Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không (III)?

Posted by adminbasam on 19/01/2016, Blog RFA

Nguyễn Thị Từ Huy

19-1-2016

Tiếp theo Phần IPhần 2

Ta hãy trở lại với câu hỏi cuối bài trước : « Ông TBT có thực sự muốn làm trong sạch Đảng, có thực sự muốn chống tham nhũng ? » Chúng ta không ở trong đầu TBT Nguyễn Phú Trọng, cũng không thể đi guốc trong bụng ông ấy, để mà đoán được ông ấy có thực sự muốn hay không. Điều chúng ta có thể làm là phân tích hành động và lối sống của ông ấy.

Theo những gì mà ta có thể kiểm tra qua hệ thống truyền thông, chính thống cũng như phi chính thống, ông Trọng không mắc phải các tai tiếng mà hầu hết các đồng chí của ông đều không tránh khỏi.

Ông không có tai tiếng về phụ nữ như người tiền nhiệm của ông là cựu TBT Nông Đức Mạnh. Ông không có tai tiếng về việc đặt con cái vào các vị trí quyền lực. Xin tham khảo một bài viết trên blog của nhà văn Mai Tú Ân, tổng hợp thông tin về các thái tử đỏ qua một danh sách con ông cháu cha thuộc loại « khủng » ở Việt Nam. Trong danh sách này, không có con cái của ông Nguyễn Phú Trọng. Trên báo chính thống cũng không tìm thấy thông tin nào về việc con cái của ông Trọng được bổ nhiệm vào các chức vụ quyền lực. Hoàn toàn đối lập với các động thái và toan tính của người đang được xem là đối thủ chính trị của ông. Ông TBT đương nhiệm cũng không có tai tiếng về tham nhũng. Tình cờ gần đây một người từng là quan chức trong ngành báo chí, bà Hồ Thu Hồng, cũng khẳng định điều này trên blog cá nhân trong một entry thiên về chỉ trích ông Trọng, tôi trích nguyên văn : « Ưu điểm lớn nhất của ông, đó là sự trong sạch về kinh tế, khộng tham gia vào các “nhóm lợi ích” » (Xem bài « Ba mươi chưa phải là tết »).

Về việc ông TBT không tham nhũng, tôi từng được trực tiếp nghe bình luận của một lãnh đạo cấp tỉnh, ở thời điểm khi tôi vẫn còn có thể có được một vị trí công việc trong xã hội Việt Nam (thời tươi đẹp ấy giờ đã quá xa xôi !!!), sau HNTW 6 ít lâu. Bên lề một hội nghị khoa học, một lãnh đạo cấp tỉnh có nói, tôi trích lại theo trí nhớ : « ông Trọng thực tâm muốn chống tham nhũng, nhưng điều ấy là không thể, bởi vì toàn bộ hệ thống dường như chỉ có mình ông là không tham nhũng mà thôi. Cho nên ông không thể chống nổi. » Nhận xét ấy được đưa ra một cách thành thực, không nhằm ca ngợi cũng không nhằm chỉ trích ông Trọng. Nhận xét ấy chỉ nhằm đưa ra một thực tế, và không phải là không có lý.

Quả thực như vậy, ông Trọng, dù chân thành muốn chống tham nhũng, ông đã không thể chống được, ông đã phải chấp nhận thua một cách công khai ở hội nghị Trung Ương 6, năm 2012. Từ đó, tham nhũng càng ngày càng trỗi dậy mạnh hơn lúc nào hết, bởi cơ chế xã hội hiện nay chính là điều kiện tốt nhất cho tham nhũng, và những người đi đầu trong tệ nạn tham nhũng sẽ củng cố quyền lực của họ bằng cách liên kết lại với nhau, để bảo vệ lẫn nhau, tức là để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Đó là điều mà bất kỳ một đầu óc nào có khả năng suy luận bình thường và khách quan cũng có thể nhận ra một cách dễ dàng. Vì thế mà dù Bộ chính trị (16 người) đã thống nhất 100% đề nghị một hình thức kỷ luật cả tập thể BCT lẫn « một đồng chí » trong BCT nhưng Ban Chấp hành Trung Ương (175 người) đã phủ quyết đề nghị này. Chúng ta sẽ trở lại với chi tiết này dưới đây.

Giờ đây, tôi cho rằng sai lầm của giới đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam là đã chế giễu những giây phút cảm xúc mà ông Trọng bộc lộ ở phiên bế mạc hội nghị Trung Ương 6. Còn ai khác trong bộ máy lãnh đạo có những biểu hiện cảm xúc thành thực như ông Trọng ? Lẽ ra chúng ta phải nhận ra điều ấy, nhận ra rằng ông Trọng là người duy nhất còn có những biểu hiện cảm xúc thành thực (tức là một biểu hiện thuộc về nhân tính) trong một thế giới mà hầu như tất cả đều đeo mặt nạ, đeo mặt nạ bằng chính gương mặt thật của mình. Nếu thử làm một bước phân tích ngoại hình và diện mạo, thì có thể thấy nhận xét trên đây không phải là vô căn cứ.

