm Thành  đã “ghê rợn” thốt lên như thế sau phiên toà phúc thẩm ngày 17/7 tại Hà Nội đã nói tới.

Ngày 18/7/2011

© 2012 Lê Diễn Đức – RFA Blog

Diễm Phưong, một nữ thanh niên đề nghị được ra khỏi Đảng

Thông báo về trường hợp một nữ thanh niên đề nghị được ra khỏi Đảng

Lời giới thiệu của ĐHLV: Tôi vừa nhận được một lá đơn của một đảng viên dự bị tên là Nguyễn Ngọc Diễm Phượng về việc đề nghị được ra khỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam. Xét thấy nội dung lá đơn không chỉ đề cập đến việc cá nhân của chị Phượng mà còn có mục đích sâu xa cảnh tỉnh giới chức là đảng viên của Đảng cầm quyền hiện nay đối với các vấn đề xã hội-chính trị. Được sự cho phép của tác giả, tôi xin được đăng toàn văn lá đơn này để cộng đồng mạng được tỏ tường vấn đề mà chị Phượng muốn trình bày. Quyết định kết nạp đảng viên của chị Phượng không đưa lên mạng nhằm tránh phiền phức cho những người và tổ chức liên quan sau sự việc này.

Được biết chị Phượng là người thứ 219 kí tên ủng hộ việc KIẾN NGHỊ VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992

null
Biểu thị sự tự do. Ảnh được sự đồng ý của tác giả

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐƠN ĐỀ NGHỊ ĐƯỢC RA KHỎI ĐẢNG

Kính gửi : Đảng bộ XXX, Chi bộ XXX
Tôi tên : Nguyễn Ngọc Diễm Phượng ; sinh ngày 16.10.1982
Quên quán : xã Bình Chánh huyện Bình Chánh, TP.HCM
Nơi công tác : Ủy ban nhân dân XXX
Ngày kết nạp Đảng : + Dự bị : 18.08.2012 ; + Chính thức :
Nơi kết nạp : Chi bộ XXX

Trước khi trở thành đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCS), tôi được tổ chức quan tâm giáo dục và bồi dưỡng về tư tưởng chính trị và tôi cũng tự nhận thức được rằng ĐCSVN là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, lấy dân làm gốc.

Đảng Cộng Sản Việt Nam là 1 tổ chức chặt chẽ, thống nhất giữa ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thương yêu, đoàn kết với nhau. Cương lĩnh chính trị và đường lối cách mạng đều phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân.

Thế nhưng, thực tế hiện nay, qua các sự việc diễn ra ngoài xã hội làm tôi phải suy nghĩ và nhận thấy rằng ĐCSVN hiện nay không còn thể hiện đúng giá trị và bản chất của mình nữa. Đảng ngày mất đi sự tín nhiệm của nhân dân, Đảng chưa phát huy hết quyền làm chủ của nhân dân, quyền lợi chính đáng của nhân dân chưa được Đảng bảo về và tôn trọng. Điển hình như quyền được phát biểu chính kiến của mình, quyền được cung cấp thông tin (đặc biệt là các thông tin trái chiều) đều bị hạn chế. Kể cả việc biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm, thể hiện tinh thần yêu nước cũng bị cho là làm trái pháp luật và bị hạn chế.

Đảng chưa thể hiện hết vai trò lãnh đạo của mình, lời nói và hành động của Đảng chưa nhất quán với nhau, sự yếu kém trong quản lý gây ra biết bao hậu quả cho nhân dân gánh chịu, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, đời sống nhân dân chưa được nâng cao (đặc biệt là các dân tộc miền núi), các công trình dự án ngày càng xuống cấp trầm trọng. Trong nội bộ Đảng lại có sự tranh giành quyền lực với nhau, và những vấn đề khác đang diễn ra ngoài xã hội khiến tôi phải nghi ngờ và phân vân về con đường cách mạng và lý tưởng của Đảng.

Đó là nhận định khách quan của tôi về xã hội. Còn về tổ chức, 06 tháng là đảng viên dự bị của Đảng Cộng Sản Việt Nam, với tình hình hiện nay, tôi cảm thấy rằng tôi không còn nhiệt huyết, cũng như lý tưởng để phấn đấu trở thành đảng viên chính thức của Đảng Cộng Sản vì:

1- Khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, tôi nghĩ tôi sẽ có nhiều cơ hội để đóng góp nhiều hơn cho Đảng, cho nhân dân, góp phần xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh hơn, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Nhưng đến nay, tôi cũng chỉ làm tròn nhiệm vụ tối thiểu của 1 đảng viên là sinh hoạt và đóng Đảng phí đầy đủ. Chưa đóng góp được gì nhiều và vẫn chưa thể hiện hết vai trò của 1 đảng viên đối với nhân dân.

2- Sau sự việc đánh giá cán bộ đảng viên theo Nghị quyết TW4, và đánh giá chất lượng đảng viên hàng năm, tôi nhận thấy hầu như việc đánh giá chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ, theo khuôn mẫu định sẵn. Hầu như cán bộ đảng viên chỉ đánh giá 1 cách chung chúng, công tác phê và tự phê diễn ra xuề xòa, sợ mất lòng nhau. Tôi cho rằng đó cũng chính là căn nguyên giảm tính chiến đấu trong Đảng, góp phần cho những đảng viên thoái hóa, biến chất len lỏi tới những vị trí trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước, gây xói mòn niềm tin trậm trọng trong nhân dân.

3- Lý do cuối cùng để tôi quyết định viết đơn ra khỏi Đảng chỉ vì tôi muốn thể hiện tấm lòng yêu nước của mình, yêu đồng bào của mình. Tôi đã có những lời bình luận trên mạng xã hội đối với 1 trường hợp của thể liên quan đến việc lên tiếng bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước như nhiều thành viên của cộng đồng mạng. Tuy những lời bình đó có khó nghe nhưng đó cũng là những suy nghĩ thành tâm của 1 người Việt Nam nhỏ bé lo âu đến vận mệnh dân tộc, cốt yêu cũng muốn Đảng tốt hơn, đảng viên bớt tha hóa hơn. Tooichuwa từng nghĩ những lời bình đó sẽ tạo điều kiện thêm cho thế lực thù định chống phá Đảng, chống phá Nhà nước. Khi có quần chúng báo cáo về sự việc của tôi, đáng lẽ tổ chức Đảng ở cơ sở phải tìm hiểu và xem xét thấu đáo. Thế nhưng tổ chức đã không lưu tâm, còn qui chụp cho tôi mất quan điểm chính trị, tư tưởng không vững vàng, tạo điều kiện cho thế lực thù địch dòm ngó.

Do đó, để không làm ảnh hưởng và làm mất uy tín của Đảng, cũng như làm tổn thương danh dự của 1 người Việt yêu nước Việt, tôi tự nguyện làm đơn đề nghị được ra khỏi Đảng.

Tôi cũng xin thành thật cám ơn tổ chức và những đảng viên đã giới thiệu tôi vào Đảng trong thời gian qua đã quan tâm, giáo dục và tạo điều kiện cho tôi được trở thành đảng viên của Đảng Cộng Sản trong thời gian rất ngắn. Đồng thời, thông qua đơn đề nghị này, tôi thành tâm momg mỏi tổ chức Đảng ở cơ sở nói riêng và các đảng viên trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung hãy xem như 1 lời chia sẻ chân tình của tôi đối với Đảng, đối với những vấn đề xã hội. Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của người dân bình thường nhất, của những người không đảng phái để thấu hiểu, từ đó có những cách hành xử vị tha, nhân bản hơn đối với người khác quan điểm vì họ cũng là đồng bào, là anh em cùng chung sống trên đất mẹ Việt Nam.

Rất mong Chi bộ và Đảng bộ xem xét đơn đề nghị của tôi./.

XXX, ngày 04 tháng 3 năm 2013
Người làm đơn

NGUYỄN NGỌC DIỄM PHƯỢNG

null
null
null

Thư gửi bạn bè trong nước qua diễn đàn sci-edu

Nguồn: AnhBasam, Bauxite Việt Nam

Lê X1uân Khoa *

Thưa các anh chị,

Gần đây, tôi được đọc trên diễn đàn sci-edu hai bài viết rất tâm huyết của anh Nguyễn Trung trong hai tuần liên tiếp. Bài thứ nhất là “Thư ngỏ gửi lãnh đạo Việt Nam” về vấn đề sửa đổi Hiến pháp, nhấn mạnh vào sự cần thiết phải “cải cách chính trị triệt để và toàn diện” và khẳng định đây là “cơ hội cuối cùng” để xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ. Bài thứ nhì, “Câu chuyện Myanmar”, kể lại cuộc chuyển đổi của Myanmar từ độc tài sang dân chủ trong hoà bình, ổn định, để cuối cùng nêu lên câu hỏi: Myanmar làm được, tại sao Việt Nam ta không làm được?

Thật ra, cựu đại sứ Nguyễn Trung không phải là người duy nhất lên tiếng báo động và kêu gọi giới lãnh đạo kịp thời thức tỉnh để có thể bảo vệ chủ quyền và phát triển đất nước. Nhiều nhân sĩ, trí thức khác, cả trong lẫn ngoài nước, cũng đã thẳng thắn cảnh báo vả đóng góp ý kiến tâm huyết qua những kiến nghị hay thư ngỏ. Anh Nguyễn Trung đã có hơn một lần tham gia vào những nỗ lực chung đó, gần đây nhất là ký tên trong số 72 người đầu tiên đề nghị một hiến pháp dân chủ thay thế bản hiến pháp 1992.

Ở đây, tôi đặc biệt nhắc đến hai bài viết mới của anh Trung là vì trong bài đầu, anh đã đúc kết rành mạch những ý kiến chung về nhu cầu cấp bách phải thay đổi Hiến pháp và thiết lập một thể chế dân chủ pháp trị, và trong bài thứ hai, anh đã nêu ra trường hợp Myanmar như một mô hình chuyển hoá về chính trị và phát triển có thể áp dụng cho Việt Nam.

Chúng ta không cần phải phân tích thêm những chính sách sai lầm tai hại của nhà cầm quyền về đối nội và đối ngoại để chứng minh cho sự cần thiết phải cải cách chính trị triệt để và toàn diện. Hiển nhiên là từ hội nghị Thành Đô năm 1991 đến nay, Bắc Kinh càng ngày càng có điều kiện thuận lợi để từng bước lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải, lũng đoạn nền kinh tế và thực hiện mưu toan Hán hoá dân tộc Việt Nam. Trong khi đó, tình trạng suy thoái xã hội về mọi mặt và nạn tham nhũng trong toàn bộ hệ thống cai trị ở Việt Nam đã trở nên trầm trọng vô phương cứu chữa. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã không còn che dấu được chủ trương dựa vào Trung Quốc đề duy trì quyền lực và lợi ích cùa cá nhân, gia đình và bè phái. Mọi lời tuyên bố bảo vệ độc lập và chủ quyền, mọi hành động tăng cường phòng thủ, đều cho thấy đó chỉ là những màn hỏa mù, những thủ đoạn lừa dối nhân dân và dư luận thế giới, trái ngược với thực tế là nhượng bộ Trung Quốc và đàn áp những biểu hiện yêu nước của nhân dân.

Vì chủ quan tin ở khả năng khuất phục được nhân dân như đã có kinh nghiệm đối với những ý kiến đóng góp cho các Đại hội 10 và 11 cũng như mọi kiến nghị khác của nhân sĩ, trí thức, lần này lãnh đạo Đảng lại đưa ra bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp và kêu gọi nhân dân góp ý để cuối cùng bản Hiến pháp chính thức vẫn sẽ là bản dự thảo của Đảng. Lãnh đạo Đảng chủ quan đến độ chính thức khẳng định mục đích sửa đổi Hiến pháp 1992 là muốn cho nhân dân “phát huy quyền làm chủ” “thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thậm chí “nhân dân có thể góp ý về tất cả các nội dung trong Dự thảo Hiến pháp, kể cả ‘Điều 4’, không có gì là cấm kỵ.

Không ngờ tình hình đã hoàn toàn đổi khác. Bản Kiến nghị của 72 người đến hôm nay đã có gần 7.000 người tham gia. Nhiều nhóm công dân khác cũng lên tiếng, đặc biệt là nhóm “Công dân Tự do”, bắt đầu với 1.000 chữ ký của những người thuộc những lớp tuổi khác nhau, đòi hỏi không chỉ môt hiến pháp dân chủ mà còn phải thật sự thi hành những quyền tự do dân chủ của mỗi người dân. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đại diện cho tiếng nói của hàng triệu giáo dân, cũng vừa công bố thư gửi Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp, nêu rõ mâu thuẫn căn bản giữa sự độc tôn của đảng cầm quyền và chủ nghĩa Mác-Lê trong bản Dự thảo với quyền con người trong bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân Quyền mà Việt Nam đã ký kết. Lá thư của HĐGM cũng nhấn mạnh là cần phải thực thi những quyền tự do căn bản của người dân, như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Rõ ràng là phong trào dân chủ đang lan rộng để trở thành một khối áp lực của nhân dân mà chế độ độc tài sẽ chỉ có hai lựa chọn: hoặc nhượng bộ để thay đổi thể chế trong hoà bình, hoặc chống lại bằng võ lực để một mất một còn.

Trước những phản ứng bất ngờ của nhân dân, lãnh đạo Đảng CSVN đã hoảng hốt và vội vã tìm cách ngăn chặn sự lan rộng của phong trào dân chủ. Cả Tổng Bí thư và Chủ tịch Quốc hội đều quên đi những khẳng định về quyền làm chủ và tự do góp ý của nhân dân để kết tội những góp ý này là “suy thoái tư tưởng, đạo đức”, là “chống lại đảng, chống lại chính quyền… phải kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn”.

Một cuộc đối đầu giữa chính quyền và nhân dân sẽ không thể tránh được trừ khi có những bộ óc tỉnh táo trong bộ máy lãnh đạo thuyết phục được đa số chấp thuận đối thoại với các đại diện của nhân dân để giải quyết thoả đáng vấn đề sửa đổi hiến pháp và cải tổ chính trị.

Việt Nam và mô hình Myanmar

Từ ngày lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi được khỏi bị giam giữ tại nhà ngày 13.11.2010 và sau khi cựu Tướng Thein Sein chính thức nhậm chức Tổng thống ngày 30.03.2011, quốc gia Myanmar đã có một loạt cải cách êm đẹp từ độc tài sang dân chủ. Kết quả quan trọng nhất là:

  1. Hoà giải dân tộc bằng việc phóng thích tù nhân chính trị qua nhiều đợt liên tiếp. Tổng thống Thein Sein kêu gọi mọi người bất đồng chính kiến ở trong và ngoài nước cùng chung tay xây dựng đất nước.
  2. Nhìn nhận và hợp tác với “Liên minh Quốc gia vì Dân chủ” (NLD), đảng đối lập của bà Aun Sang Suu Kyi.
  3. Tổ chức bầu cử bổ sung dân biểu với 35 đảng tham gia trong đó đảng NLD chiếm 42 trên 46 ghế và bà Suu Kyi trở thành một lãnh tụ đối lập có uy tín được Tổng thống Thein Sein tiếp đón và đánh giá bà có thể trở thành tổng thống.
  4. Bãi bỏ cơ quan kiểm duyệt và ban hành quyền tự do thông tin báo chí.
  5. Đặt lợi ích quốc gia lên trên hết bằng quyết định hủy bỏ hợp đồng thủy điện Myitsone 3,6 tỷ USD đã ký với Trung Quốc để bảo vệ môi trường sinh thái của nhân dân.
  6. Mời trí thức chuyên gia mọi ngành làm tư vấn cho chính phủ, lắng nghe và thực hiện những đề nghị cải cách và phát triển của họ.
  7. Phát triển kinh tế bằng cách bớt nhờ cậy vào Trung Quốc và tạo điều kiện cho các quốc gia phát triển đầu tư. Trong khi Hoa Kỳ vá Âu châu đang chuẩn bị, Nhật đã tiên phong giúp Myanmar thanh toán nợ nần và đổ tiền vào các dự án đầu tư mới ở xứ này.

Câu hỏi của anh Nguyễn Trung, “Myanmar làm được, tại sao Việt Nam ta không làm được?” cũng là niềm trăn trở của nhiều người đang tìm một giải pháp thích hợp cho Việt Nam. Tất nhiên hoàn cảnh mỗi nước một khác, nhưng mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia và xây dựng dân chủ thì không thể nào khác được. Lãnh đạo Việt Nam cũng thường nói đến những mục tiêu ấy nhưng không làm hay cứ lúng túng không biết làm thế nào cho khỏi thành… tự sát. Họ quên mất rằng nếu nhất định không làm thì sớm muộn gì cũng sẽ là tự sát mà thôi. Như vậy, vấn đề là giải quyết cách nào cho thích hợp, hoà bình và khả thi trong trường hợp Việt Nam.

Trước hết, hãy xem xét những điểm khác nhau giữa Việt Nam và Myanmar. Mặc dù cùng có bản chất là độc tài toàn trị, chế độ quân phiệt của Myanmar không phát xuất từ một đảng chính trị có tổ chức, có cơ sở lý thuyết, kỷ luật chặt chẽ, kinh nghiệm đấu tranh và gốc rễ quốc tế lâu đời như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, đảng cộng sản Việt Nam ngày nay đã không còn có khả năng tuyên truyền và ảnh hưởng của một đảng cách mạng dưới ngọn cờ giải phóng đất nước và đem lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân. Ngày nay, trước mắt nhân dân và những đảng viên thật lòng yêu nước, đảng cách mạng đã suy thoái, biến chất thành một đảng cầm quyền độc tài, tham nhũng, đối xử tàn ác với nhân dân, phục tùng Trung Quốc để bảo vệ sự tồn tại và lợi ích của bè phái. Khác với Việt Nam, lãnh đạo Myanmar không lệ thuộc Bắc Kinh và hiểm họa Trung Quốc không phải là nguy cơ trước mắt.

Ngoài ra, về biểu hiện cụ thể, có ít nhất ba điểm khác biệt rất hiển nhiên giữa hai chế độ:

  1. Việt Nam không có nhiều đảng chính trị như Myanmar, nhất là những đảng đối lập như  National League for Democracy (NLD) hay Democratic Voice of Burma (DVB).
  2. Việt Nam không có lãnh tụ đối lập như Aun Sang Suu Kyi.
  3. Việt Nam không có lãnh đạo cầm quyền sáng suốt và dũng cảm như Thein Sein.

Dù sao, sau hơn nửa thế kỷ bị lừa dối và bóc lột, sự bất mãn của nhân dân ngày càng chồng chất đã gần chạm tới mức “báo động đỏ” cho chế độ. Thái độ hốt hoảng và những lời răn đe của lãnh đạo trái với những lời hứa hẹn ban đầu chỉ làm gia tăng cường độ chống đối. Người dân đã không còn sợ hãi. Trong đa số thầm lặng đã có thêm những tiếng nói dũng cảm của những khuôn mặt mới có hiệu ứng dây chuyền. Tuy nhiên, trong một đất nước không có đảng đối lập và lãnh tụ đối lập có uy tín, một cuộc đối đầu gay go giữa dân chúng và nhà cầm quyền sẽ khó lòng tránh khỏi hỗn loạn và đổ máu. Vài ngày trước đây, Tiến sĩ Nguyễn Quang A đã tuyên bố cần phải có đảng đối lập. Nhưng dưới một chế độ mà không một tổ chức độc lập nào được phép hoạt động, dù chỉ làm từ thiện hay nghiên cứu khoa học, việc thành lập đảng chính trị không thể thành tựu nếu không có quyết tâm và những bước chuẩn bị thực tế và khả thi.

Hãy bắt đầu bằng một nhóm nhỏ không chính thức, gồm những công dân yêu nước và cấp tiến, đại diện cho những thành phần cách mạng lão thành, nhân sĩ, trí thức, tôn giáo, văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, sinh viên, nông dân, công nhân, quân đội nhân dân… Đây là bước đầu của sự hình thành một mạng lưới công dân cùng chung một mục đích mặc dù vẩn có thể có những suy nghĩ và cách tiếp cận khác nhau, mầm mống của một xã hội dân chủ đa nguyên, đa đảng. Nhóm đại diện này sẽ khởi xướng phong trào dân chủ của toàn dân. huy động và phối hợp các tiềm lực trong đa số thầm lặng để có một tư thế mạnh đối thoại với nhà cầm quyền về lộ trình dân chủ hoá. Những trí thức chủ động “Kiến nghị 72” cần đảm nhận trách nhiệm thành lập nhóm đại diện các thành phần kể trên. Nhóm đại diện này có thể sẽ bầu ra những chức vụ điều hành. Sinh hoạt theo lề lối dân chủ phải tuyệt đối tôn trọng. Đây chỉ là những gợi ý sơ khởi cần được những người chủ động xem xét và hoạch định sát với thực tế.

Đây là cơ hội và thời điểm thích hợp nhất cho trí thức thi hành sứ mệnh lịch sử. Những khuyến cáo, kiến nghị hay thư ngỏ cần thiết lúc ban đầu nay cẩn được chuyển sang hành động. Cho đến nay, đa số chuyên gia và trí thức hàn lâm vẫn chỉ có những cuộc hội thảo thiên về nghiên cứu những vấn đề của đất nước, hay chỉ nói cho nhau nghe những lời phê phán, công kích những sai lầm của chế độ. Nhưng trước những chính sách độc đoán, bất chính và bất nhân của chế độ, trước tư cách bất xứng của những người lãnh đạo cao nhất nước, lòng bất mãn và tức giận của trí thức, ngay cả những người hiền lành nhất, đã tăng lên rất cao. Đã đến lúc trí thức sẽ đứng lên tham gia vào phong trào dân chủ của toàn dân, đòi hỏi nhà cầm quyền phải thực thi quyền con người, hoà giải với những công dân yêu nước, cải cách chính trị triệt để và toàn diện để có thể huy động được sức mạnh của dân tộc trong sứ mệnh bảo vệ chủ quyền và phát triển đất nước.

Kết quả mong đợi nhất là chính quyền bỗng thức tỉnh, chấp thuận đối thoại với nhóm đại diện của nhân dân và sẽ mời họ tham gia vào việc thiết lập một lộ trình dân chủ hoá trong hoà bình, ổn định. Nếu chẳng may, lãnh đạo Đảng nhất định quay lưng lại nhân dân thì hãy tưởng tượng cuộc chiến giữa một số lãnh tụ độc tài, tham nhũng và 90 triệu nhân dân yêu nước, yêu tự do sẽ đem lại kết quả thế nào.

*

Là một người đang có cuộc sống tự do và hạnh phúc ở nước ngoài, tôi cảm thấy không đủ tư cách nhận định về vai trò của nhân sĩ, trí thức ở trong nước, nhất là lại có những lời lẽ khích động. Nhưng vì đã có nhiều dịp trao đổi thân tình, trực tiếp hay gián tiếp, với nhiều thân hữu thuộc mọi lớp tuổi, còn ở Việt Nam hay đã ra nước ngoài, tôi không thể không viết ra những cảm nghĩ của mình trước hiện tình đất nước, nhất là sau những góp ý xây dựng của nhân dân và phản ứng thiếu tỉnh táo của mấy nhà lãnh đạo.

Xin quý anh chị vui lòng thông cảm. Tôi tạm dừng bút nhưng không quên xác nhận một quan điểm đã được đa số bạn bè chia sẻ là việc thay đổi tình hình chính trị ở Việt Nam là việc làm của người trong nước, còn người ở bên ngoài chỉ có thể đóng vai trò hỗ trợ.

Thân kính,

L.X.K.

Nguồn: Bauxite Việt Nam

* GS Lê Xuân Khoa cũng là tác giả của cuốn sách Việt Nam 1945-1995 mà trang Ba Sàm đang lần lượt giới thiệu với độc giả.

Vùng cấm và những loại “bẫy người”

2013-03-04.  

Thanh Quang, phóng viên RFA.

Diem_Blog_03042013_TQ.mp3Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
000_Hkg4475415-305.jpg

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong một cuộc họp báo trước đây.

AFP

Khi đề cập tới “chủ trương lớn” của giới lãnh đạo Việt Nam liên quan vấn đề kêu gọi toàn dân góp ý cho việc sửa đổi Hiến pháp mà không có “vùng cấm” nào, blogger JB Nguyễn Hữu Vinh không quên mô tả cái bẫy – mà bình thường chúng ta thường liên tưởng đến loại bãy thú, chim chuột. Nhưng blogger Nguyễn Hữu Vinh báo động rằng trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay “không thiếu gì các loại bẫy dùng để bẫy người!” – một loại bẫy “tinh vi hơn, đa dạng hơn và tác hại hơn nhiều những thứ bẫy thông thường kia”.

Cái bẫy và tác dụng ngược

Qua bài “Góp ý sửa đổi Hiến pháp: Cái bẫy và tác dụng ngược”, blogger Nguyễn Hữu Vinh đã liệt kê các loại bẫy người ấy, từ “hai bao cao su đã qua sử dụng” để bẫy TS Cù Huy Hà Vũ vào tù 7 năm cho tới những cái bẫy lớn hơn nhiều, thậm chí là “một chính sách, một chủ trương lớn”, như “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân”…; như khẩu hiệu “Vì nhân dân phục vụ” nhưng lại “Còn đảng, còn mình”; hoặc “Quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” nhưng lại “Trung với đảng”…

Trong thời gian gần đây, trước khi toàn dân góp ý sửa đổi hiến pháp, nhất là trước khi có “Kiến Nghị 72” của giới nhân sĩ trí thức, TBT Nguyễn Phú Trọng giăng bẫy “Chỉ thị 22”, khẳng định:

Thì ra, cái trò Góp ý đó không phải là để góp ý, mà là để “Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không?                    JB Nguyễn Hữu Vinh

“Việc góp ý sửa đổi Hiến pháp là nhằm phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, của các cấp các ngành, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân và cơ quan, tổ chức đối với việc sửa đổi Hiến pháp, thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Rồi Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng cũng giăng bẫy “Nghị quyết 38”:

“Việc góp ý sửa đổi Hiến pháp là nhằm huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, tạo sự đồng thuận của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân.”

Và ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội kiêm Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng giăng bẫy nhân dân có thể góp ý về tất cả các nội dung trong Dự thảo Hiến pháp, kể cả “Điều 4”, không có gì là cấm kỵ…

Nhưng, nói theo lời blogger Nguyễn Hữu Vinh, khi thấy nhân dân hưởng ứng “rầm rầm” việc góp ý, và tai hại hơn nữa, “miếng mồi đảng đưa ra rất ngon đó đã được nhiều nhiều người bu vào rỉa gần hết mà bẫy (do đảng giăng) vẫn chưa thể sập” dù “trơ ra lưỡi câu”, khiến TBT Nguyễn Phú Trọng phải hốt hoảng:

Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức… Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng khôngMuốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! … Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể … thì đó là cái gì?

jb-nhv-250.jpg
Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, ảnh chụp trước đây tại Hà Nội. Courtesy FB Nguyễn Hữu Vinh. 

Đến đây, theo nhận định của blogger Nguyễn Hữu Vinh, “cái cửa bẫy đã phải sập xuống. Đảng sợ lỗ miếng mồi chăng?”

Và JB Nguyễn Hữu Vinh mới vỡ lẽ ra rằng:

Thì ra, cái trò Góp ý đó không phải là để góp ý, mà là để “Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không?… Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!…”. Cái ông Tổng Bí T này quả là thâm hậu, thế mà dân gian cứ tặng cho ông xú danh là Lú thì quả không hẳn đúng.

Việc TBT Nguyễn Phú Trọng cáo giác ý kiến đóng góp sửa đổi Hiến pháp của người dân là “suy thoái chứ còn gì nữa” khiến những nhà có tâm huyết với vận nước không khỏi phẫn nộ. Chẳng hạn như, nhà báo tự do Nguyễn Khắc Toàn từ Hà Nội phản ứng:

“Qua phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng thì người dân trong nước cũng như nhân sĩ trí thức có lương tâm thì đều thấy rằng không ai khác mà chính Đảng CSVN hiện nay là lực lượng suy thoái…”

Hay từ Bà Rịa-Vũng Tàu, Bùi Thị Minh Hằng, nhà đấu tranh cho dân chủ và nhiều lần bày tỏ lòng yêu nước nhiệt thành chống quân xâm lược phương Bắc, cho biết:

“Ông Nguyễn Phú Trọng gọi thành phần tiến bộ đó là “suy thoái về tư tưởng” thế nhưng thực sự thì chính những việc làm suy thoái của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như bộ máy lãnh đạo nhà cầm quyền Việt Nam sẽ thúc đẩy người dân Việt Nam tỉnh ngộ. Và nếu như ông ấy kết luận đấy là những thành phần suy thoái thì ông sẽ thấy một điều là dân tộc Việt Nam này sẽ buộc lòng suy thoái để mà thay đổi.”

GS Nguyễn Thanh Giang lên tiếng tại Hà Nội rằng:

“Đây không chỉ là dọa nạt, mà đây là một sự đàn áp về tư tưởng, mạt sát mọi người, mạt sát cả những người cha chú, những người tiền bối của Nguyễn Phú Trọng.”

Đạo đức đích thực?

Đặc biệt là, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên của tờ Gia Đình & Xã Hội dũng cảm phản biện trên FB của mình “Vài lời với TBT ĐCS Nguyễn Phú Trọng”. Nhà báo giải thích về hành động của mình:

ndk-250.jpg
Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, ảnh chụp trước đây. Courtesy NguyenDacKien’s facebook.

“Tôi tin là nhận thức của tôi về quyền công dân đã được hình thành trong quá trình lâu dài, chứ không phải ngày hôm qua hay hôm kia mới có. Còn động lực trực tiếp đầu tiên thì khi tôi nghe bài phát biểu của ông TBT Nguyễn Phú Trọng trên đài VTV, đấy là động lực trực tiếp để tôi viết bài đó.”

Bài đó, tựa đề “Vài lời với TBT ĐCS Nguyễn Phú Trọng”, đầu tiên nêu lên câu hỏi rằng ông Nguyễn Phú Trọng đang nói với ai? Nếu nói với toàn dân thì nhà báo Nguyễn Đắc Kiên khẳng định ông Trọng không có đủ tư cách, vì, với tư cách lãnh đạo một đảng – đảng CSVN, ông chỉ có thể nói “suy thoái” như vậy với các đảng viên của ông mà thôi; nếu ông cùng các đồng chí của ông muốn giữ Điều 4 Hiến pháp, giữ vai trò lãnh đạo của đảng, muốn chính trị hoá quân đội, không muốn đa nguyên, đa đảng, không muốn tam quyền phân lập, thì, theo nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, đó là ý muốn của ông và của đảng, chứ không phải ý nguyện của nhân dân. Tác giả nêu lên câu hỏi tiếp rằng khi đề cập tới suy thoái về đạo đức, ông Nguyễn Phú Trọng muốn nói đạo đức nào? Đạo làm người, đạo công dân hay đạo đức của dân tộc? Nếu ông Trọng muốn nói đến đạo đức người CS, thì, nhà báo Nguyễn Đức Kiên thắc mắc, “các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản, đều vô đạo đức hết à? Thế ra, những người không theo đảng cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à?.

Rồi vấn đề ông Trọng cho là suy thoái chính trị, tư tưởng, thì đó là “chính trị, tư tưởng nào?”. Nếu ý kiến đóng góp nhiệt thành của người dân thể hiện một sự suy thoái chính trị, tư tưởng, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên hỏi tiếp, “Vậy ra chỉ có đảng CS của các ông là duy nhất đúng à.” Nhà báo nhân tiện lưu ý ông Trọng rằng trong Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng CSVN, “Không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng… đi ngược lại lợi ích của nhân dân là suy thoái”. Và, qua bái viết gởi ông Nguyễn Phú Trọng, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên “trân trọng tuyên bố”:

Tôi hy vọng rằng những con người trên đất nước này, từ những người dân cho tới những người lãnh đạo, họ sẽ có những nhận thức cởi mở hơn.                                       Nguyễn Đắc Kiên

1- Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới để Hiến pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam

2- Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam

3- Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập…(mà còn muốn )xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.

4- Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ chứ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.

Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên cũng như tất cả những người Việt Nam khác, trong khuôn khổ quyền cơ bản của con người mà mỗi người sinh ra đều được hưởng, chứ không phải do đảng cộng sản ban cho. Vẫn theo tác giả, những người nào chống lại các quyền trên là “phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại”.

Qua bài “Sự độc đáo mang tên Nguyễn Đắc Kiên”, blogger Nguyễn Ngọc Già nhận xét rằng “cái trụ” Nguyễn Phú Trọng vừa bị nhà báo Nguyễn Đắc Kiên “đốn gọn” bằng bài viết “Vài lời với TBT ĐCS Nguyễn Phú Trọng” khiến “ngôi đền thiêng ĐCSVN đang sụm dần…”

Hành động được công luận ca ngợi là dũng cảm ấy của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên khiến anh bị trù dập khi báo Gia đình & Xã hội buộc anh thôi việc vì điều gọi là “vi phạm Quy chế hoạt động của báo và hợp đồng lao động”. Trước tình cảnh này, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên cho biết:

“Về phần tôi thì tôi sẵn sàng đón nhận tất cả mọi thứ. Nhưng tôi hy vọng rằng những con người trên đất nước này, từ những người dân cho tới những người lãnh đạo, họ sẽ có những nhận thức cởi mở hơn để tiếp nhận những ý kiến khác biệt với suy nghĩ của họ, khác biệt những cái lệnh của giới lãnh đạo. Đó là điều hy vọng của tôi. Còn tôi thì tôi không băn khoăn, suy nghĩ gì cả; nhưng điều tôi lo nhất chỉ cho gia đình tôi thôi – cho vợ con, bố mẹ tôi. Còn riêng bản thân tôi thì tôi hiểu con đường tôi đã chọn.”

Cảm động trước sự hiên ngang cùng tình cảnh ấy của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, blogger Nguyễn Tường Thuỵ có “Mấy lời với Nguyễn Đắc Kiên”:

“Thôi thì về, rau cháo nuôi nhau
Sống thanh thản dẫu thêm phần cơ cực
Từ nay khỏi loay hoay ngòi bút
Giả thờ ơ trước số phận con người.

Tôi hiểu Kiên, sống không thể buông xuôi
Vẫn biết trước tai ương rồi sẽ tới
Vẫn biết trước sẽ gặp nhiều rắc rối
Sẽ còn nhiều gian khó lẫn nguy nan.

Kiên sẵn sàng đối mặt, hiên ngang
Không chịu cúi, sống cuộc đời an phận
Trước cái xấu không cam lòng chấp nhận
Có hạnh phúc nào không trả giá đâu Kiên.

Có điều gì từ Tổ quốc rất thiêng liêng
Nghe như thể đất trời rung chuyển
Tôi đã thấy tương lai đang gần đến
Dân tộc này phải được sống, Kiên ơi.”

Cảm ơn quý vị vừa theo dõi tạp chí hôm nay, Thanh Quang xin hẹn chương trình kỳ tới.

 Tin, bài liên quan

‘Chê Tướng Hưởng khen Tướng Tô Lâm’

Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng (trái) bắt tay quan chức Mỹ gồm Đại sứ nhiệm kỳ trước, Michael Michalak (giữa) và Scot Marciel, trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Đông Á – Thái Bình Dương hồi tháng 2/2010.

Điện tín rò rỉ từ Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội đánh giá thấp hiểu biết của Thượng tướng Công an Nguyễn Văn Hưởng về Hoa Kỳ khi còn tại chức nhưng tỏ ra khen ngợi một vị tướng khác, hiện là thứ trưởng công an.

Cựu Phó Đại sứ Virginia Palmer nhận xét sau buổi ăn tối với Tướng Hưởng hôm 8 tháng Hai năm 2010.

Đại sứ Michael Michalak, người nay đã mãn nhiệm, cùng dự cuộc gặp mà phía Việt Nam còn có Tướng Tô Lâm, khi đó là Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh và nay là Thứ trưởng Công an.

Phần nhận xét về cá nhân ông Hưởng của điện tín ngoại giao đánh đi từ Hà Nội hôm 12 tháng Hai năm 2010 có đoạn:

“Sự phân tích của ông Hưởng về các chính khách Hoa Kỳ và “các thế lực chống Việt Nam” cho thấy sự thiếu hiểu biết về hệ thống của Hoa Kỳ và phân tích rất kém cỏi.

“Ông [Hưởng] cũng thừa nhận rằng trước ông đã từng nghĩ Đại sứ [Hoa Kỳ] chỉ giải quyết những vấn đề như nhân quyền và không hiểu rằng đại sứ đóng vai trò đại diện cho Tổng thống và là người phụ trách tất cả các vấn đề liên quan tới quyền lực quốc gia của Hoa Kỳ ở một nước, trong đó có cả lĩnh vực tình báo và quốc phòng.”

Trong phần cuối, điện tín cũng cho thấy đánh giá của họ về Bấm Tướng Tô Lâm, người cùng dự bữa ăn tối.

Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ nói Tướng Lâm là người thường có mặt trong các cuộc gặp với phía Đại sứ quán Hoa Kỳ và nhận định:

“Ông Lâm cũng là nhân vật cứng rắn, nhưng thông minh và quan tâm tới việc tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ trong một số lĩnh vực.”

Điện tín cũng nói ngay trước bữa ăn tối, phía công an Việt Nam thông báo việc ông Lâm sẽ sớm được thăng hàm Trung Tướng và sẽ được cử giữ chức Tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh.

Trung Tướng Lâm được phong chức Thứ trưởng Công an hồi tháng Tám năm nay.

‘Thuộc địa’ của Trung Quốc

Đại sứ quán Hoa Kỳ nói trong điện tín rằng Bấm Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng mời Đại sứ Michalak và cố vấn cao cấp của đại sứ tới buổi ăn tốisau khi đã nhiều lần phớt lờ các đề nghị gặp mặt của phía đại sứ quán.

Điện tín viết: “Trong suốt bữa ăn kéo dài hai giờ, ông Hưởng nhắc tới ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Đông Nam Á, nói rằng những hợp đồng kinh doanh không ràng buộc của Trung Quốc đã khiến tạo ra điều có thể coi là sự thuộc địa hóa Miến Điện, Lào, Thái Lan và Campuchia cũng đang ngày càng [theo hướng như vậy].

Ông cũng nhắc:

“Hoa Kỳ đã “đi sau” trong trao đổi kinh tế và ngoại giao ở Châu Á và nhiều nước trong khu vực đã “mất niềm tin vào Hoa Kỳ” trong khi Trung Quốc đang lấp khoảng trống [mà Hoa Kỳ tạo ra].

“Ông Hưởng có vẻ chấp nhận bình luận của Đại sứ rằng Hoa Kỳ đang mở rộng quan hệ với ASEAN nhưng rõ ràng [ông Hưởng] muốn đánh giá sự sẵn sàng của Hoa Kỳ trong việc cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong vùng.”

“Ông Hưởng có vẻ chấp nhận bình luận của Đại sứ rằng Hoa Kỳ đang mở rộng quan hệ với ASEAN nhưng rõ ràng muốn đánh giá sự sẵn sàng của Hoa Kỳ trong việc cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong vùng.”

Điện tín ngoại giao của Hoa Kỳ từ Hà Nội

Trong một cuộc gặp với phía Hoa Kỳ hồi năm 2008 mà Bấm BBC đã đưa tin dựa trên điện tín rò rỉ qua Wikileaks, Tướng Hưởng cũng đã than phiền về chuyện Hoa Kỳ không ủng hộ Việt Nam trước đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.

Còn trong cuộc gặp hồi đầu năm 2010, Tướng Hưởng được trích lời nói rằng Việt Nam từng chỉ xem quan hệ quốc tế là quan trọng khi nó giữ được sự ổn định của xã hội (và của Đảng Cộng sản -chú thích của Đại sứ quán Hoa Kỳ) nhưng quan hệ với Hoa Kỳ đã đóng vai trò quan trọng để Việt Nam nhìn thấy ý nghĩa lớn hơn của quan hệ quốc tế.