Cần phải nói thêm rằng, những năm gần đây, nở rộ hiện tượng các website nặc danh (dù là « Chân dung quyền lực » hay « Ý kiến đảng viên »…. thì đó đều là các website nặc danh, bởi không thể kiểm chứng tổ chức nào hay cá nhân nào chịu trách nhiệm về chúng) với mục đích là phục vụ cho cuộc đấu tranh vì quyền lực. Nếu ta quan sát kỹ sẽ thấy rằng các website đó không che giấu khuynh hướng của mình trong việc ủng hộ nhân vật nào hay hạ bệ nhân vật nào, việc này rất thống nhất trong các bài viết. Điều này nằm trong mục đích cốt lõi : thao túng và định hướng dư luận. Điều đáng nói là chưa thấy một blog hay một website « nặc danh » nào được lập ra để vừa đánh bóng tên tuổi cho Nguyễn Phú Trọng vừa triệt hạ đối thủ của ông Trọng (tuy nhiên xin lưu ý rằng, nhận xét này có thể không đứng vững vì có thể tôi không bao quát hết thông tin). Có thể là do ông Trọng không tham nhũng nên không có tiền để tổ chức những website như vậy, đòi hỏi những khoản chi trả không nhỏ cho đội ngũ kỹ thuật viên và quan trọng là đội ngũ bồi bút. Nhưng cũng có thể là ông đã không lựa chọn cách thức mang tính chất bá đạo (nếu dùng ngôn ngữ cung đình) hay bẩn thỉu (nếu dùng ngôn ngữ dân gian) đó, do ông vẫn còn liêm sỉ của một người được học hành.

Đến đây ta có thể phản bác bằng cách nói rằng ông Trọng thành thực hay không, có đạo đức hay không, không quan trọng. Quan trọng là ông ấy đã làm được gì, ông ấy có năng lực gì không. Phản bác này không phải là không có lý. Dường như các phát ngôn của ông Trọng đã để lại ấn tượng rằng ông là một người không có năng lực, và dân gian đã ghi lại ấn tượng này bằng cách đặt cho ông một biệt danh, cái biệt danh giờ đây đã trở nên quá nổi tiếng mà tôi không cần phải nhắc lại.

Tuy nhiên, nếu nhìn từ một góc độ khác, thì ta cũng có thể thấy rằng ông Trọng phải nhận cái biệt danh có tính miệt thị ấy là do ông thành thực, ông không mị dân, ông nói những gì ông nghĩ. Ông không cố tình tạo ra một hình ảnh tích cực nhờ phát ngôn, nhằm che đậy những hành vi tàn bạo được thực hiện trong bóng tối, như những kẻ mị dân vẫn chọn làm. Hệ thống của ông Trọng vận hành theo đúng cái mô hình mà ông tôn lên làm lý tưởng, mô hình toàn trị, ông Trọng không che giấu điều đó.

Một ví dụ cho thấy ông Trọng không phải mù quáng như là chúng ta vẫn nghĩ, đó là phát biểu của ông về việc « Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa». Câu này là một phát biểu trên báo chính thống, ví dụ trên báo Tuổi trẻ, có thể kiểm chứng, hoàn toàn không giống như những thông tin được tung ra một cách hỏa mù trong thời kỳ tiền đại hội XII này.  Một lần nữa giới đấu tranh dân chủ, trong đó có tôi, đã phạm sai lầm là chỉ trích và chế giễu Tổng bí thư về phát ngôn này. Nhưng nếu chúng ta bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn, chúng ta sẽ thấy rằng, chưa một Tổng bí thư nào ở Việt Nam phát biểu một ý tương tự, chưa một TBT nào dám thừa nhận điều mà ông Trọng đã thừa nhận. Phát biểu này cho thấy ông Trọng ý thức được phần nào tính chất không tưởng của chủ nghĩa xã hội.

Đồng thời cũng chưa một tổng bí thư nào dám thẳng thắn nhận định rằng trong cái bình quý được gọi là đảng cộng sản thực tế chỉ có chuột. Câu nói này khiến ông bị dư luận chỉ trích thậm tệ : « Đánh chuột đừng để vỡ bình ». Nhưng chúng ta cũng có thể nhìn nhận nó theo cách này : dù ông Trọng muốn nhìn nhận rằng đảng của ông là một cái bình quý, thì ông cũng đã đủ tỉnh táo để thấy rằng cái bình đó chứa đầy chuột : những kẻ tham nhũng. Ông Trọng, với tư cách là người đứng đầu đảng, nếu ông nhìn đảng của ông như một cái bình quý thì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng để nhìn thấy và nói ra rằng cái bình ấy dùng để chứa chuột, thì cần phải có sự thành thực và thẳng thắn. Đã có TBT nào có được một thái độ dám đối diện với thực tế như vậy, như thái độ của ông Trọng ?

Tôi tạm mượn biện pháp “tự phê bình” để nói rằng: rất có thể là sự chế giễu của chúng ta đã góp phần khiến Tổng bí thư trở nên cương quyết hơn, bảo thủ hơn trong sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, và có thể vì thế ông đã sắt đá hơn trong các chính sách đàn áp, bởi lẽ ông ấy nhầm tưởng rằng chúng ta là những kẻ phản động, và ông ấy không hiểu rằng những người đấu tranh cho dân chủ chỉ có một mục đích là hướng tới một xã hội công bằng hơn, tốt đẹp hơn, nhân văn hơn.

Dĩ nhiên, phân tích mang tính tâm lý học trên đây của tôi cũng chỉ là một phân tích cá nhân, quý vị có thể đồng tình hoặc phản đối. Và quý vị có thể lập luận rằng lãnh đạo Việt Nam cần tập quen với sự chế giễu của dân chúng. Tôi hoàn toàn đồng ý với lập luận này. Không chỉ riêng lãnh đạo, tất cả chúng ta cần tập quen với sự chỉ trích và chế giễu của người khác. Dân chủ cần khởi đi từ thái độ này, thái độ chấp nhận bị chỉ trích, bị phê phán và bị chế giễu. Nếu ta còn cảm thấy tổn thương khi bị người khác chỉ trích, và không chấp nhận để cho người khác chỉ trích, thì có nghĩa ta vẫn còn rất xa lạ với tinh thần dân chủ.

Trở lại với HNTW 6. Thất bại mà TBT thừa nhận công khai trong diễn văn bế mạc phần nào cho thấy Nguyễn Phú Trọng không phải là người nắm quyền quyết định, dù chỉ là trong lĩnh vực chống tham nhũng.

Tổng bí thư đương nhiệm có lẽ không có nhiều quyền như chúng ta tưởng. Rất có thể ông ấy bị vô hiệu hóa trên nhiều phương diện, và bị gán cho phải chịu trách nhiệm về những việc mà ông ấy không làm. Lưu ý rằng đây chỉ là một giả thiết, một giả thiết được nêu ra trên một số quan sát thực tế.

Chúng ta cũng đừng quên các sử gia quốc tế đã chỉ ra rằng Hồ Chí Minh – người hiện đang được đảng tôn lên thành thánh – cũng đã bị vô hiệu hóa ngay khi còn sống, từ những năm 60 trở đi quyền lực thực sự đã không còn nằm trong tay Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Trường hợp Hồ Chí Minh còn cần phải được soi sáng bằng các sử liệu, nhưng trường hợp Võ Nguyên Giáp thì tất cả chúng ta đều đã thấy rõ : từ vị trí đại nguyên soái lừng lẫy của các chiến dịch Điện Biên Phủ, sau hòa bình, Võ Nguyên Giáp bị đẩy xuống phụ trách sinh đẻ có kế hoạch. Tuy nhiên, dù vô hiệu hóa quyền lực của vị đại tướng này, chính quyền cộng sản vẫn buộc phải sử dụng uy tín và hình ảnh của ông mỗi khi cần đến, như là bằng chứng cho sự dối trá đã thuộc về bản chất của các chính thể cộng sản.

Đồng thời, những ai đã làm việc trong hệ thống, dù chỉ một ngày, đều hiểu điều này : quyền lực thực sự nằm trong tay những người mà chữ ký hoặc sẽ « ra tiền » hoặc sẽ « ra quyền », tức là quyền lực thực tế nằm trong tay bộ máy chính phủ, chứ không phải bộ máy đảng. Tuy nhiên, những người đứng ở vị trí chủ chốt trong bộ máy chính phủ đều phải là đảng viên, nó khiến cho những người thuộc bộ máy chính phủ buộc phải lệ thuộc vào đảng và phải bảo vệ đảng, đây là cách mà đảng dùng để duy trì và kiểm soát quyền lực. Nói điều này để thấy rằng hiện nay nếu ông Trọng không có thực quyền thì cũng là điều dễ hiểu.

Trong diễn văn bế mạc HNTW 6, TBT đã rất thành thực tường trình diễn biến của sự thất bại trong chương trình chống tham nhũng do chính ông đề xuất, nghĩa là gián tiếp thừa nhận rằng quyền lực của mình đã bị vô hiệu hóa. Ông viết : « Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị. » Tuy nhiên, đề nghị của Bộ Chính trị đã bị Ban Chấp hành Trung Ương bác bỏ. Ông viết : « Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị »

Nhưng ông Trọng đã không dám nêu tên người mà ông muốn kỷ luật, chỉ dám gọi là « một đồng chí », trong khi tất cả những người nghe diễn văn bế mạc đều biết «một đồng chí » ấy là ai. Việc này khiến ta liên tưởng đến một chi tiết mang ý nghĩa tương tự trong tiểu thuyết « Harry Porter » : nhân vật « You-know-who » (Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai), nhưng không ai dám gọi tên, vì ai cũng sợ quyền lực tăm tối của hắn.