Đại sứ quán Hoa Kỳ cũng nhận xét trong điện tín rằng họ “cảm nhận được mong muốn cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ, một phần vì lợi ích kinh tế của quan hệ song phương, nhưng chủ yếu là cách để cân bằng vai trò khu vực ngày càng mạnh bạo của Trung Quốc”.

‘Cứng rắn về nhân quyền’

Điện tín mà người ký tên là Phó đại sứ, bà Virginia Palmer nói ông Hưởng đã bác bỏ những lo ngại của Hoa Kỳ về nhân quyền:

“Chẳng hạn, khi Đại sứ nêu vụ LS Lê Công Định, ông Hưởng giơ tay lên và nói “Tôi sẽ không nghe đâu. Anh ta [tạm dịch từ chữ ‘He’ của tiếng Anh – không rõ ông Hưởng dùng từ gì] là công dân Việt Nam.”

“Ông Hưởng phản đối các tuyên bố của phương Tây chỉ trích một loạt vụ kết án gần đây và coi đó là ‘can thiệp vào công việc nội bộ’ của Việt Nam.

“Khi Đại sứ bày tỏ lo ngại về sức khỏe xấu đi của Cha (Nguyễn Văn Lý), ông Hưởng tuyên bố (không thành thực) rằng ông không biết và nói một cách giễu cợt, “Tôi có thể nói với quý vị rằng ông ấy sẽ được các cơ quan hữu quan chăm sóc. Tôi không có thông tin gì thêm về người được gọi là Cha Lý.”

Vẫn phần điện tín của bà Palmer ghi lại:

Các điện thư được tiết lộ bởi Wikileaks cho thấy Hoa Kỳ đánh giá kỹ nhiều nhân vật quan trọng của Việt Nam và các nước khác

“Đại sứ nói rằng bất chấp mong muốn của chúng ta về mối quan hệ song phương chặt chẽ hơn, tình trạng nhân quyền thấp kém ở Việt Nam hạn chế khả năng thúc đẩy [quan hệ] trong nhiều lĩnh vực.”

Trong cuộc gặp hồi năm 2008 với phía Hoa Kỳ, Tướng Hưởng cũng từng đề nghị Đại sứ quán báo trước cho công an Việt Nam và chính quyền địa phương mỗi khi họ muốn có các cuộc gặp “nhạy cảm”.

Ông Hưởng nói việc các quan chức ngoại giao của Hoa Kỳ gặp gỡ những nhân vật bất đồng chính kiến của Việt Nam “khuyến khích các hoạt động bất hợp pháp và thể hiện sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho các hoạt động chống lại nhà nước.”

Trước đó trong cuộc gặp hồi tháng Ba năm 2005, Tướng Hưởng cũng cảnh báo Đại sứ quán Hoa Kỳ không nên gặp gỡ bí mật với những nhân vật “cực đoan” như ông Trần Khuê ở thành phố Hồ Chí Minh hay gặp Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Khi đó ông Hưởng cũng đề nghị chính phủ Mỹ “có hành động đối với các nhóm “thù địch” ở Hoa Kỳ gồm có các ông Kok Ksor, Võ Văn Ái, Nguyễn Hữu Chánh và đảng Việt Tân.

Báo chí Việt Nam cũng từng đưa tin về cuộc gặp của ông Hưởng với Đại sứ Michalak và Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Scott Marciel hồi tháng 2/2010 khi ông Hưởng nhắc lại quan điểm của mình về quan hệ song phương.

Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng từng là Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an và đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định xử những nhân vật đấu tranh dân chủ hoặc vận động nhân quyền.

Nay không còn là thứ trưởng nhưng ông được bổ nhiệm làm Phái viên của Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề An ninh Tôn giáo, theo các trang web của ngành công an Việt Nam.

Nhóm Đặc trách về Giam giữ Tùy tiện yêu cầu trả tự do cho 3 nhà hoạt động

Tường An, thông tín viên RFA.  2013-03-03

vtan03032013.mp3  Tải xuống âm thanhPhần âm thanh

baovelaodong.com-305.jpg

Từ trái qua: Anh Đoàn Huy Chương, anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và chị Đỗ Thị Minh Hạnh. Photo courtesy of baovelaodong.com

Với sự kết hợp của một số tổ chức và văn phòng luật sư, sau hơn 2 năm theo dõi; ngày 12/2/2013 vừa qua, Nhóm Đặc trách về Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc (The Working Group on Arbitrary Detention) đã đưa ra thông báo về vụ án này.

Trả tự do và bồi thường

Ngày 12 tháng 2 năm 2013 vừa qua,  nhóm Đặc trách về Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc đã ra một bản công bố số 42/2012, trình bày quan điểm của họ về việc nhà cầm quyền Việt Nam bắt giữ 3 người hoạt động cho Công đoàn là Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương.

Bản tuyên bố quan điểm này là kết quả quá trình kết hợp làm việc trong một thời gian dài giữa nhiều tổ chức khác nhau: Lao Động Việt, trụ sở tại Ba Lan, văn phòng Luật sư Lâm Chấn Thọ ở Canada, và Tổ chức Freedom Now cùng với tổ hợp Luật sư Woodley MacGillivary ở Hoa Kỳ.

Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, gọi tắt là Lao Động Việt, là một tổ chức kết hợp các tổ chức công đoàn tự do trong và ngoài nước để đấu tranh cho quyền lợi công nhân Việt Nam; Lao Động Việt bao gồm các tổ chức: Công đoàn Độc lập, Hiệp Hội Đoàn kết Công nông, Phong trào Lao Đông Việt và Ủy ban Bảo vệ người Lao động Việt Nam.

Ông Trần Ngọc Thành, đại diện ở hải ngoại của Lao Động Việt cho biết về sự kết hợp làm việc này như sau:

“Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do, gọi tắt là Lao Động Việt đã kết hợp chặt chẽ với luật sư Lâm Chấn Thọ tại Canada và Tổ chức Freedom Now ở Mỹ, tập hợp tất cả các hồ sơ của Hùng, Hạnh, Chương, cũng như các đơn của 3 gia đình.

Luật sư Lâm Chấn Thọ cũng như Tổ hợp luật sư đều rất năng nổ, nên trong một thời gian ngắn đã đưa đến kết quả là, Ban đặc nhiệm đã ra nghị quyết yêu cầu nhà cầm quyền CSVN phải thả tự do và bồi thường cho Hùng, Hạnh, Chương. Chúng tôi rất vui khi được biết  nhóm đặc trách của LHQ về giam cầm vô cớ đã ra bản quyết nghị yêu cầu trả tự do cho Hùng, Hạnh, Chương. Tôi thấy đây cũng là một kinh nghiệm cho cuộc đấu tranh cho tất cả những tù nhân lương tâm tại Việt Nam.”

Tiếp xúc với luật sư Lâm Chấn Thọ, được ông cho biết: Khi nhận được thư ủy quyền của 3 gia đình Hùng, Hạnh, Chương, ông đã bắt tay thu thập tài liệu và nộp hồ sơ lên LHQ ngày 17 tháng 8 năm 2011 với nội dung lên án sự bắt giữ tùy tiện của nhà cầm quyền Việt Nam.

Ban đặc nhiệm đã ra nghị quyết yêu cầu nhà cầm quyền CSVN phải thả tự do và bồi thường cho Hùng, Hạnh, Chương.
Ô. Trần Ngọc Thành

Sau đó, ngày 17 tháng 10 năm 2012, LHQ chuyển cho luật sư Thọ thư phản đối của Hà Nội đề ngày 28/9/2012, nội dung như sau:

“Họ nói rằng người nộp đơn này dựa trên những nguồn tin không được chính xác, những nguồn tin này không đáng tin cậy vì có hậu ý chính trị. Và họ nói rằng chính phủ Việt Nam rất tôn trọng Nhân quyền.

Họ nói rằng những tội đã buộc cho các anh chị đó là có căn bản. Họ nói rằng những người này là thành viên của đảng bí mật, họ đang làm những chuyện của những người ở hải ngoại để lật đổ, gây những chuyện xáo trộn trong Việt Nam; Họ phát truyền đơn, xúi những người ở hãng giầy Mỹ Phong đập phá tài vật, vì thế cho nên họ phải được xử theo luật 89 của bộ luật hình sự năm 2009.

Hai điều quan trọng nhất là họ nói rằng: họ xử hai người này đúng theo luật Việt Nam, và họ xử đúng theo luật tố tụng hình sự của luật Việt Nam. Một chút nữa tôi sẽ nói Working Group họ để ý những chuyện gì và họ sẽ trả lời.”

Nhận được thư phản đối của nhà cầm quyền Việt Nam, nhóm đặc nhiệm cùa Liên Hiệp Quốc yêu cầu luật sư Thọ nghiên cứu và phản hồi trước ngày 23 tháng 11 năm 2012, tức là ngày mà Liên Hiệp Quốc có cuộc họp lần thứ 65 về các vấn đề Nhân quyền.

Họ đề nghị ông đưa ra những lập luận phản kháng lại thư trả lời của Hà Nội để họ có thể tiếp tục nghiên cứu hồ sơ này. Ngày 9 tháng 11 năm 2012, Luật sư Lâm Chấn Thọ đã gửi thư cho nhóm đặc trách về Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc, ông đưa ra những lập luận dựa trên luật Việt Nam và Quốc tế để phản bác như sau:

“Theo luật hình sự Việt Nam thì họ có quyền giam giữ nghi can từ 45 đến 90 ngày; 45 ngày nếu không có gì quan trọng, và 90 ngày nếu quan trọng hơn. Trong trường hợp của 3 người này, họ giam hơn 300 ngày; mà không phải vậy không, họ đối xử rất dã man, chị Đỗ Thị Minh Hạnh bị đánh đến bị điếc một bên tai, và cho họ ngủ kế bên những tù nhân bị bệnh (HIV-theo lời của gia đình) có thể lây cho họ.

Đồng thời chúng tôi nêu lên cho The Working Group on Arbitrary Detention họ lưu ý rằng: chính quyền Việt Nam hoàn toàn vi phạm những hiệp ước, những tuyên ngôn Nhân quyền mà họ đã ký, ví dụ họ vi phạm điều 7, điều 9, điều 14, 19, 22 của Tuyên ngôn Nhân quyền, và điều 8 của quyền về chính trị, kinh tế và văn hoá.”

Tháng 6 năm 2012 vừa qua, Liên đoàn Lao Động Việt cũng có một cuộc tiếp xúc với tổ chức Freedom Now tại Hoa Thịnh Đốn yêu cầu can thiệp cho Chương, Hùng, Hạnh. Ngày 14 tháng 12 năm 2012 Freedom Now vào cuộc, cùng với tổ hợp Luật sư Woodley MacGillivary, họ đã liên lạc với văn phòng luật sư Lâm Chấn Thọ để cùng thụ lý hồ sơ.

Sau những ngày chờ đợi, cuối cùng, ngày 12 tháng 2 năm 2013, sau khi xem xét tất cả các yếu tố nhóm Đặc trách về Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc đã công bố bản quan điểm của họ về trường hợp bắt bớ và giam giữ 3 người trẻ hoạt động công đoàn. Bản công bố gồm 35 điểm, trong đó có những điểm đáng chú ý như sau:

Chính quyền CSVN đã vô cớ bỏ tù và tra tấn họ, nay phải trả tự do và bồi thường
Đặc trách viên của LHQ về Tra tấn nên điều tra việc 3 người này bị tra tấn, đánh đập

Vi phạm luật Nhân quyền Quốc tế

hung-hanh250.jpg
Bức tranh chân dung Đỗ Thị Minh Hạnh và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng của Họa sĩ Trần Lân. Courtesy Họa sĩ Trần Lân.

Một lần nữa, LHQ đã chính thức bác bỏ lập luận của nhà cầm quyền VN cho rằng những những tù nhân này vi phạm luật pháp Việt Nam mà chính nhà cầm quyền Việt Nam đã vi phạm luật Nhân quyền Quốc tế.Luật sư Lâm Chấn Thọ nhấn mạnh hai điểm sau:

“Quan điểm của nhóm Đặc trách của Liên Hiệp Quốc về Giam giữ Tùy tiện nói thẳng thừng như thế này: Họ nói trong trường hợp của anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương chính quyền CSVN đã vi phạm môt cách trắng trợn điều 9, 10, 20, 21 của Tuyên ngôn Nhân quyền, và điều 9, 10, 14, 20, 25 của hiệp ước về quyền dân sự và quyền chính trị mà Việt Nam đã ký.

Điểm mà tôi thấy quan trọng nhất là họ nhấn mạnh: những quyền hội họp, quyền thành lập công đoàn, hay quyền tham dự và những việc ích lợi chung được bảo vệ dưới điều 22 và 25 của Tuyên Ngôn Nhân quyền, họ nhấn mạnh về vấn đề đó.

Và điều thứ hai mà chúng ta phải để ý, Liên Hiệp Quốc có điều này rất hay, đoạn 29 nói như thế này: Không phải chính quyền Việt Nam nói những người phạm tội theo điều 89 của bộ luật hình sự là chúng tôi phải im lặng, chúng tôi có quyền coi những điều luật đó có đúng với những tiêu chuẩn Quốc tế hay không. Và những vụ giam giữ người ta có thể đúng theo luật Việt Nam, mấy anh dùng bộ luật 89 hay 88 thì các anh cứ dùng, nhưng chúng tôi có bổn phận phải xem xét coi cách giam giữ coi nó có đúng theo luật Quốc tế hay không? Và cách mấy anh giam giữ có đúng tiêu chuẩn hay không, có đúng những hiến chương, có đúng những hiệp ước, những luật của Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền.

Đó là 2 điều chúng ta thấy rất thuận lợi cho những cuộc tranh đấu trong tương lai để bắt chính quyền CSVN phải tôn trọng Nhân quyền.”

Họ nói trong trường hợp của anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương chính quyền CSVN đã vi phạm môt cách trắng trợn điều 9, 10, 20, 21 của Tuyên ngôn Nhân quyền, và điều 9, 10, 14, 20, 25 của hiệp ước về quyền dân sự và quyền chính trị mà Việt Nam đã ký.
LS Lâm Chấn Thọ

Mặc dù rất lạc quan trước ý kiến công bố bởi nhóm Đặc trách về Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc, nhưng luật sư Lâm Chấn Thọ cũng nhấn mạnh:

“Quan điểm hay quyết định của Hội đồng Nhân quyền này không có tính cách cưỡng chế nhưng mà những vi phạm đó nó lọt vào nhóm 2 và 3 của những nhóm vi phạm Nhân quyền, mà nhóm Đặc trách của Liên Hiệp Quốc về Giam giữ Tùy tiện có quyền nghiên cứu, theo dõi, thẩm định. Nó có thể gây ra một áp lực rất tốt trên chính trường Quốc tế.”

Đoàn Huy Chương, Đỗ Thị Minh Hạnh và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bị bắt lần lượt vào các ngày 13, 23 và 24 tháng 2 năm 2010 sau khi giúp công nhân hãng giầy Mỹ Phong ở Trà Vinh biểu tình đòi quyền lợi. Phiên toà phúc thẩm ngày 18/2/2011 y án sơ thẩm kết án 7 năm tù cho Chương và Hạnh, 9 năm tù cho Hùng vì “tội phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân”.

Hiện Chương đang bị giam tại khu 2, Hạnh giam ở khu 3 trại Thủ Đức, tỉnh Bình Thuận, Hùng bị giam ở Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Bà Ngọc Minh, Mẹ của Hạnh cho biết tình trạng hiện nay của 3 người như sau:

“Hạnh trong tù thì thường xuyên đau ốm, hay bị hạ đường huyết (huyết áp), hay bị xỉu, nó cũng bị thiếu calci, viêm khớp. Một cái tai nó bị yếu, không nghe được, chỉ còn 1 cái tai thôi. Nói chung là sức khỏe của cháu không được tốt lắm.

Hùng và Chương cũng vậy, bị hành hạ ngược đãi dữ lắm. Chương có thời gian tuyệt thực; Chương bi liệt mấy ngón tay. Hùng thì lầm lì ít nói, nó kiên cường, nó chịu đựng cũng giỏi lắm.

Chúng nó hình như sợ gia đình buồn; Hạnh cũng vậy, mỗi lần vào thăm nó sợ gia đình buồn và lo lắng nên sự đau ốm, khổ sở nó ít có nói, nó chỉ nhắn nhủ những gì cần thiết thôi. Những lần gia đình vào thăm thì cũng rất hạn chế nói chuyện bởi vì có công an kèm sát.

Lần trước có ông công an chính trị nói với tôi là có 3 tiêu chí để giảm án, tiêu thí thứ nhất là phải nhận tội. Tiêu chí này không thực hiện được thì giữ nguyên bản án. Và nó bị kỷ luật hoài là vì mỗi lần kiểm điểm thì không chịu nhận tội vì nó có tội đâu mà nó nhận. Người nào cũng bắt nó nhận tội hết. Chương cũng bị bắt nhận tội, nó bị dọa là không nhận tội thì cho nó chết.”

Luật sư Lâm Chấn Thọ cho biết đã cung cấp hồ sơ của «Chương Hùng Hạnh» cho Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải để chuyển lên Quốc Hội Canada cũng như bà Dân biểu Clark thay mặt cho 30 dân biểu Anh để nộp lên Quốc hội Anh. Ngoài ra nhóm Đặc trách về Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc cũng đã chuyển giao hồ sơ này cho Ủy Ban điều tra về tra tấn của LHQ.

Các luật sư nói trên đều làm việc thiện nguyện. Freedom Now nói rằng họ sẽ tiếp tục theo dõi hồ sơ này cho đến khi 3 người trẻ này được trả tự do.

‘Góp ý hiến pháp: hơn một sự ngộ nhận’

Quốc Phương. bbcvietnamese.com, 2 tháng 3, 2013

Bác sỹ Phạm Hồng SơnBác sỹ Sơn cho rằng góp ý cho Đảng sửa hiến pháp trong trật tự hiện nay là ‘kỳ cục’, ‘vô ích’ và ‘ảo tưởng.’

Đợt góp ý cho sửa đổi Hiến pháp hiện hành ở Việt Nam đang tiến gần tới thời hạn chót mà Quốc hội và chính quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo đặt ra, nhân dịp này, bác sỹ Phạm Hồng Sơn, nhà vận động cho dân chủ và nhân quyền trong nước, dành cho BBC Việt ngữ một cuộc trao đổi.

Mở đầu cuộc phỏng vấn bằng bút đàm gồm Bấm hai phần, ông Phạm Hồng Sơn bình luận về lưu ý gì cần tính tới liên quan trước hết quy trình của cuộc sửa đổi Hiến pháp lần này, trong đó đặc biệt cần lấy gì để đảm bảo người dân có thực quyền và chủ quyền để định đoạt việc lập hiến:

BS. Phạm Hồng Sơn: Trước tiên tôi xin nêu ra hai vấn đề có thể đang bị ngộ nhận, nhầm lẫn lớn trong dư luận về việc sửa đổi hiến pháp. Những bàn luận, thông tin hiện nay gây ra một cảm giác rằng hiến pháp có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc xây dựng chế độ dân chủ hay thực hiện, bảo vệ quyền tự do, nhân quyền cho nhân dân và hiến pháp khởi thủy là nhằm xây dựng nhà nước hay là khế ước giữa người dân và kẻ cầm quyền. Nhưng thực sự không hoàn toàn như thế.

Thứ nhất, hiến pháp chỉ là một thiết chế trong nhiều thiết chế của chế độ dân chủ và không có hiến pháp thì không hẳn xã hội sẽ không có (hay thiếu hơn) tự do, dân chủ. Anh Quốc hay Israel không có hiến pháp (đúng hơn là không có bản văn hiến pháp) nhưng đều là những xã hội rất tự do, dân chủ. Hoặc đơn giản hơn nữa, nhìn vào Việt Nam trước năm 1945 dưới thời thuộc địa (cũng không có hiến pháp) thì rõ ràng lúc đó người dân Việt Nam có nhiều quyền tự do cơ bản hơn hiện nay. Thứ hai, nguồn cội của tư tưởng hiến pháp (constitutionalism) không phải là việc xây dựng nhà nước hay là khế ước giữa người dân và kẻ cầm quyền – đó chỉ là sự tiến triển và là hệ quả cụ thể sau này như chúng ta đang thấy – mà nguồn cội của hiến pháp chính là tinh thần thượng tôn pháp luật (rule of law) – tư tưởng có nguồn gốc từ phương Tây từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại và được củng cố mạnh mẽ trong thời Trung cổ châu Âu và tiếp tục trong những thời kỳ sau này- bất kể ai, từ vua tới dân, giáo hoàng cho tới con chiên, đều phải tuân thủ pháp luật – những qui ước chung.

Ngay trong đêm trường Trung cổ, những điển cố về tuyên hứa tuân thủ và thực thi nghiêm ngặt pháp luật của các ông vua bạo chúa như Pepin (714-768), Charlemagne (742-814), Charles the Bold (1433-1477) vẫn còn được sử sách ghi rõ. Hay đơn giản là nhìn vào vụ án Tống Văn Sơ tại Hong Kong năm 1931 ta cũng thấy nguyên tắc ‘rule of law’ được tuân thủ nghiêm ngặt. Dẫu cho pháp luật những thời đó còn nhiều bất công và man rợ nhưng tập quán giữ lời và tôn trọng pháp luật là một di sản vô cùng lớn đã làm nền cho văn minh nhân loại hôm nay.

Chính trên thiết chế ‘rule of law’ đó của phương Tây, hiến pháp với ý nghĩa là một bộ luật chung cho một cộng đồng-quốc gia-dân tộc mới được phát triển. Nhìn lại những bản văn có tính hiến pháp quan trọng của nhân loại như Magna Carta 1215, Fundamental Orders of Connecticut 1638, Hiến pháp Mỹ 1787 hay Hiến pháp Meiji Nhật Bản 1889, dù khác nhau về không gian và thời gian và còn nhiều khiếm khuyết nhưng tất cả đều có chung một đặc tính: những người chủ xướng thảo ra và hạ bút ký đều tuân thủ rule of law và, do đó, tất cả cùng làm thành nền tảng văn minh, tự do cho các thế hệ kế tiếp ở những nơi đó. Nghĩa là về nguồn gốc chỉ khi một nhóm người đã cùng có ý thức tuân thủ nghiêm ngặt những cam kết, nguyên tắc chung (luật) thì mới có hiến pháp và chỉ khi đó hiến pháp mới có ý nghĩa.

‘Vô ích, ảo tưởng’

“Theo tôi, một cách thẳng thắn, nếu bàn đến xây dựng hay ủng hộ việc cải cách hiến pháp với chính quyền Việt Nam hiện tại là một việc làm kỳ cục, gần như vô ích hoặc hết sức ảo tưởng”

Bác sỹ Phạm Hồng Sơn

Nhìn lại cái gốc của hiến pháp Việt Nam hiện nay là gì? Đó là vụ “Ôn Như Hầu”, là bà Nguyễn Thị Năm-Cát Thành Long (ân nhân của Hồ Chí Minh) bị bắn chết tươi, là mấy chục năm trên Cổng Trời của Nguyễn Hữu Đang (người dựng lễ đài khai sinh ra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), là “rút phép thông công” của Nguyễn Mạnh Tường (tư vấn pháp luật cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), là chín năm tù không án của Vũ Thư Hiên – con trai ân nhân và thư ký riêng của Hồ Chí Minh – lãnh tụ, tác giả chính của Hiến pháp 1946, là bảo người ta đi học tập vài tuần, vài tháng nhưng rồi đưa người ta đi tù mút mùa hàng chục năm hoặc mãi mãi, vân vân và vân vân, vô vàn những đau thương, tủi hờn khác còn ghê gớm, xót xa hơn nữa. Và nếu chỉ tính trong vài tháng trở lại đây, trong đợt “cải cách hiến pháp”, có ai đếm được hết những vụ bất chấp luật pháp, bách hại, sỉ nhục con người tại Việt Nam do chính người cầm quyền thực hiện(?).

Với cái nền “rule of law”, cả từ đáy cho tới hiện tại, như thế thì sao có thể nói đến hiến pháp hay sửa hiến pháp được? Do đó, theo tôi, một cách thẳng thắn, nếu bàn đến xây dựng hay ủng hộ việc cải cách hiến pháp với chính quyền Việt Nam hiện tại là một việc làm kỳ cục, gần như vô ích hoặc hết sức ảo tưởng.

Nhưng bình tĩnh lại, chúng ta cũng cần thấy thế này: chính sự phát triển lâu dài hàng thế kỷ sau đó của hiến pháp trên thế giới và đặc biệt là việc các lãnh đạo độc tài thường xuyên lấy hiến pháp làm mặt tiền (façade) cho cách cầm quyền độc đoán, bất chấp pháp luật (phi thượng tôn pháp luật – rule by law) của họ đã làm cho chúng ta lãng quên mất cái gốc quan trọng của hiến pháp (thực sự) – là rule of law – và làm cho chúng ta rối mù trong cái vòng xoắn luẩn quẩn: Độc tài thời dân chủ – Hiến pháp mặt tiền – Dân chủ giả hiệu – Dân chúng bối rối, mất tự do – Độc tài thời dân chủ.

Dân chúng bối rối vì phản đối thì sẽ bị qui ngay là chống lại pháp luật, chống lại văn minh còn đồng ý, tán thành thì hậu quả như chúng ta đã thấy: một nhà nước vẫn hoàn toàn độc tài còn nhân dân thì bị kìm kẹp, hắt hủi tệ hơn với những hệ thống pháp luật đồ sộ, luôn được cải cách và cũng không kém đẹp đẽ.

Trong khi đó, cả thực tế như ở Việt Nam và các kết luận của giới học giả chính trị, như Hayek hay Dicey, đã chứng minh rõ là ‘rule of law’ phụ thuộc chủ yếu vào thái độ, thiên hướng đạo đức và các hành động chính trị hơn là phụ thuộc vào ngôn từ của các văn bản luật.

Hơn nữa chúng ta cũng không nên kỳ vọng hiến pháp sẽ giải quyết được mọi thứ vì không thể có một văn bản nào dù thành thực, chi tiết đến mấy có thể qui định và đưa ra được các giải pháp luôn đúng cho mọi vấn đề cá nhân và xã hội. Ví dụ, tôi tin rằng ngay cả bây giờ nếu không có hiến pháp nhưng một nhà cầm quyền lương thiện sẽ không bao giờ cấm cản, sách nhiễu, sỉ nhục, vu cho những người xuống đường phản đối quân xâm lược Trung Quốc là gây rối hay không thể nào lại hắt hủi vị tướng già gần 100 tuổi muốn đặt vòng hoa tưởng niệm các binh sĩ đã bỏ mình vì quân Trung Quốc.

‘Không nên khẩn cầu’

Tổng bí thư Nguyễn Phú TrọngTổng Bí thư ĐCS Nguyễn Phú Trọng cảnh báo về ‘suy thoái tư tưởng, lập trường’ trong đợt góp ý cho Hiến pháp

BBC: Vậy theo ông nhóm 72 người (đầu tiên) mới đây kiến nghị về cải cách hiến pháp do ĐCSVN đề ra có những ý nghĩa gì?

Đó là việc có thể tăng cường hiểu biết, nhận thức về pháp luật và tập dượt trong việc tập hợp dân chúng. Nhưng nếu chỉ nhằm hai mục đích đó thôi thì những nhân sĩ có uy tín lớn vào hạng nhất như thế lẽ ra không nên khẩn cầu hay kiến nghị cho Quốc hội – cơ quan đã tỏ rõ là vô trách nhiệm với tất cả các vấn đề hệ trọng nhất của đất nước, đã bị thế giới dân chủ gọi là con dấu cao su của ĐCSVN. Nếu các vị đó không cần phải đề đạt, khẩn cầu ai, ngoài dân chúng, tôi tin rằng các vị đó vẫn khởi động được một phong trào nâng cao nhận thức của xã hội về hiến pháp, pháp luật, vừa tập được tính chủ động cho người dân và vừa tránh được mọi sự lợi dụng (chắc chắn đã hoặc sẽ có) của chính quyền và loại hoàn toàn được hiệu ứng (vô tình hay cố ý) tạo thêm tính chính đáng cho một thủ đoạn chính trị lừa dối. Và còn tránh được nhiều hệ quả có thể xấu hơn nữa.

Nhưng nói đến hiến pháp, pháp luật mà không nhấn mạnh, đòi hỏi rule of law, không tố cáo, phản bác sự chà đạp ‘rule of law’, bất chấp hiến pháp thì cũng chả khác mấy với các tuyên truyền của ĐCSVN từ xưa tới nay. Hơn nữa, chúng ta cần hết sức lưu ý rằng ĐCSVN đã luôn chứng tỏ là ông “trùm” trong việc thao túng, lèo lái dư luận, lôi kéo, thao túng quần chúng, kể cả những khi họ chưa nắm chắc quyền hoặc lâm khủng hoảng. Chính đợt “cải cách hiến pháp” này cũng là một ví dụ chứng tỏ ĐCSVN vẫn thừa khả năng áp đặt “lối chơi”. Vấn đề hệ trọng này tôi xin đề cập thêm vào một dịp khác.

BBC:Thế còn ý kiến cho rằng “Kiến nghị 72” có tác dụng ‘hỗ trợ một phe đang muốn đa nguyên trong Đảng’, thì ông nghĩ sao?

“Nhưng nói đến hiến pháp, pháp luật mà không nhấn mạnh, đòi hỏi rule of law, không tố cáo, phản bác sự chà đạp rule of law, bất chấp hiến pháp thì cũng chả khác mấy với các tuyên truyền của ĐCSVN từ xưa tới nay”

Bác sỹ Phạm Hồng Sơn

Vâng, cũng có thể có manh nha của một sự biến chuyển thành đa đảng. Các phe phái trong ĐCSVN gần như đang hình thành ngày càng rõ và họ còn đã chuẩn bị xong những bước đầu tiên cho sự truyền ngôi cho thế hệ con cháu của họ. Và chính cái nguy hiểm nằm ở chỗ đó vì nếu như thế thì rất có thể Việt Nam sẽ lặp lại tình trạng nước Nga thời hậu Yeltsin như hiện nay và chắc chắn sẽ tệ hơn nước Nga vì Việt Nam là bạn vàng của Anh cả Đỏ phương Bắc. Lúc đó các phe phái độc tài sẽ thay nhau nắm quyền sắt đá, sẽ có truyền thông tư nhân hốt bạc là cánh hẩu của giới chính trị nói tiếng Anh làu làu, lái Rolls-Royce điệu nghệ, còn tự do của nhân dân và chủ quyền quốc gia chắc sẽ được đếm xỉa nhiều ít là phụ thuộc vào sự lên xuống cao thấp của những ly rượu Mao Đài.

Một đất nước thiếu hay yếu về xã hội dân sự và người dân chưa có nhiều thao luyện chính trị luôn là mảnh đất màu mỡ cho độc tài độc đảng hay vài đảng lũng đoạn.

BBC: Ông nghĩ sao về con số được cho là ‘đã có gần bảy nghìn người’, tính tới thời điểm này, ký tên vào “Kiến nghị 72”?

Tôi nghĩ đó là một kết quả rất đáng khích lệ không chỉ cho những người chủ xướng mà còn cho cả những người muốn dân Việt Nam tích cực hơn với các vấn đề chung của xã hội. Nhưng số lượng không phải là yếu tố duy nhất hay yếu tố quyết định cho chất lượng hay xác định tính đúng/sai của một xu hướng/phong trào chính trị nhất là khi quyền lực độc đoán vẫn giữ thế thượng phong, bao trùm trong xã hội. Còn về phân tích thống kê thì những đặc điểm như phân bổ vùng miền, giới, nghề nghiệp, tôn giáo và nhất là trình độ chính trị của người ký và cách thức tập hợp, lấy chữ ký như thế nào cũng là yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét tính chất của sự ủng hộ. Đó là những điều tôi chưa biết rõ.

Nhưng chúng ta rất cần lưu ý các cuộc bầu cử do ĐCSVN tổ chức từ năm 1945 đến nay và các cuộc bầu cử ở nước Nga thời hậu cộng sản vẫn là những bài học sâu sắc về số lượng cho chúng ta – những người muốn có dân chủ, tự do đích thực.

Mời quý vị đón theo dõi tiếp Bấm tại đây phần II của cuộc trao đổi gồm có hai phần với Bác sỹ Phạm Hồng Sơn, người được tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch trao giải thưởng Hellman-Hammett về quyền con người năm 2008.

Các bài liên quan

Nhà hoạt động Phạm Minh Hoàng ở lại Việt Nam

Mi-VOA’ .  22.02.2013 

Nhà hoạt động Phạm Minh Hoàng ở lại Việt Nam để tiếp tục đấu tranh dân chủ

 Nhà hoạt động Phạm Minh Hoàng.Nhà hoạt động Phạm Minh Hoàng.

Trà Mi xin chào đón quý vị và các bạn đến với Tạp chí Thanh Niên hằng tuần của đài VOA.

Gia đình ông Phạm Minh HoàngGia đình ông Phạm Minh Hoàng

​​Blogger song tịch Pháp-Việt Phạm Minh Hoàng đã được giảm phân nửa bản án 3 năm tù về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Cựu giảng viên Đại học Bách Khoa, Phạm Minh Hoàng, (tức blogger Phan Kiến Quốc) được trả tự do tháng giêng năm ngoái sau 17 tháng tù giam và hiện đang chịu 3 năm quản chế vì các bài viết thể hiện quan điểm cá nhân trái với nhà nước.

Bản án, vốn không nặng so với tội danh này cũng như so với hàng loạt các bản án mà Hà Nội dành cho các nhà bất đồng chính kiến khác với cùng cáo buộc, lại nhanh chóng được giảm đi phân nửa. Sự việc hiếm thấy này khiến câu chuyện của giảng viên Hoàng gây nhiều chú ý và tranh cãi trong công luận cho tới tận bây giờ.

Gần 30 năm định cư tại Pháp, vào năm 2000, đảng viên Việt Tân, Phạm Minh Hoàng, đã quyết định về Việt Nam sinh sống để theo đuổi ước mơ đóng góp xây dựng đất nước qua việc truyền đạt tri thức cho các thế hệ trẻ. Sau án tù vì các bài viết cổ xúy dân chủ của mình, nhà trí thức trăn trở vì hiện tình đất nước vẫn kiên quyết ở lại Việt Nam để tiếp tục tham gia cuộc đấu tranh kêu gọi dân chủ-nhân quyền cho người dân trong nước. Giảng viên Phạm Minh Hoàng đã dành cho Tạp chí Thanh Niên cuộc trao đổi về con đường và lý tưởng anh đã chọn.

Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn ông Phạm Minh Hoàng:

Qúy vị muốn chia sẻ quan điểm về câu chuyện của giảng viên Phạm Minh Hoàng, xin mời góp ý và bình luận cùng độc giả khắp nơi trong mục Ý kiến ngay bên dưới bài đăng trên trang nhà voatiengviet.com.

Để nhận các câu chuyện hằng tuần của Tạp chí Thanh Niên đài VOA gửi trực tiếp vào máy tính của mình, mời các bạn đăng ký dịch vụ RSS miễn phí và tải PODCAST từ trang chính của Ban Việt Ngữ Đài Tiếng nói Hoa Kỳ www.voatiengviet.com.

Tạp chí Thanh Niên sẽ mang đến quý vị và các bạn một câu chuyện mới trên làn sóng của đài VOA tối thứ sáu và chủ nhật tuần sau. Mong quý vị đón nghe.


Tr

World news on Nguyen Dac Kien

The Washington Post: In Vietnam, journalist hits limits of government’s willingness to debate new constitution

By Associated Press, 

HANOI, Vietnam — Vietnam’s government has asked its citizens to debate planned revisions to the country’s constitution. But when journalist Nguyen Dac Kien weighed in on his blog, he quickly discovered the limits of its willingness for discussion. His state-run paper fired him the next day.

Kien had taken issue with a statement by the Communist Party chief in which he said discussions over the revisions should not include questions over the role of the party.

In a post Monday that rapidly went viral, he wrote that the party chief had no right to talk to the people of Vietnam like this, and that state corruption was the real problem.

Kien said he wasn’t surprised by his firing, which was announced Wednesday in an article on page 2 of the Family and Society, the paper where he worked.

“I knew that there would be consequences,” Kien said by telephone. “I have always expected bad things to happen to me. The struggle for freedom and democracy is very long and I want to go to the end of that road, and I hope I can.”

Vietnam opened up its economy in the 1990s after the collapse of the Soviet Union deprived it of a vital economic partner and ally, but under an authoritarian regime, government critics, free speech activists and other people the party regards as dissidents can be locked up for many years. The emergence of the Internet as an arena of free and uncontrollable expression, coupled with a stuttering economy, has led to new pressures on the regime, but few think its grip on power is seriously weakening.

The government is revising the constitution for the first time since 1992, citing the need to speed up the country’s development.

Perhaps the most significant change in the draft on the government’s website is the removal of language stipulating that the state sector “plays the leading” role in the national economy. That could help the government in its pledge to restructure the country’s lumbering, corruption-riddled and unproductive state-owned sector, which eats up much of the national budget and has been blamed for the current economic difficulties.

The government has asked for public discussion on the revisions, even opening up its website for comments, a move that carried some risk. In response, a group of several hundred well-known intellectuals, including a former justice minister, have circulated an online petition calling for multiparty elections, private land ownership, respect for human rights and the separation of the branches of government. More than 5,000 people have signed it.

Vietnam’s state-owned television station quoted the Communist Party’s general secretary, Nguyen Phu Trong, as saying those ideas amounted to the abolishment of article 4 of the constitution, which guarantees the political dominance of the party. He said that was a “political, ideological and ethical deterioration” and should be opposed.

Kien immediately took to his blog, writing “you are the general secretary of the Communist Party of Vietnam. If you want to use the word deterioration, you can only use it in relation to Communist Party members. You can’t say that about Vietnamese people.” He said there was nothing wrong with wanting political pluralism, and that “embezzlement and corruption” by party members was a bigger problem.

The Family and Society newspaper, which is owned by the ministry of health, said in the article that it fired Kien for “violating the operating rules of the newspaper and his labor contract,” adding that he alone was “accountable before the law for his behavior.”

In a posting on his Facebook page after his firing, Kien said “whatever happens, I just want you to understand that I don’t want to be a hero, I don’t want to be an idol. I just think that once our country has freedom and democracy, you will find out that my articles are very normal, really normal, and nothing big.”

He also said he understood the decision of the paper’s editors, saying “if I were in their position, I may have acted the same.”

http://www.washingtonpost.com/world/asia_pacific/in-vietnam-journalist-hits-limits-of-governments-willingness-to-debate-new-constitution/2013/02/27/784b1de6-80ab-11e2-a671-0307392de8de_story.html

*

 *

Global Post: Vietnam reporter fired for criticising ruling party chief

A Vietnamese journalist said Wednesday he had been fired from his state-run newspaper after criticising the head of the ruling Communist Party in a personal blog.

Nguyen Dac Kien was sacked from the Family and Society newspaper less than 24 hours after he published an essay on his blog — which quickly went viral — criticising a speech by the party’s general secretary Nguyen Phu Trong.

The newspaper falls under the remit of the Ministry of Health.

Vietnam, a one-party state that forbids political debate, routinely jails or places under house arrest activists and bloggers for publicly expressing dissent and challenging the communist party’s rule.

“I am not surprised. After what I wrote (my removal from the paper) was easy to predict,” Kien, who had worked at the newspaper since 2008, told AFP by telephone.

“I disagree with his (Trong’s) speech… I think it is unacceptable,” the 29-year-old reporter said.

The newspaper said in a statement that Kien was sacked for “violating the operation status of the newspaper” and would have to take “personal responsibility” if prosecuted.

Speaking on Monday Trong, one of Vietnam’s most powerful leaders, accused people calling for political reforms in the authoritarian state of showing “political, ideological and moral deterioration”.

“Who wants to deny the Communist Party’s leading role? Who wants pluralism and a multi-party system? Who wants separation of power?… This must be nothing else but deterioration,” he said.

Responding in his essay, Kien said Trong had “no right to address the whole country” and only certain communist party officials wished to preserve the protected status of the party in political life.

“You cannot say that it’s the aspiration of the Vietnamese people… only embezzlement and corruption, running counter to the benefits of the people and the nation, are deterioration,” he added.

The reporter, who is married and has one young son, told AFP he was prepared for difficulties after his sacking but was worried about the impact on his family.

“I will continue to pursuit my path fighting for democracy in this country,” he said.

Vietnam ranks a dismal 172 out of 179 countries on the latest Reporters Without Borders press freedom index.

ceb/apj/sm

http://www.globalpost.com/dispatch/news/afp/130227/vietnam-reporter-fired-criticising-ruling-party-chief

*

*
VOA News: Vietnam Reporter Fired After Criticizing Communist Leader
February 27, 2013
A Vietnamese journalist working for a state-run newspaper has been fired and threatened with prosecution after criticizing a Communist Party leader on his personal website.
Nguyen Dac Kien was let go by the official Family and Society newspaper on Tuesday, less than 24 hours after writing a blog post that took issue with a speech by General-Secretary Nguyen Phu Trong.
In the nationally televised speech Monday, the general-secretary said those who call for pluralism, a multi-party system and separation of power represent a “deterioration” of Vietnamese society.
Kien’s blog post, which went viral , said the leader had “no right” to address the people of Vietnam like this, saying state corruption was the real problem with Vietnam.
The paper, where Kien had worked since 2008, quickly put out a statement saying the reporter had “violated the operating rules” of the publication and had been fired. It warned he will be “held accountable before the law for his words and behavior.”
Kien, who is married and has a small child, says he had done nothing wrong, but that he is not surprised by the firing. He says he will continue fighting for democracy in Vietnam and is prepared to face the ramifications of writing the article.
Vietnam is a one-party Communist state that strictly forbids criticism of its leaders. It increasingly has jailed political dissidents and activists who question the party’s authority.
*
*
*
*
*
*
*
*
*
*

Những điều Đảng không muốn thấy

000_Hkg8327355-305.jpg

Mặc Lâm, biên tập viên RFA2013-02-27

02272013-maclam.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Pano tuyên truyền cho ngày thành lập ĐCSVN tại Hà Nội được chụp hôm 27/2/2013.AFP photo

    Nghe bài này
   Tải xuống – download

Trong chỉ thị 2 của Bộ chính trị ra lệnh không bàn tới luật đất đai trong đợt sửa đổi Hiến Pháp 92 lần này.

Không thể biết được có bao nhiêu nạn nhân trên khắp đất nước đang rên siết vì oan khiên do luật đất đai tạo ra cho gia đình họ mà chính quyền các địa phương đang tận dụng kẽ hở để đàn áp, bóc lột người dân thấp cổ bé họng. Hai nạn nhân đất đai kể về sự lầm than của gia đình họ trong bối cảnh thay đổi Hiến pháp hiện nay cho thấy thêm một góc tối khác đang phủ lên bản Hiến pháp đương thời.

Nỗi đau mất đất

Trong lần sửa đổi Hiến pháp này luật đất đai vẫn dậm chân tại chỗ với tên gọi mỹ miều: “Đất đai là sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”. Bao nhiêu năm qua điều được gọi là nhà nước thống nhất quản lý ấy thật ra nằm gọn trong tay chính quyền địa phương và vì vậy quyền sinh sát của những ông vua này không phải là nhỏ.

Biết bao hình ảnh của người dân mất đất kéo nhau về thành phố Hồ Chí Minh nằm vật vạ tại đường Hoàng Văn Thụ hay Võ Thị Sáu cho thấy mặt trái của sự quản lý yếu kém đã gây uẩn ức cho hàng vạn gia đình từ Bắc vào Nam.

Những hình ảnh đen tối ấy xem ra vẫn chưa đánh động được sự chú ý của Đảng bởi trung ương vẫn cho rằng nếu đất đai thuộc sở hữu thật sự của người dân thì các kế hoạch vĩ mô sẽ bị xáo trộn và quan trọng hơn hết là hàng triệu Đảng viên sẽ rơi vào tâm trạng mất phương hướng khi nguồn lợi đất đai của họ bị đe dọa.

Trong khi nhân sĩ trí thức tập trung vào điều 4, tam quyền phân lập, hay gần gũi hơn là phi chính trị hóa đối với quân đội thì người dân mất đất chỉ đau đớn với mảnh đất của mình. Có từng vỡ đất mới thấy đau khi bị mất đất. Mồ hôi cả dòng họ tưới xuống đất cho nó cứng cáp, phì nhiêu chỉ trong một thời gian ngắn bị mất sạch thì làm sao không đau không xót?

Họ là hàng ngàn người có cái tên chung là dân oan. Mỗi hoàn cảnh mỗi khác nhưng cái đau thì như nhau. Vừa đau thân xác vừa uất ức tinh thần khiến không ít người trở thành cuồng dại. Tiếng rên xiết của những người dân oan ấy bị bao vây bởi những cơ quan gọi là chức năng và công lý vẫn là điều gì không thể vươn tới.

Khi người dân đi khiếu kiện họ không biết rằng do Hiến pháp không cho phép tam quyền phân lập nên không có bất cứ tòa án nào có thể xử lý các bất công từ chính quyền. Họ cũng không hề biết rằng chính điều 4 Hiến pháp đã cho phép Đảng Cộng sản Việt Nam khống chế toàn bộ quyền lực của Hiến pháp để từ đó ban phát cho các địa phương thi hành những luật lệ tùy tiện, những quy định đất đai ngược lại với quyền lợi người dân qua cách trưng thu hay đền bù giải tỏa.

Không cấp nào giải quyết

b12-250.jpg
Dân oan Dương nội túc trực tại trụ sở tiếp dân Thành phố Hà Nội hôm 16/10/2012

Bà Nhan Hương là một trong hàng ngàn người như thế. Nói với chúng tôi vào ngày 25 tháng Hai vừa qua bà cho biết:

Tôi tên là Nguyễn Thị Nhan Hương, năm nay tôi 62 tuổi. Vấn đề của tôi là hiện giờ nhà cửa đất đai hộ khẩu của tôi không có cho nên tôi đã từng đi thưa kiện rất nhiều nơi. Tôi đã ba lần ra tới Hà nội nhưng cũng không đi đến đâu, không ai giải quyết. Thậm chí ban đầu tôi khiếu nại, sau đó tôi tố cáo, rồi đả đảo rồi tôi bị vào tù một năm. Tôi đã ra trại hơn một năm nay rồi nhưng vẫn tiếp tục đi tìm công lý nữa. Cho tới hôm nay tôi làm đơn gửi ra Hà Nội nhưng họ cũng làm thinh chưa có giải quyết gì hết.

Một dân oan khác là bà Lê Thị Nguyệt, sau khi không còn nhà cửa và phải sống vật vưởng như một người vô gia cư nhưng vẫn không yên vì bà liên tiếp khiếu kiện cho tình trạng oan ức của gia đình mình. Bà bị đánh bị giam bị mọi điều sỉ nhục mặc dù không làm gì phạm pháp, bà kể:

Tôi đã ba lần ra tới Hà nội nhưng cũng không đi đến đâu, không ai giải quyết. Thậm chí ban đầu tôi khiếu nại, sau đó tôi tố cáo, rồi đả đảo rồi tôi bị vào tù một năm.
Bà Nhan Hương

Tôi tên Lê Thị Nguyệt, sinh năm 1955 năm nay tôi 59 tuổi. Tôi đi thưa từ Hà Nội cho xã cho tới tới huyện cho tới tỉnh, tới trung ương. Tôi đi Hà nội sáu lần, mỗi lần đi tôi đều bị công an đánh đập tôi rất dã man. Năm 2006 tôi ở Quốc hội, ở đường Hoàng Văn Thụ thành phố HCM biểu tình tại đó hai mươi bảy ngày đêm.

Người dân oan vẫn tin vào một điều gì rất mơ hồ rằng khi ra tới Hà Nội hay về thành phố HCM thì sẽ có cấp cao hơn giải quyết cho họ. Nhưng hàng chục năm trôi qua vẫn không có một ai ra mặt chính thức lên tiếng cho hoàn cảnh của những người dân khốn khổ này. Từ văn phòng Quốc hội đến điểm tiếp dân của chính phủ, tất cả các cánh cửa đều khép kín và người dân vẫn canh cánh với oan ức của mình.

Bước đường cùng

danoan35-250.jpg
Dân oan mất đất khiếu kiện khắp nơi, ảnh minh họa.

Bà Nguyệt không những bị đẩy ra ngoài những cánh cửa ấy mà còn bị đánh đập như một tù nhân, bà kể trong một lần tham gia khiếu kiện:

Thằng công an tỉnh nó biểu hốt mấy bả vụt lên xe. Bắt đầu nó quăng tôi té xiểng niểng luôn. Tôi đứng dậy la lên nó nó bẻ tay tôi nó trói thúc ké tôi lại. Bốn thằng nó khiêng tôi lên xe. Được một khúc thì công can phường 1 thành phố Mỹ Tho nó nhảy lên người tôi nó tống tôi. Mệt quá, nó đánh tôi tôi mới nói tao bị bệnh tim mày đè một lát là tao chết…nó đè tôi xuống, nó đè ngay cái rún tôi, nó nhấn xuống một cái. Cái đầu gối của nó thụt xuống. Tôi đã sáu mươi tuổi đâu còn kinh nguyệt gì nữa nhưng sau khi bị nó chấn tôi về nhà thì tôi bị như con gái có kinh, có suốt từ đó tới bữa nay tôi khám tại bệnh viện Từ Dũ thành phố HCM thì người ta chẩn đoán là tôi bị dập buồng trứng.

Những oan nghiệt này không dễ gì làm Đảng chú ý tới. Tất cả chỉ là việc nhỏ của địa phương và người dân vẫn mơ hồ nghĩ rằng trung ương không bao giờ biết những kẻ giết người dấu mặt này.

Những bất công đày đọa vượt sức chịu đựng khiến người dân oan không còn sợ hãi. Đối với họ khi mảnh đất bị cướp tức là gia đình không còn đất sống. Bà Nguyễn Thị Nhan Hương kể lại câu chuyện khó tin trong chính gia đình mình, đó là con gái bà đang lao động tại Đài Loan do không chịu nỗi cảnh mẹ mình bị đàn áp dã man trong hàng chục năm trời đã viết đơn gửi cho chính quyền yêu cầu cung cấp địa chỉ để cô làm đơn xin gia nhập Đảng Việt Tân, một đảng phái bị nhà nước xem là kẻ thù nguy hiểm nhất hiện nay.

Khi được hỏi chính bản thân bà có biết rằng Đảng Việt Tân đã bị nhà nước xem là tổ chức khủng bố hay không bà Nhan Hương xác định:

Biết chứ, biết. Tại vì tôi có sao những tờ báo của Việt Nam đăng do con gái tôi nó xem, nó xem rồi tình nguyện xin gia nhập đảng Việt Tân. Nó tình nguyện xin gia nhập để làm cảm tử hay gì đó. Khi con gái tôi về thì công an thành phố HCM có đến chỗ nó tạm trú để làm việc với nó thì con gái tôi có nói tại vì Việt Nam đã đàn áp tôi cho nên nó mới làm đơn xin gia nhập đảng Việt Tân.

Vì con gái tôi không biết đảng Việt Tân ở đâu nên nó gửi về đây cho tôi. Tôi đã sao rất nhiều lá đơn đó để gửi cho bộ máy chính quyền tỉnh Tiền Giang cũng như thành phố HCM để họ biết rằng mẹ bị áp bức nên con gái tôi xin gia nhập đảng Việt Tân và chấp nhận truyền tải những tài liệu hay bất cứ điều gì mà đảng Việt Tân giao cho nó thì nó sẵn sàng mang về Việt Nam chấp nhận công tác cảm tử luôn!

Thúc bách hàng ngàn người dân vào đường cùng là cách mà Hiến pháp cho phép hiện nay qua luật đất đai quy định “Đất đai là sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”.

Đảng không muốn thay đổi điều này và nếu ai có ước vọng thay đổi nó là đi ngược lại những gì mà ông Tổng bí thư vừa tuyên bố mới đây: “Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể thì nó là cái gì…?”

Vụ Nguyễn Đắc Kiên gây tiếng vang

Nhà báo Nguyễn Đắc KiênTừ một nhà báo ít người biết đến, Nguyễn Đắc Kiên đột nhiên trở nên rất nổi tiếng

Đã xuất hiện lời kêu gọi ủng hộ hành động của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên sau khi nhà báo này mất việc vì có bài viết phản bác lại Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chỉ một ngày sau khi xảy ra vụ việc, nhà báo 30 tuổi Nguyễn Đắc Kiên của báo Gia đình và Xã hội đã trở nên nổi tiếng và trở thành chủ đề được bàn tán sôi nổi trên nhiều diễn đàn mạng.

‘Kính trọng anh Kiên’

Tại một hội thảo về vai trò của giới truyền thông trong lấy ý kiến đóng góp của nhân dân đối với chính sách và chủ trương lớn của Nhà nước diễn ra vào sáng thứ Tư ngày 27/2 tại Hà Nội, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, nguyên viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển IDS, đã kêu gọi các ‘nhà báo cũng như toàn xã hội ủng hộ, hỗ trợ, bảo vệ bằng mọi phương cách có thể đối với những nhà báo dũng cảm như Nguyễn Đắc Kiên’.

Tiến sỹ Quang A đã trực tiếp xác nhận với BBC về lời kêu gọi này.

Ông nói bản thân ông không những ủng hộ mà còn rất kính trọng Nguyễn Đắc Kiên mặc dù nhà báo này còn nhỏ tuổi hơn con trai của ông.

“Có những người như anh Kiên là sự đáng quý cho dân tộc Việt Nam,” ông nói. “Tương lai Việt Nam là ở những người trẻ như anh Nguyễn Đắc Kiên.”

“Tương lai Việt Nam là ở những người trẻ như anh Nguyễn Đắc Kiên.”

TS Nguyễn Quang A

“Anh Kiên là người trẻ có công ăn việc làm tử tế. Anh ấy biết rõ những hậu quả có thể xảy ra với việc nêu chính kiến của anh ấy nhưng anh ấy vẫn mạnh dạn lên tiếng,” ông A giải thích vì sao ông kính trọng ông Kiên.

“Nếu tất cả mọi người chúng ta đều im lặng thì vô hình chung chúng ta đồng lõa với những thế lực muốn dân tộc này chìm đắm trong cõi u mê,” ông nói thêm.

Ông cho biết tại hội thảo sáng nay, tên Nguyễn Đắc Kiên ‘đã được nêu lên không dưới 20 lần với sự kính trọng không chỉ của tôi mà của rất nhiều người khác’.

Về nội dung bài viết của ông Nguyễn Đắc Kiên, Tiến sỹ Quang A ‘đồng cảm về mọi mặt’ vì đây cũng là những nội dung chính trong bản Kiến nghị 72 về sửa đổi Hiến pháp mà ông tham gia ký tên.

“Trong hội thảo người ta có nêu sáng kiến lập một quỹ để hỗ trợ các nhà báo gặp ‘tai nạn’ về pháp lý và không loại trừ những hỗ trợ về mặt vật chất,” ông nói. “Đã có nhiều người thuộc nhiều lĩnh vực ủng hộ ý tưởng này.”

‘Nhà báo dũng cảm’

Nguyễn Phú TrọngNguyễn Đắc Kiên đã thẳng thừng bác bỏ những phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

Trước câu hỏi tại sao có quá ít người dám cất lên tiếng nói của mình như Nguyễn Đắc Kiên, ông Quang A trả lời: “Trong một chế độ toàn trị và với sự đàn áp vô cùng tinh vi của chính quyền thì người dân phải hết sức tỉnh táo và tìm mọi cách để cất lên tiếng nói của mình.”

“Có những người đi tiên phong thì bị sự đàn áp hết sức trắng trợn và dã man của bản thân tòa báo cũng như những thế lực nào đó ra lệnh cho tòa báo của anh ta,” ông nói thêm.

Sau bài nói chuyện của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ở Vĩnh Phúc hôm 25/2 trong đó ông lên án những ai đòi thay đổi điều 4 Hiến pháp là ‘suy thoái tư tưởng, đạo đức’, Nguyễn Đắc Kiên đã có bài viết nói rằng ông Trọng ‘không có tư cách’ để nói như vậy với người dân Việt Nam.

Ông Kiên cũng kêu gọi soạn thảo một Hiến pháp mới ‘thực sự là ý chí của toàn dân Việt Nam’, kêu gọi thực hiện đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập và phi chính trị hóa quân đội.

Ngay sau đó ông đã bị ban biên tập báo Gia đình xã hội kỷ luật và buộc thôi việc vì ‘vi phạm quy chế hoạt động của báo’.

“Không có Đảng, không có cuộc sống như ngày nay. Lúc trước bị đô hộ, đói nghèo không có thằng nào đứng ra lãnh đạo mà bây giờ hòa bình rồi lại đòi đa nguyên đa đảng.”

Tieu Phu Thuy trên facebook của BBC Việt ngữ

Trả lời BBC hôm 26/2, Nguyễn Đắc Kiên nói rằng ông đã lường trước hậu quả của hành động của ông.

Trên trang facebook của BBC Việt Ngữ, chủ đề về Nguyễn Đắc Kiên đã thu hút từ hơn 500 đến trên 600 lượt ‘thích’.

“Anh là một nhà báo dũng cảm, vượt qua được nỗi sợ hãi của người đang phụ thuộc miếng cơm manh áo ở một tờ báo của Đảng,” một người có tên Nguyen Trong Tan bình luận.

Còn một người khác có tên Tuan Vu thì viết: “Chân thành cảm ơn bài viết của anh đã đem đến cho chúng tôi về một hy vọng về tương lai dân tộc.”

“Anh ấy là một anh hùng,” Ngoc Luong ca ngợi.

Tuy nhiên cũng có ý kiến ngược lại.

“Chia buồn với anh (Kiên) nhưng em không thể ủng hộ cho anh được,” Nguyễn Tuấn viết.

Còn Tieu Phu Thuy thi viết: “Không có Đảng, không có cuộc sống như ngày nay. Lúc trước bị đô hộ, đói nghèo không có thằng nào đứng ra lãnh đạo mà bây giờ hòa bình rồi lại đòi đa nguyên đa đảng.”

Thư ngỏ kêu gọi cải tổ ở Trung Quốc

Celia Hatton. BBC News, Bắc Kinh. 27 tháng 2, 2013

Ông Tập Cận Bình, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung QuốcLá thư ngỏ được công bố chỉ vài ngày trước khi ông Tập Cận Bình nhận chức Chủ tịch nhà nước TQ

Một số học giả, nhà báo và các nhà hoạt động nổi tiếng nhất tại Trung Quốc vừa công bố một lá thư ngỏ thúc giục giới lãnh đạo hãy thực hiện các cải tổ chính trị và đây là lần thứ hai trong vòng ba tháng qua.

Hơn 100 người ký vào bức thư ngỏ thúc giục chính phủ tại Bắc Kinh hãy phê duyệt một hiệp ước quốc tế về nhân quyền.

Lá thư được đăng trên một vài trang mạng và blog nổi tiếng của Trung Quốc.

Sự việc xảy ra chỉ vài ngày trước khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc tụ họp phiên họp Quốc hội thường niên tại Bắc Kinh.

Tại phiên họp, tân lãnh tụ đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Tập Cận Bình sẽ nhận chức vụ Chủ tịch nhà nước Trung Quốc, thay thế ông Hồ Cẩm Đào, hoàn tất cuộc chuyển giao quyền lực mười năm một lần.

‘Mục tiêu có thể thực hiện được’

“Chúng tôi trang trọng và công khai đề nghị những điều sau trên cương vị là các công dân của Trung Quốc,” mở đầu lá thư viết, “rằng Công ước Quốc tế về Các Quyền chính trị và Dân sự (ICCPR) phải được phê chuẩn, nhằm quảng bá thêm và tạo lập các nguyên tắc về nhân quyền và chủ nghĩa hợp hiến tại Trung Quốc.”

Công ước ICCPR là một phần của Luật Quốc tế về Nhân quyền do Liên Hiệp Quốc (LHQ) lập ra. Nó kêu gọi các quyền chính trị và dân sự căn bản cho mỗi cá nhân, bao gồm tự do tôn giáo, tự do ngôn luận và tự do hội họp.

Chính phủ Trung Quốc ký Hiệp ước này năm 1998 nhưng Quốc hội Trung Quốc chưa bao giờ phê chuẩn Hiệp ước này.

Lá thư kêu gọi chính phủ Trung Quốc phê chuẩn một Hiệp ước của LHQ về các quyền căn bản của con người.

Lá thư ngỏ được nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng tại Trung Quốc ký, bao gồm kinh tế gia Mao Vu Thức, học giả về pháp lý Hạ Vệ Phương, và Đới Tình, một nhà hoạt động chính trị trực tính.

Hồi tháng 12, nhiều người trong số này cũng đã ký một lá thư ngỏ với từ ngữ mạnh mẽ đòi có những cải tổ chính trị bao gồm một thay đổi có ý nghĩa về dân chủ và một hệ thống pháp lý độc lập.

“Nếu những cải cách chế độ mà xã hội Trung Quốc đang cấp thiết cần tới bị đình trệ không có tiến bộ,” lá thư hồi tháng 12 cảnh báo, “thì tình trạng quan chức tham nhũng và xã hội bất bình sẽ lên tới mức khủng hoảng và Trung Quốc một lần nữa bỏ lỡ cơ hội cho một cải cách hòa bình và sẽ bị rơi vào tình trạng hỗn độn và rối loạn của một cuộc cách mạng bạo động.”

Ngôn ngữ trong lá thư mới đây hòa giải hơn, công nhận những khó khăn của việc thực hiện một thay đổi chính trị là ý nghĩa ngay chính bên trong Trung Quốc trong khi nhấn mạnh việc ký Hiệp ước ICCPR là một mục tiêu “có thể thực hiện được” của các nhà lãnh đạo Trung Quốc.

Thay đổi từng bước

Trong một phỏng vấn với BBC, nhà báo điều tra Uông Khoa Tần cho biết ông tin tưởng rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ phê chuẩn Hiệp ước ICCPR trong phiên họp quốc hội tới, một mục tiêu mà ông nói là “rất ôn hòa và bảo thủ”.

“Chúng tôi không dám mơ ước rằng Trung Quốc sẽ có rất nhiều tiến bộ trong một bước nhảy vọt lớn,” ông Vương nói. “Đất nước phát triển từng bước và nỗ lực của chúng tôi cũng là nhằm thay đổi từng bước. Đây là một tình huống khá lúng túng mà chúng tôi đang rơi vào hiện nay.”

Ông không muốn cho biết người đầu tiên đã viết lá thư này và thu thập các chữ ký và đổ lỗi sự miễn cưỡng không muốn tiết lộ cho “hoàn cảnh đặc biệt của Trung Quốc”.

Theo Dự án Truyền thông Trung Quốc, một nhóm có trụ sở tại đại học tổng hợp Hong Kong quan sát truyền thông Trung Quốc, thì lá thư tuần này được dự kiến đưa ra vào thứ Năm.

Tuy nhiên có tin là giới chức trách đã nghe nói về lá thư này khiến những người ủng hộ lá thư công bố nó sớm trước hai ngày. Những nhắc nhở tới lá thư này đã biến mất trên nhiều trang web tại Trung Quốc kể từ đó.

‘Bị thôi việc vì phản đối TBT Trọng’

Ông Nguyễn Đắc Kiên bị cho thôi việc sau bài viết phê phán Tổng Bí thư

Ông Nguyễn Đắc Kiên, phó phòng, biên tập viên trang báo mạng của báo Gia đình & Xã hội vừa bị buộc thôi việc vì Bấm bài viết nhận xét trên blog phản đối lập luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về sự ‘suy thoái’.

Tờ báo Gia đình & Xã hội ra thông cáo chưa đầy một ngày sau khi ông Nguyễn Đắc Kiên đăng bài viết với tựa đề “Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng” trên mạng internet.

Trả lời phỏng vấn BBC chiều tối ngày 26/2, ông Kiên nói ban biên tập tờ báo đã có buổi làm việc với ông ngay sau khi nhận được thông tin liên quan đến bài viết này.

‘Mệnh lệnh đạo đức’

Ông Nguyễn Đắc Kiên nói bản thân ông hoàn toàn nhận thức hệ quả của việc viết bài viết trên.

“Sau khi nghe bài phát biểu của ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là công dân của nước Việt Nam, rất bất bình trước sự quy chụp về suy thoái lý tưởng, đạo đức,” ông nói.

“Tôi sống ở Việt Nam từ nhỏ, làm báo từ năm 2006 đến giờ. Tôi nhận thức được hệ quả sẽ đến với tôi.”

“Nhưng tôi khẳng định tôi viết bài này, cũng như những bài khác trên blog, hoàn toàn do mệnh lệnh đạo đức của tôi.”

Bài viết của ông Kiên cho rằng “không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng… đi ngược lại lợi ích của nhân dân là suy thoái.”

Tác giả nói: “Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới.”

Thông cáo của báo Gia đình & Xã hội nói “anh Nguyễn Đắc Kiên (nguyên phóng viên) vi phạm Quy chế hoạt động của Báo và Hợp đồng lao động nên Hội đồng Kỷ luật của Báo Gia đình & Xã hội đã họp và ra Quyết định kỷ luật, buộc thôi việc đối với anh Nguyễn Đắc Kiên”.

“Con đường đến với dân chủ tự do là con đường đòi hỏi cần rất nhiều sự kiên nhẫn và tôi vẫn theo đuổi con đường đó”

Nguyễn Đắc Kiên

“Hiện nay anh Nguyễn Đắc Kiên không còn tư cách là phóng viên Báo Gia đình & Xã hội và tự chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật với các hành vi của mình.”

Khi BBC liên lạc chiều ngày 26/2, Tổng Biên tập báo, ông Lê Cảnh Nhạc, từ chối trả lời về vụ việc.

Viết trên trang Facebook cá nhân của mình, ông Nguyễn Đắc Kiên nói: “Tôi hiểu và tôn trọng quyết định của lãnh đạo báo.”

“Nếu ở cương vị của họ, có thể tôi cũng phải làm thế. Tôi hiểu là mọi thứ còn chưa bắt đầu,” ông Kiên viết.

Trong cuộc phỏng vấn với BBC tiếng Việt, ông Kiên cũng nói mong muốn của ông trước mắt là tiếp tục được đọc và nghiên cứu để tìm hiểu thêm về lịch sử và thể chế của Việt Nam.

”Như tôi đã nói trong một bài blog trên website của mình, con đường đến với dân chủ tự do là con đường đòi hỏi cần rất nhiều sự kiên nhẫn và tôi vẫn theo đuổi con đường đó”

______________________________________________

‘Hệ quả đã nằm trong dự đoán của tôi’

Media Player

Bấm vào đây để nghe từ trang mạbg BBC

Ông Nguyễn Đắc Kiên, phó phòng, biên tập viên trang báo mạng của báo Gia đình & Xã hội vừa bị buộc thôi việc vì bài viết nhận xét trên blog phản đối lập luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về sự ‘suy thoái’.

Tờ báo Gia đình & Xã hội ra thông cáo chưa đầy một ngày sau khi ông Nguyễn Đắc Kiên đăng bài viết với tựa đề “Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng” trên mạng internet.

Trả lời phỏng vấn BBC chiều tối ngày 26/2, ông Kiên nói ban biên tập tờ báo đã có buổi làm việc với ông ngay sau khi nhận được thông tin liên quan đến bài viết này

‘Nhận thức được hệ quả’

Ông Nguyễn Đắc Kiên nói bản thân ông hoàn toàn nhận thức hệ quả của việc viết bài viết trên.

“Sau khi nghe bài phát biểu của ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là công dân của nước Việt Nam, rất bất bình trước sự quy chụp về suy thoái lý tưởng, đạo đức,” ông nói.

“Tôi sống ở Việt Nam từ nhỏ, làm báo từ năm 2006 đến giờ. Tôi nhận thức được hệ quả sẽ đến với tôi.”

“Nhưng tôi khẳng định tôi tôi viết bài này, cũng như những bài khác trên blog, hoàn toàn do mệnh lệnh đạo đức của tôi.”

Bài viết của ông Kiên cho rằng “không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng… đi ngược lại lợi ích của nhân dân là suy thoái.”

Tác giả nói: “Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới.”

Thông cáo của báo Gia đình & Xã hội nói “anh Nguyễn Đắc Kiên (nguyên phóng viên) vi phạm Quy chế hoạt động của Báo và Hợp đồng lao động nên Hội đồng Kỷ luật của Báo Gia đình & Xã hội đã họp và ra Quyết định kỷ luật, buộc thôi việc đối với anh Nguyễn Đắc Kiên”.

“Hiện nay anh Nguyễn Đắc Kiên không còn tư cách là phóng viên Báo Gia đình & Xã hội và tự chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật với các hành vi của mình.”

Khi BBC liên lạc chiều ngày 26/2, Tổng Biên tập báo, ông Lê Cảnh Nhạc, từ chối trả lời về vụ việc.

TBT Trọng nói về sửa đổi Hiến pháp

Tổng Bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng vừa nói rằng nhiều đóng góp sửa đổi Hiến pháp của dân là ‘suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức’.

Truyền hình Việt Nam trong chương trình thời sự tối thứ Hai 25/2 đã phát bài phát biểu của ông Trọng khi ông làm việc tại tỉnh Phú Thọ vào cùng ngày.

Nội dung buổi làm việc của ông Tổng Bí thư với Ban Thường vụ tỉnh ủy chủ yếu nghe báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Ðảng, kiểm điểm phê bình và tự phê bình. Tuy nhiên ông Nguyễn Phú Trọng cũng đưa ra chỉ đạo về quá trình thu thập ý kiến sửa đổi Hiến pháp 92.

Ông nói về các “luồng ý kiến” trong sửa đổi Hiến pháp: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức…”

Các ý kiến mà ông gọi là “suy thoái” đó bao gồm đóng góp về Điều 4 Hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng CSVN, tam quyền phân lập, phi chính trị hóa quân đội….

Ông nói: “Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không?”

“Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! … Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể … thì đó là cái gì?”

‘Không có vùng cấm’

Hiện Quốc hội Việt Nam đang tổ chức lấy ý kiến của người dân cho dự thảo Hiến pháp sửa đổi, dự tính tới cuối tháng Ba sẽ khóa sổ.

Quá trình đóng góp ý kiến bị chỉ trích là quá chóng vánh (ba tháng) và không thực chất.

Huấn thị trước Tỉnh ủy Phú Thọ, ông Trọng yêu cầu giới chức Đảng địa phương tổ chức cho nhân dân góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhưng “không để một số cá nhân lợi dụng sự kiện này để xuyên tạc, bịa đặt, chống đối Đảng, Nhà nước ta”.

“Vừa rồi đã có các luồng ý kiến [về sửa đổi Hiến pháp] cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức…”

TBT Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng

Đây là lần đầu tiên ông Nguyễn Phú Trọng có phát biểu “điểm mặt chỉ tên” những ý kiến mang tính trái chiều về sửa đổi Hiến pháp mà thời gian gần đây đã được một số giới kiến nghị lên Quốc hội, cũng như mang ra thảo luận trên các diễn đàn.

Một bản kiến nghị do 72 nhân sỹ trí thức chủ xướng đã đề xuất b̉o Điều 4 Hiến pháp cũng như bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam và tôn trọng sở hữu tư nhân về đất đai…

Bản kiến nghị này nay đã có trên 5.600 chữ ký.

Việc người đứng ở vị trí cao nhất của Đảng Cộng sản gọi các đóng góp sửa đổi Hiến pháp trên là “suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức” dường như trái ngược với tuyên bố của đại diện Quốc hội Việt Nam trước khi bắt đầu thu thập ý kiến.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, ông Phan Trung Lý, người cũng là Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 hồi cuối tháng 12/2012 nói: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân nên nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và sửa đổi Hiến pháp”.

“Nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả.”

Ông cũng hứa rằng mọi ý kiến đều sẽ được trân trọng, lắng nghe, phản ánh, tổng hợp đầy đủ, nghiên cứu, tiếp thu và giải trình.

Các bài liên quan

Sửa đổi hiến pháp: Kiến nghị tới đâu?

Thanh Quang, phóng viên RFA.  2013-02-25

Phần âm thanh Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

duongtrunquoc-nld.com-305.jpg

Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc phát biểu trong một hội nghị lấy ý kiến nhân dân sửa đổi hiến pháp 1992

Photo courtesy of nld.com.vn

Nghe bài này

Tải xuống – download

Nguyên tắc cơ bản

Sau khi nhà nước VN đưa ra bản dự thảo Hiến Pháp mới nhằm sửa đổi Hiến Pháp 1992, rồi kêu gọi toàn dân góp ý mà không có “vùng cấm” nào, thì nhiều ý kiến đã được đóng góp, nổi bật nhất là Kiến nghị về sửa đổi Hiến Pháp 1992 của 72 nhân sĩ, trí thức- gọi tắt là “Kiến Nghị 72”, mà được biết cho tới lúc này, có trên 4 ngàn người đủ mọi thành phần xã hội ký tên ủng hộ.

Hôm 4 tây tháng Hai này, các vị đại diện cho Kiến Nghị 72 đã đích thân đến trụ sở “Quốc Hội” gởi Kiến nghị 7 nội dung này mà nhà báo Nguyễn Minh Cần liên tưởng tới “thất trảm sớ” của cụ Chu Văn An dâng lên Vua Trần Dụ Tông ngày xưa.

Nhưng gần như ngay sau đó, ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Quốc Hội, Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, đã gởi văn thư cho nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc – nhân vật chủ chốt trong nhóm dâng “thất trảm sớ”, giải thích đại ý rằng “Kiến Nghị 72” tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức ấy là “không đúng với quy định của Nghị quyết 38 của Quốc Hội”.

Như vậy là, điều mà ông Phan Trung Lý trước đó khẳng định “ không có vùng cấm” thì giờ biến thành có “vùng cấm”. Đó là chưa kể hồi cuối năm ngoái, ông Phan Trung Lý có khẳng định về dự thảo Hiến Pháp của phía cầm quyền rằng “ Mỗi lần trình và thảo luận đều có những vấn đề cụ thể được sửa đổi, nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên”.

Qua bài “Lan man chuyện hiến pháp”, nhà báo Nguyễn Minh Cần nhắc lại rằng trước khi đưa ra việc lấy ý kiến dân về “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” thì các nhân vật chóp bu trong Bộ Chính Trị, từ tổng bí thư, chủ tịch nước cho tới thủ tướng… đã lớn tiếng “chặn họng” nhân dân rằng “Bỏ điều 4 là tự sát”, “chỉ có quyền sở hữu toàn dân, chứ không thể có quyền sở hữu tư nhân về đất đai”, “không thể có báo chí tư nhân”, “không thể có đảng phái đối lập”, “không thể có đa nguyên, đa đảng”, “quân đội và công an là của đảng, không thể khác được”, “kinh tế quốc doanh là chủ đạo”, “nhà nước ta không tam quyền phân lập”…

Do đó, theo nhà báo Nguyễn Minh Cần, người dân bình thường có chút suy nghĩ cũng có thể nhận rõ cái việc sửa đổi hiến pháp này chỉ là một “trò bịp” không hơn không kém.

Sửa hiến pháp nhưng bị khuôn vào những nguyên tắc chỉ đạo của Tổng bí thư…chỉ đạo như thế là đứng trên, là ban cho, là ông chủ của nhân dân, là đứng trên Hiến pháp mất rồi!
Blogger Nguyễn Trung

Qua bài “Đảng – Nhà nước, Hiến Pháp”, tác giả Nguyễn Trung không quên lưu ý rằng:

Sửa hiến pháp nhưng bị khuôn vào những nguyên tắc chỉ đạo của Tổng bí thư như sửa gì thì cũng phải trong khung khổ Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, quyền lực của hệ thống chính trị là thống nhất, không có tam quyền phân lập, gác lại vấn đề sở hữu đất đai…, chỉ đạo như thế là đứng trên, là ban cho, là ông chủ của nhân dân, là đứng trên Hiến pháp mất rồi!

Giáo sư Hoàng Xuân Phú đề cập tới “Hai tử huyệt trong chế độ”, cảnh báo rằng quy định trong Hiến pháp 1992 về quyền “lãnh đạo mặc nhiên” của đảng CSVN (tại Điều 4) và “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” (ở Điều 17) vẫn được duy trì trong bản dự thảo sử đổi Hiến pháp lần này trong khi quyền con người và quyền công dân lại bị “thu hẹp” đáng kể. GS Hoàng Xuân Phú nhận xét tiếp:

Đối với Dân, Hiến pháp kiểu này có thể trở thành bãi mìn pháp lý. Nếu dự thảo như vậy được thông qua, thì Hiến pháp có thể không còn là khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của Nhà nước và xã hội, mà trở thành cái gông cùm Nhân dân và Dân tộc.

Sau khi lưu ý rằng những vấn đề quan trọng như tư hữu đất đai, tự do dân chủ, chế độ kinh tế, cơ chế giám sát và hạn chế quyền lực nhà nước…không thấy được giải quyết trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 này, blogger Phạm Lê Vương Các bày tỏ quan ngại:

Nếu được thông qua, nó sẽ tiếp tục báo hiệu cho những hình ảnh người nông dân ùn ùn kéo nhau đi khiếu kiện đất đai, bất đồng chính kiến lần lược rủ nhau vào tù vì đe dọa cho an ninh quốc gia và trật tự công cộng, cho đến việc người dân phải oằn lưng gánh nợ cho sự thua lỗ của các tập đoàn nhà nước, và rồi chúng ta sẽ tiếp tục được nghe những điệp khúc tự chỉnh đốn, phê bình và tự phê bình lên một tầm cao mới.

Sửa đổi để làm gì?

daknong.gov.vn-250.jpg
Hội nghị triển khai lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992. Photo courtesy of daknong.gov.vn

Trong bối cảnh như vậy, nhiều bloggers cảnh báo rằng việc giới cầm quyền cho sửa đổi hiến pháp là vô nghĩa, đó là chưa kể các quan mọi cấp lâu nay chứng tỏ bất tuân luật pháp – mà nói theo lời báo Tổ Quốc, “chính đảng CS cũng không coi hiến pháp ra gì”.Khi nêu lên câu hỏi là giới cầm quyền “Sửa đổi hiến pháp để làm gì ?”, tờ báo nhắc lại rằng Hà Nội đã 5 lần sửa đổi hiến pháp, nhưng “Tất cả đều chỉ nhắm giải quyết một vấn đề nhất thời của ban lãnh đạo CS, chứ hoàn toàn không liên quan gì tới lợi ích dân tộc” cả.

Nhà báo Nguyễn Minh Cần, khi “Lan man chuyện hiến pháp”, khẳng định rằng:

Mục đích chính của đảng cầm quyền là qua việc lấy ý kiến dân để sửa đổi hiến pháp lần này là để khoác lên chế độ độc tài toàn trị hiện hữu, khoác lên đảng cầm quyền một cái áo choàng “chính thống”,“chính danh” nào đó bằng cách tuyên bố cuộc lấy ý kiến của dân vừa qua đã hoàn toàn thắng lợi, “nó tương đương với một cuộc Trưng cầu dân ý”!