Thất bại của Tổng bí thư trong việc chống lại  « một đồng chí » trong Bộ Chính trị, được dư luận xem là trùm tham nhũng, và thất bại cuả ông trong công cuộc chống tham nhũng nói chung chính là hậu quả của tình trạng vô trách nhiệm nói chung, tình trạng cá nhân không phải chịu trách nhiệm, hậu quả của cơ chế lãnh đạo tập thể. Tình trạng này không thể cải thiện chừng nào cơ chế chính trị hiện nay vẫn tồn tại. Đáng tiếc thay, cho đến giờ phút này, ông Trọng dường như vẫn không muốn nhìn ra sự thật này.

Tuy nhiên, còn có thể nhìn thất bại của HNTW 6 dưới một góc độ khác : nếu ông Trọng không tham nhũng, nếu ông Trọng là một người quyết giữ đạo đức, thì thất bại của ông trong việc chống tham nhũng đồng nghĩa với thất bại của đạo đức trước quyền lực hắc ám của đồng tiền, trong một xã hội mà lợi ích kinh tế có thể giết hết mọi giá trị tinh thần, trong thời buổi mà vì lợi ích kinh tế người ta có thể bán hết mọi thứ, người ta có thể lấy máu của đồng bào mình làm thảm trải đường đón kẻ đã ra lệnh giết chết các ngư dân, tức là nhân dân của mình.

Sau HNTW 6, ông Trọng thành lập Ban Nội chính với sự ủng hộ của Nguyễn Bá Thanh. Như chúng ta biết, Nguyễn Bá Thanh sau đó không lâu đã chết, một cái chết đặt ra nhiều nghi vấn. Như vậy cũng có thể nói Ban Nội chính đã thất bại trong việc chống tham nhũng.

Nhưng thất bại là hiển nhiên. Không ai, không cá nhân nào, không ban bệ nào, không nỗ lực chống tham nhũng nào có thể thành công trong thể chế toàn trị hiện tại ở Việt Nam. Chính cơ chế chính trị là nguồn gốc, nguyên nhân của tệ nạn tham nhũng. Cơ chế chính trị này nuôi dưỡng và phát triển bệnh tham nhũng. Điều mà người dân Việt Nam cần là TBT có đủ sáng suốt để nhận ra điều này. Nếu ông còn duy trì cơ chế này thì ông còn tiếp tục thua những kẻ tham nhũng, và đất nước còn tiếp tục nghèo, nhân dân còn tiếp tục phải khổ, Tổ quốc còn tiếp tục phải chịu nhục.

Đến đây ta thử tìm cách trả lời một câu hỏi khác: ông Nguyễn Phú Trọng có lệ thuộc vào Trung Quốc không ? Ông Trọng lệ thuộc vào Trung Quốc nhiều hơn hay ít hơn những lãnh đạo khác?

(Còn tiếp)

Paris, 19/1/2016

Nguyễn Thị Từ Huy


 Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không? (I)

Posted by adminbasam on 30/12/2015

Blog RFA

Nguyễn Thị Từ Huy

30-12-2015

Như đã có lần từng nói, phân tích chính trị Việt Nam là một việc khó, chính là vì mọi thứ diễn ra theo cách thức công khai một cách bí mật, hoặc bí mật một cách công khai, vì sự thật bị cất giấu ở đâu đó trong những góc khuất tối tăm, và những thông tin chính xác người dân không được biết. Báo chí thì chỉ đưa tin về các sự kiện với một lượng thông tin tối thiểu.

Nếu độc giả sống ở một nước như Pháp hay Mỹ hay ở một nước dân chủ nào đó, sẽ thấy rõ sự khác biệt này : mỗi sự kiện khi được đưa ra bao giờ cũng kèm theo rất nhiều thông tin, và rất nhiều phân tích, bình luận, trong khi ở Việt Nam báo chí chỉ đưa tin về sự kiện chính trị, với một hàm lượng thông tin ít ỏi hết cỡ (dĩ nhiên là những tin được phép đưa), không có phân tích hoặc có rất ít phân tích, hoặc chỉ là các phân tích theo một chiều, cái chiều được chỉ đạo hoặc được cho phép, đây là điểm bất thường của báo chí chính thống Việt Nam. Nhưng điểm bất thường này hoàn toàn có thể giải thích được, và nó chính là một trong những đặc điểm căn bản của báo chí trong các thể chế độc tài.