Nghĩa là họ sẽ “mập mờ đánh lận con đen” là đảng cầm quyền đã “hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân” trong “một cuộc Trưng cầu dân ý” (!),trong “một Ðại hội Diên Hồng của dân tộc ta trong thời đại mới”(!) và toàn dân đã chuẩn thuận, đã phúc quyết bản hiến pháp sửa đổi, như vậy là toàn dân đã cho phép cái gọi là đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục trường kỳ thống trị nhân dân Việt Nam “muôn năm”.

Qua bài “Hiến pháp và thực tế VN”, BS Hồ Hải phân tích:

Sau thời gian hơn 20 năm cởi trói, một thành phần lớn của đảng, kể cả quân đội và an ninh, đã tích lũy tư bản kiểu hoang dã, đến lúc này cần thể chế hóa cương lĩnh của đảng cho việc được luật hóa những tài sản bất chính, nên cần phải sửa đổi hiến pháp cho phù hợp…Chưa bao giờ đảng cầm quyền tôn trọng hiến pháp trong quá trình điều hành đất nước. Đó là ý nghĩa thực tiễn của lần sửa đổi hiến pháp (trong năm 2013) này.

Blogger Trương Nhân Tuấn đề cập đến “Những vấn đề hiến pháp: Tình trạng con vua thì lại làm vua”, nêu lên câu hỏi rằng hiến pháp sẽ sử dụng vào việc gì nếu “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa, như tình trạng đã và đang xảy ra ở VN ?”.

Tác giả nhận thấy ở VN ngày nay, các “con ông cháu cha” tài cán chưa biết ra sao nhưng đều được “gài” vào các chức vụ then chốt để trực chờ thay thế cha, ông “lãnh đạo” gần 90 triệu dân VN này. Cho nên, theo tác giả, tình trạng “con vua thì được làm vua” của chế độ phong kiến ngày xưa được trá hình trong chế độ VN ngày nay, thì nói chuyện về hiến pháp nhiều khi chỉ là “chuyện trào phúng, mất thì giờ” mà thôi. Tác giả báo động:

Lời mở đầu Hiến pháp VN là một diễn văn chính trị nhạt nhẽo, rỗng tuyếch…Hiến pháp này không thể sửa, mà phải thay thế.
Blogger Trương Nhân Tuấn

Sự việc “con vua thì lại làm vua” của tầng lớp con cháu của các đảng viên cao cấp hiện nay tại VN, chỉ có thể xảy ra ở các xã hội bán khai, phong kiến. Không hề có qui định nào trong Hiến pháp thành phần “thái tử đỏ” này sẽ là thành phần lãnh đạo tương lai.

Tất cả các qui định trong Hiến pháp về quyền lực nhà nước đều vô ích. Việc này không chỉ trái với sự “tiến hóa”, mà còn làm cho những thành viên ưu tú của xã hội, những người có tư chất tự nhiên “lãnh đạo”, không có môi trường phát triển. Nếu không, họ trở thành nạn nhân của chế độ, những người bị bắt vì “khác chính kiến”. Đây là một hình thức phung phí nhân tài của đất nước.

Blogger Trương Nhân Tuấn nhân tiện lưu ý rằng giới cầm quyền trong mấy thập niên qua đã không hoàn thành nhiệm vụ lịch sử được rầm rộ quảng bá là làm cho “dân giàu nước mạnh”, mà lèo lái đất nước “đi từ thất bại này đến thất bại khác”: Nền kinh tế kiệt quệ, tài nguyên bị khai thác bừa bãi, cạn kiệt, môi trường bị tàn phá, đạo lý xã hội suy đồi, con người hư hỏng, đất nước bị phương Bắc đe doạ, lãnh thổ không còn nguyên vẹn như Tiền Nhân để lại… Tác giả xem chừng như không dằn được bực tức:

Nhưng Hiến pháp Việt Nam vẫn khẳng định con đường đã thất bại từ hơn ba thập niên qua. Ngay trong những dòng mở đầu của Hiến pháp, những quan điểm chủ quan về “lịch sử”, với thành quả hoang tưởng, với các mục tiêu “ảo tưởng”. Trong khi bản Hiến pháp trước hết là một văn bản “luật”. Lời mở đầu Hiến pháp của các nước Mỹ, Pháp… từ thập niên 70 trở đi đã trở thành “luật”. Lời mở đầu Hiến pháp VN là một diễn văn chính trị nhạt nhẽo, rỗng tuyếch…Hiến pháp này không thể sửa, mà phải thay thế.

Nhân chuyện nhà nước kêu gọi toàn dân góp ý sửa đổi hiến pháp, blogger Người buôn Gió có bài “Kiến nghị lên trời và sự tích nước Chai”, kể rằng “Ngày xửa ngày xưa ở một nước giáp biển Đông, có tên là nước Chai. Năm ấy nước Chai loạn, kinh tế, chính sự, chủ quyền mọi thứ đều be bét. Bởi thế triều đình mới sửa hiến pháp gọi là có thay đổi chút ít từ trên cao, ngõ hầu trấn an dân chúng.

Nhóm nhân sĩ, trí thức lựa dịp ấy, mới làm tờ sớ trình một bản hiến pháp mới có sửa đổi dựa trên bản hiến pháp cũ. Sớ được đưa đi bốn phương để thỉnh bá tánh. Sớ đưa ra công chúng hàng ngàn người ký đồng tình, triều đình vội vã họp lại nghị luận. Các quan trách nhau rằng “Vội bày ra trò đó làm chi, không khéo bọn hủ nho lợi dụng làm xằng.”

Quan khác nói “Giờ uy tín triều đình đã không còn trong bá tính, kêu góp ý sửa chứ đã sửa cái gì đâu mà phải lo. Cứ kệ cho chúng góp ý để khách quan. Dao kia ta nắm đằng chuôi, có gì phải sợ.”

Quan nọ nói “Đúng, cho chúng kiến nghị lên trời là hết chuyện.”

Về sau hiến pháp chả có gì thay đổi, cãi nhau, dèm nhau một chập rồi phần thắng vẫn thuộc về bên nắm quyền. Bấy giờ dân chúng mới nhận ra quan lại nước mình chả ai mọc râu trên mặt cả. Bởi vậy họ tự đặt nước mình là nước Chai.

Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng

Nguyễn Đắc Kiên – Nhà báo, báo Gia Đình & Xã Hội. AnhBaSam, 26-02-2013

Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2 đưa phát biểu tại Vĩnh Phúc của TBT ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như sau: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”(*)

Bằng tất cả sự tôn trọng với người đang đứng đầu một đảng chính trị của VN, tôi xin nói với ông Nguyễn Phú Trọng vài lời như sau:

Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư cách. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ “suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước. Nếu ông và các đồng chí của ông muốn giữ Điều 4, muốn giữ vai trò lãnh đạo, muốn chính trị hóa quân đội, không muốn đa đảng, không muốn tam quyền phân lập, thì đó chỉ là ý muốn của riêng ông và ĐCS của ông. Ông không thể quy kết rằng đó là ý muốn của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, những ý muốn trên chỉ nên xem là của riêng ông TBT Trọng, chưa chắc đã là tâm nguyện của toàn bộ đảng viên cộng sản hiện nay.

Tiếp theo, xin đi vào nội dung, ông nói suy thoái về đạo đức. Tôi muốn hỏi ông, đạo đức của ông đang muốn nói là đạo đức nào? Đạo đức làm người? Đạo đức công dân? Đạo đức dân tộc VN? … Tôi tạm đoán là ông đang muốn nói đến đạo đức người cộng sản của các ông. Vậy, các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản vô đạo đức hết à? Thế ra, những người không theo đảng cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à?

Tiếp theo, xin đi vào nội dung suy thoái chính trị, tư tưởng. Tôi muốn hỏi ông, chính trị, tư tưởng ông đang muốn nói là chính trị, tư tưởng nào? Có phải chính trị, tư tưởng của đảng cộng sản? Vậy ra chỉ có đảng cộng sản của các ông là duy nhất đúng à? Cá nhân tôi cho rằng, không một người có lương tri bình thường nào thừa nhận như thế. Cùng lắm ông chỉ có thể nói với các đảng viên cộng sản như vậy, nhưng ngay cả với các đảng viên cộng sản, ông cũng không thể quy kết tội suy thoái cho họ. Nếu không tin, ông thử đọc lại Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng các ông ban hành xem. Không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng…  đi ngược lại lợi ích của nhân dân là suy thoái. Ông đương kim tổng bí thư ĐCS VN thử đọc lại và nghĩ lại chỗ này xem.

Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:

1- Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới để Hiến pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.

2- Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước.

3- Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.

4- Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.

5- Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tức đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

—–

(*) Nguồn: Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2; phần âm thanh và gỡ băng của Anhbasam.

Vì sao cần kiến nghị sửa đổi hiến pháp?

(Nhân sự kiện Kiến nghị Hiến pháp của sinh viên – cựu sinh viên Luật)

Nguyễn Anh Tuấn (*).  24-02-2013

Vì sao các kiến nghị về Hiến pháp lại nở rộ thời gian qua? Phải chăng những người tham gia kiến nghị ngây thơ về chính trị? Không. Hoàn toàn không. Họ thừa hiểu nhà cầm quyền sẽ phớt lờ ý kiến của họ. Nhưng họ vẫn làm, vì hơn ai hết, họ hiểu rằng, điều cần hơn cho xã hội Việt Nam lúc này và mai sau là sự lan tỏa của tinh thần hợp hiến (đặc trưng bởi sự chế ước quyền lực nhà nước bằng pháp luật, tập quán, và các giá trị xã hội), chứ không phải một bản Hiến pháp thành văn, ngay cả với những câu chữ tuyên xưng dân chủ, tự do.

Thiếu vắng các cuộc thảo luận về Hiến pháp

Những ngày gần đây, các cuộc thảo luận xoay quanh chủ đề Hiến pháp ở Việt Nam diễn ra khá sôi nổi, dưới nhiều hình thức và trong nhiều không gian khác nhau. Một cách hình thức, các cuộc thảo luận này dựa trên căn cứ pháp lý là Nghị quyết số 38/2013/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Tuy nhiên, khi xét một cách kỹ lưỡng, chúng ta nhận ra phía sau các cuộc thảo luận là những vận động của xã hội Việt Nam đang thời kỳ chuyển đổi.

Nhìn về quá khứ,  Hiến pháp 1946, tuy được soạn thảo trong lúc nước sôi lửa bỏng của những ngày đầu lập quốc nhưng đã ấp ủ không ít những ý tưởng, tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại. Tuy nhiên, trong cảnh loạn ly của thời cuộc, chẳng những một cuộc phúc quyết Hiến pháp toàn dân đã không được thực hiện mà quốc dân đồng bào cũng không có cơ hội trải nghiệm những cuộc thảo luận về Hiến pháp – điều có ý nghĩa lớn lao với việc xây dựng tinh thần hợp hiến trong xã hội Việt Nam.

Sau đó, triết lý chính trị mà những nhà cầm quyền Hà Nội theo đuổi đã biến các Hiến pháp 1959 và 1980 trở thành vật trang trí. Xã hội cộng sản với nền chuyên chính vô sản theo đúng bản chất toàn trị độc đảng của nó, vận hành dưới các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy đảng; và trong bối cảnh đó, Hiến pháp đơn giản chỉ có chức năng phát ngôn cho cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền. Thực trạng này tiếp tục tước bỏ cơ hội thảo luận về Hiến pháp – đạo luật gốc giới hạn quyền lực nhà nước, bản khế ước tuyên xưng các nguyên tắc chung sống cộng đồng – của người dân Việt Nam trong vài chục năm.

Đổi mới 1986 đã thiết lập nền  kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Việc xác lập khuôn khổ pháp lý ổn định trở thành yêu cầu tất yếu để nền kinh tế thị trường có thể tồn tại. Điều này dẫn đến đòi hỏi về một bản Hiến pháp mới – Hiến pháp 1992. Tuy vậy, cả khi soạn thảo và ban hành bản Hiến pháp 1992 lẫn khi sửa đổi vào năm 2001, dường như nhà cầm quyền vẫn ‘một mình một chiếu’. Cả hai bản văn Hiến pháp này dù bước đầu ghi nhận một số nguyên tắc của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại song vẫn chưa thoát khỏi ‘thân phận’ công cụ thể chế hóa cương lĩnh của đảng cầm quyền. Bên cạnh đó, người dân đa phần tiếp tục diễn vai ‘quan sát viên’ thờ ơ với công cuộc lập hiến được chính quyền đơn phương thực hiện, hoặc một số may mắn hơn được đóng vai ‘góp ý viên’ trong các buổi tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan đoàn thể quốc doanh khắp cả nước, để chứng tỏ sự đồng thuận với hiến pháp – cương lĩnh được thể chế hóa của đảng cộng sản.

Nỗ lực thảo luận Hiến pháp: Qua trường hợp Kiến nghị của sinh viên Luật

Sau nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, lần sửa đổi Hiến pháp 2013 lần này chứng kiến những nỗ lực của người dân đòi lại quyền lập hiến của mình, vốn lâu này bị nhà cầm quyền cố tình lờ đi hoặc biến hóa thành những quyền khác như ‘quyền quan sát’, ‘quyền ủng hộ Hiến pháp của Đảng’, ‘quyền đồng thuận với dự thảo của Quốc hội’. Từ các thư ngỏ, kiến nghị cá nhân được đăng tải trên các mạng xã hội, đến các ý kiến thảo luận, tranh biện dài ngắn khác nhau của nhiều tầng lớp nhân dân được gửi trực tiếp đến website của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong nhiều ý kiến đóng góp, đáng chú ý là  Kiến nghị 72 của các nhân sỹ, trí thức và gần đây là  Kiến nghị Hiến pháp của sinh viên – cựu sinh viên Luật Việt Nam.

Nếu như Kiến nghị 72 với một phương án Hiến pháp được đính kèm hàm chứa hàng loạt các ý tưởng mới mẻ (khi so sánh với các bản Hiến pháp trước đây) về nguyên tắc tổ chức, vận hành hệ thống chính trị cũng như mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong hệ thống chính trị và mối quan hệ nhà nước-công dân thì Kiến nghị của sinh viên – cựu sinh viên Luật, với hai đề nghị chính là bãi bỏ thời hạn góp ý và tiến hành thủ tục nhân dân phúc quyết Hiến pháp- lại nổi bật lên ở hai khía cạnh:

Thứ nhất, chủ thể kiến nghị là các sinh viên – cựu sinh viên Luật Việt Nam. Như kiến nghị lập luận, “lịch sử lập hiến của các quốc gia trên thế giới cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của những người tốt nghiệp từ trường luật, nếu không muốn nói rằng chính họ là những người dẫn dắt và thúc đẩy sự tiến bộ của tư duy lập hiến ở khắp mọi nơi.” Quả thực là, không chỉ trên thế giới mà ngay trong lịch sử vận động của chủ nghĩa hợp hiến của Việt Nam, một trong những văn bản đầu tiên gây tiếng vang có đề cập đến nền pháp quyền là Bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Versaille 1919, đã được chấp bút bởi một số người Việt yêu nước từng là sinh viên luật như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh. Do đó, những người đã và đang là sinh viên ngành Luật ở Việt Nam hiện có nhiều lợi thế nhất về chuyên môn để nhận lãnh “trách nhiệm to lớn trong việc xây dựng nên nền tảng cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam,” kế thừa trọng trách mà các bậc tiền bối của họ đã để lại. Dưới góc độ lịch sử, đây là lần đầu tiên những người học Luật ở Việt Nam ‘chung vai sát cánh’ trong một kiến nghị có tính chất dân sự về Hiến pháp, để hiện thực hóa những nguyên tắc pháp quyền mà họ đã từng thượng tôn lúc ở giảng đường đại học vào bản Hiến pháp mới của quốc gia.

Khía cạnh nổi bật thứ hai của bản kiến nghị là dự phóng thái độ của những người chấp bút và ký tên. Kiến nghị viết, “chúng tôi cho rằng, một bản Hiến pháp ban hành mà không thông qua thủ tục phúc quyết sẽ mất đi phần lớn ý nghĩa vốn có và không được nhân dân cũng như cộng đồng quốc tế ghi nhận”. Dù được trình bày dưới hình thức một nhận định nhưng câu văn này của bản kiến nghị gợi ý khả năng những người soạn thảo và ký tên sẽ không công nhận bản Hiến pháp sửa đổi nếu thiếu vắng thủ tục nhân dân phúc quyết. Điều này, đến lượt nó, phủ nhận tính chính danh của hệ thống chính trị dựa trên bản Hiến pháp mới – điều mà lực lượng cầm quyền ở Việt Nam đang theo đuổi. Đây cũng là lần đầu tiên có bản kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp triển khai một tuyên bố thái độ như thế.

Cả hai bản kiến nghị này đã lan truyền nhanh chóng trên Internet và được đông đảo người dân bình luận, trao đổi. Đây là lần đâu tiên trong lịch sử Việt Nam tồn tại một không gian thuần túy dân sự để người dân bàn luận vấn đề hệ trọng bậc nhất của quốc gia là lập hiến.

Ý nghĩa thực sự của các kiến nghị

Trong thực tế chính trị Việt Nam hiện nay, có lẽ đến người ngây thơ nhất cũng không tin vào khả năng lực lượng cầm quyền tiếp thu nghiêm túc các ý kiến đóng góp tâm huyết, khoa học và hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong lần sửa đổi Hiến pháp này. Nguyên nhân cốt yếu là lợi ích: Việc tiếp thu các ý kiến này và chuyển hóa chúng thành nội dung của bản Hiến pháp mới đồng nghĩa với việc tự tước bỏ những đặc quyền đặc lợi lâu nay của lực lượng cầm quyền. Đơn cử, nhà cầm quyền nếu chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận thì phải chịu áp lực trách nhiệm giải trình. Hoặc, tham nhũng đất đai sẽ không dễ được nhà cầm quyền thực hiện nếu chấp nhận sơ hữu tư nhân về ruộng, đất.

Vậy câu hỏi là: Vì sao các kiến nghị về Hiến pháp lại nở rộ thời gian qua?

Phải chăng những người tham gia kiến nghị ngây thơ về chính trị? Không. Hoàn toàn không.

Họ thừa hiểu nhà cầm quyền sẽ phớt lờ ý kiến của họ. Nhưng họ vẫn làm, vì hơn ai hết, họ hiểu rằng, điều cần hơn cho xã hội Việt Nam lúc này và mai sau là sự lan tỏa của tinh thần hợp hiến (đặc trưng bởi sự chế ước quyền lực nhà nước bằng pháp luật, tập quán, và các giá trị xã hội), chứ không phải một bản Hiến pháp thành văn, ngay cả với những câu chữ tuyên xưng dân chủ, tự do. Thiếu gì trường hợp các quốc gia có Hiến pháp ‘tốt’ nhưng thực trạng xã hội tồi tệ. Cũng có quốc gia, như Vương quốc Anh, chẳng cần đến Hiến pháp thành văn vẫn sống dưới tinh thần hợp hiến, đủ khả năng điều chỉnh hành vi của nhà nước theo hướng tự do, dân chủ.

Cần phải thừa nhận rằng, tinh thần hợp hiến vẫn chưa là một thành tố chính yếu của văn hóa chính trị Việt Nam. Thực tế này được phản ánh qua (1) số lượng các văn bản cũng như hành vi vi hiến của chính quyền và (2) sự hiếm hoi của hành vi viện dẫn Hiến pháp của người dân trong đời sống pháp lý và xã hội . Điều này thật dễ hiểu nếu đặt trong bối cảnh thiếu vắng các cuộc thảo luận về Hiến pháp trong suốt chiều dài lịch sử đất nước. Người ta không thể tường minh những điều người ta ít hoặc chưa từng nghe tới.

Do đó, điều cần làm lúc này là, bất luận việc sửa đổi Hiến pháp lần này do ai khởi xướng và kết quả ra sao, vẫn tồn tại trong đó một cơ hội để quốc dân đồng bào thảo luận về Hiến pháp. Và đồng thời, cũng là cơ hội để tinh thần hợp hiến được lan tỏa trong xã hội, nhằm dựng xây một văn hóa chính trị hiện đại cho Việt Nam. Người viết cho rằng, đây mới là ý nghĩa quan trọng nhất của các bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp lần này.

——

(*) Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn sinh năm 1990, là cựu sinh viên Học viện Hành chính. Đây cũng chính là “sinh viên tự thú”, người mà vào tháng 4/2011 đã gửi đơn “tự thú” việc “tàng trữ” một số bài viết của TS.Cù Huy Hà Vũ và đề nghị “được” Viện KSNDTC truy tố (Chú thích của BTV TTXVH).

– Mời xem lại bài cùng tác giả: + Đơn Tự thú của sinh viên Nguyễn Anh Tuấn (26-04-2011). + Thư ngỏ của Sinh viên Nguyễn Anh Tuấn (20-05-2011).

Trang Kiến nghị Hiến pháp của các sinh viên & cựu sinh viên Luật VN: hienphap.kiennghi.net

Những câu trả lời lạc hướng

Mặc Lâm, biên tập viên RFA.  2013-02-19

 Vietnamnet ngày 29 tháng 12, 2012.

Vietnamnet ngày 29 tháng 12, 2012.

Screen cap
Tải xuống – download

Bức thư được công bố trên trang mạng Bauxit Việt Nam do ông Phan Trung Lý ký tên gửi cho nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc trả lời về bản kiến nghị Dự thảo Hiến pháp năm 1992 cho thấy quan điểm của Ủy Ban Soạn thảo Hiến Pháp tỏ ra rất khập khiễng khi thực hiện việc thu thập ý kiến của người dân mà ở đây là 72 nhân sĩ trí thức cùng với hơn 4 ngàn người đồng ký tên.

Nói một đằng làm một nẻo

Điều 1 của bức thư ghi rõ: Ý kíên đề nghị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố dự thảo Hiến Pháp do ông Lộc và một số công dân soạn thảo là không đúng với quy định tại Điều 1 của Nghị quýêt số 38/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội ghi rằng “Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố.

Đọc nội dung của điều 1 trong bức thư nhiều người không khỏi kinh ngạc khi ông Phan Trung Lý lấy Nghị quyết 38 của Quốc hội để từ chối sự đóng góp ý kiến của 72 nhân sĩ trí thức trong góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Điều này đi ngược hoàn toàn những tuyên truyền rộng khắp đang diễn ra trên khắp các cơ quan truyền thông nhà nước hiện nay.

Người ta ghi nhận sự đánh tráo khái niệm trong cách sử dụng chữ nghĩa của ông Phan Trung Lý khi bác bỏ kiến nghị của 72 nhân sĩ trí thức bằng Nghị quyết nhưng sau đó vẫn khăng khăng chào mời người bị ông từ khước là nguyên Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc với câu chữ bóng bẩy trong đoạn văn kế tiếp:

“Các ý kiến của các cơ quan tổ chức trong đó có ý kiến của ông sẽ được tập hợp nghiên cứu trong quá trình chỉnh lý dự

Ông Phan Trung Lý phát biểu tại Thường vụ Quốc hội.  Photo: N.H/vnexpress
Ông Phan Trung Lý phát biểu tại Thường vụ Quốc hội. Photo: N.H/vnexpress

thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 theo đúng yên cầu của Nghị quyết số 38/2012/QH13 của Quốc hội.

Rồi lại ngay sau đó ông Phan Trung Lý đã đi quá xa khi nhắc nhở một cựu Bộ trường Tư pháp phải thực hiện đúng quy định của pháp luật khi viết:

nhiều người không khỏi kinh ngạc khi ông Phan Trung Lý lấy Nghị quyết 38 của QH để từ chối sự đóng góp ý kiến của 72 nhân sĩ trí thức trong góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Điều này đi ngược hoàn toàn những tuyên truyền rộng khắp đang diễn ra trên khắp các cơ quan truyền thông nhà nước

Vì vậy, trân trọng đề nghị Ông thực hiện đúng quy định của pháp luật và Nghị quyết số 38/2012 của QH về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến Pháp năm 1992.

Vừa đen lại vừa trắng. Vừa phản bác vừa hứa sẽ xem xét. Không ngại ngùng khi đưa ra cảnh cáo người đóng góp ý kiến phải tôn trọng pháp luật chỉ trong một bức thư ngắn ngủi khiến người dân nghi ngờ về khả năng của ông Phan Trung Lý khi lãnh trọng trách trưởng ban biên tập của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nơi có bổn phận soạn thảo bản Hiến pháp với ngôn từ rõ ràng, trong sáng và nhất là không thể được diễn giải theo nhiều cách.

Người đọc báo còn nhớ tại cuộc họp báo vào chiều ngày 29/12, ông Phan Trung Lý đã khẳng định: “Ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân nên nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và sửa đổi Hiến pháp”.

Ông Lý cũng đựơc báo chí trích lời và in đậm hàng chữ “nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả”.

Không có gì cấm kỵ vào ngày 29 tháng 12 năm ngoái, chỉ một hơn tháng sau đã bị vất đi vào ngày 07 tháng Hai năm 2013 trong bức thư gửi cho 72 nhân sĩ trí thức.

Phủ nhận quyền lập hiến của nhân dân?

Ngay khi bức thư được công bố, nhóm nhân sĩ trí thức 72 người đã ra thông báo phản hồi, trong đó mạnh mẽ từ khước sự độc quyền của Quốc hội khi là nơi duy nhất có quyền sửa Hiến Pháp, tức quyền lập hiến của nhân dân bị bẻ gãy. Thông báo có đoạn viết:

Theo chúng tôi, quy định nêu trên của Hiến pháp hiện hành phủ nhận quyền lập hiến của nhân dân; đây chính là điều đầu tiên cần sửa trong Hiến pháp và quá trình sửa đổi HP lần này phải thấu suốt tinh thần tôn trọng quyền của nhân dân quyết định Hiến pháp

Nhóm nhân sĩ trí thức

Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992
Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992. RFA file  

-Theo chúng tôi, quy định nêu trên của Hiến pháp hiện hành phủ nhận quyền lập hiến của nhân dân; đây chính là điều đầu tiên cần sửa trong Hiến pháp và quá trình sửa đổi Hiến pháp lần này phải thấu suốt tinh thần tôn trọng quyền của nhân dân quyết định Hiến pháp.

Chúng tôi đề nghị Ủy ban tôn trọng và đưa ra công khai một cách trung thực các kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp, kể cả những ý kiến khác với dự thảo của Ủy ban, để nhân dân bàn bạc, tranh luận; đó là điều kiện nhất thiết phải có để đi tới tổ chức trưng cầu ý dân nhằm xây dựng một bản Hiến pháp đúng là của nhân dân Việt Nam.

Ông Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, một dân biểu đối lập trong Quốc hội VNCH thuộc đơn vị Sàigòn từ năm 1967-1975, không thể nói rằng ông hoàn toàn không hiểu khả năng từ chối này sẽ xảy ra nhưng cứ ký tên vào kíên nghị. Ông Hồ Ngọc Nhuận cho biết cảm tưởng của mình khi nhận được bức thư của ông Phan Trung Lý:

-Tất nhiên bây giờ ở trong nứơc dưới chế độ này nếu có chuyện gì xảy ra thì tôi cùng với những người có tâm huyết đều phải tham gia thôi. Người ta nói sửa đổi hiến pháp thì mình cũng tham gia ý kiến nhưng mà thú thật trong thâm tâm tôi, riêng cá nhân tôi thì tôi hỏi ai sửa?

Tôi cũng ký kiến nghị tôi hoan nghênh hết nhưng tôi chỉ thử coi thôi chứ tôi không lạ gì chuyện họ trả lời. Nếu mà sửa, tôi là Hồ Ngọc Nhuận, tôi đề nghị sửa nhưng mà ai sẽ sửa? Tôi đâu có ngồi trong Quốc hội mà sửa? Tôi cũng không ngồi ở trong Đảng để mà sửa. Mà tôi ngồi trong đảng đi nữa nhưng đứng hạng thứ hai, ba triệu thì tôi sửa gì được? Thì cũng là mấy ông chóp bu trong đảng, rồi cái Quốc hội này cũng là đảng thì mấy ổng sửa với nhau thôi …nhưng mà mấy ổng có chịu sửa đâu?

Khi nào người ta kêu mình góp ý thì mình góp ý vậy thôi, mình nói thẳng bởi ví mình không tẩy chay, mình không giận lẫy cũng không chống lại gì cả. Người ta kêu mình góp ý thì mình làm nhưng mà thâm tâm tôi không tin chút nào hết tại vì họ có chịu sửa hay không? Mà họ có sửa đi nữa thì đâu có chịu sửa những điều mà rất cấm kỵ?

Tôi ở chế độ cũ, chế độ mới đã bao nhiêu năm rồi. Có nhiều thứ họ đâu cho mình có ý kiến đâu. Bây giờ có cho lấy ý kíên nhưng mình nói là một chuyện mà họ sửa hay không là chuyện khác. Tôi không bao giờ tin họ sửa đâu!

Ông Phan Quang Tuệ, Thẩm phán tòa án liên bang San Francisco cho chúng tôi biết cảm nghĩ của ông về sự đóng góp của 72 nhân sĩ trí thức:

-Tôi đặt trường hợp của tôi ở trong nước, tôi nghĩ rằng người ở trong nước dù là đảng viên hay không khi đặt bút ký cùng với tên tuổi, địa chỉ đòi sửa đổi hiến pháp, và trong bản dự thảo đó của họ không thấy có hình bóng nhắc nhở gì đến Đảng Cộng sản thì tôi cho đó là hành động can đảm. Dù mình không hỗ trợ cho kiến nghị đó thì mình vẫn hỗ trợ cho hành động can trường của những người đó. Họ dám đứng lên, họ dám làm.

Ông Hồ Ngọc Nhuận khẳng định rằng chỉ có một Quốc hội Lập Hiến do người dân bầu ra một cách tự do mới có thể hình thành một bản hiến pháp đúng nghĩa, ông nói:

Mỗi lần trình và thảo luận đều có những vấn đề cụ thể được sửa đổi, nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên

ông Phan Trung Lý

-Tôi nói thật, ngày nào mà họ nói rằng cho chúng tôi bầu cử, bầu cử tự do nha! Bầu cử một Quốc hội lập hiến của nhân dân đàng hoàng để làm hiến pháp mới thì cái đó may ra còn tin được còn vần đề ai bầu cái Quốc hội lập hiến ấy thì còn hạ hồi phân giải nữa chứ còn bây giờ tôi có đựơc bầu ai đâu? Thành thử cái này không có được thí dụ như đìêu bốn hiến pháp, sao cứ để trên đầu tôi hoài?

Trong buổi nói chuyện vào ngày 29 tháng 12 năm ngoái ông Phan Trung Lý, người đang chịu trách nhiệm trưởng ban biên tập Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp có nêu một ý kiến rất quan trọng mà nếu chú ý thì mọi nỗ lực góp ý của nhân sĩ trí thức đều là muối bỏ biển. Ông Lý nói rằng: “Mỗi lần trình và thảo luận đều có những vấn đề cụ thể được sửa đổi, nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên”.

Những định hướng lớn và nguyên tắc cơ bản ấy là điều 2 và điều 4 của Hiến pháp hiện hành đã được 72 nhân sĩ trí thức bác bỏ trong đề nghị của họ. Câu hỏi đặt ra: cách giải thích của một viên chức thẩm quyền theo thói quen tùy tiện và coi thường khả năng diễn giải của nhân dân có phải là chính sách khuyến khích người dân góp ý cho bản Hiến pháp hay ngược lại?

Theo dòng thời sự:

Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân

Bauxite Việt Nam, Hà Sĩ Phu

Hasiphu

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Sáng 19-2-2013 đọc báo mạng thấy trang Anhbasam có điểm hai bài tương phản:  “Tiêu Dao Bảo Cự: Từ Ngô Kha, soi rọi và giải mã một thế hệ dấn thân (Diễn Đàn); Blogger Caubay Thiem có bài phản biện lại bài này bên Facebook”.

Mặc dù tôi mới ở bệnh viện về, tình trạng mắt được bác sĩ yêu cầu hết sức hạn chế đọc và viết, tôi vẫn phải “đánh liều” viết đôi điều ngắn gọn về chuyện “xung đột” âm ỉ từ lâu này (nếu có thể gọi như thế), giữa những người đáng kính, vì mấy lẽ sau đây:

– Thế hệ dấn thân theo con đường cộng sản như nhà văn TDBC bao gồm nhiều người (ở miền Bắc còn nhiều hơn miền Nam), trong đó số đã thức tỉnh ở những mức độ khác nhau, đang cố gắng làm những điều nhằm sửa lại hay chống lại thực tại sai lầm của ĐCS cũng ngày càng nhiều thêm, nhưng việc tự đánh giá giai đoạn quá khứ của mình xem chừng chưa có gì nhất trí, ổn thỏa, thanh thoát, như có những tâm trạng uẩn khúc bên trong nên phải đặt vấn đề “giải mã”.

– Việc “giải mã” cũng liên quan đến cả những người CS hiện nay đang được dư luận ca ngợi, tán thưởng (kể cả dư luận khó tính ở hải ngoại), như nghệ sĩ Kim Chi khước từ sự có mặt trong nhà ở của mình chữ ký của một kẻ cao cấp “hại nước hại dân” – vì chị tự hào mình là một người “Cộng sản chân chính”! Những đảng viên trong 72 vị khởi xướng đợt góp ý Hiến pháp hiện nay cũng vậy, chắc phần đông cũng là những người muốn hành xử như những người “Cộng sản chân chính” để phân biệt mình với loại “CS thoái hóa”. Vậy có thể tồn tại khái niệm “người CS chân chính” hay không, cũng là điều cần xác định cho rõ.

– Trong hàng ngũ những bạn bè thân hữu đang nỗ lực góp phần mình vào công cuộc dân chủ hóa xã hội hiện nay cũng có hai “phe” với hai cách nhìn ngược nhau trong việc đánh giá quá khứ tham gia Cộng sản.

Tóm lại, tình hình khác nhau trong việc nhìn nhận giai đoạn quá khứ tham gia hoặc ủng hộ CS là điều tốt hay không tốt, là công hay tội, nên nhớ đến để tôn vinh hay nhắc đến chỉ thêm ân hận… là một thực tế rộng lớn, tuy không phải mâu thuẫn đến mức nặng nề nhưng vẫn âm ỉ như một chút gợn, một cái gai, hay một cái nhọt trong đội ngũ những người từng có nợ với quá khứ và đang phải băn khoăn về trách nhiệm với hiện tại và tương lai đất nước (còn những kẻ vô trách nhiệm, thờ ơ hay cố bám sự hủ bại thì không đáng bàn đến ở đây).

Khoảng một hai năm gần đây, khả năng lãnh đạo của đảng cầm quyền ngày càng sút kém, bất lực, những mâu thuẫn đối nội và đối ngoại thúc đẩy phải có những thay đổi, kéo theo đó là sự phân hóa phức tạp trong xã hội về nhân sự, tổ chức, phong trào, phe nhóm… Bên cạnh chủ trương đối xử cứng rắn với giới dân chủ tiên phong là sự nới rộng có kiểm soát với giới trí thức cận thần, có cái mới vừa sáng tạo ra, có cái vốn cũ đang được dùng lại. Trong bối cảnh phân hóa đó, sự khác nhau tiềm ẩn trong quá khứ của giới “pro-Đảng” nay cần phải tách bạch. Việc điểm tin hai bài ngược chiều nói trên của “nhật báo Basam”, mà tránh không bình luận, có lẽ cũng là một biểu hiện nhạy cảm và tế nhị. Những người nhạy cảm thấy đã đến lúc nên có sự trao đổi thẳng thắn với tư cách giữa những người được giả thiết là “chung một chiến hào”. Vướng một cái gai, anh chiến sĩ vẫn có thể chiến đấu, nhưng “giải quyết” được cái gai tất nhiên sức chiến đấu sẽ tốt hơn nhiều.

Suốt trong quá khứ tôi không dính dáng trực tiếp gì đến chính trị, nhưng bạn bè thuộc cả hai “phe” cũng có nhiều thân hữu. Trong điều kiện sức khỏe không thuận lợi, tôi không dám hy vọng có thể đề cập vấn đề một cách thấu đáo, chỉ xin đưa ra một vài ý chung, tản mạn, để góp phần gọi là “giải mã” một thực tiễn khá nhiều tế nhị.

II. MẤY ĐIỀU CƠ BẢN GỢI Ý CÓ THỂ DÙNG TRONG LÝ GIẢI

1/ Phải chăng sự hiểu biết lúc ấy chưa đủ tầm để sàng lọc?

Hiện tượng một chủ nghĩa ảo tưởng, phi lý và phản tiến hóa như chủ nghĩa CS lại rộ lên một thời rộng lớn, thu hút đám đông, trong đó có cả những trí thức lớn, nghịch lý quá lớn ấy khiến thiên hạ phải chiêm nghiệm mà đúc kết thành một quy luật, quy luật liên kết và hoán vị loại trừ lẫn nhau trong 3 thành tố, tạm gọi là luật Loại trừ một trong ba” hay luật Hai khử một”.

Ba thành tố ấy là Tâm hồn Lương thiện, Trí tuệ Thông thái và Lập trường Cộng sản, liên kết và loại trừ nhau như sau:

– Đã Thông thái và Cộng sản thì không Lương thiện ( phải mưu mẹo, gian hùng).

– Đã Lương thiện và Cộng sản thì không Thông thái ( phải nhẹ dạ, nông cạn).

– Đã Lương thiện và đủ Thông thái thì không theo Cộng sản [1].

Những ai tự nhận mình luôn lương thiện trong sáng và đã theo CS thì ứng với trường hợp thứ hai, tức là trí tuệ nông cạn, không đủ tầm để sàng lọc trước một vấn đề ở tầm thời đại. Trước mắt mới nhìn bề ngoài tưởng là tốt thì theo thôi.

Xem ra nhiều đảng viên lương thiện không chịu nhận là lúc ấy mình ngu, cứ khẳng định khi ấy chỉ có theo đảng là thông minh nhất. Có vị còn khăng khăng rằng: Nếu bây giờ lịch sử lặp lại thì ông ta cũng lại chọn đúng con đường cũ chứ không thể khác. Sở dĩ có sự tự ái như vậy do chưa hiểu sự “ngu đần” có thể là tầm của cả một dân tộc trong một thời kỳ chứ chẳng riêng ai, người viết những dòng này cũng đâu thoát khỏi mê cung ấy? Phê phán bạn cũng là phê phán mình. Chỉ cần so sánh với một dân tộc văn minh và khôn ngoan hơn sẽ thấy ngay sự kém cỏi, dân trí lạc hậu của cả dân tộc mình thì sẽ tránh được tâm lý tự ái cá nhân.

Hiện tượng có mấy nhà bác học nổi tiếng vẫn say mê CS cũng chẳng biện bạch được gì hơn vì có thể vị bác học ấy giàu lý tưởng, lý thuyết, hiểu biết chuyên môn nhưng rất ngây thơ, ảo tưởng, cũng dốt về chính trị-xã hội.  Chấp làm gì những vị trí thức nọ trí thức kia mù quáng thân Cộng, khi “ông trùm CS” của nước mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi quyết định theo con đường Cộng sản cũng chưa hiểu Cộng sản là gì kia mà?

Cú “nhích chân” của Nguyễn Ái Quốc  từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa”, “Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì, thì tôi (tức Nguyễn Ái Quốc) chưa hiểu”. Thậm chí Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L’humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy Nguyễn Ái Quốc”cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi” [2].

Nhưng cũng không chấp ông HCM làm gì, khi chính ông Mác ông Lê cũng “khái quát vội, khái quát nhầm” ít nhất là 9 điều căn bản [3] tức là cũng hụt hẫng về Trí tuệ khi cả gan  nghĩ ra một chủ nghĩa mới toanh hòng cứu rỗi nhân loại nhưng vượt quá tầm Trí tuệ của mình (chủ nghĩa Xã hội khoa học ít nhất cũng có một khuyết điểm cơ bản là phi khoa học!), thì một đảng viên CS nhỏ bé có tự nhận là “Trí tuệ không đủ để sàng lọc” cũng chẳng có gì đáng phải băn khoăn!

Vậy thì thôi, ta cứ yên trí nhận là trước đây ta theo CS vì chưa đủ thông thái để sàng lọc là ổn.

Nhưng mâu thuẫn vẫn chưa hết. Các bạn lại bảo: tôi theo CS không phải là yêu CS gì hết, chỉ vì yêu nước, yêu hòa bình-thống nhất, ghét Mỹ xâm lược. Nếu bạn chỉ mượn CS làm phương tiện như thế thì khi mục đích đã xong, Mỹ đã rút, đã có “hòa bình-thống nhất” thì bạn còn ôm cái “phương tiện” ấy làm gì, bạn phải chủ động rời bỏ nó ngay mới phải, như qua sông rồi thì bỏ con thuyền ở lại chứ?

Nếu bạn lại bảo: tôi chưa hiểu gì về chủ nghĩa CS nên hãy cứ theo xem sao? Vậy đến hôm nay bạn đã hiểu chưa? Với tư cách một đảng viên bạn có tìm hiểu mọi thông tin trên mạng và trên thực tế không, có biết  nghị quyết 1481 của Nghị viện châu Âu, biết nhân loại đã vứt một Chủ nghĩa ảo tưởng vào sọt rác lịch sử? Nếu có đủ thông tin thì chắc bạn không còn đủ dũng khí để tự hào là một đảng viên CS, vì tôi tin bạn là người có trí óc bình thường và còn dây “thần kinh xấu hổ”. Theo lô-gich của môn “liêm-sỉ-học” (liemsiology!) thì bạn phải hành xử như Trần Độ, như Phạm Đình Trọng, như Nguyễn Chí Đức… mới phải.

Nhưng chưa, bạn chưa đến chân tường, vì bạn còn một câu trả lời khả dĩ hữu lý: Tôi phải ở lại trong Đảng để “chiến đấu”, với tư cách “người CS chân chính” chống bè lũ “CS thoái hóa”. Vâng, vậy xin chuyển tiếp sang phần sau.

2/ Có hay không khái niệm gọi là “người Cộng sản chân chính”?

Những người tự hào là “CS chân chính” vì nghĩ rằng cái đảng mà mình gia nhập là một đảng chân chính, nay “một số không nhỏ” (tất nhiên nằm trong lãnh đạo tối cao) đã THOÁI HÓA và PHẢN BỘI, nên mình phải đấu tranh chống lại sự tha hóa để phục hồi một ĐCS chân chính, nghĩa là mình đấu tranh (chống những cán bộ lãnh đạo xấu) với tư thế của người “đòi nợ”, đòi cái món nợ mà đảng đã hứa (trong lời tuyên bố) trước nhân dân nhưng bây giờ họ “quỵt nợ, vỗ nợ”!

Phải công nhận, nếu như vậy thì trong 3 yếu tố Lương tâm, Trí tuệ và Cộng sản bạn đáp ứng đầy đủ hai yếu tố Lương tâm và Cộng sản nhưng quá yếu về Trí tuệ (theo đúng quy luật Hai khử một đã nói ở đoạn trên), nên trở thành duy cảm, thiếu duy lý. Sự THOÁI HÓA và PHẢN BỘI đã nằm sẵn trong mớ tín điều của chủ nghĩa, đã được “chương trình hóa” ngay từ khi khởi lập. Những biểu hiện thoái hóa và phản bội mà bạn nhìn thấy bây giờ thực ra đã được tiền định từ đầu (trước khi bạn gia nhập đảng rất lâu): không một ĐCS cầm quyền nào có thể thoát khỏi tình trạng thoái hóa và phản bội!

Về lý thuyết chính Mác đã tự chống lại mình, khi triết học Mác thì duy vật, chống duy tâm-duy ý chí nhưng chính trị Mác thì rất duy tâm, chủ quan, duy ý chí. Một lý thuyết ảo tưởng phi khoa học thì sẽ bị thực tế chống lại nên dần dần phải làm ngược lại hết, CS phải tự làm ngược lại những tín điều của mình mới mong tồn tại. Cuối cùng, ngày nay mỗi đảng viên đều phải chọn cho mình một sự giã từ, một sự “phản bội”: hoặc là trung thành với chủ nghĩa thì phản bội nhân dân, muốn trung thành với nước với dân thì phải phản lại chủ nghĩa[4]!

Khi bạn trung thành với nước với dân, với nhân tâm, với chân lý phổ quát thì bạn là “con người chân chính”, rất chân chính, tôi yêu quý bạn, nhưng bạn không còn là “người CS chân chính” nữa đâu, âu cũng là lối tự hào do cảm tính, xin đừng nhầm lẫn!

Bạn lại bảo: Tôi trung thành với chủ nghĩa CS là trung thành với lý tưởng cao đẹp của nó. Bạn lại nhầm rồi.Nhân tố chủ yếu làm nên một chủ nghĩa, phân biệt chủ nghĩa này với chủ nghĩa khác không phải ở mục đích mà nó tuyên bố, mà ở con đường mà nó vạch ra, vì mục đích sau cùng thì bao giờ chẳng tốt đẹp, căn bản đều phải hướng đến tự do-hạnh phúc cho con người. Nhưng khi con đường sai hoặc ảo tưởng thì không đến đích mong muốn hoặc chỉ đem đến kết quả ngược lại như trường hợp chủ nghĩa Mác-Lênin [5]. 

Ngoài ra, có cách đi đến đáp án đơn giản hơn nhiều:

Khi một chủ nghĩa ảo tưởng chỉ đem lại kết quả ngược với mong muốn thì chủ nghĩa ấy không thể coi là CHÂN CHÍNH được. Chủ nghĩa đã không CHÂN CHÍNH thì làm sao tín đồ của nó lại CHÂN CHÍNH được? Bạn chỉ có thể là một CON NGƯỜI CHÂN CHÍNH vì thực ra bạn đã làm ngược tín điều của Chủ nghĩa rồi, chắc bạn là người nặng về duy cảm nên không nỡ hay không dám để cho bộ óc Duy lý được đứng trước gương mà phán xét đó thôi! Xin nói với nhau một lời thông cảm thực lòng như vậy.

III. LẤY ĐÍCH DÂN CHỦ-ĐỘC LẬP-PHÚ CƯỜNG LÀM SỢI DÂY LIÊN KẾT

Chỉ cần nhìn các nước quanh ta với một xuất phát “same-same” như nhau đủ thấy trong cuộc chạy đua thế kỷ, ViệtNamchúng ta là kẻ thua cuộc, là đoàn khách nhỡ tàu.

Chỉ nhìn kinh tế – kỹ thuật đã thấy thua các nước bạn trong khu vực vài chục năm nhưng sự thua kém về độc lập – tự do, về văn hóa – nhân phẩm còn đáng lo hơn nhiều.

Nay muốn đoàn kết để thực hiện dân chủ ắt phải chấp nhận đa dạng đã đành, nhưng ở một nước vừa trải qua mấy cuộc phân ly kinh khủng, lại đang bị ngự trị bởi một Ý thức hệ đoàn kết giả để phân ly thật thì lòng người ly tán là một trở ngại khổng lồ, nếu không biết chấp nhận sự khác biệt thì lấy đâu sức mạnh cho một sứ mệnh cũng khổng lồ tương xứng? (Sứ mệnh lập lại một xã hội đã bị phá nát từ gốc, quay lại một con đường đã đi ngược trên nửa thế kỷ, chống lại một anh hàng xóm khổng lồ chỉ muốn kìm giữ Việt Nam yên vị như một con cừu Ý thức hệ vừa ngoan vừa chậm vừa ngu để hắn có thể ngoạm dần hết cơ thể con mồi trong cái áo choàng hữu nghị đểu).

– Muốn có khối đoàn kết toàn dân tộc, trước hết hãy tìm khả năng đoàn kết giữa các khối người tích cựcmà họ đang rất khác nhau như trên đã nói. Hãy quý sự khác nhau ấy vì đó chẳng những là thực tiễn buộc phải chấp nhận, là tất yếu trong tinh thần dân chủ, mà còn là thuận lợi để diễn tiến xã hội đi lên một cách hòa bình. Nếu không có những “trí thức cận thần”, còn rất khác những người có tư duy triệt để (biết phải thay đổi cái cũ tận gốc), đồng thời lại có những người trung gian giữa hai thái cực ấy thì sao có thể nối với nhau thành những nhịp cầu chuyển hóa dần dần? Nối tiếp với nhau được nếu tất cả đều hướng về phía trước, dẫu kẻ trước người sau nhưng phải chống những kẻ ngược chiều hoặc mưu toan cơ hội trụ lại nửa chừng để chia hoa lợi!

Một ví dụ: trong những người đã có thời hăng hái theo đảng làm một cuộc gọi là “chống Mỹ cứu nước” có người không muốn nhắc lại “thành tích đáng buồn” cũ (như anh em Huỳnh Nhật Hải-Huỳnh Nhật Tấn) trong khi rất nhiều người vẫn muốn nhắc lại những kỷ niệm một thời tranh đấu “hào hùng”. Không sao, miễn là khi nhắc lại chuyện cũ phải nhìn dưới lăng kính mới, vượt trên cái cũ với óc phê phán để phục vụ cho cái mới. Chẳng hạn phải hiểu vì sao trong chế độ cũ (mà ta quyết đánh đổ) ta có thể ngang nhiên tranh đấu, tuyên bố hùng dũng, thậm chí lãng mạn bay bổng, thỏa chí tang bồng chống lại giới cầm quyền, còn trong chế độ mới (mà ta mơ ước) ta chỉ dám làm bằng 1 phần trăm thời xưa thôi mà đã phải rụt rè? Chẳng hạn ngày trước dưới cái nhìn bồng bột ta chỉ thấy cái gọi là “Mỹ Ngụy” là thấp hèn, tàn ác, đáng khinh ghét, nay dưới cái nhìn dân chủ và toàn cầu ta lại mong sao bây giờ được bằng cái mà ta đã quyết diệt [6], mong trở lại cơ hội cũ mà ta đánh mất, để rồi từ đó tiếp tục đi lên thì dễ dàng hơn.

Chẳng hạn ta nhận ra sự “hào hùng” cũ thật là “bi tráng” (như nhà văn TDBC nhận thấy), nhưng “bi” không ở chỗ bị kẻ thù tàn sát, thất bại đau đớn như cái bi hùng của phong trào Nguyễn Thái Học, mà ngược đời, “bi” lại ở chỗ muốn thắng cuộc thì nhất thời đã thắng, nhưng nghĩ lại, thà đừng thắng thì hơn! “Bi” ở chỗ cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi thanh niên (nhưng còn bồng bột, cảm tính, bị tuyên truyền), tương tự như cái vốn quý giá mà Dương Thu Hương gọi là “một khối vàng ròng”, nhưng đã bị lợi dụng, bị dùng nhầm, dùng phí phạm, đáng tiếc. Song cái “bi” ở đây cũng không hề “bi lụy” nếu ta quyết hồi sinh cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi trẻ ấy, với sự bổ khuyết rất cần thiết bằng các tri thức hiện đại, trưởng thành, để dùng vào công cuộc hôm nay, như để bù đắp cho điều đáng tiếc cũ, thì sự hồi tưởng như thế thật là hồi tưởng vô cùng tích cực.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng vậy, nghĩ lại thời đã qua để thấy trách nhiệm của mình. “Cả tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt, để đúc nên chính cỗ máy này”, cái cỗ máy của sự “đểu cáng lên ngôi”. Hồi ức chuyện cũ để mà hối tiếc cho nhiệt huyết của mình không đem lại kết quả mong muốn, và thấy trách nhiệm của mình trong hiện tại! Một khi cùng hướng về phía trước và hành động cụ thể là nhất định gặp nhau. (Không biết trong hàng ngũ của các anh có ai muốn ôn chuyện cũ để kể công, để che dấu cái hèn hiện tại, để lập một cái gì đó chung chiêng hay không thì tôi không rõ, tất nhiên không bàn).

– Hãy biết ơn những người tiên phong.

Nếu như trên mặt phẳng nằm ngang ta hình dung đoàn người nối tiếp nhau như cây cầu bắc từ chế độ độc tài toàn trị đến cuối cầu là chân trời Dân chủ-Độc lập-Phú cường, trong đó những tư tưởng tiên phong luôn dẫn đầu đi trước, thì đừng quên một đường dây thẳng đứng, người nọ đứng lên vai người kia, để đưa nhau từ đáy giếng lên bờTrên cái “chồng người” thẳng đứng ấy những người tiên phong đứng ở dưới cùng cho đồng đội được đứng lên vai. Những người tiên phong ấy sẽ lên bờ sau cùng hoặc lúc khải hoàn có thể không còn họ nữa.

Về Độc lập dân tộc nếu không có những anh hùng liệt nữ đã hy sinh liệu ngày nay ta có còn quốc gia không để mà tranh đấu? Chúng ta đã đứng trên vai họ để có hôm nay. Về Dân chủ-Tự do cũng vậy. Nếu không có những người dân chủ tiên phong như Nguyễn Mạnh Tường, như Hữu Loan, như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Lê Hồng Hà, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, Hòa thượng Thích Quảng Độ, cha Nguyễn Văn Lý, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức… vân vân và vân vân… mà hầu hết họ đều bị tù đày, và biết bao tiếng nói dân  chủ từ bên ngoài hỗ trợ thì làm sao có chút nền dân chủ cỏn con để có thể tồn tại những trang web dân chủ trong nước như trang Bô-xít, trang Basam và các blogger? Rồi đến lượt, nếu không có những trang web và blogger ấy làm chỗ tựa làm sao đoàn trí thức 16 vị có thể được đón tiếp để trao những kiến nghị và dự thảo Hiến pháp quá mạnh dạn kia, cũng như cá nhân tôi lúc này có thể công khai công bố những lời đóng góp thẳng thắn nhường này? Chúng ta đã được đứng trên vai họ, những người dân chủ tiên phong chịu nạn tù đày để giành lấy từng tý chút dân chủ cho ta tiếp tục. Hãy nhớ ơn họ!

Nói đến chuyện đứng trên vai nhau, tôi lại thầm hỏi mình: nếu không có đồng đội lấy vai cho mình đứng, lại không có một điểm tựa nào đó từ môi trường, dù là điểm tựa vô tình hay vô tri thì một cá nhân đơn độc làm sao có thể vượt qua cái vai của mình? Tự mình vượt qua chính mình mới thật là điều khó lắm thay! Làm sao có thể tự thắng cái khối lượng ì ạch của bản thân với tất cả những sức cản nặng nề đã ràng buộc mình vào cuộc đời này?

Đà Lạt ngày 24-2-2013

H.S.P.

Nguồn: Bauxite Việt Nam

———————————————————————————-

[1] “Quy luật” tương tự này tôi đọc thấy đã lâu, gần đây thấy nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh và nhà báo Lê Diễn Đức nhắc tới. Tôi diễn đạt lại cho rõ hơn (HSP)

[2] Xưa nhích chân đi giờ nhích lại: HCM quyết định theo Quốc tế 3 khi chưa hiểu CS là gì ! Tư liệu trích từ:

Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nhà xuất bản Văn học, Hànội (in lần thứ tám), 1975, trang 44.

– Hồ Chí Minh:Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000, trang 126.

– Lữ Phương:Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, THƯ NHÀ xuất bản,Australia, 2002, trang 40.

[3] Xem bài Từ Nguyễn Phú Trọng đến Lê Hiền Đức (HSP)

[4] Từ vụ Bauxite nghĩ về vận nước (www.hasiphu.com/baivietmoi_40.html)

[5] Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của Trí tuệ

[6]  Nguyên Ngọc (S: Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn …).Huy Đức: “bên (cần)được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”.

‘Tôi chấp nhận tất cả hình thức xử lý của Quốc hội’

Hữu Công, Nguồn: vnexpress.ne

HuynhHưuPhuocThừa nhận việc đăng bài công kích đại biểu Dương Trung Quốc trên blog là sai, chiều 19/2, đại biểu Hoàng Hữu Phước cho biết sẽ viết thư tay xin lỗi ông Quốc và chấp nhận mọi hình thức kỷ luật của Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội viết blog công kích ông Dương Trung Quốc

– Mục đích của ông khi đăng bài viết “Dương Trung Quốc và Bốn điều sai năm cũ (Tứ đại ngu)” lên blog cá nhân là gì?

– Tôi quan niệm blog của mình cũng như một thùng nước đá, tôi để thùng nước đó để ai khát thì uống. Việc này bắt nguồn từ sở thích viết lách của tôi từ hơn chục năm nay. Tôi xin khẳng định là không có bất kỳ sự cay cú nào với đại biểu Dương Trung Quốc. Mỗi người có một chính kiến khác nhau là điều bình thường. Vợ chồng, anh em, đồng nghiệp còn có bất đồng nói chi hai người lạ.

Một người Mỹ khi đến Việt Nam mà cứ nói những điều xúc xiểm đất nước này, tất nhiên sẽ không được người dân Việt Nam chào đón. Ông Dương Trung Quốc là đại biểu của một tỉnh có nhiều người công giáo mà lại nói về một vấn đề nhạy cảm (luật hóa mại dâm), mà trong Kinh thánh không cho phép, là một vấn đề quan trọng. Ở nghị trường, ông Quốc phát biểu về thân phận người nữ khi làm nghề mại dâm nhưng mại dâm bây giờ đâu chỉ có nữ, còn mại dâm nam thì sao? Mình thừa nhận mại dâm nữ, mại dâm nam tính sao?

Đại biểu Hoàng Hữu Phước trao đổi với báo chí chiều 19/2. Ảnh: H.C.

Từ ngữ trong bài viết là tôi dẫn câu của Khổng Tử, “ngu” ở đây được hiểu là cái sai nghiêm trọng. Trước nay tôi vẫn dùng cách viết châm biếm, dí dỏm, bông đùa nên phải hiểu đây là những cái sai nghiêm trọng trong năm qua của ông Quốc. Lưu ý là tôi đã mở ngoặc (Tứ Đại ngu) và dẫn lời của Khổng Tử. Tuy nhiên, với người Việt Nam, “ngu” là một từ rất nhạy cảm, dùng để xúc phạm thóa mạ người khác.

– Trong buổi làm việc ngày 18/2, Đoàn Đại biểu Quốc hội TP HCM đã trao đổi với ông những nội dung gì?

– Đoàn đại biểu Quốc hội TP HCM đề cập 2 vấn đề. Thứ nhất là yêu cầu tôi xác nhận bài viết trên blog có phải là của tôi hay không vì trước đây có nhiều trường hợp giả mạo tôi để viết. Chuyện thứ hai là những bức xúc nào dẫn đến việc tôi đã có bài viết với nội dung như thế.

Ông Hoàng Hữu Phước thừa nhận việc làm của mình là sai và xin nhận mọi hình thức xử lý của Quốc hội. Ảnh: H.C.

Ngoài việc xác nhận bài viết này là của mình, tôi thừa nhận thời gian qua đã có một số vấn đề không đồng tình với ông Quốc. Như gần đây tôi có viết một bài phê bình cuốn sách của nhà báo Huy Đức. Ngay sau đó, trả lời phỏng vấn BBC, ông Quốc lại bày tỏ ủng hộ và muốn công bằng cho tác giả.

Theo tôi, trong tình hình đất nước ta hiện nay cần nhất là sự ổn định, các thế lực không thân thiện với chúng ta lợi dụng những phát biểu chính thức từ những vị có danh tiếng. Tôi rất tiếc một người có những cái ưu thế lại không được đem ra làm lợi cho nước nhà. Vì vậy có những cái tôi phản ứng ngay nhưng không nêu đích danh ông Quốc. Nhân dịp cuối năm tôi đã có ý định viết một bài tổng kết lại những điều ông Quốc đã làm sai nghiêm trọng trong năm qua. Lúc đó tôi chỉ nghĩ mình viết lên blog, ai đọc thì đọc. Nếu ông Quốc không đồng ý thì có thể đả kích lại.

– Quan hệ cá nhân giữa ông và Đại biểu Dương Trung Quốc thế nào?

– Chúng tôi đều chung dưới một mái nhà Quốc hội, nhưng về quan hệ công tác và quan hệ cá nhân thì không có gì sâu sắc, chỉ gặp nhau trong giờ giải lao thì cũng gật đầu chào rồi đường ai nấy đi, việc ai nấy làm.

Bài viết của ông Hoàng Hữu Phước về đại biểu Dương Trung Quốc trên blog đã được gỡ bỏ.

– Ông định sẽ xin lỗi đại biểu Dương Trung Quốc như thế nào?

– Tôi vẫn chưa trực tiếp xin lỗi ông Quốc, nhưng chắc chắn là sẽ có. Mình là người lớn, chạy xe ngoài đường đụng một đứa bé mình cũng phải xin lỗi chứ nói gì đây là người lớn, lại là đại biểu Quốc hội. Tôi sẽ xin lỗi bằng 2 cách là qua báo chí và bằng thư tay. Nhưng tôi sẽ không gửi trực tiếp thư tay cho ông Quốc mà sẽ gửi cho văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội TP HCM, để văn phòng xem nội dung và văn phòng sẽ gửi đến ông Quốc, đây cũng là một cách báo cáo cho tập thể biết. Trong thư tôi cũng sẽ giải thích cho ông Quốc hiểu tại sao tôi phải đi đường vòng như thế.

Tuy tôi đã nhận ra mình sai và kịp thời gỡ bỏ nhưng qua việc viết thư, tôi muốn chứng tỏ mình là người hiểu biết và biết phục thiện tới nơi tới chốn. Phục thiện phải chứng tỏ được cái chân tình của mình, trong thư tôi sẽ trình bày rõ ràng, nêu ra những bất đồng và cho biết sắp tới sẽ phải giải quyết thế nào chứ không thể chỉ thông qua báo chí rồi bảo ông Quốc mua báo đọc là xong được. Đó là một cách làm nghiêm túc, công khai.

– Dư luận đã phản ứng rất mạnh về bài viết “Tứ đại ngu”. Ông sẽ giải thích thế nào với cử tri về văn hóa ứng xử của mình?

– Tôi rất lấy làm tiếc vì không lường trước những gì mình đã giãi bày. Trước đây có những lời phát biểu, những ý kiến của ông Quốc mà tôi không đồng tình thì sau đó tôi cũng viết bài để làm cho rõ hơn những chính kiến đó. Nhưng tất cả những bài đó đều viết trống không, không có tên cụ thể dù nội dung là viết về ông Quốc. Như bài viết về ý kiến “đừng biến Việt Nam thành ốc đảo dị thường” của ông Quốc, tôi đã giải thích “ốc đảo là gì” để phản biện lại thôi. Nhưng lần này tôi lại nêu đích danh ông Quốc và về phương pháp như vậy là hoàn toàn sai. Cách duy nhất là gửi trực tiếp cho ông Quốc, chứ không phải là viết cho bàn dân thiên hạ đọc như thế.

– Có ý kiến cho rằng với những lời lẽ đã viết trên blog, ông không đủ tư cách làm đại biểu Quốc hội, đại diện cho cử tri và yêu cầu Quốc hội nên bãi miễn. Ông nghĩ gì về điều này?

– Mọi người dân đều có quyền đánh giá, nhận xét. Tôi chấp nhận tất cả các hình thức xử lý của Quốc hội vì không ai có thể đặt mình trên luật pháp được. Nếu điều đó xảy ra, ít nhất cũng nhắc nhở mọi người về việc dùng ngôn ngữ thế nào, hành xử như thế nào cho đúng đắn.

Dù có ở trong Quốc hội hay ra khỏi Quốc hội thì tôi luôn vẫn là tôi, vẫn sẽ đóng góp cho đất nước, chứ không như một số người đã từng ở trong guồng máy nhà nước nhưng khi cơm không lành canh không ngọt là ra nước ngoài tung “bảo bối” quay lưng nói cái này, cái kia không hay.

Tuy nhiên, tôi không nghĩ đến việc từ nhiệm. Ví dụ tôi là bác sĩ vi phẫu thuật thần kinh duy nhất trong bệnh viện nhưng phạm tội tham ô, vậy thì tôi có hành vi gì thì xử lý tội ấy. Có thể hạ lương, xuống chức, tôi không còn là bác sĩ trưởng khoa nữa chứ tôi không bỏ nghề bác sĩ. Khi nào mà mình gây ra cái chết cho bệnh nhân, không cứu được ai thì tôi mới ra đi, bỏ nghề bác sĩ chứ không bao giờ tôi làm cái việc từ nhiệm.

– Qua 2 năm làm đại biểu Quốc hội, ông thấy mình đã làm được những gì cho cử tri?

– Tôi đã ghi nhận rất nhiều ý kiến, tâm tư, tình cảm của người dân. Tất cả những ý kiến đó tôi đều ghi chép lại cẩn thận, của ai, ngày nào, và nói về vấn đề gì. Trong chương trình hành động của tôi, tôi tự hào với một chi tiết không bị trùng lặp với bất kỳ ai đó là “phải biết lo trước cái lo của thiên hạ”. Người dân họ không sợ gì cả, mình là đại biểu Quốc hội thì phải biết sợ giùm cho dân. Chúng ta vẫn yêu cầu có luật biểu tình, nhưng không ai lường trước khi có luật biểu tình điều gì sẽ xảy ra cả.

Luật gia Lê Hiếu Đằng: Việt Nam đừng bỏ lỡ

Luật gia Lê Hiếu Đằng: Việt Nam đừng bỏ lỡ cơ hội thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc

Luật gia Lê Hiếu Đằng

Luật gia Lê Hiếu Đằng. RFI/Capdevielle. Thụy My

Như chúng ta đã biết, ngày 17/02/1979, Trung Quốc đã xua hơn 30 vạn quân trang bị hùng hậu tràn vào xâm chiếm 5 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam. Tuy bị bất ngờ và lực lượng yếu hơn, nhưng phía Việt Nam đã chống trả mãnh liệt, khiến quân Trung Quốc phải rút về nước ngày 18/03/1979.

Thế nhưng nếu Trung Quốc hàng năm rầm rộ tổ chức kỷ niệm cái gọi là « cuộc chiến phản kích tự vệ quân xâm lược Việt Nam ở Quảng Tây », thì phía chính quyền Việt Nam lại hoàn toàn im lặng trong suốt hơn ba chục năm qua. Thậm chí các hoạt động tưởng niệm của một số nhân sĩ và công dân ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mới đây còn bị ngăn trở.

RFI Việt ngữ đã trao đổi về vấn đề này với Luật gia Lê Hiếu Đằng Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Luật gia Lê Hiếu Đằng – TP Hồ Chí Minh  24/02/2013 by Thụy My

RFI : Kính chào luật gia Lê Hiếu Đằng. Thưa ông, đã 34 năm qua trôi qua, nhưng cuộc chiến tran thểh biên giới 1979 vẫn ít được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông cũng như trong sách giáo khoa tại Việt Nam, như thể đây là một cuộc chiến « phi nghĩa » ?

Luật gia Lê Hiếu Đằng : Vừa qua chúng tôi có đưa ra lời kêu gọi cả nước có những hoạt động để tưởng nhớ những đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh để bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Có thể nói đây là một cuộc chiến do bành trướng Trung Quốc chủ động mở ra xâm lược, mà Đặng Tiểu Bình gọi là « cho Việt Nam một bài học ». Chính việc họ bất ngờ tấn công làm cho phía Việt Nam tổn thất khá nhiều, kể cả chiến sĩ và nhân dân. Nhưng rõ ràng là chiến sĩ và đồng bào ở các tỉnh biên giới chiến đấu rất là dũng cảm, và cuối cùng cũng đẩy lui được cuộc tiến công quân sự rất rầm rộ này của Trung Quốc. Họ tính là sẽ giành thắng lợi, nhưng cuối cùng phải rút lui.

Đây là một cuộc chiến đấu rất dũng cảm, đã bảo vệ được phần đất ở biên giới phía Bắc của tổ quốc chúng ta. Do đó sự hy sinh của đồng bào và chiến sĩ phải được ghi nhận, được tổ chức tưởng niệm hàng năm, chứ không thể nào lãng quên. Mà chúng ta nhớ là sau chiến tranh biên giới năm 1979, chúng ta đã đưa vào Hiến pháp Việt Nam « Trung Quốc là kẻ thù chính và trực tiếp ». Nhưng bây giờ thì lại hàng năm không kỷ niệm. Ví dụ năm nay chẳng hạn, nhà nước không có một hoạt động nào để tưởng niệm các đồng bào chiến sĩ đã hy sinh trong trận chiến biên giới năm 1979. Đến nỗi mà chúng tôi với tư cách công dân phải ra lời kêu gọi các địa phương trong cả nước, vì vậy tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng như Hà Nội và một số địa điểm khác cũng có tiến hành một số hoạt động. Nhưng mà điều tệ hại là lại bị ngăn cản.

Ở Thành phố Hồ Chí Minh thì không đến nỗi bị cản trở, nhưng sau đó không biết họ sợ cái gì mà họ lại đến gỡ bỏ chữ « Trung Quốc xâm lược », chỉ còn lại mấy cái vòng hoa ở tượng Đức Trần Hưng Đạo. Nhưng ở Hà Nội thì họ ngăn cản, làm cho những nhân sĩ trí thức và đại diện các tầng lớp nhân dân thủ đô do nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc dẫn đầu cũng không được vô khu vực Đài tưởng niệm chiến sĩ ở Hà Nội, phải đứng xa nhìn vào để tưởng niệm. Tôi cho đó là một việc làm hết sức là vô ơn bạc nghĩa.

Ai phải chịu trách nhiệm về việc này ? Và ai phải trả lời trước thanh niên về sự vô ơn đó ? Đây là một việc làm cần phải lên án. Lẽ ra nhà nước phải đứng ra tổ chức.

Như chúng ta đã biết, trong Hội nghị Thành Đô lúc ông Nguyễn Văn Linh còn làm Bí thư, tôi nghe nhiều người nói có cam kết là không nhắc lại chiến tranh biên giới. Tôi cho đây là một cam kết hết sức sai lầm. Tại sao với Pháp, với Mỹ, những trận như Điện Biên Phủ hay trận chiến trên không 12 ngày đêm thì chúng ta tổ chức kỷ niệm rầm rộ, nhưng đối với trận chiến biên giới năm 1979 thì chúng ta lại im lặng ? Như vậy chứng tỏ chúng ta không khách quan.

Lịch sử là lịch sử ! Trong thời điểm đó, nhà cầm quyền Trung Quốc có thể nói là rất phản động khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới phía Bắc của chúng ta. Đó là một giai đoạn lịch sử, chúng ta phải nhìn nhận, và phải nhắc nhở con cháu chúng ta nhớ mãi những hình ảnh này. Nhớ mãi cái dã tâm xâm lược của bọn bành trướng Bắc Kinh, để làm một bài học cảnh giác, không để cho những hành động như năm 1979 xảy ra nữa.

Chứ nếu nhà nước Việt Nam lờ đi và không có những hoạt động kỷ niệm để nhớ ơn những anh hùng liệt sĩ và đồng bào đã nằm xuống ở biên giới phía Bắc, thì đó là một hành động rất vô ơn, gây công phẫn, bất bình đối với nhân dân Việt Nam. Và nhân dân thế giới người ta cũng chê cười.

Ví dụ Liên Xô chẳng hạn. Người ta vẫn kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới năm 1960 giữa Trung Quốc và Liên Xô, tức là Nga bây giờ. Thế thì tại sao chúng ta lại không làm một cách công khai minh bạch ? Theo tôi, nếu Trung Quốc có nói thì chúng ta cần rõ ràng : cái giai đoạn đó anh sai lầm, và đã gây cho dân tộc tôi, cho đồng bào tôi ở một bộ phận lãnh thổ những cảnh đau thương tang tóc như vậy. Tôi có quyền – đầy đủ chủ quyền của một nước độc lập – để mà tiến hành các cuộc kỷ niệm đó !

Những nghĩa trang của chiến sĩ, đồng bào ở biên giới phía Bắc đến ngày thương binh liệt sĩ, theo tôi biết là cũng không có một vòng hoa viếng ! Việc này làm cho người dân không thể nào hiểu nổi vì sao lại có sự im lặng đáng sợ như vậy. Trong đợt 17/2 vừa qua, trên mạng nhiều cán bộ chiến sĩ, nhiều anh em đã chiến đấu cũng nói lên nỗi niềm đó. Người ta đã hy sinh biết bao xương máu để rồi bây giờ nhà nước lại làm ngơ, không tiến hành những hoạt động để tưởng nhớ đến những người đã nằm xuống. Đó là một điều không thể chấp nhận được !

RFI : Chính quyền Việt Nam không chỉ im lặng mà còn ngăn trở các hoạt động tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới 1979, theo ông có thể giải thích thái độ đó như thế nào ?

Tôi cho có thể giải thích là : Họ sợ Trung Quốc. Nhưng một chính sách ngoại giao hòa hiếu có nghĩa là phải trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Chứ không thể nào chúng ta lại sợ đến nỗi mà không kỷ niệm một giai đoạn lịch sử một cách khách quan như vậy, sợ là Trung Quốc có phản ứng thế này thế kia. Tôi nghĩ là chúng ta phải đủ bản lĩnh để trả lời nếu Trung Quốc đặt vấn đề khi chúng ta kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, và có trách nhiệm trước dân để trả lời với ban lãnh đạo Bắc Kinh. Không có gì phải sợ hãi cả. Đó là điều rất bình thường, bởi vì lịch sử là lịch sử.

Có nhiều người đề nghị là phải đưa giai đoạn chiến tranh biên giới vào sách sử cho các em, các cháu học. Đó là vấn đề giáo dục truyền thống mà các vị lãnh đạo Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thường nhắc nhở. Thế thì rõ ràng cuộc chiến tranh biên giới với thắng lợi rất là oanh liệt như vậy, tại sao không đưa vào sử sách để giáo dục truyền thống ? Chẳng những im lặng mà lại cản trở nữa, thì đó là một việc làm hoàn toàn không đúng đắn. Nói cách khác là trái với đạo lý của những người đang sống, được sống nhờ sự hy sinh xương máu của những đồng bào, chiến sĩ đã nằm xuống.

RFI : Nhìn một cách tổng quát, phải chăng đã đến lúc phải xác định bạn và thù, trong cục diện địa chính trị mới ?

Vấn đề theo tôi là tình hình thế giới đã thay đổi. Cuộc chiến tranh lạnh không còn nữa, và vấn đề ý thức hệ không còn như trước nữa. Bởi vì ngay một nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu thì cũng đã sụp đổ. Thế thì chúng ta phải nhận thức lại một số vấn đề căn bản hiện nay, trong đó có chính sách ngoại giao. Ví dụ nhà nước chúng ta cũng nêu chính sách ngoại giao là đa phương hóa đối với các nước, thế thì tình hình hiện nay rất là thuận lợi. Có thể nói đây là thời cơ để chúng ta thực hiện chính sách ngoại giao đó.

Có nghĩa là chúng ta không dựa vào Trung Quốc, và không sợ Trung Quốc, bởi vì chúng ta được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, trong đó có nhiều nước thuộc khối ASEAN, rồi Nhật Bản, Hàn Quốc, kể cả Mỹ. Tôi nghĩ là thái độ chúng ta phải rõ ràng. Chúng ta không dựa vào nước nào để chống nước nào, nhưng vì lợi ích của dân tộc, lợi ích của đất nước, phải có thái độ là nếu ai tốt với chúng ta, không xâm lược ta thì chúng ta phải đứng về phía họ để chống lại bọn xâm lược, để bảo vệ.

Chứ thật ra bây giờ về mặt quân sự mà nói thì Việt Nam chúng ta với một nền kinh tế như thế này dù có trang thiết bị quân sự tối tân đến đâu cũng không đủ sức. Mà cái thế của chúng ta là cái thế lòng dân – đang sôi sục phẫn nộ trước những hành động xâm lược của Trung Quốc. Và cái thế thứ hai là cái thế của quốc tế, của thời đại.

Hiện nay dòng chảy của thời đại là xu thế dân chủ tiến bộ trên toàn thế giới. Mà Trung Quốc thì ngược lại – một nước trỗi dậy về mặt kinh tế nhưng đồng thời lại có những hành động có thể nói là hết sức xấc láo : xâm lược, đe dọa nước này nước kia. Thì tôi nghĩ là họ phải bị cô lập.

Vì vậy mà chúng ta phải có một đường lối rõ ràng, chứ không thể nào cứ mập mờ như thế này. Sẽ bỏ qua mất thời cơ để chúng ta dứt khoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc, để trở thành một nước độc lập thực sự, một nước có nền ngoại giao bình đẳng với tất cả các nước. Trên cơ sở đó chúng ta không phải sợ một ai cả. Chúng ta đủ bản lĩnh để mà quan hệ với tất cả các nước một cách bình đẳng, để bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

RFI : Nếu chiến tranh với Trung Quốc nổ ra, thì theo ông Việt Nam có thuận lợi và bất lợi gì so với năm 1979 trước đây ?

Trước hết, theo tôi nghĩ chúng ta phải hết sức tránh xảy ra chiến tranh. Bởi vì đất nước Việt Nam cũng đã trải qua nhiều năm chiến tranh rồi. Và nói như nhà thơ Nguyễn Duy, trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, thì thất bại cũng là nhân dân mà thôi. Do đó phải hết sức tránh chiến tranh.

Nhưng tôi đánh giá tình hình hiện nay khác với năm 1979 ở chỗ là, năm 1979 chúng ta đang bị cô lập, trong khi hiện nay chúng ta đã là thành viên của khối ASEAN và là thành viên của nhiều định chế khác nữa. Hơn nữa, trào lưu tiến bộ, trào lưu dân chủ trên thế giới hiện nay đang bao trùm.

Vì vậy với tình hình như thế này, theo tôi Trung Quốc họ cũng không dại gì mà gây chiến với chúng ta. Hơn nữa, tình hình nội bộ của họ cũng rất rối ren, và kinh tế cũng vậy. Họ phát triển nóng, thành ra họ đứng trước những khó khăn về nguyên liệu, về đủ thứ chuyện, chứ không phải suông sẻ. Tình hình quốc nội và quốc tế của Trung Quốc không cho phép họ tiến hành một cuộc chiến tranh như năm 1979.

Còn nếu vạn bất đắc dĩ, họ lấn lướt, ép chúng ta, rồi có thể cuối cùng họ đi đến một cuộc chiến tranh cục bộ, ví dụ đánh chiếm đảo, thì chúng ta cũng phải cương quyết bảo vệ. Và lúc đó chúng ta cũng phải kêu gọi các nước trên thế giới ủng hộ cuộc chiến đấu của chúng ta.

Nhất là lúc đó Trung Quốc sẽ phải lòi mặt ra. Nó cũng có cái lợi là để giới lãnh đạo Việt Nam thấy được cái bản chất, thấy được cái bộ mặt thật của Trung Quốc là như thế nào, để từ đó mà không còn « bốn tốt, mười sáu chữ vàng ». Để Trung Quốc bộc lộ cái bộ mặt họ ra ! Chứ còn tôi nghĩ chiến tranh lớn thì khó xảy ra, và chúng ta hết sức tránh.

RFI : Có lẽ giới lãnh đạo Việt Nam không phải là không biết bộ mặt thật của Trung Quốc, nhưng nhiều khi đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi đất nước ?

Thì họ có thấy, nhưng mà theo tôi, họ thấy chưa đầy đủ. Bởi vì đúng là bị chi phối bởi quyền lợi cá nhân, của gia đình, và nhất là họ không đặt lợi ích của đất nước, của Tổ quốc lên trên. Họ sợ nếu mà không dựa vào Trung Quốc thì sẽ sụp đổ chế độ.