Lấy một ví dụ về bầu cử cấp địa phương vừa diễn ra ở Pháp: ngay trong ngày chủ nhật (dân Pháp chỉ bỏ phiếu trong một ngày chủ nhật), sau khi có kết quả bỏ phiếu, thường là vào 20h tối cùng ngày, lập tức các đài truyền hình, các đài phát thanh tổ chức các cuộc thảo luận trực tuyến, mời các chuyên gia phân tích, bình luận gần như trực tiếp. Dĩ nhiên, sau đó báo chí tiếp tục phân tích. Đồng thời các nghiên cứu xã hội học về sự kiện cũng được triển khai ngay lập tức. Còn ở Việt Nam, nếu đọc tin về bầu cử cấp địa phương, cũng vừa diễn ra trong thời gian gần đây, ta sẽ thấy chỉ có tin và tin : ai được bầu, ở đâu, ai thôi chức vụ. Chỉ có vậy, hầu như không có phân tích, không có bình luận.

Tuy nhiên, dù khó khăn vẫn phải tiến hành các phân tích chính trị, hay nói cách khác, càng khó khăn càng cần học cách phân tích chính trị. Phân tích chứ không phải là chỉ trích hay ca tụng theo cảm tính. Việt Nam cần hình thành một tầng lớp những người có chuyên môn trong nghề phân tích chính trị. Điều này sẽ giúp ích không nhỏ cho chính phủ. Khi những người làm việc trong chính quyền hiểu rằng, dù muốn hay không, mọi hành động, mọi phát ngôn của họ đều được đưa ra phân tích thì có thể họ sẽ phải thận trọng hơn và có trách nhiệm hơn đối với hành động và phát ngôn của mình.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta không muốn chính chúng ta bị người khác chỉ trích rằng « dân nào chính phủ ấy », thì cần chứng tỏ cho chính quyền biết dân trí của Việt Nam không thấp như chính quyền cố tình tuyên truyền, và những người dân bình thường trong xã hội có khả năng đòi hỏi chính quyền phải đáp ứng những yêu cầu rất cao của mình. Và nếu những người đứng ở vị trí lãnh đạo không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của người dân thì cần nhường chỗ cho những người có đủ năng lực để làm việc đó.

Trong bài này, tôi thử làm một phân tích để trả lời câu hỏi : liệu Việt Nam có thể có cải cách chính trị hay không, và ai là người có thể thực hiện cải cách chính trị, trong thời điểm này ?

Trước khi đi vào những câu hỏi này, tôi trở lại với trường hợp Gorbatchev, để minh định một điều : những người có khả năng tiến hành cải cách cần có một số phẩm chất nhất định.

Tháng 3 năm 1985 Ban Bí thư trung ương và Bộ chính trị Liên Xô đã chọn Mikhail Gorbatchev làm Tổng bí thư của đảng cộng sản Liên Xô, lúc ông chỉ mới 54 tuổi. Sự lựa chọn này được thúc đẩy bởi ý thức trách nhiệm đối với đất nước của ban lãnh đạo cũ. Gorbatchev sau khi nắm quyền đã tiến hành chương trình cải tổ perestroika. Chương trình không thành công như ông dự định, nhưng nó đã góp phần đưa nước Nga và Liên bang Xô viết thoát khỏi hệ thống toàn trị, mở ra một chương mới cho các sức mạnh Nga được phát triển.

Đã có nhiều sách viết về con người Gorbatchev để lý giải vì sao ông ta trở thành một huyền thoại. Ở đây xin giới thiệu một số nét trong chân dung của Gorbatchev, do Andreï Serafimovitch Gratchev miêu tả trong cuốn «Bí ẩn Gorbatchev : đất và số phận » (Le mystère Gorbatchev: la terre et le destin). Andreï Serafimovitch Gratchev là tiến sĩ lịch sử, có bằng đại học về ngành quan hệ quốc tế, từng là trợ lý và người phát ngôn của Gorbatchev.

Khi giữ chức vụ trong hàng lãnh đạo cao nhất ở địa phương, Gorbatchev đi bộ đến nơi làm việc. Ông không dùng đến xe công vụ. Ông gặp và tiếp chuyện người dân ngay trên đường phố. Vợ ông, bà Raissa, mua hàng trong những cửa hàng bình dân, tránh những nơi dành riêng cho những đảng viên có thế lực. Họ cho con đi học một trường bình thường trong khu phố chứ không chọn những trường mà giới lãnh đạo thường gửi con đến học.

Trong khi thực hiện tận tụy mọi công việc được giao, làm hết trách nhiệm với một thái độ trung thực và lương thiện, Gorbatchev đã gặp phải vô số vấn đề khiến ông cảm thấy khó hiểu và không đồng tình, một trong số những vấn đề đó là « sự kiêu căng và thụ động của những vị lãnh đạo bất tài ». Gorbatchev đã nung nấu suy nghĩ và tìm phương hướng giải quyết khi càng ngày ông càng lên cao trong bậc thang quyền lực.