Nhưng nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không nắm ngọn cờ dân tộc, không nắm ngọn cờ dân chủ, thì chính tự bản thân mình gây khó cho mình. Tự bản thân mình sẽ tạo những điều kiện để đi đến chỗ suy yếu, rồi mất lòng dân, và sụp đổ, nếu không chịu thay đổi.

Vì vậy vừa rồi chúng tôi, một số nhân sĩ đã soạn dự thảo Hiến pháp 2013 để mong Đảng và Nhà nước Việt Nam thấy được cái tình hình này mà tự điều chỉnh. Tự thoát khỏi những hạn chế vì quyền lợi cục bộ của mình, để đặt lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân lên trên, và có những thái độ căn cơ để từ đó làm cho đất nước Việt Nam nhanh chóng phát triển và hòa nhập chung với dòng chảy tiến bộ và dân chủ hiện nay trên thế giới.

Chúng tôi rất mong như vậy. Do đó cuộc đấu tranh hiện nay của nhân sĩ trí thức hay các tầng lớp đồng bào khác ở Việt Nam là đấu tranh bất bạo động, ôn hòa, dùng những biện pháp để thức tỉnh những người lãnh đạo ở Việt Nam thấy được các vấn đề của đất nước, của dân tộc như thế nào để tự điều chỉnh.

Có thể nói nếu Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện được điều đó, thì với cái quá khứ chống xâm lược thành công, và hiện nay nếu có chuyển đổi thuận lòng dân như vậy, thì uy tín vẫn giữ được. Còn nếu cứ đi theo con đường hiện nay là mất dân chủ, rồi tham nhũng, nội bộ đấu đá nhau theo kiểu đó, thì dần dần sẽ không còn chỗ đứng trong lòng dân tộc Việt Nam nữa.

Đó là cái nguy cơ mà họ thường nói là làm sụp đổ chế độ, chứ không ai khác. Chính họ là những người sẽ tự đào mồ chôn họ, nếu không thấy đây là thời cơ để thay đổi. Nếu mà để lỡ thời cơ một lần nữa, thì nguy cơ sụp đổ của chế độ sẽ ngày càng rõ ràng hơn. Mà chúng tôi thì không mong như vậy. Chúng tôi muốn là các vị lãnh đạo của Việt Nam sáng suốt, có sự thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với xu thế hiện nay trên thế giới, đặt lợi ích đất nước và dân tộc lên trên.

RFI : Trước đây những trận đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược có yếu tố lòng dân rất lớn như Hội nghị Diên Hồng chẳng hạn. Nhưng bây giờ sau những sự kiện như trấn áp các cuộc biểu tình chống hành động bành trướng của Bắc Kinh tại Biển Đông, thì không ít người yêu nước đã tỏ ra chán ngán. Trong trường hợp có xung đột với Trung Quốc, liệu người dân có một lòng ủng hộ chính quyền hay không ?

Tôi cho rằng chính các lãnh đạo Việt Nam phải suy nghĩ về điều đó. Nếu xảy ra chiến tranh dù là với bất cứ nước nào kể cả Trung Quốc thì ai là người sẽ cầm súng ? Ai sẽ là người đứng ra bảo vệ đất nước ? Chỉ có dân thôi, chứ không phải mấy ông lãnh đạo – trong đó có thanh niên. Thế thì vấn đề ở chỗ là nếu làm cách nào đó, cái nhuệ khí, cái niềm tin họ đã mất nơi người lãnh đạo, thì tất nhiên sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức chiến đấu khi bị xâm lược.

Nhưng tôi vẫn tin rằng, như lịch sử chúng ta đã chứng minh, là trong tình hình như vậy sẽ xuất hiện người lãnh đạo. Sẽ xuất hiện những vị anh hùng để lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên chống bọn xâm lược mới dù là ở đâu – ví dụ bọn bành trướng Bắc Kinh chẳng hạn. Sẽ xuất hiện những người yêu nước. Ngay trong quân đội nhân dân Việt Nam cũng sẽ xuất hiện những vị tướng để có thể đứng ra lãnh đạo cuộc chiến đấu này.

Tôi nghĩ là không phải ai cũng bán mình cho quỷ sứ cả, mà sẽ còn những người căn bản là tốt, người tốt trong nhà nước, cùng với nhân dân chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Bởi vì cái truyền thống của dân tộc Việt Nam là như vậy. Khi có xâm lăng sẽ đoàn kết lại với nhau chiến đấu để mà chiến thắng kẻ thù.

RFI : Xin chân thành cảm ơn luật gia Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.

Ông Bạc Hy Lai ‘tuyệt thực để phản đối’

Bạc Hy Lai từng là một trong những chính trị gia quyền lực nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc, được lòng dân và đầy tham vọng.

Bị cách chức hồi năm ngoái và hiện bị giam ở một nơi bí mật, ông đã tuyệt thực để phản đối.

Hãng tin Reuters nói ông Bạc khước từ việc hợp tác với các điều tra viên quanh cáo buộc tham nhũng và lạm quyền.

Dẫn lời hai nguồn giấu tên có quan hệ với gia đình ông Bạc, Reuters nói ông Bạc đã tuyệt thực hai lần kể từ khi bị giam giữ.

Một nguồn nói ông đã bị buộc phải tiếp nhận thức ăn và đã được đưa tới bệnh viện ở Bắc Kinh để điều trị.

Nguồn thứ hai nói thêm rằng ông Bạc từ chối trả lời các câu hỏi của cơ quan điều tra, và không cạo râu, cho nên nay râu ông đã dài tới ngực.

Hiện vẫn chưa hề có các lời buộc tội chính thức đối với ông trước công chúng, không có trình tự pháp lý mà chỉ có các cáo buộc nặng nề trên truyền thông nhà nước, theo đó nói ông tham nhũng lan tràn, lạm quyền và có nhiều bồ nhí. Ngày mở phiên tòa xử ông cũng chưa được xác định.

Vụ Dương Chí Dũng thoát lưới: Cục phó bộ CA bị bắt

CTV Danlambao – Liên quan đến vụ án Dương Chí Dũng, Cổng Thông tin Điện tử Bộ Công an vừa phát đi bản tin ngắn về việc bắt giam Dương Tự Trọng, cựu phó giám đốc CA TP. Hải Phòng vào hôm 22/2/2013.

Ông Dương Tự Trọng là em ruột ông Dương Chí Dũng, cấp bậc đại tá, bị khởi tố điều tra về hành vi tổ chức người khác trốn đi nước ngoài theo điều 275 Bộ luật hình sự.

Thời điểm Dương Chí Dũng trốn thoát, đại tá Dương Tự Trọng khi ấy là Phó giám đốc, Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra CA TP. Hải Phòng. Sau khi Dương Chí Dũng bị tóm, vụ việc có nguy cơ bại lộ nên ‘bố già’ Nguyễn Văn Hưởng đã đưa ông Trọng về Bộ CA giữ chức Cục phó Cục Cảnh sát quản lí hành chính về trật tự xã hội vào cuối năm 2012.

Việc đưa một kẻ vi phạm về bộ CA giữ chức vụ cao cũng là âm mưu của ‘bố già’ Hưởng nhằm tạo ô dù bao che cho phe cánh, khiến không ai dám đụng đến. Tuy nhiên, quyền lực của ông tướng về hưu Nguyễn Văn Hưởng đã không còn đủ mạnh để cứu đàn em trước những đòn triệt hạ lẫn nhau của các phe nhóm trong đảng.

Trích bản thông báo từ Cổng Thông tin Điện tử Bộ CA:

“Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an bắt đối tượng liên quan vụ án Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài 

Liên quan đến vụ án “Trần Văn Dũng cùng đồng bọn tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”. Ngày 22/2/2013, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã thực hiện bắt, tạm giam đối với anh Dương Tự Trọng, sinh năm 1961, hiện công tác tại Tổng cục VII- Bộ Công an có hành vi phạm tội quy định tại Điều 275- Bộ luật Hình sự Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 


Trung tâm Thông tin báo chí” 

Bản thông báo trên trang web bộ CA http://www.mps.gov.vn gọi đây là vụ án mang tên Trần Văn Dũng cùng đồng bọn tổ chức người khác trốn đi nước ngoài”. Hiện không rõ nhân vật bị coi là cầm đầu vụ án mang tên Trần Văn Dũng là ai, đang giữ vị trí nào trong bộ máy nhà nước.

Trước đó, một người em rể của ông Dương Chí Dũng là đại tá Nguyễn Bình Kiên, phó giám đốc CA TP. Hải Phòng cũng đã bị khai trừ Đảng. Hình thức kỷ luật này có thể đặt dấu chấm hết cho con đường quan lộ của đại tá Kiên.

Cũng liên quan đến vụ trốn thoát của ông Dương Chí Dũng, đến nay đã có tổng cộng 7 người bị khởi tố (nếu không tính đến nhân vật bí ẩn Trần Văn Dũng). Trong số này, có đến 5 người là công an đang giữ những chức vụ có máu mặt trong bộ máy.

Từ khi bị bắt và dẫn độ về Việt Nam, mọi thông tin liên quan đến Dương Chí Dũng vẫn còn đang trong vòng bí ẩn. Lần gần đây nhất, có tin nói rằng ông Dương Chí Dũng đã bị áp giải ra Hà Nội nhằm phục vụ cho cuộc đấu đá chính trị giữa lúc Hội nghị 6 họp bí mật.

Ngoại trường Hoa Kỳ John Kerry: kẻ thù của miền Nam, đồng minh của miền Bắc trong cuộc chiến Việt Nam?

 

Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao) – Trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn vì chủ nghĩa cộng sản xảy ra tại hai miền Việt Nam, 1954-1975, John Kerry là một người hai mặt: trước là một quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam trong những năm 1969 – 1970, rồi sau đó là người hoạt động rất tích cực chống lại sự trực tiếp tham gia quân sự tích cực của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam chống lại sự bành trướng của chế độ cộng sản quốc tế.
 

Trong thời gian phục vụ tác chiến ông đã được tưởng thưởng huy chương Trái Tim Tím (Purple Heart) do hành động gan dạ cứu thoát một đồng đội bị trọng thương. Tuy nhiên việc ông có thực sự có hành động dũng cảm trong những cuộc hành quân trên các chiến thuyền giang đỉnh để xứng đáng nhận huy chương này cũng bị các đồng đội của ông phản bác.

Là một luật sư từng học tại đai học nổi tiếng Yale, ông có đủ trình độ phân biệt thị phi giữa hai chế độ tư bản và cộng sản, nhất là nhanh chóng nắm bắt suy nghĩ của dân chúng Mỹ. Việc ông xoay ngược 180 độ, nhanh chóng và tích cực lao vào công tác chống lại sự tham chiến của Hoa Kỳ trong lúc phong trào này phát triển mạnh tại Hoa Kỳ và chính quyền Nixon đang có kế hoạch bỏ rơi miền Nam Việt Nam để nắm bắt nước Tàu, một thị trường với hơn một tỷ người, có vẻ có hương vị của một kế hoạch bước vào con đường hoạt động chính trị của ông ta.

Trong hơn 40 năm qua, tham vọng chính trị của ông càng lúc càng cao. Đỉnh điểm cao nhất là khi ông chính thức đứng ra tranh giành chức ứng cử viên Tổng Thống của đảng Dân Chủ năm 2004.

Đối với cuộc chiến tại Việt Nam, trong khi những người đã từng phản đối một cách thiên vị đứng về phía chế độ cộng sản miền Bắc trước ngày 30/04/1975 đã nhanh chóng thức tỉnh – tài tử Jane Fonda, nữ ca sĩ Joan Beaz… – nhưng John Kerry vẫn trước sau như một: chống!

Tuyệt đại đa số dân chúng cả nước Việt Nam từ lâu đã “tỏ tường” về cuộc chiến ý thức hệ phi lý tại đất nước bất hạnh của mình mà trong đó hằng triệu người Việt đã phải chết thế thân để hoàn thành nhiệm vụ do đàn anh cộng sản Liên Xô và Tàu giao phó trong cuộc chiến này và tiếp tục bị bức hại ngay cả trong nhiều năm sau khi cuộc chiến kết thúc, khi cả nước nằm dưới sự cai trị chuyên chính của đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng trong buổi giãi trình cho chức vụ Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao của mình trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 24/01/2013, John Kerry vẫn tiếp tục giọng điệu ngoan cố của thời kỳ 1970 khi trả lời một câu chất vấn về liên quan đến cuộc chiến tại Việt Nam.

Mời quí độc giả xem đoạn phim tài liệu do đài truyền hình ABC phổ biến được chúng tôi phụ đề tiếng Việt để biết thêm về con người John Kerry với Việt Nam.

Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam

danlambaovn.blogspot.com

______________________________________

Tài liệu tham khảo:

http://www.nbcnews.com/id/5765243/ns/msnbc_tv-about_msnbc_tv

GEORGE ELLIOTT, LT. COMMANDER, 2 BRONZE STARS: John Kerry has not been honest about what happened in Vietnam. (John Kerry đã không trung thực về việc gì đã xảy ra tại Việt Nam)

AL FRENCH, ENSIGN, TWO BRONZE STARS: He is lying about his record. (Ông ta đã nói dối về hồ sơ của ông)

LOUIS LETSON, MEDICAL OFFICER, LT. COMMANDER: I know John Kerry is lying about his first Purple Heart because I treated him for that injury. (Tôi biết rõ John Kerry đang nói dối về việc nhận huy chương Tim Tím vì vết thương đó)

http://en.wikipedia.org/wiki/John_Kerry#Media_appearances

Dự thảo Nghị định về phòng, chống tham nhũng: Chủ tịch nước có quyền tạm đình chỉ Phó Thủ tướng?

Dự thảo Nghị định về phòng, chống tham nhũng: Chủ tịch nước có quyền tạm đình chỉ Phó Thủ tướng?

Hà Nhân (TP) – Thanh tra Chính phủ vừa công bố dự thảo Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng (PCTN) và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTN. Một quy định mới rất đáng lưu ý là trình tự, thẩm quyền tạm đình chỉ công tác đối với người có dấu hiệu tham nhũng.

Tạm đình chỉ không quá 30 ngày

Theo dự thảo, việc ra quyết định tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác được thực hiện khi có một trong các căn cứ sau: Có yêu cầu của cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát; tố cáo, phản ánh về tham nhũng có nội dung rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có căn cứ để tiến hành xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng; qua công tác tự kiểm tra phát hiện cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hành vi có dấu hiệu tham nhũng; qua công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát hiện cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản nhà nước hoặc thi hành công vụ.
Về thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác, quyết định tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với Thứ trưởng và các chức vụ tương đương, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh và cán bộ, công chức, viên chức do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp bổ nhiệm.
Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; trong thời gian Quốc hội không họp thì trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác, quyết định tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác, quyết định tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp huyện…
Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày phát hiện cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan tham nhũng hoặc khi nhận được yêu cầu của cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức ra quyết định tạm đình chỉ công tác, quyết định tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức đó để xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng nếu xét thấy người đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý.
Thời hạn tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác không quá 15 ngày, trường hợp cần thiết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 30 ngày…

Được hưởng 50% lương

Trong thời gian tạm đình chỉ công tác để xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng, cán bộ, công chức, viên chức vẫn được hưởng 50% của mức lương theo ngạch, bậc hiện hưởng, cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề và hệ số chênh lệch bảo lưu lương (nếu có).
Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức không có hành vi tham nhũng thì được truy lĩnh 50% còn lại trong thời gian tạm đình chỉ công tác và được trở về vị trí việc làm cũ.
Thanh tra Chính phủ cũng đã hoàn thiện dự thảo Nghị định về minh bạch tài sản và thu nhập. Dự thảo nghị định lần này đề cao hơn nguyên tắc tự kê khai, tự chịu trách nhiệm của người có nghĩa vụ kê khai.
Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập phải tự xác định tài sản, giá trị tài sản phải kê khai và tự chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình. Tài sản phải kê khai được xác định theo giá gốc.

‘Thắng Mỹ rồi khổ vì muốn giống Mỹ’

Hệ thống kinh tế – chính trị ở Việt Nam là ‘vừa tư bản, vừa cộng sản’

Một trí thức Mỹ vừa có bài nói nước Việt Nam cộng sản ‘thắng Mỹ’ để rồi lại muốn ‘giống Mỹ’ về kinh tế và cũng đang gặp đầy vấn đề từ nợ tín dụng tới thất nghiệp.

Phó Giáo sư Bấm Gary McDonnell từ Đại học North Michigan (NMU) có bài ngắn trên báo ở Mỹ chia sẻ quan điểm của ông về quan hệ Mỹ – Việt thông qua mấy chiếc ghế ‘Made in Vietnam’ vợ chồng ông mua về nhà ở Hoa Kỳ qua mạng Amazon.com.

Lấy đó là ý ẩn dụ cho quan hệ tình cảm của người Mỹ với nước Việt Nam thông qua cuộc chiến tranh và nay là kinh tế, ông McDonnell đặt câu hỏi vậy nước Việt Nam ngày nay là gì.

“Việt Nam nay là tư bản hay cộng sản?”

Ông nói ông tự tìm hiểu một chút, và nhận xét Việt Nam không thuộc loại nào.

“Sau chiến tranh, những người cộng sản Việt Nam lập ra chế độ kiểm soát tài sản và thương mại hà khắc, gây ra hậu quả là đói nghèo lan ra, và sự đau khổ của người dân Việt Nam…”

“Giới có học bỏ nước ra đi. Và phải đến thập niên 1990 chính quyền mới mời gọi đầu tư nước ngoài và có động thái tiến dần đến tự do hóa kinh tế.”

‘Tư bản bè phái’

“Vì việc áp dụng luật tùy tiện, đầu tư nước ngoài trở nên ngần ngại, và thanh niên ngày càng khó kiếm việc”

Thế nhưng, theo ông Gary McDonnell, tiến sỹ môn kinh tế học, thì thể chế chính trị Việt Nam vẫn là cộng sản.

“Nước này vẫn là cộng sản, vẫn ngăn chặn ngôn luận và báo chí, và có một khu vực kinh tế lớn là do nhà nước nắm,”

Ông trích báo New York Times nhận xét rằng các vấn đề của Việt Nam là của một thứ “chủ nghĩa tư bản bè phái với ít nhiều màu sắc cộng sản”.

Nhưng giống như ở Trung Quốc, chính quyền cho tư nhân làm chủ một số khu vực doanh nghiệp.

Nhờ kinh tế cởi mở hơn, người dân Việt Nam được hưởng lợi nhưng nhiều vấn đề mang tính thể chế cũng xuất hiện và trở nên ngày một nghiêm trọng.

Ngoài các vụ đầu cơ địa ốc, xây cất bất động sản, nay mức nợ không trả nổi trong khu vực kinh tế nhà nước cho thấy “nguồn tài nguyên vẫn bị kiểm soát bởi chính phủ tham nhũng và bất tài”, theo tiến sỹ McDonnell.

“Vì việc áp dụng luật tùy tiện, đầu tư nước ngoài trở nên ngần ngại, và thanh niên ngày càng khó kiếm việc.”

Theo ông, hóa ra câu chuyện cũng khá quen thuộc với người Mỹ khi chính họ cũng gặp cảnh nợ tín dụng, cứu trợ tài chính, thất nghiệp và đầu tư sai mấy năm qua.

Đây là điểm trớ trêu, theo Gary McDonnell, vì “dù đã ‘chiến thắng’ nhưng người Việt Nam lại cuối cùng đi ôm vào một hệ thống kinh tế với các vấn đề chẳng mấy khác của Hoa Kỳ.

Chúng tôi tưởng niệm đồng bào chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến đấu chống xâm lược Trung Cộng

Hoàng Hưng, BVN

Gặp nhau tay bắt mặt mừng

Tối qua, được cú phôn của Lưu Trọng Văn: “Ngày mai 8 giờ tại tượng Trần Hưng Đạo…”. Cảm ơn anh đã nhắc. Không phải ai cũng nhớ ngày này 34 năm trước (17/2/1979) triều đình Trung Cộng đã xua nửa triệu quân bất thần xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía bắc nước ta. Không nhớ ngày ấy, tôi cũng đáng trách y như nhiều người chúng ta đã bị những chuyện vụn vặt hàng ngày che lấp mối nguy vẫn đe dọa độc lập, chủ quyền của đất nước trong suốt ngàn năm. Vô cùngcảm ơn các vị nhân sĩ, trí thức luôn ý thức nhắc nhở toàn dân về mối nguy đó, cũng như về lòng tri ân các liệt sĩ, lòng yêu thương những đồng bào đã ngã xuống trong các cuộc chiến mà bọn Trung Cộng tham tàn gây ra chống lại nhân dân ta. Chỉ vì sự quên lãng này mà những người lãnh đạo quốc gia đã đưa cả dân tộc dấn sâu từng bước vào cái thòng lọng “16 chữ vàng” đang ngày càng siết chặt cổ họng mình. Chỉ vì sự quên lãng này mà bao nhiêu người dân chỉ vì món lợi nhỏ mọn trước mắt đã vô tình tiếp tay cho bọn bành trướng áp đảo nền kinh tế non yếu, thôn tính cả đời sống văn hóa của nước nhà.

Nhà tôi ghé chợ Tân Mỹ chọn kỹ lưỡng hai bó hoa thật đẹp. Sau một lúc tự hỏi vì sao hai bó, tôi chợt hiểu. Nhà tôi nhớ đến hai người em trai út của mình đã hy sinh, một em ở biên giới phía Nam năm 1978, một em ở biên giới phía Bắc năm 1984. Đều là tội ác trực tiếp và gián tiếp của Trung Cộng.
Gần 8 giờ mà khu vực tượng Trần Hưng Đạo trên bến Bạch Đằng không thấy bóng ai. Điện thoại hỏi lại Văn. Thì ra mọi người lác đác tới nhưng đều “ém” trong các quán cà phê quanh đấy, để đúng 8 giờ 30 mới bất ngờ tập hợp và trưng ra các vòng hoa tưởng niệm. Thật xót xa cay đắng. Có thể nào trên một đất nước độc lập, lòng yêu nước lại phải hoạt động bí mật thế này?
clip_image004
clip_image006
Ngồi chờ đến giờ G
Quán “Vườn Kiểng” bên sông là nơi tập kết cuối cùng. GS Tương Lai chống gậy bước vào cùng với GS Chu Hảo vừa từ Thái Lan về đêm qua. Rồi các cựu lãnh tụ sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Huỳnh Kim Báu; luật sư Trần Quốc Thuận, nhà văn Phạm Đình Trọng, PGS TS Vũ Trọng Khải, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng Kha Lương Ngãi, TSKH Phạm Văn Đỉnh, kỹ sư Tô Lê Sơn, nhà văn Bùi Bình Triết, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thị Khánh Trâm, nhà giáo Lê Khánh Đắc, PGS TS Hoàng Dũng… Đây rồi, anh Cao Lập và các anh các chị đem vào những vòng hoa và bắt đầu cài lên những bảng chữ được giấu kỹ trước đó: “Tưởng nhớ đồng bào chiến sĩ đã hy sinh chống Trung Quốc xâm lược”, “Đời đời nhớ ơn anh hùng liệt sĩ chiến tranh biên giới phía Bắc 1979”, đầy đủ nhất là “Tưởng nhớ những người con yêu của Tổ quốc đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc tại biên giới phía Bắc, biên giới phía Nam, tại Hoàng Sa, Trường Sa”. clip_image008
Chuẩn bị khẩu hiệu
clip_image010
Bắt đầu đi
Đúng 8 giờ 30, mọi người từ quán kéo ra, sang vườn hoa Đức Trần Hưng Đạo. Được biết, mấy hôm trước, mấy anh khởi xướng bàn nhau xem nên tập họp ở đâu. Thoạt có người muốn đến tượng Hồ Chí Minh ở trung tâm thành phố, nhưng đa số phản đối, muốn tìm một biểu tượng của cả dân tộc trong lịch sử chống xâm lăng Trung Quốc (nếu là nhân vật đương đại, thì Lê Duẩn xem ra có thể được, nhưng… không ai từng thấy có tượng ông này ở đâu!). Cuối cùng Đức Thánh Trần, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn là biểu tượng oai hùng bậc nhất của chiến thắng Bắc xâm, cũng là tiêu biểu cho triều đại (nhà Trần) của tinh thần Diên Hồng toàn dân một lòng Sát Thát.
clip_image012
Đến tượng đài Trần Hưng Đạo
clip_image014
clip_image015
Trước tượng đài Đức Thánh Trần
Các vòng hoa, các bó hoa tươi thắm như tấm lòng của chúng tôi tưởng nhớ đến các cô chú, các anh chị, các em, các cháu hiền lành vô tội đã ngã xuống trên mảnh đất quê hương Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn… năm ấy dưới hòn đạn, lưỡi dao hung bạo của bọn lang sói mặt người, tưởng nhớ đến các anh các chị dân quân địa phương đã anh dũng chống trả một lực lượng lấy thịt đè người, tưởng nhớ đến anh em chiến sĩ đã lấy máu mình giữ từng tấc đất tấc biển của ông cha ở Vị Xuyên (Hà Giang), Tràng Định (Lạng Sơn), biên giới Cao Bằng, các đảo Cô Lin, Gạc Ma… (Trường Sa), đảo Hoàng Sa, biên giới Tây Nam. Xin các cô chú, anh chị em, các cháu nhận lấy lòng thành của chúng tôi và hãy tin rằng sự hy sinh của các vị không bao giờ bị quên lãng, xin hãy tin rằng sẽ đến một ngày sự hy sinh cao cả ấy được vinh danh công khai long trọng trên toàn đất nước một khi những kẻ hèn nhát và vô ơn phải cúi đầu trước uy vũ của toàn dân.
clip_image017
clip_image019
clip_image021
clip_image023
Đúng lúc mọi người xếp hàng bên các vòng hoa chụp ảnh kỷ niệm thì bất ngờ tất cả các cột nước ở bể nước dưới chân tượng Đức Trần tung lên cao trắng xóa như hưởng ứng! Đây là sự ủng hộ ngầm của những người phụ trách công viên hay sự tình cờ tuyệt đẹp, hay có gì mang yếu tố tâm linh?
Cũng là lúc mấy tay chụp ảnh quay phim lạ mặt xông vào “tác nghiệp”, đồng thời từ xa xa tiến lại mấy khuôn mặt, những kẻ “ai cũng biết là ai”.
GS Tương Lai tiến lên trước, dõng dạc tuyên bố ngắn gọn lý do buổi tưởng niệm: “17.2.1979 là ngày quân xâm lược Trung Quốc theo lệnh của Đặng Tiểu Bình, trắng trợn trở mặt, phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chúng đã huy động 9 quân đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng phụ trợ khác ước tính hơn nửa triệu quân với hơn 500 xe tăng, hơn 2000 khẩu pháo, tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, sát hại dân lành, đốt phá nhà cửa, cầu, đường, cướp bóc tài sản. Quân và dân ta đã ngoan cường chiến đấu, chống trả quyết liệt, đánh những đòn quyết định buộc chúng phải tuyên bố rút quân, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược nhục nhã, hàng chục ngàn chiến sĩ ta đã dũng cảm hy sinh…”. Và ông đề nghị mọi người để một phút cúi đầu tưởng niệm đồng bào chiến sĩ đã ngã xuống trong các trận chiến đấu chống xâm lược Trung Quốc suốt từ 1979 đến cuối thập kỷ 1980.
clip_image024
GS Tương Lai dõng dạc tuyên bố lý do buổi tưởng niệm
clip_image026
Một phút mặc niệm
clip_image028
Luật sư Trần Quốc Thuận
clip_image029
Từ trái qua: Cao Lập, vợ chồng nhà văn Hoàng Hưng, Hoàng Dũng
Mọi người lại kéo nhau sang quán chuyện trò sau lễ tưởng niệm. Tôi ở lại xem diễn biến “hậu tưởng niệm”. Nhận ra ngay một “người quen” ở an ninh thành phố, từng “làm việc” với mình mấy buổi, từng đi theo mình suốt buổi sáng một cuộc biểu tình không thành ở trung tâm thành phố. Tôi chủ động hỏi: “Các anh có tính dẹp những vòng hoa này không?”. Anh hỏi lại tôi: “Theo anh thì sao?”. Tôi đáp ngay: “Sao lại dẹp? Đây là lòng dân, người dân làm cái việc mà nhà nước không làm được, thế là giúp nhà nước đấy!”. Nhưng trong lúc ấy, một anh bảo vệ đã tiến đến gỡ tấm giấy lớn nhất trên vòng hoa ở chính giữa. Đang đứng chụp cận cảnh các vòng hoa, nhà tôi lấy ngay lại và cắm lại, anh không phản ứng. Nhưng hai thanh niên ăn mặc kiểu “tay chơi” nhanh nhẹn tiến đến giằng lấy rồi gỡ tất cả các bảng giấy khác, cuộn lại và bỏ đi ngay lập tức. Người cán bộ an ninh đứng nhìn như vô can. Trước khi bỏ đi, anh còn nói như phân bua: “Chúng ta đều là người Việt Nam mà!”.
clip_image031
“Lực lượng chức năng” quan sát từ xa
clip_image033
Rồi tiến tới tượng đài Đức Thánh Trần
clip_image035
Gỡ những băng giấy ghi khẩu hiệu
clip_image037
Hội ý
clip_image039
Đem băng giấy đi
Chúng ta đều là người Việt Nam. Nhưng có một lằn ranh giữa người Việt Nam yêu nước và người Việt Nam không yêu nước. Tôi thầm chúc cho anh và những đồng nghiệp của anh không vì bất cứ lý do gì để mình vô tình bước qua lằn ranh ấy!
H. H.

Ông Lý Quang Diệu cảnh báo về TQ

Ông Lý Quan gDiệu (giơ tay, giữa)Ông Lý Quang Diệu (giữa) tin rằng TQ sẽ không có cải cách dân chủ

Trung Quốc phải tránh những sai lầm của Đức và Nhật Bản trong thế chiến hai trong cuộc cạnh tranh siêu cường hiện nay, đó là lời cảnh báo của cựu Thủ tướng Singapore, Lý Quang Diệu trong một cuốn sách mới ra.

Ông Lý năm nay 89 tuổi cho rằng Trung Quốc cũng cần phải tránh bài học của Nga Xô trong chạy đua vũ trang, tránh đối đầu với Mỹ, và dự đoán Trung Quốc và giới lãnh đạo mới sẽ không lựa chọn một thể chế cho phép tự do dân chủ.

Trong cuốn sách “Lý Quang Diệu: Cái nhìn về Trung Quốc, Mỹ và Thế giới của một bậc thầy”, của các tác giả Graham Allison, Robert Blackwill và Ali Wyne, dựa trên các cuộc phỏng vấn với ông và các tư liệu, ông Lý được trích dẫn nói:

“Trung Quốc phải tránh sai lầm của Đức và Nhật. Cuộc cạnh tranh quyền lực, ảnh hưởng và các nguồn tài nguyên của họ trong thế kỷ trước đã dẫn tới hai cuộc chiến khủng khiếp.

“Sai lầm của Nga là đã chi phí quá nhiều vào quân sự mà quá ít vào công nghệ dân sự cho nên kinh tế đã sụp đổ.”

Ông Lý cảnh báo về thất bại của Trung Quốc nếu chạy đua với người Mỹ. Ông nói:

“Tôi tin rằng lãnh đạo Trung Quốc đã học được rằng nếu bạn chạy đua vũ trang với Mỹ, bạn sẽ thất bại. Bạn sẽ tự phá sản. Do vậy nên khiêm tốn, cười thầm trong vòng 40 hoặc 50 năm nữa.”

‘Không chọn dân chủ’

“Trung Quốc sẽ đuổi kịp Mỹ về tổng sản phẩm quốc nội tuyệt đối. Nhưng tính sáng tạo của nó sẽ không bao giờ theo kịp người Mỹ bởi vì văn hóa của nó không cho phép sự trao đổi tự do và thách đố giữa các ý tưởng”

Lý Quang Diệu

Tin vào khả năng cường quốc hàng đầu thế giới của Trung Quốc, cựu Thủ tướng Singapore dự đoán:

“Trung Quốc sẽ đuổi kịp Mỹ về tổng sản phẩm quốc nội tuyệt đối. Nhưng tính sáng tạo của nó sẽ không bao giờ theo kịp người Mỹ bởi vì văn hóa của nó không cho phép sự trao đổi tự do và thách đố giữa các ý tưởng.”

Nhà cựu lãnh đạo được cho là còn có ảnh hưởng tại châu Á và Đông Nam Á cho hay ông không tin vào một nước Trung Quốc của dân chủ tự do.

Ông Lý được các tác giả cuốn sách trích lược nói tiếp:

“Nếu Trung Quốc như thế, nó sẽ sụp đổ. Nếu bạn tin rằng sắp có một cuộc cách mạng dân chủ nào đó ở Trung Quốc, bạn đã sai.”

Về đường hướng hiện đại hóa của nước này, ông dự đoán: “Các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sẵn sàng thử mọi phương pháp ngoại trừ dân chủ trong một hệ thống đa đảng.”

Ông Lý giải thích điều này là do Đảng Cộng sản Trung Quốc “tin rằng nó cần có sự độc quyền về quyền lực thì mới giữ được ổn định” và rằng Đảng còn “sợ mất đi sự kiểm soát của trung ương đối với các tỉnh lỵ” hay địa phương.

‘Tâm hồn sắt đá’

Ông Tập Cận BìnhÔng Lý Quang Diệu nhận xét Tập Cận Bình là một lãnh đạo kín đáo và kiên định với chủ kiến của mình

Đặc biệt ông Lý Quang Diệu, qua cuốn sách, còn bộc lộ nhận xét của ông về tân lãnh đạo Trung Quốc, ông Tập Cận Bình. Chính trị gia lão làng này được trích dẫn nói:

“Ông ấy (Tập Cận Bình) là một người kín đáo, không phải theo nghĩa là ông ấy không nói chuyện với bạn, mà theo nghĩa ông ấy không bao giờ phản lại ý thích hoặc đi ngược lại điều gì mà ông ấy đã không thích.

“Luôn luôn có một nụ cười nhã nhặn trên mặt ông ấy, dù là bạn có nói hay không một điều gì đó làm ông ấy khó chịu. Ông ấy có một tâm hồn sắt đá.”

Mới đây, trong một tài liệu nội bộ không công bố ở Trung Quốc, ông Tập Cận Bình được trích dẫn khi tới thăm tỉnh Quảng Đông, nói với các cán bộ lãnh đạo về nhu cầu giữ ổn định ở Trung Quốc, theo tiết lộ của New York Times.

“Vì sao Liên Xô tan rã? Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ? Một lý do quan trọng là các lý tưởng của họ đã bị dao động…”

Chủ tịch TQ Tập Cận Bình

Ông được dẫn lời nói: “Vì sao Liên Xô tan rã? Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ? Một lý do quan trọng là các lý tưởng của họ đã bị dao động…

Tờ báo Mỹ cho rằng thời gian lên nắm quyền lực tối cao của ông Tập Cận Bình chưa lâu, mới chừng vài ba tháng, do đó có thể để “đứng vững” trước các đối thủ tối cao, và cũng có thể vẫn trung thành với những niềm tin của mình, như điều mà ông Lý Quang Diệu tin là bản chất của tân lãnh đạo Trung Quốc, ông Tập đã chọn phương án “siết chặt sự an toàn” quyền lực của Đảng.

Và do đó, các cải cách chính trị, thể chế dân chủ khả dĩ làm thay đổi vị thế độc tôn của Đảng cộng sản hay cải cách dân chủ sâu sắc có thể còn là ‘xa vời’.

Tiếp tục về kinh nghiệm của Liên Xô cũ, ông nói: “Cuối cùng, cái gì Liên Xô nhận được là một lời lặng lẽ của Gorbachev tuyên bố giải thể Đảng Cộng sản, một chính đảng lớn đã ra đi,

“Mà cuối cùng, không có ai là một con người thực thụ, không có ai bước ra để kháng cự cả,” nhà lãnh đạo vừa kế nhiệm ông Hồ Cẩm Đào hối thúc việc bảo vệ Đảng, khi rút tỉa bài học một cách cứng rắn.

Thay đổi nhân sự mới: Trần Thọ thay Nguyễn Bá Thanh

Ông Trần ThọÔng Trần Thọ đã làm việc với ông Nguyễn Bá Thanh một thời gian dài

Bộ Chính trị Đảng CSVN vừa phân công ông Trần Thọ phụ trách thành ủy Đà Nẵng thay cho ông Nguyễn Bá Thanh, người nay làm Trưởng ban Nội chính.

Theo quyết định số 682-QĐNS/TW, ông Trần Thọ, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Đà Nẵng nay tạm đảm nhiệm chức vụ của ông Thanh, người đã ra Hà Nội.

Tuy nhiên ông Thanh vẫn còn kiêm nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng do chưa tìm được người thay thế.

Ông Trần Thọ sinh năm 1956, quê ở xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng.

Ông đã làm phó bí thư thường trực một thời gian khá dài và được đánh giá là gây ấn tượng tốt.

Trong khi đó, tại Thái Nguyên, ông Nguyễn Đình Phách vừa được phân công giữ chức Bí thư Tỉnh ủy thay ông Phạm Xuân Đương.

Ông Phách, sinh năm 1954 tại Hưng Yên, t̀ưng giữ các nhiều chức vụ ở Hưng Yên trước khi làm ủy viên Ủyban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội.

Chức vụ mới đây nhất của ông là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.

Ông Phạm Xuân Đương trước đó đã chuyển sang làm Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương.

Lãnh đạo bộ Tài chính

Trong một diễn biến liên quan nhân sự, báo Việt Nam đưa tin Phó Thủ tướng Võ Văn Ninh vừa chủ trì cuộc họp giao ban đầu năm của Bộ Tài chính vào thứ Ba 19/2.

Tại đó, lãnh đạo chính phủ đã làm rõ thắc mắc về chức danh của ông Vương Đình Huệ, người vừa được phân công thôi kiêm nhiệm để tập trung vào công việc Trưởng ban Kinh tế Trung ương.

Về nguyên tắc, cho tới khi được Quốc hội thông qua miễn nhiệm vào kỳ họp tháng Năm tới, ông Vương Đình Huệ vẫn là Bộ trưởng Tài chính nhưng sẽ không ký các văn bản do Bộ Tài chính ban hành.

Từ ngày 6/2, ông Vũ Văn Ninh đã nhận bàn giao công việc của Bộ Tài chính thay ông Huệ.

Ông Ninh là người đã làm bộ trưởng tài chính nhiều năm, cho tới khi ông Huệ kế nhiệm ông vào tháng 8/2011.

Được biết, ông Vương Đình Huệ cũng đã đề nghị Chính phủ cho thôi không đảm nhiệm các chức danh khác gồm Chủ tịch hội đồng quản lý Bảo hiểm Việt Nam; và Chủ tịch hội đồng thành viên Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.

TQ bác bỏ việc đưa tranh chấp đảo ra LHQ

bbc, 19 tháng 2, 2013

hồng Lỗi, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung QuốcÔng Hồng Lỗi, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc

Trung Quốc vừa tuyên bố từ chối đề nghị của Philippines về việc đưa tranh chấp chủ quyền biển Đông ra phân xử trước Liên Hợp Quốc .

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói, ông Mã Khắc Khanh, đại sứ Trung Quốc ở Philippines đã có thông báo chính thức trong cuộc gặp với quan chức ngoại giao về động thái của nước này.

Theo lời ông Hồng Lỗi, câu trả lời chính thức hôm thứ Ba 19/02 “biểu lộ rõ lời từ chối của Trung Quốc”.

Những gì phía Philippines đưa ra “không chỉ vi phạm tình đồng thuận thiêng liêng trong bản Tuyên bố về Ứng xử trên Biển Đông (DOC) giữa các bên liên quan, mà còn bóp méo sự thật và có những cáo buộc sai lầm,” ông Hồng Lỗi nói trong cuộc họp báo ở Bắc Kinh.

Hồi tháng trước, Philippines chính thức thông báo tới Trung Quốc về kế hoạch đưa mâu thuẫn biển đảo Bấm ra trước tòa án theo Công ước Liên Hợp Quốc 1982 về Luật biển.

Nước này mong muốn hội đồng xét xử sẽ đưa ra tuyên bố về các động thái của Bắc Kinh ở vùng biển giàu tài nguyên là trái luật.

Còn Trung Quốc nói mong muốn giải quyết vấn đề này bằng đối thoại song phương, theo ông Hồng Lỗi, và trích dẫn quy định trong DOC rằng mâu thuẫn phải được giải quyết bằng đối thoại giữa các quốc gia có liên quan trực tiếp.

“Trung Quốc hy vọng rằng Philippines sẽ trân trọng chính cam kết của mình bằng việc không có bất kỳ hành động nào khiến tình hình thêm rắc rối, và đáp lại đề nghị của Trung Quốc một cách tích cực để thiết lập đối thoại song phương về các vấn đề hàng hải, và cùng giải quyết mọi vấn đề qua thỏa thuận song phương,” ông Hồng Lỗi nói.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng nhắc lại điều ông gọi là “Trung Quốc có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền vùng đảo Nam Sa và vùng biển xung quanh đảo”.

‘Giải pháp hòa bình’

TQ và Philippines từng đưa tàu ra đối đầu tại bãi cạn Scarborough.

Vào cuối tuần trước một nhóm các nhà lập pháp của EU viếng thăm Philippines nói với giới chức nước này rằng Bắc Kinh nên tham gia quá trình trọng tài quốc tế về phân xử tranh chấp biển đảo mà Manila đã đề xuất trước Liên hợp quốc, theo truyền thông nước này.

Hôm thứ Sáu 15/02, người đứng đầu phái đoàn của Liên minh châu Âu đang thăm Manila nói EU “ủng hộ” lập trường của quốc gia Đông Nam Á đưa các tranh chấp biển đảo ra tòa án quốc tế.

“EU đứng về phía của Philippines,” chủ tịch phái đoàn Werner Langen được hãng thông tấn Philippines dẫn lời nói, liên quan đề xuất của Manila.

Mặc dù EU được cho là “không thiên vị” về bất cứ phía nào trong cuộc tranh chấp biển đảo liên quan Philippines, Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan ở khu vực Biển Đông, hãng tin của Philippines nói:

“Các nghị viên quốc hội EU nói họ tin rằng hành động pháp lý của Philippines là một “động thái tốt” nhằm đảm bảo một giải pháp hòa bình cho các xung đột.”

Hãng tin của Philippines hôm 15/2/2013 tiếp tục dẫn lời trưởng phái đoàn lập pháp EU, Werner Langen, nói:

“Trung Quốc hy vọng rằng Philippines sẽ trân trọng chính cam kết của mình bằng việc không có bất kỳ hành động nào khiến tình hình thêm rắc rối, và đáp lại đề nghị của Trung Quốc một cách tích cực để thiết lập đối thoại song phương về các vấn đề hàng hải, và cùng giải quyết mọi vấn đề qua thỏa thuận song phương”

Hồng Lỗi, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ

“Tất cả các quốc gia thành viên của EU có lợi ích khi tuyên bố rằng thông qua việc tuân thủ các thỏa thuận quốc tế, chúng ta giải quyết các vấn đề này cũng như giải quyết vấn đề về các tài nguyên thiên nhiên…

Được cho là hậu thuẫn đề xuất của Manila đưa việc giải quyết tranh chấp đi theo các khuôn khổ pháp lý quốc tế như Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS), vị trưởng đoàn được trích lời nói thêm: “Con đường được lựa chọn… thông qua trọng tài quốc tế là cách thức để đạt điều đó.

“Chúng tôi hy vọng Trung Quốc sẽ chấp nhận điều này vì nó đưa cả hai bên tới… một giải pháp.”

Cũng hôm thứ Sáu, nhiều báo của Philippines đăng tải ý kiến của tân ngoại trưởng Hoa Kỳ, ông John Kerry “ủng hộ” lập trường của Manila.

Hãng tin của Philippines dẫn lời ngoại trưởng nước này, Albert Del Rosario, nói về quan điểm của tân Ngoại trưởng Kerry:

“Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry hậu thuẫn quyết định của chính phủ Philippines vào tháng trước đưa các tranh cãi với Trung Quốc về các tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn ở Biển Hoa Nam ra trước tòa án của LHQ, nhấn mạnh nhu cầu giải quyết các xung đột nóng lâu dài một cách hòa bình dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế.”

Cuộc chiến biên giới 1979

Thủy Giang. gửi cho BBCVietnamese.com từ Bratislava.  17 tháng 2, 2013

Dân quân Việt Nam

Ba mươi bốn năm về trước, lúc 5 giờ 25 phút sáng ngày 17/2/1979, tiếng đại pháo của quân Trung Quốc đồng loạt khai hỏa trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, từ Phong Thổ, Lai Châu đến địa đầu Móng Cái, mở đầu một cuộc chiến, mà đối với giới lãnh đạo Bắc Kinh là “dạy cho quân côn đồ Việt Nam một bài học” như lời của Đặng Tiểu Bình.

Đối với giới lãnh đạo của CS Việt Nam là “trận đánh xâm lược của bọn bá quyền Trung Quốc”, như lời của Tổng bí thư Lê Duẩn.

Còn đối với quốc tế thì đó là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba.

Dù gọi dưới danh xưng gì đi nữa thì cuộc chiến này vẫn là một trong những trận chiến thảm khốc nhất dưới góc độ hủy diệt và dã man trong một khoảng thời gian rất ngắn.

Không có bất cứ số liệu nào chính thức và đáng tin cậy về con số thương vong của quân dân hai bên tham chiến, tuy nhiên con số mà người ta ước lượng là trên 100 ngàn người cho cả hai phía sau gần 30 ngày giao tranh đẫm máu sau khi Trung Quốc chính thức rút quân vào ngày 16/3/1979.

Thảm khốc

Trên đường tấn công, quân Trung Cộng nã súng không thương tiếc đối với bất kỳ ai, bất kỳ vật gì mà họ gặp trên đường tiến quân.

Sư đoàn 163 của họ nhận được lệnh từ cấp trên là “sát cách vô luận” tức“ giết người không bi buộc tội” do vậy lính Trung Cộng đã thẳng tay sử dụng đại bác, hỏa tiển, súng phun lửa, mìn và kể cả xăng để tiêu diệt từ làng này sang làng khác, hết chục người này đến trăm, đến ngàn người khác.

Nếu như, ở Bát Xát, thuộc Lào Cai, hàng trăm phụ nữ bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang, thì tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9/3/1979, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người gồm 23 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai.

Tất cả đều bị giết bằng dao. 10 người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

Bộ đội Việt NamViệt Nam đã ra lệnh tổng động viên thanh niên vào quân ngũ

Kết quả đó đã được Đặng Tiểu Bình hả hê xác nhận chủ tâm dã man này trong một bài nói chuyện đúng vào ngày rút quân của Trung Quốc, nguyên văn: “Mười một ngày này trên đường trở về đã quét dọn một số hang, có một số vật tư giấu ở hang này hang nọ, một số thôn trang, cũng quét dọn mấy ngàn người, trên vạn người.”

Ngày này, ba mươi bốn năm sau, dường như không còn chút vết tích gì về cuộc chiến đó trên quê hương Việt Nam.

Đối với mỗi người Việt Nam yêu nước câu hỏi lớn và đau đớn nhất trong ngày này là – đây là một sự lãng quên vô tình hay phản bội?

Bởi toàn bộ hệ thống truyền thông, báo chí chính thống của nhà nước không hề nêu lên một chữ dù chỉ để nhắc nhớ như đã từng nhắc nhớ về những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ? (Báo Thanh Niên số 17/2/2013 có bài Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979, bài duy nhất trên phương tiện truyền thông Việt Nam trực tiếp nhắc đến cuộc chiến chống quân Trung Quốc – BTV)

Trong hàng loạt những hoạt động tưởng nhớ, đền ơn những người có công với đất nước người ta không hề nghe đến những người đã hy sinh cho Tổ quốc trong trận chiến với “quân Trung Quốc xâm lược” vào tháng 2 năm 1979.

Trên các tỉnh phía Bắc, nơi xảy ra cuộc chiến, những tấm bia nào có ghi dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược” đều bị xóa sạch.

Cũng có những nghĩa trang chôn cất những người đã hy sinh trong trận chiến nhưng lại đìu hiu đến ngậm ngùi.

Nghĩa trang Duyên Hải, Lào Cai là một điển hình chua xót. Cũng từ cái chủ nghĩa ấy các anh đã cầm súng và hy sinh, và sự hy sinh của các anh ngày hôm nay đã biến vào hư không, âm thầm như nhũng cái chết vô danh. Những nấm mộ này vẫn đang nằm trong lãng quên của nhiều người, ngoại trừ nỗi buồn đau của người thân các anh.

Biên giới Việt Nam-Trung Quốc

Lãng quên hay phản bội?

Đáng lẽ ngày này phải có lễ kỷ niệm, bởi vì đó là ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam, tàn phá biên giới giết hại nhân dân Việt Nam.

Đó là một dấu mốc mà nhân dân Việt Nam đời đời khắc cốt, ghi xương.

Đáng ra phải có lễ kỷ niệm, nhưng vì sao vậy?

Đó là do sức ép của nhà cầm quyền Trung Cộng đối với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, Trung Quốc vừa ăn cướp vừa bịt miệng nạn nhân với những mỹ từ nào là “16 chữ vàng” nào là “4 tốt”.

Liệu pháp “16 chữ vàng” và “4 tốt” xuất hiện trong bối cảnh nào mà đã xóa sạch mọi vết tích của trận chiến ngày 17/2/1979? Thậm chí nó còn muốn hủy diệt sức đề kháng trước ngoại xâm của dân tộc Việt Nam?

Vì sao hình ảnh “16 chữ vàng” và “4 tốt” đã thay chỗ cho những khuôn mặt đau thương, những thân hình tàn phế cùng những hy sinh không đếm được của hàng chục vạn chiến sĩ, đồng bào trong cuộc chiến 17 tháng 2 năm 1979>

Hàng ngàn năm sống bên cạnh Trung Quốc đã cho người Việt Nam quá nhiều kinh nghiệm và bài học.

Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay vì luôn luôn đặt quyền lợi của Đảng lên trên quyền lợi của dân tộc nên mới nhận kẻ thù truyền kiếp của dân tộc làm bạn, rồi bây giờ cũng vì quyền lợi riêng, nên cúi đầu cam tâm thần phục Bắc Kinh, và ép buộc nhân dân phải đớn hèn theo họ!

Cuộc chiến biên giới tháng 2 năm 1979 chống quân Trung Quốc xâm lược rõ ràng là một cuộc chiến cố tình bị lãng quên. Tôi cho đó là một sự phản bội của Đảng Cộng sản Việt Nam!

Bài phản ánh quan điểm và cách hành văn của người viết, nhà báo hiện sống ở Bratislava, Slovakia.

Nghị sĩ EU: Chính sách bành trướng của Trung Quốc gây bất ổn Biển Đông

Thứ bảy, 16 Tháng 2 2013 07:36

(GDVN) – Các nhà lập pháp EU cũng khẳng định họ thấy rõ “sự bất ổn và mối đe dọa đối với thương mại quốc tế” do “chính sách bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, bao gồm cả ở Biển Đông gây ra

alt
Nghị sĩ EU Werner Langen

Trung Quốc ngấm ngầm tuồn quả địa cầu    Trung Quốc ngấm ngầm tuồn quả địa cầu “lưỡi bò” vào Philippines

Đài GMA Philippines ngày 15/2 đưa tin, một nhóm 5 Nghị sĩ Liên minh Châu Âu (EU) đã đến thăm Philippines từ ngày 14/2 và lên tiếng khẳng định ủng hộ Manila kiện đường lưỡi bò phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông ra Hội đồng trọng tài Liên Hợp Quốc về Luật Biển, đồng thời kêu gọi Bắc Kinh nên chấp thuận ra tòa nhằm ngăn chặn 1 cuộc xung đột quân sự có thể nổ ra trên Biển Đông.

Mặc dù EU không có tranh chấp và liên quan trực tiếp đến khu vực Biển Đông nhưng nhóm 5 Nghị sỹ này cho rằng việc Philippines kiện Trung Quốc là một “động thái tốt” để tìm kiếm một giải pháp hòa bình nhằm hóa giải nguy cơ xung đột.

Trưởng đoàn Nghị sỹ EU, Werner Langen nói trong cuộc họp báo: “EU đứng về phía Philippines (trong vụ kiện Trung Quốc – PV). Đó là sự quan tâm của tất cả các quốc gia thành viên EU về việc chúng ta giải quyết những vấn đề tranh chấp liên quan đến nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua việc tuân thủ các điều ước quốc tế.”

Trung Quốc còn thời hạn đến ngày 21/2 này để trả lời chính thức và dứt khoát, có chịu cùng ra tòa với Philippines hay không.

“Cách lựa chọn giải quyết vấn đề thông qua trọng tài là một giải pháp”, Nghị sỹ Langen nói, “Chúng tôi hy vọng Trung Quốc sẽ chấp nhận tham gia (vụ kiện này) vì nó sẽ khiến hai bên cùng đi đến một giải pháp.”

Các nhà lập pháp EU cũng khẳng định họ thấy rõ “sự bất ổn và mối đe dọa đối với thương mại quốc tế” do “chính sách bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, bao gồm cả ở Biển Đông gây ra trong bối cảnh nước này liên tục tăng cường sức mạnh quân sự.

“Chúng ta cần đàm phán trực tiếp và cũng cần các cuộc đàm phán quốc tế để tìm ra một giải pháp, nếu không, sẽ xuất hiện một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực và điều này không bao giờ là tin tốt lành đối với nhân loại”, Nghị sĩ Robert Goebbels cho biết.

“EU rất chia sẻ với những giải pháp của Philippines và chúng ta thấy lựa chọn của Manila là nhằm cố gắng để buộc Trung Quốc phải chấp nhận trọng tài”, Nghị sĩ Goebbels nói thêm.

Chiến dịch Triệu Con Tim, Một Tiếng Nói

Chiến dịch Triệu Con Tim, Một Tiếng Nói

Hàng triệu con tim Việt Nam và cộng đồng thế giới đang xót xa hướng về những người yêu chuộng tự do dân chủ đang bị tù đày. Trước những bản án ác nghiệt phi nhân bản, chúng ta hãy cùng nhau hành động đòi công lý cho họ.

Chỉ tiêu của chiến dịch là 100.000 chữ ký cho đến ngày Quốc Tế Nhân Quyền, ngày 10, tháng 12, 2012. Vào thời điểm này cộng đồng người Việt trên toàn thế giới sẽ tổ chức các buổi tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc và Bộ Ngoại Giao các nước để trao thỉnh nguyện thư và chữ ký.

Với sự tham gia nhiệt tình của từng con dân Việt, cống lý phải đẩy lùi sự đàn áp trên đất nước ta. Nhất định phải thế.

Trân trọng,
Chiến dịch Triệu Con Tim, Một Tiếng Nói

Hãy Hành Động

Chiến dịch Triệu Con Tim, Một Tiếng Nói

Hàng triệu con tim Việt Nam và cộng đồng thế giới đang xót xa hướng về những người yêu chuộng tự do dân chủ đang bị tù đày. Trước những bản án ác nghiệt phi nhân bản, chúng ta hãy cùng nhau hành động đòi công lý cho họ.

Chỉ tiêu của chiến dịch là 100.000 chữ ký cho đến ngày Quốc Tế Nhân Quyền, ngày 10, tháng 12, 2012. Vào thời điểm này cộng đồng người Việt trên toàn thế giới sẽ tổ chức các buổi tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc và Bộ Ngoại Giao các nước để trao thỉnh nguyện thư và chữ ký.

Với sự tham gia nhiệt tình của từng con dân Việt, cống lý phải đẩy lùi sự đàn áp trên đất nước ta. Nhất định phải thế.

Trân trọng,
Chiến dịch Triệu Con Tim, Một Tiếng Nói

Hãy Hành Động: Ký thỉnh nguyện thư, nhấn chuông & fax Sứ Quán CSVN

Million Hearts, One Voice Campaign

Take Action: Sign the Petition, Call & Fax Vietnamese Embassies

CẬP NHẬT: BÀI HÁT TRIỆU CON TIM | NEW: MILLION HEARTS MUSIC VIDEO

Thỉnh Nguyện Thư

Kính gửi:

  • Bà Laura Dupuy Lasserre, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc
  • Bà Catherine Ashton, Ðại diện Cấp Cao của Liên minh Châu Âu về Ngoại giao và Chính sách An Ninh
  • Bà Barbara Lochbihler, Chủ Tịch Tiểu Ban Nhân Quyền, Quốc Hội Âu Châu
  • Ông Bob Carr, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Australia
  • Ông Didier Reynders, Bộ trưởng Ngoại Giao, Belgium
  • Ông John Baird, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Canada
  • Ông Laurent Fabius, Bộ Trưởng Ngoại Giao, France
  • Ông Guido Westerwelle, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Germany
  • Ông Kōichirō Genba, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Japan
  • Ông Frans Timmermans, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Netherlands
  • Ông Espen Barth Eide, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Norway
  • Ông Didier Burkhalter, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Switzerland
  • Ông William Hague, Bộ Trưởng Ngoại Giao, United Kingdom
  • Bà Hillary Clinton, Bộ Trưởng Ngoại Giao, United States of America

Trước những áp lực đòi hỏi về thay đổi chính trị của quảng đại quần chúng, chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã áp dụng biện pháp kiểm duyệt Internet, xử án lấy lệ và bắt giam tùy tiện để gia tăng chính sách đàn áp người dân của họ. Trong khi đó, nhà cầm quyền Hà Nội lại cho rằng khi họ tham gia Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, thì họ có thể tiếp tục vi phạm trầm trọng Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và những Quy Ước về các quyền Dân sự và Chính trị mà họ đã ký kết.

Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2012, chúng tôi long trọng kêu gọi cộng đồng thế giới hãy hỗ trợ cho những tiếng nói lương tâm của Việt Nam: các bloggers Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải), Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn; các nhà tranh đấu dân chủ Nguyễn Quốc Quân và Trần Huỳnh Duy Thức; các nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình; luật sư nhân quyền Cù Huy Hà Vũ và Linh mục Nguyễn Văn Lý. Họ, và nhiều người Việt yêu nước khác, đã chỉ bày tỏ một cách ôn hoà những nguyện vọng về thay đổi chính trị cho Việt Nam, cũng như tự do tôn giáo và công bằng xã hội.

Nhiều tù nhân lương tâm Việt nam đã bị đối xử khắc nghiệt trong tù như cưỡng ép lao động, hành hạ thể xác và bệnh tật không được chữa trị. Theo sự tiết lộ của các tổ chức quốc tế về Nhân Quyền thì điển hình nhất là trường hợp của hai nữ tù nhân: nhà đấu tranh cho dân oan Trần Thị Thúy và nhà tranh đấu cho quyền nghiệp đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh.

Chúng tôi, những người ký tên dưới đây, long trọng kêu gọi Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Âu Châu và các Quốc Gia Tự Do:

1. Biệt phái tới Việt Nam các đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc và đại diện các Sứ Quán để điều tra về tình trạng giam giữ tùy tiện, ngược đãi trong tù và sự lạm dụng luật pháp tại đây.

2. Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam tôn trọng Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và hủy bỏ các điều luật mơ hồ về an ninh quốc gia như Điều Khoản 79 và 88 trong bộ Luật Hình Sự, những điều luật đã được dùng làm lý cớ để bắt người và giam giữ tùy tiện.

3. Đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam phải lập tức trả tự do cho toàn thể tù nhân chính trị.

Thay mặt các tù nhân lương tâm, chúng tôi yêu cầu cộng đồng quốc tế buộc nhà cầm quyền Việt Nam phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng sức khoẻ và sự tước đoạt tự do của những người tranh đấu dân chủ mà họ đang giam giữ.

Ký tên vào thỉnh nguyện thư

Biển Đông ‘đánh thức’ tinh thần dân tộc của người Việt?

VOA, Nguyễn Trung,14.02.2013

Nhiều cuộc phản đối chống Trung Quốc diễn ra ở Hà Nội và TP HCM trong những năm qua.

Nhiều cuộc phản đối chống Trung Quốc diễn ra ở Hà Nội và TP HCM trong những năm qua.

Mới đây, một ca sĩ mới nổi ở Việt Nam đã phải lên tiếng xin lỗi người hâm mộ sau khi vấp phải nhiều chỉ trích vì bị coi là quảng bá cho ứng dụng chat của Trung Quốc có sử dụng bản đồ hình lưỡi bò gây tranh cãi ở biển Đông.

Trước đó, một người đẹp ở trong nước cũng bị ‘ném đá’ vì tuyên bố cô toàn dùng hàng Trung Quốc trong khi có nhiều lời kêu gọi tẩy chay hàng hóa của nước láng giềng phương bắc.

Một số nhà quan sát nhận định rằng những động thái như vậy cho thấy tinh thần dân tộc và tâm lý bài Trung Quốc ở Việt Nam gia tăng trong bối cảnh sức nóng từ các tranh chấp chủ quyền ở vùng biển được coi là có trữ lượng dầu khí lớn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.

Trong cuộc phỏng vấn với VOA Việt Ngữ, ông Vũ Tường, Giáo sư môn khoa học chính trị tại Đại học Oregon, cho rằng các cuộc biểu tình như vậy thể hiện chủ nghĩa dân tộc kiểu mới.

Ông nhận định: ‘Đó là những biểu hiện của tinh thần dân tộc nhưng mà nó khác với biểu hiện cũ, với chủ nghĩa dân tộc cũ, vì theo tôi chủ nghĩa dân tộc cũ nó có đối tượng là thực dân đô hộ. Bây giờ không có thực dân đô hộ nữa mà chỉ có tranh giành biển đảo. Nó là một phong trào thì đương nhiên nó phải có ảnh hưởng chính trị. Ảnh hưởng chính trị của nó tùy theo thái độ, phản ứng của nhà cầm quyền’.

Nhà giáo làm việc ở Hoa Kỳ này nhận định rằng phong trào dân tộc mới thể hiện sự trỗi dậy của tinh thần tự trọng dân tộc hoặc tự tôn dân tộc trước các quốc gia khác.

Đường 9 đoạn, hay còn được gọi là đường lưỡi bò, đường chữ U, của Trung Quốc bao trọn 4 nhóm quần đảo và bãi đá ngầm lớn trên biển Đông trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa, và chiếm phần lớn diện tích ở vùng biển này.

Anh Lã Việt Dũng nói anh chỉ là người dân bình thường lên tiếng về các vấn đề xã hội.
Anh Lã Việt Dũng nói anh chỉ là người dân bình thường lên tiếng về các vấn đề xã hội.

​​
​​Một đội bóng có tên gọi ‘No-U’, ám chỉ bản đồ hình chữ U, đã được lập nên để phản đối điều thành viên Lã Việt Dũng cho là ‘rất là phi lý’ của Bắc Kinh, nhất là sau khi phong trào biểu tình chống Trung Quốc ‘bị chính quyền ngăn cản’.

Anh Dũng cho VOA Việt Ngữ biết rằng đội bóng ra đời vì các thành viên muốn tạo một sự đoàn kết trong tất cả mọi người đã lên tiếng về những vấn đề về xã hội.

Anh nói: ‘Chắc chắn là nó thể hiện tinh thần dân tộc bởi vì rõ ràng cái đường lưỡi bò của Trung Quốc rất là ngang ngược, và rõ ràng chúng tôi muốn mỗi người dân Việt Nam đều phải hiểu, đều phải biết tới sự ngang ngược đó của Trung Quốc’.

Theo kỹ sư tin học này, tinh thần dân tộc ‘thể hiện niềm tự hào dân tộc cũng như sự đau xót trước việc đất nước khi bị xâm lăng, xâm lược và thậm chí là phụ thuộc quá đáng vào một quốc gia nào đó’.

Về các tuyên bố nhận chủ quyền gần như toàn bộ biển Đông của Trung Quốc, ông Dương Danh Dy, Nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, cho rằng ‘dã tâm lãnh thổ của họ rất là ghê gớm’.

Ông cho hay: ‘Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập tháng Mười năm 1949. Lúc đó, Trung Quốc chưa có một chỗ đứng nào ở biển Đông cả. Thế nhưng mà năm 1956, họ chiếm một nửa Hoàng Sa từ tay quân đội Pháp khi họ chưa kịp bàn giao cho chính quyền miền nam Việt Nam. Rồi đến tháng Giêng năm 1974, họ chiếm nốt phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa. Rồi đến tháng Ba năm 1988, họ chiếm 6 -7 cái đảo, bãi ở quần đảo Trường Sa ở biển Đông thuộc Việt Nam’.

Ông Dy nói tiếp: ‘Trước đây, khi Tưởng Giới Thạch năm 1947 đề ra đường lưỡi bò, trong lúc giao tiếp giữa chúng tôi với người Trung Quốc, hỏi đường lưỡi bò, họ trả lời rằng, ờ, cái đó là của bọn Quốc dân Đảng ấy mà. Ý là đấy là của Quốc dân Đảng, chứ cộng sản chúng tôi thì không phải như thế. Nhưng thực chất, đến bây giờ thì họ lại đi đúng con đường như Quốc dân Đảng’.

Một số báo mạng có tính chất không phải là đại diện chính thống thì những ngôn từ, những luận điệu họ nói về biển Đông, nói về Việt Nam, nói về Philippines có thể nói rất là láo xược và ngông cuồng.
Nhà nghiên cứu về Trung Quốc Dương Danh Dy nói.

Nhà ngoại giao kỳ cựu cho VOA Việt Ngữ biết rằng báo chí Trung Quốc, nhất là các trang mạng ngoài lề, hầu như không có ngày nào là không nói về biển Đông.

Ông Dy nói thêm: ‘Một số báo mạng có tính chất không phải là đại diện chính thống thì những ngôn từ, những luận điệu họ nói về biển Đông, nói về Việt Nam, nói về Philippines có thể nói rất là láo xược và ngông cuồng’.

Ông Dy còn cho biết rằng báo chí Trung Quốc gần đây ít nhắc tới Việt Nam, còn với Nhật Bản và Philippines thì ‘họ cao giọng này kia’. ‘Có thể là vì phía Việt Nam chúng ta không làm mạnh mẽ bằng như trước đây nữa’, ông nói.

Cũng giống như Manila và Hà Nội, Tokyo hiện có tranh chấp với Bắc Kinh về quần đảo Senkaku (mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư) trên vùng biển Hoa Đông.

Hồi năm 2012, một làn sóng biểu tình chống Nhật đồng loạt xảy ra ở nhiều thành phố của Trung Quốc để phản đối chính phủ xứ sở mặt trời mọc mua một số đảo của quần đảo trên từ tay một chủ sở hữu tư nhân, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư Nhật ở quốc gia đông dân nhất thế giới.

Qua theo dõi của mình, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy cho rằng chính quyền Bắc Kinh biết cách khơi gợi tinh thần dân tộc và được nhiều người dân ủng hộ trong vấn đề đòi chủ quyền biển đảo.

Ông nói: ‘Nếu so với năm 1979, khi họ đánh Việt Nam, thì họ huy động, họ làm dư luận nhân dân rất khó nhưng bây giờ chính mạng của họ công nhận rằng 92% dân mạng đồng ý rằng chủ quyền ở biển Đông là của họ, và đánh Việt Nam bây giờ, gây chiến với Việt Nam hay Philippines và Nhật Bản thì họ không khó khăn gì trong việc động viên dư luận. Dân họ nói chung là họ đồng ý đấy chứ. Số người phản đối, không đồng tình, theo tôi là rất ít. Chúng ta đừng đặt nhiều hy vọng vào con số những người giác ngộ này’.

Ông Dy nhận xét rằng với chủ nghĩa bá quyền và ý đồ lâu dài của Trung Quốc, từng bước thâu tóm biển Đông, thì việc ‘thương thuyết, đàm phán với họ là đều không có hiệu quả’.

Rõ ràng chúng tôi không chống đối chế độ hay không có âm mưu gì để làm trái pháp luật cả.
Thành viên đội bóng ‘No-U’ Lã Việt Dũng nói.

Về các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội, anh Dũng cho biết những người tham gia, trong đó có anh, chỉ là những người dân bình thường lên tiếng.

Thành viên đội bóng ‘No-U’ nói: ‘Rõ ràng chúng tôi không chống đối chế độ hay không có âm mưu gì để làm trái pháp luật cả’.

Anh Dũng nói: ‘Biểu tình thì tất nhiên là có nhiều báo họ phản ánh, họ lên án, chẳng hạn như báo Hà Nội Mới. Tôi nghĩ đấy chỉ là một góc nhìn, bởi vì đôi khi mình cứ nhìn thấy biểu tình là một tập hợp người thì họ có thể nghĩ rằng có thể xảy ra bạo động, bạo loạn hay mất kiểm soát, nhưng thực tế,  chúng tôi hoàn toàn chỉ có một góc độ duy nhất là chúng tôi biểu tình để phản đối sự ngang ngược của Trung Quốc’.

Anh Dũng cho biết, trước đây, người dân rất thờ ơ trước vấn đề biển Đông, nhưng giờ họ đã được thức tỉnh.

‘Tôi chỉ lấy ví dụ như là có một cái hình ảnh người phụ nữ là chị Hài giơ nắm đấm phản đối Trung Quốc từ năm 2007, khi mà đưa trên mạng thì đến nay đã có 150 nghìn người like (thích) bức ảnh đó’, anh cho biết.

‘Nó thể hiện hai điều, thứ nhất là sự quan tâm của cộng đồng Việt Nam và thứ hai là họ cũng đã mạnh dạn lên tiếng. Việc thay đổi là rất tích cực từ năm 2011 trở lại đây’.

Tường thuật này sẽ được phát sóng trong chương trình của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ vào lúc 10 giờ tối (giờ Hà Nội) ngày 16/2 trên sóng trung bình 256mét41, tức 1,170 KHZ. Chương trình cũng được truyền trực tiếp trên mạng tại địa chỉ: www.voatiengviet.com. Mời quý vị đón nghe. Xin chân thành cám ơn quý vị.


Góp ý về Hiến pháp biến thành phong trào đòi dân chủ

Thanh Phương, RFI, 18/02/13

Nghe (17:34)

Hiến pháp Việt Nam (DR)

Hiến pháp Việt Nam (DR)

Việc đóng góp ý kiến vào bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang dần dần trở thành một phong trào đòi dân chủ ở Việt Nam, mà đi đầu là giới trí thức. Đó là nhận định chung của giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, trong bài trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ.

Kể từ khi chính quyền Việt Nam tiến hành lấy ý kiến của người dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp, không ít người vẫn hoài nghi về thực tâm của giới lãnh đạo, nghĩ rằng rồi cũng chẳng đi đến đâu, giống như đợt góp ý cho Đại hội Đảng vừa qua. Nhưng bên cạnh đó cũng ngày càng có nhiều người tham gia đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp dưới hình thức này hay hình thức khác. Phong trào góp ý kiến này đang dần dần biến thành phong trào đòi dân chủ ở Việt Nam, mà đi tiên phong là giới trí thức.

Ví dụ vào đầu tháng 2 vừa qua, một nhóm ba người gồm giáo sư tiến sĩ Vật lý Đàm Thanh Sơn, giáo sư Ngô Bảo Châu và nhà báo Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Tổng biên tập VietnamNet, đã cho ra đời một trang web lấy tên là « Cùng viết Hiến pháp ». Trang web này chủ yếu nhằm đăng, hoặc đăng lại những bài phân tích về những nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi hiến pháp Việt nam 1992, nhằm qua đó tạo một « không gian đối thoại dân chủ về việc sửa đổi Hiến pháp », theo như lời giới thiệu của ba trí thức nói trên.

Nhưng nổi bật hơn cả đó là sáng kiến của 72 nhân sĩ trí thức hàng đầu của Việt Nam khởi xướng bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992, công bố ngày 19/01. Kiến nghị này đã được sự hưởng ứng rộng rãi của hàng ngàn người đủ mọi thành phần trong và ngoài nước, với số chữ ký nay đã lên tới hơn 4000.

Trong bản kiến nghị này, các nhân sĩ trí thức đã mạnh mẽ yêu cầu bỏ điều 4 quy định vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi quyền phúc quyết Hiến pháp cho dân. Họ cũng yêu cầu sửa Dự thảo Hiến pháp « theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ».

Bản kiến nghị còn đòi Nhà nước công nhận sở hữu tư nhân về đất đai, đòi tam quyền phân lập thật sự, cũng như không chấp nhận quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh kiến nghị, nhóm 72 nhân sĩ trí thức còn đề nghị một dự thảo Hiến pháp như một tài liệu « để tham khảo và thảo luận ».

Ngày 04/02/2013, một phái đoàn gồm 15 nhân sĩ trí thức đại diện cho nhóm 72 người nói trên đã đến Địa điểm tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân tại 37 Hùng Vương, Hà Nội, để trao bản Kiến nghị cho Ủy ban soạn thảo Hiến pháp. Điều đáng chú ý là một số tờ báo chính thức như Người Lao Động hay Pháp Luật TP HCM cũng đã dám đưa tin về buổi trao kiến nghị, mặc dù với những nội dung như trên, tài liệu này lẽ ra phải bị xếp vào loại « phản động », « chống Nhà nước ».

Mặc dù tình trạng sức khỏe không tốt, nhưng giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, cũng đã từ Sài Gòn ra Hà Nội vào đầu tháng 2 để cùng với các nhân sĩ trí thức khác đến trình bản kiến nghị cho Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp. Trả lời phỏng vấn RFI sau khi trở về Sài Gòn, giáo sư Tương Lai trước hết nhận xét về sự tham gia của các thành phần nhân dân vào việc góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp và đặc biệt nhấn mạnh rằng việc này đã thoát ra khỏi tầm kiểm soát của chính quyền :

« Có lẽ đây là dịp mà người dân tranh thủ nói lên tiếng nói của mình. Ví dụ như đối với người nông dân đang mất đất và nay vẫn đang khiếu kiện, như những người còn đang bám trụ ở vườn hoa Lý Tự Trọng Hà Nội, họ không cần quan tâm đến những vấn đề mang tính pháp lý, cần phải có kiến thức về luật pháp mới hiểu được, mà chỉ bày tỏ khát vọng của họ là vấn đề đất đai.

Nhân dịp này, họ đòi trả lại đất đai và quyền sử dụng đất cho họ. Tức là việc góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp là tùy theo đối tượng. Đối với thanh niên, nhất là giới sinh viên, trong dịp này họ nghĩ nhiều đến vấn đề quyền con người, quyền được tự do phát biểu ý kiến và nguyện vọng.

Nhưng có lẽ tầng lớp góp ý kiến nhiều nhất chính là trí thức. Điều này dễ hiểu vì dầu sao họ là những người am hiểu luật pháp, Hiến pháp, nhất là Hiến pháp dân chủ, Hiến pháp của một Nhà nước pháp quyền đích thực.

Có những vấn đề cấm kỵ như điều 4 ( Hiến pháp), thì chính ông Phan Trung Lý, trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cũng đã nói thẳng là không có kiêng kỵ gì cả, cho nên trong dịp này, những ý kiến đóng góp của các trí thức mạnh mẽ hơn. Nhà nước đang kêu gọi như vậy thì không có lý do gì để đàn áp người ta cả và không có lý do gì để quy kết đây là « diễn biến hòa bình », đây là « bị địch lợi dụng », mặc dù nhiều vị giới chức, câu trước tuyên bố là sẽ « tranh thủ ý kiến của dân », nhưng câu sau lại dè chừng là không được « lợi dụng dân chủ » để tung ra những luận điệu « sai trái, đi ngược lại định hướng xã hội chủ nghĩa ».

Tất cả những luận điệu kiểu ấy không còn đủ sức thuyết phục ai nữa và người ta thấy rõ anh không thể « cả vú lấp miệng em » nữa, mà phải để cho người ta nói. Chính trong tinh thần đó, việc đóng góp cho Hiến pháp đã vượt ra khỏi dự định ban đầu.

Trên truyền hình, người ta có phỏng vấn ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp, đồng thời cũng là thành viên ban soạn thảo Hiến pháp và đại biểu Quốc hội. Ông Thảo nói rằng lúc đầu việc góp ý kiến cho Hiến pháp dự trù chỉ kéo dài hai tháng, sau đó kéo dài thành ba tháng. Nhưng trong ba tháng đó, lại có một tháng Giêng là « tháng ăn chơi », thành ra nghe đâu sau ba tháng thì sẽ tiếp tục góp ý. Tiếp tục như thế nào, cho tới nay chưa có gì rõ ràng, minh bạch. Nhưng rõ ràng là áp lực của công chúng khiến cho vấn đề góp ý kiến về Hiến pháp đã tuột khỏi bàn tay kiểm soát mất rồi. »

Cũng theo giáo sư Tương Lai, đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp và dần dần biến một phong trào đòi dân chủ, với sự trỗi dậy mạnh mẽ của xã hội dân sự ở Việt Nam :

« Dịp này là dịp mà người ta nói lên những điều mà trước đây cho là cấm kỵ. Ví dụ, kiến nghị của nhóm trí thức, mà hôm vừa rồi, đã được một đoàn đại biểu, do nguyên bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc dẫn đầu , đã đến trụ sở của uỷ ban dự thảo Hiến pháp ở số 37 Hùng Vương, Hà Nội để trao.

Trong kiến nghị đó, có những vấn đề mà trước đây chỉ cần nói đến là đủ để bị quy kết là « phản động », « phản cách mạng », « lợi dụng dân chủ để phá hoại định hướng xã hội chủ nghĩa, làm rối loạn định hướng tư tưởng», v.v…. Bây giờ, đoàn đại biểu mang kiến nghị giữa thanh thiên bạch nhật. Ông Phan Trung Lý không tiếp, nhưng ông phó của ông Lý là ông Thông đã tiếp họ tại trụ sở và trong buổi tiếp xúc đó, người ta đã nói lên những điều rất rõ ràng, mang tính pháp lý, công khai, minh bạch. Người đại diện ban soạn thảo Hiến pháp thì nói rằng sẽ tiếp nhận kiến nghị này, xem như là ý kiến của dân đóng góp, đúc kết để trình Quốc hội.

Như vậy, dịp đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp là lúc mà người dân bày tỏ chính kiến một cách khác. Đã đến lúc mà tiếng nói của xã hội dân sự được phát huy mạnh mẽ. Trước đây, nghe nói đến bốn chữ « xã hội dân sự » thì giống như là điện giật. Tất cả những bài viết nào có bốn chữ « xã hội dân sự » dứt khoát đều bị gạt bỏ. Tôi có một vài bài viết khi có bốn chữ này, thì mấy ông tổng biên tập liền nói : « Thôi thôi, chú ơi  ( hay anh ơi ) rút bỏ ngay !». Lúc bây giờ tôi đã phải thốt lên rằng : « Văn minh là thế giới nào, mà ta chìm đắm dưới thời dã man ?» Đây là câu mà các cụ ta nói vào thời Đông Kinh Nghĩa Thục đầu thế kỹ 20. Bây giờ đã sang thế kỹ 21 rồi, mà nói đến « xã hội dân sự » thì cứ sợ như điện giật, thì không thể tưởng tượng được cái sự lạc hậu của trình độ tư tưởng, nhất là của những vị cầm cân nẩy mực về tư tưởng !.

Tuy thế, nhưng đến thời điểm đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp này, thì trên các tờ báo đã bắt đầu loáng thoáng thấy nói đến vai trò của xã hội dân sự. Thậm chí, một số tờ báo đã đăng công khai minh bạch về việc đoàn đại biểu trí thức đến trình bản kiến nghị cho ban dự thảo Hiến pháp, đồng thời đưa ra hẳn một Hiến pháp có tính chất tham khảo. đối chứng với Hiến pháp chính thống mà Nhà nước này đang soạn thảo.