Về phương diện trí tuệ, từ cuối 1978, khi chuyển lên Moscou, Gorbatchev đã đọc rất nhiều sách lúc bấy giờ bị cấm đối với đại chúng, cả những tác giả mac-xít lẫn những tác giả chống mac-xit, các triết gia mới như Sartre, Heidegger, Marcuse, những triết gia của trường phái Francfort. Gorbatchev cũng luôn tìm cách tận hưởng các hoạt động văn hóa. Và khi đứng ở vị trí lãnh đạo cao nhất, ông đã thường xuyên tiếp xúc với các nhân vật nổi tiếng trong các lĩnh vực khác nhau ở Moscou. Ông hiểu rõ giá trị của văn hóa và khoa học. Điều này được nhấn mạnh trong nhiều diễn văn của ông, trong cả cuốn sách dày do chính ông viết ra để giải thích về khái niệm và chương trình perestroika.

Và những chuyến đi công du nước ngoài, đặc biệt là các nước phương Tây, cho phép ông mở ra sự so sánh cần thiết. Vợ ông là người đã đặt cho ông câu hỏi : « Vì sao họ sống tốt hơn chúng ta? » Và ông sẽ tìm cách trả lời câu hỏi đó khi nhìn thấy tình trạng tù hãm, đình trệ của đất nước ông.

Sau khi được bầu vào vị trí quyền lực cao nhất, ông đã tiến hành những cải cách, như chúng ta biết, không chỉ làm thay đổi nước Nga, mà là cả cục diện thế giới. Điều cần nói ở đây là, những cải cách đó, không chỉ là mong muốn riêng của Gorbatchev, không chỉ là chương trình riêng của Gorbatchev. Những cải cách đó là sự thực hiện mong muốn chung của đa số những người dân Nga, nhất là của giới trẻ, những người, vào thời điểm đó, cảm thấy rằng « chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này nữa », cảm thấy rằng không thể tiếp tục sống trong dối trá, trong sự băng hoại đạo đức và tinh thần. Ý nghĩa sâu xa và căn bản của chương trình Perestroika, như Gorbatchev nhấn mạnh, đó là « xây dựng đời sống tinh thần cho các cá nhân, trong khi tôn trọng đời sống nội tâm của họ và trao cho họ sức mạnh đạo đức. Chúng ta tìm cách khởi động tất cả mọi tiềm năng trí tuệ của xã hội chúng ta, tất cả mọi tiềm năng văn hoá, để tạo ra các cá nhân năng động về mặt xã hội, phong phú về tinh thần, công chính và có lương tâm. ». Nghĩa là cải cách chính trị được tiến hành, đáp ứng nguyện vọng của người dân, nhằm trả lại phẩm giá, đạo đức và các giá trị tinh thần cho các công dân trong xã hội, trả lại cho cuộc sống những giá trị nhân văn. Cuộc sống đúng nghĩa không thể chỉ là sự tồn tại vật lý trong một bầu khí quyển lừa dối và bạo lực. Và luôn biết rằng một chương trình cải cách như vậy sẽ gặp vô vàn khó khăn, nhưng ông đã cương quyết thực hiện.

Giới thiệu về con người Gorbatchev để thấy rằng cải cách thực sự phải gắn liền với những khát vọng nhân bản, nó được thực hiện bởi những người có hoài bão lớn, không vụ lợi cá nhân mà nghĩ tới các giá trị chung và các mục đích chung.

Vấn đề của Việt Nam chúng ta là: trong bộ máy lãnh đạo của chúng ta hiện nay, có những người như vậy hay không ? Liệu có ai trong số các lãnh đạo còn nghĩ đến đạo đức và các giá trị tinh thần ?

Barcelona, 29/12/2015


 

Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không (II)?

Posted by adminbasam on 18/01/2016

Blog RFA

Nguyễn Thị Từ Huy

18-1-2016

Tiếp theo phần I: Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không? (I)

Quan sát chính trị Việt Nam đôi khi có cảm giác chẳng khác gì đọc một cuốn tiểu thuyết trinh thám dang dở, chưa đến hồi cuối, nghĩa là mọi bí mật còn ở phía trước, và mọi khả năng đều có thể xảy ra, dù rằng xảy ra trong một phạm vi có thể tiên liệu được.

Vì thế mà phân tích chính trị Việt Nam, trong rất nhiều trường hợp, chỉ là những suy đoán mang tính giả định, dựa trên những thông tin mà phần lớn không thể đảm bảo về mức độ chính xác.

Vậy, nếu định thử làm công việc phân tích chính trị Việt Nam thì có lẽ cần chọn theo một số nguyên tắc nhất định, trong đó có nguyên tắc này: phân tích các sự kiện và nhân vật chính trị theo phương pháp phân tích tiểu thuyết trinh thám. Nghĩa là bên cạnh nghiệp vụ chuyên môn, cần có thêm một ít tưởng tượng,và luôn ý thức về tính chất phức tạp, khó nắm bắt của tình hình và ý thức về sự bấp bênh của các kết luận. Đồng thời không nên bỏ qua các chi tiết tưởng chừng như là nhỏ nhặt. Tương tự như khi tác giả tiểu thuyết trinh thám để cho một ly nước xuất hiện trên bàn, đừng bỏ qua nó, bởi trong đó có thể có độc và nó sẽ được dùng đến vào thời điểm cần thiết. Và luôn cần ý thức rằng mình đang bị tác giả lừa, đang bị đặt vào bẫy của tác giả. Trong trường hợp ta phân tích chính trị Việt Nam, tác giả chính là các nhân vật chính trị. Cuốn tiểu thuyết chính trị do họ viết ra đồng thời họ đóng vai các nhân vật trong đó. Các thông tin nổi trôi trên mạng, được đưa ra bởi bút danh đủ các loại có thể là chủ ý của họ để làm rối loạn thông tin và để hạ bệ các đối thủ chính trị của họ. Chỉ cần nhớ lại vụ tin đồn nhảm về cái chết của Phùng Quang Thanh, ta sẽ thấy rõ điều này. Đến cả báo chí quốc tế còn dính đòn lừa của họ. Tuy nhiên, những người thận trọng sẽ thấy rằng, không một báo nào ở Pháp lên tiếng về sự kiện này, dù rằng câu chuyện liên quan đến khoảng thời gian Phùng Quang Thanh ở Pháp. Như vậy, việc của họ là lũng đoạn thông tin để điều khiển dư luận. Còn chúng ta có ngây thơ để cho họ điều khiển hay không, đó là việc của chúng ta. Muốn không bị điều khiển, chúng ta chỉ còn một cách duy nhất : phát triển khả năng phân tích và khả năng tư duy độc lập của mình. Việc tư duy độc lập của mỗi người trở nên đủ mạnh là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của một thể chế dân chủ. Giả định rằng nếu có khoảng 50% dân số có khả năng tư duy độc lập và có khả năng vạch ra sự ngụy biện hay lừa dối của chính phủ, và không chấp các biện pháp lừa dối và ngụy biện ấy nữa, thì chính phủ sẽ không còn dễ dàng điều khiển và nô dịch hóa các công dân của mình nữa.

Còn hồi kết của màn kịch hay tiểu thuyết trinh thám chính trị này ? Hồi kết chỉ diễn ra lúc nào thể chế chính trị hiện tại kết thúc để cho phép mở ra một hình thái chính trị khác, hình thái dân chủ, trong đó sự minh bạch được đưa lên làm tiêu chí hàng đầu trong các hoạt động chính trị cũng như trong vận hành xã hội.

Vậy, chúng ta xác định với nhau rằng cuốn tiểu thuyết trinh thám-chính trị mà chúng ta đang đọc hàng ngày hiện đang được các tác giả của nó viết nên và chưa biết lúc nào mới kết thúc.

Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không ?

Để trả lời câu hỏi này, cần trả lời nhiều câu hỏi khác, dĩ nhiên.

Trở lại với câu hỏi ở cuối bài trước : « trong bộ máy lãnh đạo của chúng ta hiện nay có những người có hoài bão lớn, không vụ lợi cá nhân mà nghĩ tới các giá trị chung và các mục đích chung, như Gorbatchev hay không ? Liệu có ai trong số đó còn nghĩ đến các giá trị đạo đức và tinh thần ? »

Hoài bão về một Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu từng thể hiện ở một số lãnh đạo cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu (với tất cả những sai lầm mà họ đã không tránh khỏi thì họ vẫn là những người có hoài bão lớn), như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, hay thậm chí Lê Duẩn (cho dù Lê Duẩn không đưa được Việt Nam thoát nghèo do không có kiến thức và kinh nghiệm xây dựng kinh tế, và do bị cột chặt vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa và tập thể hóa thời Liên Xô, nhưng ông ta có cái khát vọng về một Việt Nam hùng mạnh, và ông ta đã không ngại tiến hành chiến tranh với Trung Quốc, trong vị thế là lãnh đạo của một quốc gia bình đẳng với Trung Quốc. Chúng ta cũng đừng quên rằng đến năm 1988 Việt Nam vẫn còn đánh nhau với Trung Quốc).

Cái hoài bão lớn ấy giờ đây không còn xuất hiện trong các diễn văn của các lãnh đạo đương nhiệm. Vì thế, dĩ nhiên, cũng không còn xuất hiện trong các hành động của các lãnh đạo đương nhiệm. Đến một hành động tối thiểu là kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế mà cả bộ máy lãnh đạo còn không dám, trong khi một nước nhỏ như Philippines đã làm việc đó từ lâu, và người dân Việt đã thúc ép từ lâu.

Trong hành ngũ lãnh đạo Việt Nam hiện hành, không có người nào bộc lộ một hoài bão chính trị lớn về tương lai của dân tộc và về vị thế của dân tộc. Điều này có thể kiểm chứng trên các phát ngôn, các chính sách và cách hành động của họ. Câu trả lời mà tôi tìm thấy hiện nay là như vậy. Điều này không ngăn cản việc, trong số họ tiềm ẩn những người chưa tiện bộc lộ tư tưởng của mình, những người chờ đến khi được đứng vào vị thế quyền lực cao nhất mới hành động. Nhưng giả định này cũng có thể là rất viển vông.