Điều đó nói lên rằng : không thể cưỡng lại xu thế thời đại. Trí tuệ của nhân dân cần được phát huy để góp phần đưa đất nước đi lên, đi vào quỹ đạo của văn minh thế giới. Trước đây, tiếng nói chính thống chỉ có một người từ trên phát xuống và cứ thế là hàng mấy trăm tờ báo nói như một tờ. Bây giờ khác rồi. Có một tờ báo viết đã đưa tin ( không biết tờ này có bị kiểm điểm hay không ) và những tờ báo mạng, cũng của báo chí chính thống, cũng có đưa tin hẳn hoi về đoàn đại biểu bao gồm những ai, những ai v.v. . . Tuy là đưa tin ngắn, nhưng điều đó cũng nói lên rằng không khí đòi hỏi phải có dân chủ, không khí đòi hỏi chống lại bóp nghẹt tư tưởng ngày càng như là một làn sinh khí mới tràn vào đời sống. Mặc dù vẫn còn phải lách khe này, khe kia, nhưng rõ ràng là người ta không còn chặn được nữa rồi. Có lẽ đây là điều tôi đã từng đưa lên mặt báo : “Chuẩn mực chính là sự thay đổi”!

Cho nên, việc phát huy sức mạnh của xã hội dân sự đang là một xu thế được khởi động từ việc góp ký kiến cho bản dự thảo Hiến pháp. Điều có lẽ là điều đã vượt ra ngoài dự kiến ban đầu của những người chủ trương lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp. »

Hôm nay, nhóm nhân sĩ trí thức đề xướng bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp cho biết họ vừa nhận được công văn trả lời đề ngày 07/02 của Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, do trưởng ban Phan Trung Lý ký. Thế nhưng, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ hôm nay, tiến sĩ Nguyễn Quang A, trong nhóm 72 nhân sĩ trí thức nói trên, cho biết họ không đồng ý với nội dung công văn trả lời của Uỷ ban. Ông Nguyễn Quang A giải thích:

TS Nguyễn Quang A : Họ trả lời như thế là đúng với nghị quyết của Quốc hội và đúng với Hiến pháp hiện hành, nhưng không đúng với tinh thần của việc làm Hiến pháp. Họ muốn rằng chỉ góp ý trong khuôn khổ mà Quốc hội đã cho ý kiến. Góp như thế thì góp để làm gì ? Hoàn toàn vô nghĩa !

RFI : Trong công văn trả lời, họ có cho biết không chấp nhận cho công bố kiến nghị cũng như bản dự thảo Hiến pháp mà các ông đề ra.

TS Nguyễn Quang A: Thực sự trong bản kiến nghị, cũng như trong văn bản mà ông Nguyễn Đình Lộc ký hôm mùng 4/2 khi đến trao kiến nghị cho họ, chúng tôi chưa bao giờ yêu cầu họ công bố. Nhưng phát biểu hôm đó, ông Nguyễn Đình Lộc có yêu cầu uỷ ban cho công bố với báo chí chính thống cái tinh thần kiến nghị 7 điểm của chúng tôi. Cho nên, ông Lý đã trả lời lạc đề. Nhưng họ trả lời như thế chỉ là nhằm hạ thấp ý nghĩa của bản kiến nghị và bản dự thảo Hiến pháp của 72 vị nhân sĩ.

Bản dự thảo Hiến pháp và bản kiến nghị đã được công bố trên mạng từ ngày 22/01 rồi, nhưng không có tờ báo chính thống nào dám đưa tin ấy, hoặc tóm tắt nội dung các văn bản đó. Hôm đó, ông Nguyễn Đình Lộc chỉ nói với các báo chính thức về cái tinh thần của kiến nghị 7 điểm của chúng tôi, bởi vì nếu uỷ ban nói như thế thì các báo sẽ đỡ sợ và sẽ mạnh dạn đăng hơn. Nhưng ông Lý đã không trả lời đúng vào điều mà ông Lộc yêu cầu. Tức là ông ấy phản đối cái mà ông ấy nghĩa ra, chứ không phải là cái mà người ta yêu cầu!

RFI : Ông Phan Trung Lý đã cam kết là ý kiến của các ông sẽ được “tập hợp, nghiên cứu trong quá trình chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp”, nhưng ông có tin rằng kiến nghị của các ông sẽ được đáp ứng?

TS Nguyễn Quang A : Chúng tôi yêu cầu là tất cả ý kiến của mọi người, không chỉ của chúng tôi, nên được công bố công khai hết. Chỉ có công bố hết tất cả các ý kiến tán thành, phản đối, thì người dân mới có cơ hội tìm hiểu các loại chính kiến khác nhau, các kiểu tranh luận, lập luận khác nhau. Trong quá trình tranh luận như thế, người dân mới được cung cấp đầy đủ thông tin và từ đó mới có thể có quyết định chính xác về sự lựa chọn của mình. Nếu dân không được thông tin, thì có đưa ra trưng cầu dân ý cũng vô nghĩa.

RFI : Hiện nay kiến nghị của ông đã thu được hơn 4000 chữ ký. Ông có nhận xét như thế nào về sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân cho kiến nghị đó?

TS Nguyễn Quang A: Nếu tất cả hơn 4300 người ký đã đọc kiến nghị, lấy trên mạng xuống, giới thiệu cho người khác, in ra, sao ra cho các thành viên trong gia đình, trong cơ quan, vận động người khác cũng tham gia tìm hiểu kiến nghị, cho biết chính kiến, thì con số người ủng hộ có thể lên tới hàng trăm ngàn từ đây đến cuối năm.

Có người cho rằng có ký thì cũng vô bổ thôi, vì người ta cũng không chấp nhận, giống như những lần trước thôi. Nhưng nếu có hàng trăm ngàn người ký, ghi rõ tên tuổi địa chỉ, chứ không phải bằng phiếu kín, thì con số đó có thể có giá trị bằng nhiều triệu phiếu kín. Những người có chức có quyền, nếu tỉnh táo, chắc chắn phải để ý đến tiếng nói đó, chứ không thể bỏ qua được.

RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Nguyễn Quang A.

Ngoại trưởng Mỹ ủng hộ Philippines đưa tranh chấp Biển Đông ra tòa án quốc tế

VOA, 15.02.2013

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry

 
Tin liên hệ

Tân Ngoại trưởng Hoa Kỳ, John Kerry, ủng hộ quyết định của chính phủ Philippines đưa cuộc tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông ra trước tòa án trọng tài quốc tế.

Báo chí Philippines hôm nay dẫn lời Ngoại trưởng nước này, ông Albert Del Rosario, cho biết trong cuộc điện đàm tối 13/2, Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói ông ủng hộ các nỗ lực của Manila trong việc dùng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982, để giải quyết các tuyên bố chủ quyền chồng chéo nhau tại Biển Đông.

Công ước mà 163 nước trên thế giới đã nhất trí ký kết bao gồm Philippines, Việt Nam, và Trung Quốc quy định quyền sử dụng các khu vực ngoài khơi và đặt các ranh giới về chủ quyền cho các nước duyên hải.

Tháng rồi, Philippines loan báo nhờ tòa án của Liên hiệp quốc xác định rằng các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông theo bản đồ đường lưỡi bò 9 đoạn là vô giá trị và trái với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Trung Quốc phản đối hành động này và tố cáo Philippines làm tình hình thêm căng thẳng trong khi Bắc Kinh không ngừng gia tăng các hoạt động hầu giành chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông.

Sự ủng hộ của Ngoại trưởng Mỹ đối với hành động pháp lý của Philippines chống lại Trung Quốc là sự ủng hộ có tính quan trọng và ở cấp cao nhất mà Manila nhận được cho tới nay dù Hoa Kỳ vẫn nhấn mạnh rằng không đứng về bên nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Ngoại trưởng Philippines cho biết ông Kerry cũng là một trong số các nhân vật cổ động cho Philippines mạnh mẽ nhất tại Thượng viện Hoa Kỳ.

Giới phân tích e rằng tranh chấp giữa Trung Quốc, Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei, và Đài Loan tại vùng biển này có thể biến thành một điểm nóng kế tiếp ở Châu Á.

Cựu Tổng thư ký của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN, ông Surin Pitsuwan, từng cảnh báo rằng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông có nguy cơ trở thành một ‘Palestine của Châu Á’,  gây xung đột, chia rẽ các nước và bất ổn cho toàn khu vực.

Nguồn: Inquirer/GMA News

Quân Đội, những người lính của Nhân Dân còn ngủ

Quân Đội, những người lính của Nhân Dân các anh còn ngủ đến bao giờ ?

Dương Thu Hương

   Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác. 
     Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại.  Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác.
Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy. 
     Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng.  Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng.  Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn.  Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục.  Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.
     Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung.  Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số.  Họ quên.  Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . .
     Họ quên và họ quên.  Vậy họ nhớ điều gì?
     Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc.  Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em.  Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn.  Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.
     Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.
     Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác.  Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen.  Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.
     Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin.  Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ.  Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.
     Nghe tưởng như chuyện đùa.  Nghe như tiếu lâm.  Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt.  Chỉ có ở Việt Nam , nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó.  Chỉ có ở xứ Việt Nam , khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.
     Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người.  Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy.  Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành.  Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam , đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.
Đã là lái buôn, ắt phải tham.  Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận.  Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân.  Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc.  Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm.  Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.
     Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:
     “Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . .”
     Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng.  Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân.  Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.
     Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?
     Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật.  Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.
     Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi.
     Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày.  Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.
     Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.
     Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án.  Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.
     Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.
     Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó.  Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông.  Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.
     Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu. 
     Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây.  Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.
     Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
     Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?
     Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.
     Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
     Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc.  Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?
     Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị.  Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?
Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh.  Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.
     Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.
     1.  Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều.  Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai.  Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.
     2.  Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước.  Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.
     Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống.  Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình. 
     Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử.  Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”.  Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.
     Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là những con cẩu ghẻ.  Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.
     Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu.  Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng.  Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.
     Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta.  Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc.  Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh.
     Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nha“
DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.
     Tại sao lại là hổ và dê?
     Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.
     , vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽthấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó.  Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó.
    Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á.  Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?
     Bauxite ư? Trò lừa đảo!
     Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam , tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria.  Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
     Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.
     Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . .  họ không cần quan tâm.  Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng.  Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.
     Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện.  Phản biện tức là phản động.  Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm.  Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn.  Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng.  Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc.  Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết.  Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ”
     Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà.
Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.  
      Bác chúng em
      Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng.  Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.
     Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công.  Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.
     Nhưng ông Lê Giản đã chết và “Người công an nhân dân” cũng đã chết theo.  Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.
     Tôi chứng minh:
     Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư. 
    Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. 
Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên.  Tuyệt đối im lặng.  Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.
     Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!
     Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy.  Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.
     Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.
     Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?
     Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn.  Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”.  Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.
     Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.
     Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?
Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ?
     Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời.  Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.
     Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm.  Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng.  Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.
     Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng.  Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger.  Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân. 
     Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi.  Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng.  Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”.  Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn.  Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.
     Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.
     Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người.  Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.
     Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .
     Sự tính toán luôn có lợi cho con người.  Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước.  Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt.
Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này.  Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân. 
Dân Việt :
     Ai là dân Việt?
     Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?
     Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?
     Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.
     Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó.  Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó.  Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được. 
     Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
     Đó là một nhận định sáng suốt.
     Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam .  Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%.  Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm.  Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.
     Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt.  Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới.  Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?
     Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam , phải đánh bọn chúng.  Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?
     Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?
Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
     Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán.  Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
     Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam .  Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “ Nam tiến”!
Nam tiến, nam tiến và nam tiến!
     Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527.  Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ.   Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp.  Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí.  Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai.  Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.
     Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.
     Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ.  Chúng ta không thể Nam tiến.  Trước mặt chúng ta đã là biển.  Chúng ta tiến đi đâu?
Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.
     Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một chính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh.  Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu.  Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.
     Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung.  Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”.  Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.
Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.
     Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó.  Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi. 
     Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.
     Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương.
    Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ.
    Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?

DƯƠNG THU HƯƠNG

Nhược điểm kinh tế của Việt Nam

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA. 2013-02-14

Sau một cái Tết khá ảm đạm, dân Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế trong năm con rắn. Nhưng đâu là vấn đề, đâu là giải pháp và ai có trách nhiệm giải quyết?

RFA photo. Một khu chợ vỉa hè ở Hà Nội

Thực trạng

Vũ Hoàng: Xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa trong chương trình phát thanh đầu tiên của mục Diễn đàn Kinh tế vào năm Quý Tỵ. Thưa ông, dù nhiều người còn nghỉ Tết tại Việt Nam, sinh hoạt lễ lạt năm nay có vẻ kém khởi sắc và mối lo về kinh tế sẽ lại sớm trở về ám ảnh mọi người. Trong chương trình đầu tiên của năm con rắn, xin đề nghị ông phân tích các vấn đề gì ông đánh giá là quan trọng nhất cho nền kinh tế của Việt Nam.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, tôi xin được kính chào quý thính giả gần xa của chúng ta, nhất là ở tại Việt Nam.

Về câu hỏi của ông, tôi xin nhắc tới một cuộc khảo sát của Ngân hàng Thế giới với sự tham gia của giới hữu trách tại Việt Nam, được thực hiện năm ngoái nhưng vẫn có giá trị khá biểu hiện về tâm tư của người dân ở trong nước. Kết quả khảo sát đã được Ngân hàng Thế giới phổ biến năm ngoái và nhắc lại trong báo cáo cuối năm 2012 về kinh tế Việt Nam.

Số là khi được hỏi về ba loại vấn đề họ cho là đáng lo nhất của Việt Nam, những người được thăm dò ý kiến nêu ra nhận định đáng chú ý. Trong 10 vấn đề được xem là đáng quan tâm nhất, chỉ có ba vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế. Đó là, đứng hạng nhất, vật giá gia tăng, với 44% cho là đáng lo nhất. Hai vấn đề kinh tế kia đứng chín và hạng 10 ở cuối bảng, đó là lợi tức và việc làm. Bảy vấn đề còn lại được nhiều người cho là đáng lo nhất đều ở ngoài lĩnh vực thuần túy kinh tế, mà thuộc trách nhiệm của nhà nước. Theo thứ tự từ cao đến thấp là 1) tai nạn giao thông, 2) vệ sinh thực phẩm, 3) tội ác xã hội, 4) tham nhũng, 5) ô nhiễm môi sinh, 6) phẩm chất của dịch vụ y tế, và 7) phẩm chất của giáo dục. Tôi xin được nêu vài nhận xét về cuộc khảo sát này.

Vũ Hoàng: Chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên về cuộc khảo sát ấy, ông nhận xét thấy như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Người lạc quan chỉ nhìn thấy ly nước đã đầy một nửa mà không nói đến cái phần nửa vơi, thì cho là trong năm 2011 và đầu năm 2012, tình hình kinh tế đã có cải thiện nên người dân chỉ chú ý đến ba loại vấn đề thuộc kinh tế, còn lại là bảy vấn đề thuộc về xã hội! Riêng về chuyện đáng lo nhất của họ là vật giá gia tăng thì ta nhớ lạm phát đã hoành hành mạnh và lên tới đỉnh cao là 23% vào giữa năm 2011 nên đầu năm 2012 mới là vấn đề đáng ngại, chứ ngày nay thì người ta có thể còn lạc quan hơn thế dù sự thật sẽ không hẳn tốt đẹp như vậy!

Và bước sang bảy loại vấn đề xã hội mà nhiều người cho là đáng ngại nhất như tôi vừa nhắc lại ở trên, ta thấy trật tự và an toàn xã hội là những mối bận tâm thiết thực trước mắt. Điều này có thể hiểu được. Nhưng đáng chú ý hơn thế là loại vấn đề cơ bản mà lâu dài, như ô nhiễm môi sinh hay giáo dục bất cập thì lại có mức quan tâm thấp hơn. Và then chốt hơn vậy, an ninh quốc gia và an toàn lãnh thổ của Việt Nam lại không được nhắc đến. Vì sao lại như vậy?

Tôi lại nhớ đến cuộc khảo sát của một cơ quan Pháp vào năm kia, khi cho thấy người Việt Nam thuộc loại lạc quan nhất thế giới! Ta có thể nêu câu hỏi về cách thức tiến hành khảo sát và giá trị biểu trưng của dân số mẫu, hoặc về hiện tượng tâm lý khá phổ biến của xã hội loài người, là chối từ thực tế khi thực tế ấy đã thay đổi, một hiện tượng xuất phát đầu tiên từ lãnh đạo rồi mới thấm xuống người dân. Bây giờ chúng ta mới trở lại đề tài của mình, là các vấn đề kinh tế của Việt Nam. Tôi xin được phép nói về chuyện gần rồi mới đến chuyện sâu xa trong cốt tủy.

Viễn ảnh

Hang-tet_banh-keo-250.jpg
Bánh đậu xanh bán vào dịp tết tại một siêu thị ở Hà Nội. RFA photo

Vũ Hoàng: Nói về chuyện gần và viễn ảnh kinh tế của năm con rắn, ông thấy ra những gì?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Việt Nam lệ thuộc vào thị trường quốc tế, và nếu xét theo hai tiêu chuẩn quan trọng là tỷ trọng của ngoại thương trong tổng sản lượng kinh tế và khối tiền tệ lưu hành so với tỷ số dự trữ ngân hàng, Việt Nam bị lệ thuộc nặng nhất khu vực Á châu Thái bình dương. Vậy mà năm nay thị trường quốc tế chưa khởi sắc sau năm năm èo uột và dù các nước đang phát triển tại Đông Á có hy vọng tăng trưởng khá nhất, tình hình chung của kinh tế toàn cầu vẫn chưa sáng sủa nên viễn ảnh kinh tế của Việt Nam vẫn là tăng trưởng thấp.

Xét vào chi tiết, năm qua, đà tăng trưởng sa sút có dấu hiệu đáng ngại nhất là trong khu vực chế biến vì không chỉ tăng trưởng chậm hơn mà còn thụt lùi. Và suy thoái nặng nhất là từ doanh nghiệp nhà nước. Nhưng hậu quả trầm trọng hơn thế là có tới 10 vạn doanh nghiệp tư nhân đã phá sản hoặc ngưng hoạt động, không trả thuế. Nghĩa là thất nghiệp sẽ là vấn đề. Vậy mà cuộc khảo sát mà ta vừa nói đến lại cho thấy chỉ có 15% những người được thăm dò ý kiến cho là đáng quan tâm, tức là vấn đề ít được chú ý nhất. Phải chăng, đấy là hiện tượng chối bỏ thực tế?

Vũ Hoàng: Ông chú ý đến hoàn cảnh bi quan của khu vực chế biến mà ta cũng biết là về cơ bản, Việt Nam đi vào công nghiệp hóa qua việc làm gia công để xuất khẩu ra ngoài. Nếu khu vực chế biến ấy lại sa sút thì hiển nhiên là ngoài nguy cơ thất nghiệp, ta còn thấy ra đà sút kém về ngành ráp chế cho xuất khẩu. Có phải như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đáng ngẫm hơn thế là năm qua, Việt Nam lại đạt mức xuất khẩu cao bất ngờ mà không chỉ nhờ bán dầu thô và dầu thô lại có giá. Nhìn sâu hơn vào cơ cấu của số hàng bán ra ngoài, ta thấy ra nhiều vấn đề như mặt trái của bức tranh màu hồng.

Thứ nhất, về nông sản và lương thực như cà phê hay gạo thì lượng có tăng mà giá không tăng nên mối lợi thật ra chỉ là tương đối. Quan trọng và đau buồn hơn vậy là Việt Nam xuất khẩu gạo rất mạnh và có thể vượt qua Thái Lan mà nông dân lại không được hưởng kết quả vì nguồn lợi lại nằm trong tay các công ty thu mua và xuất cảng, thuộc khu vực nhà nước.

Vũ Hoàng: Ông nêu ra nhận xét đáng chú ý và phản ảnh sự ưu lo của nhiều người khi nói đến số phận nông dân Việt Nam, ngoài cái nạn bị cướp đất mà không được bồi thường thoả đáng.

Từ hai năm nay, người ta đã nói yêu cầu cải tổ doanh nghiệp nhà nước mà chưa thấy làm việc gì cụ thể trong thực tế, có thể là vì những mắc mứu về quyền lợi ở trên cùng.
Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa Việt Nam có thể vượt Thái Lan để thành nước xuất khẩu gạo số một mà nông gia vẫn bị thiệt ở gốc trong khi các cơ sở của nhà nước ở ngọn thì chiếm lợi thế.

Thứ hai, về cơ cấu, sức xuất khẩu mạnh nhất là từ ngành chế biến áo quần, giày dép và đồ gỗ hay cơ phận điện tử như máy tính, điện thoại. Nhưng loại sản phẩm hạ đẳng và thâm dụng nhân công vì cần nhiều lao động như áo quần giày dép hay đồ gỗ, lại tùy thuộc vào nhập lượng mua từ bên ngoài nên trị giá đóng góp của Việt Nam thật ra chưa cao. Tức là ta vẫn làm gia công cho thiên hạ và muốn bán nhiều thì phải mua nhiều và lệ thuộc vào sức mua của thiên hạ.

Thứ ba, loại sản phẩm gọi là cao kỹ, vì đòi hỏi kỹ thuật cao, như linh kiện điện tử hay phụ tùng điện thoại vẫn chỉ là gia công mà ít khả năng chuyển giao công nghệ tỏa rộng cho cả xã hội để doanh nghiệp Việt Nam cũng học được nghề mà bước lên trình độ sản xuất có giá trị đóng góp cao hơn. Nôm na thì mình vẫn chỉ là khâu phụ, kiếm tiền ít hơn và còn chịu thiệt khi thiên hạ tìm ra nguồn cung cấp rẻ hơn.

Đã vậy và đây là vấn đề đáng quan ngại cho những ai làm chính sách là trong đà gia tăng của xuất khẩu nhờ bắp thịt hơn trí não, loại doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoại quốc lại chiếm đa số. Về kim ngạch, khu vực nội địa chỉ được có hơn 37%, và trong khu vực này, ta kể cả dầu khí nằm trong tay các tập đoàn nhà nước, chứ tư doanh nội địa thì còn yếu. Xét cho kỹ hơn, ta còn thấy ra một vấn đề khác là dù xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung có tăng thì phần của doanh nghiệp nhà nước lại giảm! Đây là loại vấn đề nằm trong cơ cấu kinh tế và chính trị.

Dù được coi là khu vực chủ đạo về kinh tế nên được ưu tiên nâng đỡ, doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam ít hiệu năng, kém sức cạnh tranh, là con nợ như con nghiện và trở thành hang ổ của tham nhũng. Từ hai năm nay, người ta đã nói yêu cầu cải tổ doanh nghiệp nhà nước mà chưa thấy làm việc gì cụ thể trong thực tế, có thể là vì những mắc mứu về quyền lợi ở trên cùng.

Trách nhiệm thuộc về ai

000_Hkg8119375-250.jpg
Phòng giao dịch chứng khoán Sacombank ảm đạm hôm 20/12/2012. AFP photo

Vũ Hoàng: Đó là về lĩnh vực sản xuất, chứ trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng thì các chuyên gia kinh tế tại Việt Nam cũng đang báo động về sự yếu kém và những khoản nợ sẽ mất mà chẳng ai biết là bao nhiêu và ai sẽ chịu thiệt. Ông nghĩ sao về tình trạng này?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu tạm lấy cơ thể học mà so sánh thì ta có thể nghĩ tới tập đoàn nhà nước như bộ xương sống vì chính quyền muốn vậy. Nó không cân bằng và thiếu sức chịu đựng. Còn tư doanh thì cũng tựa như bắp thịt để tạo ra sự chuyển động trong sinh hoạt và hệ thống ngân hàng là bộ phận tuần hoàn có chức năng bơm máu cho cơ thể. Hệ tuần hoàn ấy bị ô nhiễm vì các khoản nợ xấu, khó đòi nên sẽ mất. Mà khi nó chỉ bơm máu cho cơ sở nào có quan hệ tốt thì đấy là một vấn đề.

Vì hậu quả là ngày nay nhiều doanh nghiệp bị thiếu máu vì vay không được nên lâm vào cảnh gọi là chết lâm sàng. Trong khi ấy vì ngân hàng lại bơm tiền vào nghiệp vụ đầu cơ về cổ phiếu và bất động sản nên mới bị gánh nợ xấu và gieo họa cho cả nền kinh tế. Nhưng toàn bộ vấn đề của cơ thể suy nhược này nằm tại bộ não, nằm trong hệ thống chính trị vì đã để xảy ra tình trạng nguy ngập này mà không chịu cải sửa.

Vũ Hoàng: Vì thời lượng có hạn, chúng ta sẽ quay trở lại bộ máu tuần hoàn là tiền bạc của nền kinh tế Việt Nam, nhưng tạm tổng kết cho chương trình hôm nay, ông nghĩ loại vấn đề nào mới là trầm trọng nhất?

Trách nhiệm thuộc về chính quyền, là cơ chế vốn dĩ đã biết vì được quốc tế khuyến cáo từ 20 năm nay về những gì cần cải tổ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Vừa qua, chúng ta đã có năm chương trình liên tiếp về các yếu tố đem lại sự thịnh vượng cho các quốc gia và về những vấn đề gây ra sự nghèo khốn. Câu kết luận của hôm nay là dân Việt Nam vẫn còn nghèo và nếu xét theo tiêu chuẩn của quốc tế để đánh giá mức độ nghèo khốn thì thật ra còn nghèo hơn người ta thường nghĩ. Và sau hai thập niên bất cập với quá nhiều vấn đề mà tiết mục chuyên đề này đã phân tích từ 16 năm qua, kể từ Tết Đinh Sửu 1997, việc giải quyết nạn nghèo đòi ấy thật ra sẽ khó khăn hơn trong giai đoạn tới và nếu không khéo thì Việt Nam còn tụt lui vào hố sâu nghèo khổ của năm xưa. Trách nhiệm thuộc về chính quyền, là cơ chế vốn dĩ đã biết vì được quốc tế khuyến cáo từ 20 năm nay về những gì cần cải tổ. Cơ chế này ngần ngại cải cách và không chịu trưởng thành vì chỉ lo cho sự tồn tại của chính nó, với cái giá là người khác phải trả.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi đầu năm.

 

Theo dòng thời sự:

Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.

Vì sao Đặng Tiểu Bình đánh VN năm 1979?

Họp mặt Đặng - Carter 31/1/1979
Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình thăm Hoa Kỳ và họp báo với Tổng thống Jimmy Carter ngày 31/1/1979

Nhắc lại Chiến tranh Trung – Việt 32 năm về trước, một số nguồn sử liệu gần đây nhấn mạnh hơn đến vai trò riêng của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình trong cuộc tấn công Trung Quốc gọi là ‘phản kích tự vệ’.

Trong phần gửi cho BBC hôm 16/2 vừa qua, ông Dương Danh Dy, nhà ngoại giao Việt Nam từng làm việc tại Trung Quốc, có nói đến cách nhìn cuộc chiến từ hai phía.

Tuy nhiên, văn bản này còn cho biết thêm về vai trò quan trọng của ông Đặng Tiểu Bình trong quyết định đánh Việt Nam, trong bối cảnh quốc tế có cả quan hệ với Washington và Moscow.

Nay BBC Tiếng Việt khai thác thêm các góc độ trong tài liệu này và so sánh với một số đánh giá đã nêu từ trước về cuộc chiến 1979, sự kiện vẫn chưa được thảo luận công khai ở cả Việt Nam và Trung Quốc.

‘Hoa Kỳ không tán thành’

Đặng Tiểu Bình được trích lời nói rằng ông đã tuyên bố dạy cho Việt Nam ‘một bài học’ trước đó, khi thăm Hoa Kỳ, mở đầu chiến lược kiên kết với chính quyền Carter, nhằm chống lại Moscow và các đồng minh, trong đó có Hà Nội.

Ông Đặng nói với các tướng lĩnh Quân Giải phóng rằng Hoa Kỳ không tán thành việc Bắc Kinh trừng phạt Hà Nội nhưng cũng giúp một ít tin tình báo.

Cuộc đưa quân sang Campuchia của Việt Nam khi đó cũng là chủ đề đáng được nhắc lại vì phía TQ cho rằng cuộc chiến 1979 chủ yếu để ‘dạy cho VN một bài học’ vì ‘xâm lăng Campuchia’, nước khi đó là đồng minh, và hiện nay cũng đang gần lại với Trung Quốc trong chiến lược Đông Nam Á của Bắc Kinh.

Trong bản dịch của học giả Dương Danh Dy nhân kỷ niệm 32 năm Chiến tranh Biên giới, ông Đặng tiết lộ:

“Khi thăm Mỹ tôi nói cho Việt Nam bài học, nước Mỹ không tán thành. Chúng ta sử dụng hành động tương đối lớn sợ dẫn tới phản ứng lớn của Liên Xô, nước Mỹ một mặt phản đối chúng ta trừng phạt, nhưng mặt khác cũng thông báo cho chúng ta chút tình báo, nói quân đội Liên Xô về căn bản không động đậy, trên mấy ngàn cấy số biên giới( Trung Xô) chỉ có 54 sư đoàn không đầy đủ quân số,”

Có vẻ như chi tiết này khiến TQ tiến hành cuộc chiến họ gọi là ‘Đối Việt tự vệ phản kích chiến’ nhanh chóng và sau khi tàn phá sáu tỉnh biên giới của VN thì rút quân về:

“Ba phần tư binh lực Liên Xô bố trí tại châu Âu, nên muốn tấn công Trung Quốc qui mô lớn thì phải chuyển dời trọng điểm chiến lược, ít nhất phải điều 1 triệu quân từ châu Âu về, việc này không kịp vì thời gian hành động của chúng ta không dài.”

Những người lính Trung Quốc hành quân trong cuộc chiến

Trong bài nói chuyện đó, ông Đặng Tiểu Bình cũng gọi Việt Nam là ‘Cuba Phương Đông’, hàm ý nước này là ‘tay sai Liên Xô’, và gọi các lãnh đạo Hà Nội là ‘điên cuồng’.

Với giới trí thức bên ngoài, kể cả ở Phương Tây, cuộc chiến ngắn ngày nhưng dữ dội là một cột mốc quan trọng để đánh giá Trung Quốc trong quá trình tìm con đường mới, thoát khỏi thời kỳ tự cô lập của Mao Trạch Đông, và xác định vị trí trên trường quốc tế.

Vai trò quyết định

Trong một nghiên cứu hồi 2010, tác giả Trương Tiểu Minh từ U.S. Air War College, Hoa Kỳ cho rằng ông Đặng có vai trò cá nhân nổi bật trong quyết định đánh Việt Nam.

Theo ông, nhìn từ quan điểm của ban lãnh đạo TQ khi đó thì có ba yếu tố khiến bối cảnh xảy ra cuộc chiến trở nên khả thi.

Đó là quan hệ đặc biệt giữa Moscow và Hà Nội sau hiệp định 1978; vai trò thống trị của Việt Nam ở Đông Dương và quan hệ xấu đi nghiêm trọng giữa Bắc Kinh và Hà Nội.

Còn về nội bộ, theo TS Trương, chính việc thăng chức của ông Đặng Tiểu Bình, từ vị trí phó thủ tướng khi Mao chết năm 1976, lên chức vụ cao nhất, nắm Quân uỷ Trung ương tại Hội nghị Trung ương 3, Ban Chấp hành Trung ương khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là yếu tố quyết định cho việc đánh VN.

Trong bài dịch của học giả Dương Danh Dy, ông Đặng tỏ ra có quan điểm thù ghét Việt Nam một cách khác thường.

Trong phát biểu ngày 16/3/1979, ông được trích lời nói:

“Đồng thời khi kinh doanh chuyện chống đối Trung Quốc, Việt Nam đã đánh nhau nhiều năm, ngay lúc chúng ta tăng cưòng viện trợ cho chúng, có công sự đã xây bẩy năm, có cái đã được ba năm, chỗ nào cũng thấy công sự, tích trữ rất nhiều vật tư, rất nhiều vật tư là do chúng ta viện trợ, gạo, đạn, vũ khí, lần này lấy về một loạt, Việt Nam cậy có hiệp ước Xô Việt mới dám như thế.”

Một số nhà quan sát đã từng cho rằng ông Đặng phụ trách chuyện viện trợ của TQ cho Hà Nội thời chiến tranh Mỹ – Việt nên cảm thấy bị ‘phản bội’ bởi thái độ quay sang Liên Xô của nước Việt Nam cộng sản sau chiến tranh.

Vì thế, quyết định trừng phạt của ông được nói rõ:

“Nó cũng nghĩ là cậy hiệp ước này kéo Liên Xô xuống nuớc, cũng cậy có hiệp ước này cho rằng chúng ta không dám áp dụng trừng phạt qui mô tưong đối lớn. Ngay trước khi chúng ta ra quân mấy ngày nó còn dự đoán rằng chúng ta chỉ có hành động phạm vi nhỏ hai sư đoàn. Chúng ta hạ quyết tâm này đúng là đã tỉnh táo đánh giá phản ứng của phía bắc lớn đến đâu.”

Các nguồn tin của phía Việt Nam, chẳng hạn như lời kể của cựu đại tá Bùi Tín, cho rằng mâu thuẫn giữa ông Lê Duẩn và Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình lên cao trước khi xảy ra cuộc chiến năm 1979.

Một số giới tại Việt Nam tin rằng ban lãnh đạo Bắc Kinh không thực sự muốn hai miền Nam Bắc VN thống nhất dưới sự lãnh đạo của Hà Nội.

Ngoài ra, trong dư luận Việt Nam có niềm tin rằng Trung Quốc chỉ lợi dụng tình thế để kiếm lợi về địa chính trị và cả lãnh thổ, với bằng chứng là vụ đưa quân chiếm Hoàng Sa năm 1974 từ tay Việt Nam Cộng Hòa.

Cố vấn an ninh Brzezinski đưa ra chiến lược lôi kéo Trung Quốc

Hệ quả lâu dài

Về vai trò của Mỹ, các bình luận cho tới nay phần nhiều đồng ý rằng chiến lược lôi kéo Trung Quốc để bao vây Liên Xô của cố vấn an ninh Zbigniew Brzezinski là yếu tố cơ bản để Washington liên kết với Bắc Kinh trong vấn đề Đông Dương.

Điều này cũng được chính giáo sư Brzezinski, người gần đây lại một lần nữa kêu gọi chính quyền Obama xây đắp trở lại quan hệ với Trung Quốc, xác nhận trong nhiều bài viết và sách của ông.

Đổi lại, Trung Quốc được mở lối vào lại với Phương Tây để hiện đại hóa nền kinh tế nhờ các thí điểm về đầu tư tư bản và công nghệ.

Về phía Hoa Kỳ, chiến lược Brzezinski tạo liên minh không tên với Trung Quốc khiến Washington phá vỡ khối xã hội chủ nghĩa châu Á mà không phải tham chiến.

Chiến tranh Biên giới 1979 và cuộc chiến Việt Nam – Campuchia đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế này, xung đột quân sự nổ ra giữa các nước cùng ý thức hệ.

Kế hoạch Bốn Hiện Đại hóa của Trung Quốc cuối thập niên 1970, đầu 1980 có cả phần về quân sự.

Và dù thiệt hại nặng trong cuộc chiến biên giới, Quân Giải phóng Trung Quốc đã rút kinh nghiệm trong việc tổ chức và tiến đến hiện đại hóa.

Việc tăng cường quân bị theo mô hình dùng không quân, hải quân và tên lửa nhiều hơn bộ binh, lực lượng chịu nhiều thiệt hại năm 1979, khiến Trung Quốc ngày nay trở thành một cường quốc khu vực với tham vọng toàn cầu.

Còn với Việt Nam, ngoài thiệt hại nghiêm trọng về vật chất ở các tỉnh biên giới phía Bắc, xung đột vẫn kéo dài, gây chảy máu nền kinh tế.

Cuộc chiến và việc đóng quân lại Campuchia cũng khiến Hà Nội bị cô lập nhiều năm về chính trị và kinh tế.

10 năm sau, cùng thời gian cách mạng dân chủ rung chuyển Đông Âu, ban lãnh đạo Việt Nam đã lại ngả sang Bắc Kinh qua cuộc gặp Thành Đô, tạo ra một loạt hệ luỵ mới cho quan hệ song phương tới ngày nay.

Vấn đề biên giới trên bộ và trên biển dần dần được giải quyết nhưng hòa bình qua đường biên giới, giao thương tăng nhanh với phần lợi nghiêng về Trung Quốc, vẫn chưa thực sự đem lại hòa giải giữa hai nước.

Việc các trang mạng cá nhân và blog ở Việt Nam nhắc lại nhiều về cuộc chiến 1979 cho thấy giới trí thức e ngại Trung Quốc vẫn muốn lên tiếng, trong khi truyền thông chính thức không đả động gì đến chủ đề lịch sử này.

Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế tố cáo Việt Nam khống chế Internet

Anh Vũ, rfi, 13/2/13

Các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long và Lê Công Định, trong phiên xử hôm 20/01/2010 (Reuters /VNA)

Các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long và Lê Công Định, trong phiên xử hôm 20/01/2010 (Reuters /VNA)

Hôm nay, 13/02/2013, Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế (FIDH) phối hợp với Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam đã ra báo cáo lên án chính quyền Hà Nội gia tăng trấn áp các Blogger dưới cái cớ « xâm phạm an ninh quốc gia », đồng thời kêu gọi chính phủ Việt Nam tôn trọng quyền tự do ngôn luận, trả tự do cho những người viết blog, nhà báo tự do đang bị cầm tù vì đã bày tỏ chính kiến cá nhân.

Với đề tựa « Blogger và những nhà ly khai trên mạng đằng sau song sắt nhà tù : Sự khống chế của Nhà nước với internet », bản báo cáo 42 trang nêu lên thực tế từ năm 2010 chính quyền Việt Nam đã gia tăng trấn áp các blogger và những nhà ly khai đấu tranh trên mạng internet.

Báo cáo của FIDH và Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam nêu con số 32 blogger hiện đang phải thi hành những bản án nặng nề vì lý đã đưa lên mạng internet những bài viết, những ý kiến bị chính quyền đánh giá là có nội dung nhằm mục đích « lật đổ » chế độ. Chính những bài viết trên blog chuyển tải chính kiến ôn hòa về những vấn đề chính trị xã hội của đất nước đã khiến không ít các blogger ở Việt nam phải chịu án tù từ 2 đến 16 năm.

Trong vòng một năm qua, theo bản báo cáo, tại Việt Nam có 22 người viết blog và ly khai mạng đã bị kết án tống cộng 133 năm tù và 65 năm quản chế vì hình thức đấu tranh bất bạo động trên internet này. Điển hình là ngày 09/01/2013, tòa án tỉnh Nghệ An đã kết án 14 người gần 100 năm tù cộng lại, cũng chỉ vì họ đã bày tỏ chính kiến của một cách tự do.

Ngoài ra, báo cáo cũng nêu lên 18 trường hợp các nhà đấu tranh ôn hòa đang còn ở trong tù bị kết án theo điều 88 của Bộ Luật Hình sự, một điều luật áp cho tội danh mơ hồ « tuyên truyền chống Nhà nước », nhưng lại là một công cụ trấn áp đối lập thường xuyên được chính quyền sử dụng.

Theo báo cáo, hiện tại chính quyền Việt Nam đang chuẩn bị ra một sắc lệnh mới quản lý internet với nhiều điều khoản được biết đến là không phù hợp với chuẩn mực quốc tế về bảo vệ nhân quyền.

Chủ tịch Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế, ông Souhayr Belhassen nhận định, Việt nam có môi trường kinh tế phát triển thuận lợi, nhưng lại là « một trong những nước có chế độ trấn áp tự do ngôn luận mạnh mẽ nhất trên thế giới ». Còn tổ chức Phóng viên không biên giới (Reporters sans frontières – RSF) so sánh Việt Nam như là « nhà tù lớn thứ 2 trên thế giới của các công dân mạng, sau Trung Quốc ».