Tuy nhiên trong đội ngũ lãnh đạo Việt Nam đương nhiệm, có một người có thể xem là muốn giữ đạo đức, và có quan tâm tới vấn đề đạo đức. Đó là ông Tổng bí thư (TBT) Nguyễn Phú Trọng.

Vì sao tôi nói như vậy ?

Quý độc giả hãy đọc những phân tích dưới đây của tôi một cách hết sức thận trọng và tỉnh táo.

Bởi những phân tích của tôi dựa trên những thông tin ít ỏi mà chúng ta có thể có được, từ các nguồn mà chúng ta cho rằng có thể tin cậy, trong khi đó, sự thật rất có thể nằm ở những thông tin vẫn còn bị giấu kín trong bóng tối. Vì thế tôi ý thức được rằng toàn bộ phân tích của tôi ở đây có thể bị sụp đổ, nếu một ngày nào đó các thông tin xác thực được công bố. Đồng thời xin quý độc giả kiên nhẫn chờ đọc hết loạt bài này trước khi đánh giá về động cơ cá nhân của tôi khi quyết định viết ra chúng.

Câu hỏi về việc ông TBT có quan tâm đến đạo đức không liên quan đến một câu hỏi khác , có lẽ quan trọng hơn rất nhiều: TBT đương nhiệm có để cho Trung Quốc chi phối (dường như xu hướng chung đang thiên về giả định này) không ? Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam sẽ bị Trung Quốc chi phối nhiều hơn hay ít hơn nếu Việt Nam bị đặt dưới sự lãnh đạo của những người khác ?

Cũng xin hiểu rằng, những phân tích dưới đây của tôi là một nỗ lực diễn giải các sự kiện và các nhân vật chính trị, một nỗ lực diễn giải khách quan, chỉ dựa vào những thông tin hoặc có thể kiểm chứng được, hoặc trực tiếp chứng kiến, trong một mục đích duy nhất : đi tới nhận thức về những sự thật khả dĩ của những gì đang diễn ra sau tấm màn sắt của sân khấu chính trị. Và tôi cũng biết rằng những phân tích này hoàn toàn chẳng có tác động gì tới vở kịch hay tới cuốn tiểu thuyết chính trị mà họ (các lãnh đạo đương nhiệm hay các lãnh đạo tương lai) đang viết ra trên xứ sở này, họ tự giành độc quyền đó cho mình, trong khi tuyệt đối gạt bỏ vai trò của toàn bộ dân tộc. Đây chỉ là một nỗ lực cá nhân, với tư cách là một người làm nghiên cứu, trong hành trình tìm hiểu lịch sử đang diễn ra của đất nước.

Trước tiên, phân tích đầu tiên của tôi dựa vào một sự kiện mà thông tin về sự kiện đó đã phần nào được minh bạch : Hội nghị Trung Ương (HNTW) 6, tháng 10/2012. Và tôi sẽ đặc biệt tập trung vào một văn bản mà tất cả chúng ta đều có thể kiểm chứng được : Diễn văn bế mạc của Tổng bí thư (TBT) Nguyễn Phú Trọng, ngày 15/10/2015.

Bắt đầu nhiệm kỳ TBT của mình từ năm 2011, ông Trọng xác định sứ mạng của mình là phải làm trong sạch Đảng, điều này xuất hiện thường xuyên trong các diễn văn của ông, và dường như ông cho rằng để làm trong sạch đảng phải chống tham nhũng, và chống tham nhũng thực sự. Kết quả của mục tiêu này là chiến dịch chống tham nhũng bắt đầu từ trên xuống, để lại dấu ấn khó phai là HNTW 6 .

Thời điểm đó, 2012, không ai nhìn cuộc chiến của TBT là một cuộc chiến tranh giành quyền lực (như xu hướng chung hiện nay đang nhìn nhận). Trái lại, thời điểm đó, cuộc đấu tranh của ông được nhìn nhận như là cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Và ông Trọng nhận được sự ủng hộ của những người còn có lương tri và hiểu biết trong Đảng (ví dụ đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc đã đề nghị thủ tướng từ chức, và đấy là lần đầu tiên ở Quốc hội Việt Nam có một đề nghị thẳng thắn và có thể xem là can đảm như vậy. Sự thẳng thắn và can đảm đó có thể bắt nguồn từ không khí chống tham nhũng thật sự do TBT phát động ?)

Ông TBT có thực sự muốn làm trong sạch Đảng, có thực sự muốn chống tham nhũng ?

(Còn tiếp)

Paris, 18/1/2016

Nguyễn Thị Từ Huy

Advertisement

Để lại ý kiến của bạn

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

%d người thích bài này: